1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Hoá Vùng Miền - Tính cách con người Việt

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi trongthanhdhv, 17/06/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn U18, mình cũng thấy "đã" nên mới nhanh tay chép lại, nếu không thì chẳng biết bây giờ còn để giới thiệu với mọi người không?
    Đang tìm những bài viết về tính cách người miền Nam để giới thiệu thêm đây.
  2. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Xét thấy topic mang tên Văn hóa vùng miền, mà văn hóa thì bao gồm rất nhiều thứ trong đó, Ẩm Thực là 1 loại hình văn hóa đặc trưng và tiêu biểu nhất. Boy tui xin trình bày 1 bài viết về văn hóa ẩm thực miền Nam, và trong đó còn thể hiện rõ tính cách giản dị, hiếu khách và chan hòa của con người miền Nam, mảnh đất trẻ măng.
    Tản Mạn Món Ăn Nam Bộ
    Món ăn Nam Bộ rất đa dạng, thay đổi tùy giai đoạn ngắn dài, thử đúc kết lại vài nét lớn là điều không đơn giản. Qua thời gian, ta thử nêu lên vài nét định hình.
    - Ăn sáng lót lòng còn gọi là điểm tâm không nằm trong đề mục tất yếu của món ăn. Nếu là nhà nông hoặc gia đình khá giả, người lao động thường ăn ba bữa: sáng, trưa xế và tối, bằng không chỉ có hai bữa thôi, buổi sáng thường thả nổi cho từng người liệu định.
    - Hồi trước 1945, nhiều gia đình khá giả còn duy trì kiểu lót chiếu, ngồi ăn trên đất, có lẽ theo ảnh hưởng của người Chăm. Kiểu ăn trên bộ ván, ngồi xếp bằng như chẳng còn thay đổi ở gia đình trung lưu miền quê. Ngồi trên bộ ván thì phải theo tư thế xếp bằng, quen thói nên khi ngồi trên ghế dễ mỏi chân. Vả lại, bộ ván ngày nay đắt tiền, đi-văng thì còn quá nhỏ hẹp.
    Tuy tiếp xúc với Tây phương từ cuối thế kỷ 19, người Việt vẫn bảo lưu cách ăn cơm với đũa, nếu cần chan hoặc húp thì dùng muỗng riêng hoặc công cộng. Nước mắm thường chấm chung một chén cho nhiều người trong khi người Hoa rất kỹ dùng muỗng công cộng, tha hồ thọc đũa của nhiều người trong tô canh, nhưng chan húp thì mỗi người một muỗng riêng.
    - Không thích dùng nĩa, ngoại trừ dùng nĩa nhỏ để ghim những miếng trái cây như xoài gọt sẵn. Gần như không dùng cây dao nhỏ để cắt thịt. Con vật đã bị giết, cắt ra từng miếng, pha chế rồi bị cắt thì quả là tàn ác và thô thiển đối với người ngồi bên cạnh. Nếu cần thì cắt sẵn trước khi đem ra dĩa như trường hợp thịt bò lúc lắc.
    - Ảnh hưởng Tây phương chỉ thấy trong trường hợp ăn cơm tấm, cơm bì vào buổi sáng gọi nôm na cơm dĩa. Dùng cái đĩa trẹt và to của phương Tây với muỗng và nĩa. Theo tôi hiểu, đây là kiểu trình bày gọn do người Hải Nam bày ra từ trước năm 1945, gọi cơm xào. Người Hải Nam hồi thế kỷ 19 vì ở đảo gần Hương Cảng đã chọn nghề nấu bếp cho tàu buôn Tây Phương, đi theo tàu biển.
    Về món ăn ở Nam Bộ theo nghĩa vùng Sài Gòn và phía đồng bằng, có thể chia làm 3 loại: món cúng ông bà hoặc thần thánh, món nhậu và món ăn cơm.
    1- Món cúng: Trên lý thuyết phải có 4 món cơ bản. Nếu ở đồng bằng sông Hồng có món: giò, nem, ninh, mọc thì ở Nam Bộ cũng tuân thủ 4 món, tương ứng ở phía Bắc kiểu giò, nem, ninh, mọc.
    -Dịp cúng giỗ tổ tiên, chẳng ai hiểu rõ ông bà thời xa xưa khi vào Nam thích ăn món gì, chế biến các món ra sao, nhưng tùy hoàn cảnh mà có 4 món: hầm, luộc, rán, kho. Nên hiểu không phải là dâng cúng theo cha hoặc mẹ đã quá cố nhưng là cho tổ tiên đời ông cố của gia chủ, hiểu ngầm rằng những bà con xa gần thời xa xưa cũng được tham dự, vì vậy nếu cúng ba mâm ở ba bàn thờ (giữa, bên trái, bên mặt hoặc một bàn thờ) thì thức ăn phải giống nhau. Món hầm, tức thịt heo hầm, thường giò heo hầm măng tre Mạnh Tông, loại măng ngon nhất của Nam Bộ (gợi tích ông Mạnh Tông trong Nhị Thập Tứ Hiếu). Món thịt luộc là thịt ba chỉ xắt mỏng. Xào là món thịt bị câu thúc về hình thức: xào chua, xào mặn, với rau cải đồ lòng hoặc tôm, gần như tuyệt đối không dùng thịt rừng. Món kho thường là thịt heo, cá lóc kho với nước dừa để gợi phong vị miền Nam. Ở miền quê, ngày xưa bày đám giỗ linh đình với quá nhiều món khác nhau, lắm khi ăn không hết món, nhưng cơ bản phải đủ 4 món cổ truyền như trên, có thể gọi là nghi thức nhất cả nước. Nhiều món phụ, có thể dọn chung với 4 món chính như rau, bì cuốn, nem chua. Ngoài ra còn để dành ở một bàn riêng, không cúng trên bàn thờ vốn đã chật chội, chờ khi đãi khách sẽ dọn ra như thịt bò xào, bánh mì cà-ri, chả giò? Thời xưa ông bà ta không có kiểu ăn tráng miệng như người phương Tây, vả lại trái cây đã được chưng sẵn trên bàn thờ rồi. Rượu phải là rượu đế, vì tổ tiên ta không biết rượu Tây, Tàu.
    Dự đám giỗ của gia đình, của bạn thân là dịp ăn uống vừa phải, quan trọng nhất là nói chuyện thân mật, ăn là để hưởng phước ông bà, vì món ăn đã được ông bà chứng giám rồi.
    Lắm khi ở quê, ở gia đình nhà vườn, có bày ra tiệc nhậu lai rai ở trước sân, bên vườn cây ăn trái nhằm cầm giữ những ngưới khách đến quá sớm, thường là nhậu với vài miếng thịt gà, đồ lòng đơn sơ, nhất là không có những món hoang dã như rùa, rắn. Vài món đặc sản như chả, cua, gà quay, cà ri, heo quay bánh hỏi có thể dọn cùng, ở gia đình nữa quê nữa chợ.
    Gần như tuyệt đối không cúng những đồ chế biến sẵn, đựng trong hộp, lắm gia đình vì hoàn cảnh đã đặt buổi tiệc giỗ ở nhà hàng, đến giờ nhà hàng đem đến vì vậy mất vẻ nghiêm túc. Trường hợp này người trong gia đình nên tự pha chế một vài món như khổ qua dồn thịt, thịt kho để cúng trên bàn thờ, còn những món đặt ở nhà hàng thì chỉ để dành đãi bạn bè.
    Theo sự quan sát của chúng tôi, gần như vắng mặt món mắm. Ở phía Nam, phải chăng đó là dấu ấn của người Chăm, người Khơ-me, người Việt chỉ muốn những gì thuần túy của ông bà từ nhiều thế hệ trước, chứng tỏ gia đình mình đã ổn định, có nề nếp chứ không phải ở trong thời kỳ du canh du cư lúc mới khẩn hoang.
    (Còn tiếp)
  3. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    2- Món Ăn Cơm: Cơm ngày hai bữa theo lệ Việt Nam, ăn mặn uống đậm, tùy hoàn cảnh địa phương và mức sống gia đình. Định hình nhất vẫn là canh chua, cá kho, hai món này mãi đến nay vẫn còn đứng vững qua thế kỷ 21. Canh chua nấu với trái me chín, đặc sản vùng nhiệt đới. Theo khẩu vị của người lớn tuổi, điều quan trọng nhất là người đầu bếp cần điều tiết hài hoà, húp một chút nước canh chua đang sôi, nhủ thầm 4 tiếng: chua, cay, mặn, ngọt. Không để cho vị chua lấn vị cay, không quá mặn nhưng cái hậu thì ngọt. Tùy địa phương lựa loại cá nào rẻ nhất mà mua như cá tra sông rạch thiên nhiên hoặc cá lóc ở đồng ruộng có chút ít phèn, ngon đặc biệt là cá ở rừng tràm. Cá lóc to con quá, thịt có thớ không ngon; ngược lại, cá còn non thịt ăn nhão. Cá tra, cá bông lau lựa con không quá lớn. Cá Basa có 3 lớp mỡ sa ở lưng, mỡ nhiều nhưng ăn không ngán như mỡ heo. Những món độn thường là cọng bạc hà, giá, đậu bắp nhưng không nên độn quá nhiều, sau này thêm cà chua, tuỳ khẩu vị. Canh chua phải đậm đà để giải nhiệt, nhất là vào mùa nắng. Buổi trưa vì uống nước quá nhiều nên khó ?onuốt cơm?. Húp canh chua vào thấy trơn cổ, thèm ăn. Khẩu vị thường thay đổi. Nhiều người chê cá lóc vị lạt, cũng như cá tra, cá bông lau cũng lạt. Vì vậy, có người nấu súp xương heo pha vào nước canh chua, pha lén, người ăn thấy ngon hơn. Nên có ớt xắt từng lớp khá dày, loại ớt to. Nhiều người lại thích ăn canh chua chấm với nước mắm nguyên chất hoặc cầu kỳ hơn chấm với muối ớt.
    Cá kho nay gọi là cá kho tộ, ban đầu là kho trong cái mẻ kho, nôm na là cái tô bể ngoài vành, dùng kho cá kiểu tạm bợ, lắm khi để trên than lửa của cái cà-ràn. Ăn còn dư cứ để dành, hôm sau ăn trở lại. Cá kho trong tô thường là cá vụn của nhà nghèo ăn còn lại, tiết kiệm nhưng nếu như có nước mắm ngon, kho tới lui nhiều lần thì nước mắm cá biển sẽ hoà quyện với cá kho, toát lên hương vị đặt biệt. Vì tô bể phải để nghiêng nghiêng trên than lựu không nhiều nước. ?oThạch sùng còn thiếu mẻ kho?, phải chăng đó là cái tô bể kho cá vụn, hôm trước ăn còn dư cứ để dành, nếu không còn cá thì còn nước sền sệt trong tô dùng đũa mà ?oquệt? cũng ăn tạm được bữa cơm nghèo. Muốn được ngon nên bỏ nhiều tiêu sọ. Nước mắm ngon đem kho cho đặc, quyện với cá thì ngon gấp bội, phải là cá đồng để hài hoà với nước mằm cá biển đậm đặc.
    Canh chua ăn với cá kho tộ quả là rất hài hoà, cả hai món đều cay. Sáng kiến kho cá đồng đặc biệt là cá rô với nước mắm ngon, trình bày trong kiểu bao bì bằng gốm thô đen đũa (cái mẻ kho) thay thế bằng cái tô, đặt hàng sẵn ở lò gốm cho có vẻ sạch sẽ; lần đầu tiên từ sau năm 1960 ở quán Cây Dừa-đường Lê Lai, gây sự hấp dẵn đối với khách sành điệu Sài Gòn rồi phổ biến trở lại các tỉnh ở phía đồng bằng. Lý tưởng nhất là lựa cá rô ngon, còn tươi, chưa có cá rô mập béo thì tạm kho cá trê, cá lóc. Theo ?ođiệu nghệ?, bữa cơm ở quán được giới thiệu trước với vài món ăn chơi như gỏi ngó sen và bao tử heo, ăn cá kho, lắm ngưới đòi thêm dưa cải.
    Vẫn là món ăn cơm thường lệ trong gia đình, còn mắm chưng, tép kho hoặc món bí rợ (bí đỏ) hầm với nước cốt dừa. Có thể dùng cá trê nướng chấm với nước mắm gừng, thêm canh bí đao nấu thịt heo, canh bầu nấu với cá trê, cá bống kèo kho (miền nước lợ). Cá tôm đa dạng, vừa cá biển vừa cá đồng giúp cho bữa ăn của giới bình dân tạm gọi là ?oqua buổi?, thí dụ cá chốt, cá linh kho tiêu làm thức ăn chính yếu. Lại có món cá khô như khô cá lóc, khô cá tra, cá đuối ăn thêm chút ít cho vui miệng.
    Cá biển có thực đơn riêng tùy vùng, thêm tôm cua ngày nay giá quá cao. Nói chung cá biển rất ngon nhưng đòi hỏi cách pha chế thích hợp. Trừ trường hợp cá thu kho, thì cá biển chỉ ăn ngon ở lửa đầu, nếu dư, để dành hâm nóng lại thì mất hương vị. Bởi vậy ta thấy nhiều miền biển vẫn thèm thịt heo, thịt bò, cá đồng, cá vùng nước ngọt.
    (Còn tiếp)
  4. amourunique

    amourunique Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2003
    Bài viết:
    1.310
    Đã được thích:
    0
    xin lỗi các bác stam tí
    Ai bảo với bố là cha nội Kadafi hay Phidel, Kim Jong Il ko phải là độc tài vậy cha?
    Con người Phương Đông với chả Phương Tây, bố nói chưa đủ ăn thì ko được quyền đòi hỏi những thứ to tát nghĩa là sao con chẳng hiểu?
    Mà đúng như bạn U18 nói cha nội chỉ được cái lái đề tài lung tung, chứ chả viết được cái nược mợ gì nên hồn cả.
    Động tí trích Marx với chả Dao vào doạ anh em, ko biết chừng chưa bao giờ đọc hết một tác phẩm của Marx mà cứ đưa ra kiểu tầm chương trích cú
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác tập trung vào chủ đề chính cho em nhờ, đừng lan sang chuyện ngoài lề. Không bàn chuyện Kim kiếc, Phi phiếc gì ở đây hết. Ở đây chỉ nói về văn hoá các vùng miền ở Việt Nam, tính cách con người Việt Nam thôi.
  6. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Định lăn tăn 1 tí, nhưng thấy nhắc nhở thế này thì đành post tiếp chuyện ẩm thực Nam bộ vậy:
    3- Món Nhậu: Nhậu là tiếng thanh không gợi ý thô tục, xem tự vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1896, nhậu ghi là uống! Ăn nhậu tức là ăn uống, nhậu rượu là uống rượu và nhậu nước là uống nước. Uống rượu chẳng có gì xấu, chỉ xấu khi đến mức thái quá, lãng phí tiền bạc và sức khỏe. Ngày nay quán nhậu mọc lên khá nhiều, nơi sang trọng, nơi giá cao thì xưng là ?ocửa hàng đặc sản? để gợi vẻ văn minh và đạo lý. Ở thôn quê, tiệc nhậu là chuyện bình thường, giữa bạn thân với nhau, sau mùa gặt hái thành công, chăn nuôi có lợi (như đàn vịt, ao cá?) Nhậu ngoài sân, ngoài vườn, lấy khung cảnh mát mẻ thiên nhiên làm bối cảnh, đồng thời cũng tránh sự tò mò của trẻ con, sợ gây tác hại. Nhậu phải có rượu nhậu như ở Nam Bộ, rượu không quan trọng bằng ?omồi nhậu?. Mồi nhậu đơn giản như một con vịt luộc, hay con cá lóc, chủ nhà thường tự trọng, không muốn làm phiền vợ con ở nhà. Món ăn phải gọn, một món là đủ để thưởng thức hương vị của món ấy mà thôi. Ví dụ, thịt chuột không thể nhậu xen với thịt rắn, cua. Nhậu đòi hỏi hài hòa hữu cơ giữa rượu, món ăn, cọng rau, nước chấm, dĩ nhiên có bạn tri âm, tri kỷ. Người này thích ba khía, trái me, người kia thích con cua lột đầu mùa, có kẻ nhớ và thèm món cua đồng xào với cọng lá mái đàn, lại thèm mắm sống với xoài chua đầu mùa.
    Món ngon đệ nhất, đến bậc vua chúa còn thèm là ?oCon đuôn chà là?, chữ gọi ?oHồ đa tử?, ?oHồ đa? là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang dại miền nước mặn, giống như cây cau trồng làm kiểng, trái nhỏ tạm hái để ăn trầu nhưng bên trong củ hũ (đọt non) đến mùa sau tết thường có con đuôn. Con đuôn này nhỏ hơn đuôn ăn đọt dừa, trứng để ở bẹ lá non, lớn, lên nở thành con đuôn (như con nhộng) dừa rừng. Phải bắt con đuôn này trước khi nó nở ra con ****. Đuôn to và mập, mỗi đọt cây chà là chỉ có một con đuôn mà thôi. Đem đuôn nướng trên vỉ sắt, cho héo, rồi ăn, chấm nước mắm nhĩ nguyên chất. Con đuôn non béo ngậy vì tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là. Nay thấy ở vài quán nhậu bày bán với giá 8000 đồng/một con! Các món nhậu vừa sang trọng, vừa dân dã này không thể kể hết, lắm khi quái đản, ít phổ biến. Vũ Bằng (đã quá cố) ghi lại các món lạ, có thể có, nhưng lắm khi không phổ biến, nào đem miếng thịt bò tươi treo ở vườn quít, cho kiến vàng bu lại ?ođái? vào, nước đái con kiến vàng khá chua, vì vậy mà tác động nhanh, khiến thịt bò sống trở thành thịt tái ? Cháo cóc khá nguy hiểm, ăn có thể ngộ độc nếu gặp loại cóc gọi là cóc kiết. Cháo dơi, thêm máu con?dơi quạ?ở các cù lao sông Cả hoặc ở ven rừng được khen là bổ và ngon vì đỏ tươi màu hồng huyết cầu. Ngày nay, món nhậu bớt cầu kỳ hơn, có thể là con chuột mập béo đầu mùa, sống ngoài đồng lúa chín, chuột khá sạch sẽ, trời sa mưa, chuột ăn toàn cỏ non, không như chuột ở cống rãnh thành phố. Chuột rô-ti ăn với xoài chua đầu mùa băm nhỏ, vị chua sẽ đánh tan mùi hôi của chuột. Lại còn món tép lột vỏ, chấm vào nước dừa tươi, nước dừa làm đổi màu con tép sống, trông đỏ hồng như vừa luộc.
    Món nhậu thời kinh tế thị trường, phải mang tính phổ biến, ít nhất cũng lên tiếp thị thành công nơi Sài gòn, nơi tập trung dân nhậu sành điệu của cả nước và Đông Nam Á. Nhiều người thích nhậu với món tép thịt heo luộc xắt mỏng (kiểu Gò Công). Dám treo bảng hiệu lắm người làm giàu nhờ món lẩu mắm: mắm kho, lấy nước cất, mắm sôi lên, bốc mùi thơm (hoặc không thơm, khó ngửi), lại thêm thịt xắt mỏng luộc, cá ba sa? nấu chung trong cái lẩu, múc ra ăn tùy thích. Mục đích của người ăn lẩu mắm là tận hưởng các loại ?orau rừng? với mùi vị chát, đắng, lại còn món ăn cho mát lưỡi như bông súng, lá tai tượng, cọng bông súng xốp, rút nước mắm kho. Có người đếm thử, thấy lẩu mắm ăn với trên 20 loại rau rừng khác nhau, nào đọt xoài, đọt chùm ruột, đọt chiếc hoặc bưởi chua. Ăn nhiều loại rau hoang dã là dấu ấn thời khẩn hoang xa xưa, thấy đắng, chát, hoặc chua là bảo đảm ?okhông chết?, ví dụ như đọt cơm nguội, cọng rau dừa chỉ. Lẩu mắm là món ăn tập thể, năm sáu người bạn quây quần chung quanh cái lẩu (lò, tiếng Quãng Đông là cái lò lưu). Thêm bún, cơm là no, dĩ nhiên có rượu. Nay bày thêm lẩu cá bồng kèo, lẩu cá trê trắng, trong tương lai, còn nhiều thứ lẩu khác, hoang dã. Con lươn làm lẩu canh chua nay vẫn chưa lỗi thời, ếch thì chiên bơ, rắn thì ngày càng đắt tiền, xưa nổi danh hiệu:?oTri kỷ?, uống máu rắn pha rượu Tây, ăn món rắn xào, rắn nấu cháo đậu xanh. Lại còn con cá chìa vôi cùng với nước lợ Nhà Bè, ăn tại chỗ, với bạn bè, cũng ngon như con cá chẽm. Món cháo vịt Thanh Đa nổi danh từ lâu giá bình dân. ?oLươn, rùa, ếch, rắn? là bốn món hoang dã nhắc lại thời khẩn hoang xưa, sang trọng hơn thịt bò, thịt gà. Nay lại bày ra món cua rang me, thịt bò ?otùng xẻo?, gẫm lại không thấy lạ.
    Bánh xèo không thể ăn sáng nhưng ăn buổi chiều, buổi tối thay thế cho cơm. Bánh xèo to, nhiều nhân bên trong, bán giá cao, kiểu bánh khoái của Huế cải biến. Nên kể thêm những loại chè, như chè khoai môn nước cốt dừa, chè hột sen, chè đậu xanh đường cát (gọi tàu thưng, đậu và đường, tiếng Quãng Đông âm lại).
    Các món ăn còn thay đổi, gẫm lại tự thân nó món nào cũng ngon nếu thỉnh thoảng ta muốn ăn trở lại một lần. Lâm Ngữ Đường bảo: ?oTình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho mình ăn lúc mình nhỏ tuổi. Phải có không khí bờ sông từ rạch, quán lợp lá, cần nhất là bạn tri âm??
  7. lyenson

    lyenson Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    3.005
    Đã được thích:
    0
    Bạn boysaigon post bài về tính cách và món ăn Sài Gòn ; tôi xin dẩn thêm ra đây một bài của nhà văn lảo thành Sơn Nam viết về miền Nam, đặc biệt là miền tây nam bộ ...
    Tôi là người hòai cổ, tồn cổ, ở miền Nam nầy, nếu tìm những di tích xưa, tất thì biết đào đâu cho ra tuy dân tộc Việt sống mạnh, trưởng thành và nổi danh hiên ngang nhờ cuộc Nam tiến. Nhiều người bảo: Đâu có mà tìm! Miền Nam là miền đất mới, đất không chân, đất phèn. Ở miền Nam chỉ có thể mọc những lọai cây tàn cao nhưng rễ nông. Giống như trường hợp lúa ?otốt?, tức là một bịnh đặc biệt của lúa. Khi cấy trên đất quá nhiều gốc và lá, khi gặt hái thì hỡi ôi, chỏ có rơm rạ cho trâu ăn chớ nào thấy hột. Nhưng tôi vẫn hòai cổ và tồn cổ mặc dầu đất này chưa từng làm cơ sở cho những kiến trúc cổ kính. Đất mới khai hoang, làm sao tìm thấy cây cổ thụ do người trồng. Tuy nhiên, nếu khảo cứu văn hóa , lịch sử theo tinh thần sống động không câu nệ hình thức, niên biểu, chúnt ta thấy miền Nam có màu sắc, luôn luôn đổi mới, dựa trên một cơ sở. Đó là tinh thần phóng túng, lanh lẹ sẳn sàng đón hương xa của người khai hoang. Văn hóa đứng im một chỗ là văn hóa chết. Sống động, thích ứng với hòan cảnh, đó mới là văn hóa, đúng theo nghĩa của nó. ...
    ......
    Xưa nay, nói tới việc khai hoang ở mềin Nam, chúng ta liên tưởng đến công nghiệp của Trần Thắng Tài, Dương Ngạn địch, Mạc Cửu, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt. Và nghĩ đến pầhn đất Rạch Giá, Cà Mau, hải đảo vinh Xiêm La, Thất Sơn, U minh. Đồng tháp mười, với những nhân vật nghèo lạc hậu về kinh tế mà thích ăn chơi, thích đề cập tới luân thường đạo lý, và sống rời rạc theo kểiu . . anh hùng hảo hơn, nhưng vẫn đề cao kỷ luật, một thứ kỷ luật vừa chặt chẽ vừa lỏng lẻo: phải ăn ở, đối xử với nhau cho ?ođúng điệu nghệ?! , ?ođúng điệu nghệ? là có lương tâm, không đâm kẻ thù từ phía sau lưng, quân tử nhứt ngôn, hể nói là làm liền. ?ođúng điệu nghệ? tức là không đểu cán. Đó cũng là luân lý của một đứa thanh niên ?ođi khai hoang?T ở thành thị. Mảnh đất Sài Gòn từ năm 1778 đã trở thành vùng ?okẻ chợ?. Thời Gia Long và Tây Sơn đánh nhau, Sài ?" Gòn Chợ lớn đã bị đốt phá. Sau đó, tiểu công nghệ, tiểu thương phát đạt hơn trước. Qnh hùng tứ chiếng cứ tới lui hòanh hành. Những thỉ tổ của cao bồi ở Sài gòn đã bị trừng phạt đích đáng dưới lưỡi gươm tiền trảm hậu tấu của Thượng quốc công Lê Văn Duyệt. Vài chục năm sau, thực dân Pháp kéo tới. Lại nẩy sanh ra một số thanh niên lạc lõng, mang trong mình dòng máu khia khẩn đất hoang, nhưng thiếu đất dụng võ. Chỉ còn là vấn đề khai thác thương mãi, khai thác nâhn công, khai thác tài nguyên do người ngọai bang điều khiển. thanh niên Sài Gòn trở thành những ?ongười hùng? kiểu Năm ty, Sáu Nhỏ, thầy thông Chánh và Sáu Trong. Sáu Trọng ở bồi cho Tây. Anh ta bỏ nhà ra đi từ thuở bé, rồi kết nghĩa với cô gái lang dâm. Cô này tên là Hai Đầu. Sau rốt Hai Đầu lấy ông ký lục Tây. Bị Hai Đẩu là ông ký lục làm nhục, Sau Trọng ra tay giết hai người ?othiếu điệu nghệ? này rồi lãnh bản án tử hình. Thơ Sáu Trọng được truyền tụng, ngòai ý muốn của thực dân Pháp, đã trở thành một lọai ca dao, xứng đáng nêu trong bảng liệt kê văn chương bình dân, xứng đáng được ghi trong chương trình Việt Văn. Chúng ta thử tưởng tượng một nhạc sĩ mù lòa ngồi trên chiếc đệm, gảy độc huyền tại đầu đường xó chợ, đang nói thơ: Kỷ Vì Đại Pháp tân trào Đời nay nghĩ lại khác nào thuở xưa Du nhàn thành thị sớm trưa Có chàng Sáu Trọng tuổi vừa mười lăm. Bỏ đi tính đã mấy năm Nay mới chạnh lòng thương kiểng nhớ quê Bấy lâu cách mặt ủ ê, Nay mới trở về thăm viếng mẫu thân. Có tên Hai Đẩu ở gần, Thường đi buôn bán tảo tần lân la. Thấy chàng ăn nói thật thà, Hỏi thăm: ?oAnh có vợ nhà hay không?? Trọng nghe Đẩu nói động lòng, Thơ ngây chưa chốn loan phòng kết đôi. Đẩu nghe thằng Trọng bày lời: ?oAnh không có vợ, em thời chỉ cho? Trọng rằng: ?oBuôn bán không lo, Nói chuyện đưa đò, chè cháo lạnh tanh? Đẩu rằng: ?oLòng khiến thương anh Cháo chè nguội lạnh cũng đành dạ tôi . . ?o Đó là hào khí Nam Kỳ lục tỉnh. Đó là cách ăn nói ?ovăn hoa? của Nam kỳ lục tỉnh. Tiếng độc huyền và thơ Sáu Trọng là dân nhạc, dân ca miền Nam.
     
     
  8. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Xin đóng góp thêm 1 tí về văn hóa Nam Bộ. Tui là dân SG nên nói về Nam Bộ hơi nhiều, quý dzị thông cảm cho.
    HƯƠNG VỊ TẾT NAM BỘ
    [​IMG]

    Đồng bằng Nam Bộ đón Tết sau mùa lũ. Mùa xuân ở đây là mùa gió chướng thổi về, tiết trời trở nên se lạnh. Dọc hai bờ sông Tiền, sông Hậu, mai vàng đã khoe sắc trong vườn nhà. Mùa xuân, Tết đã đến trên một miền đất trù phú, ruộng vườn xanh bát ngát bao la. Nét nổi bật của Nam Bộ là có đến 200.000 ha cây ăn quả, sông rạch đan xen như mạng nhện nên Tết ở đây có một phong thái riêng, không giống bất cứ một cái Tết của nơi nào khác.
    Khi công việc đồng áng đã xong, mọi nhà tất bật chuẩn bị cho ngày Tết. Bước sang trung tuần tháng Chạp, khắp xóm làng đã nghe tiếng chày giã gạo nếp bình bịch, nhịp nhàng từ sáng đến tối. Đặc biệt nhà nào cũng lo quết bánh phồng vang động khắp nơi. Người ta tìm chọn những loại nếp tốt (thường là nếp rặt), không lộn gạo. Đem ngâm nếp với men nấu rượu và củ thơm trong nước 3 ngày. Sau đó đem đãi thật sạch, để ráo nước rồi đồ xôi. ở miền sông nước thường có lệ hùn hạp, đổi công trong láng giềng, mỗi nhà thay phiên nhau quết bánh. Cánh thanh niên thì lãnh nhiệm vụ cầm chày, cánh phụ nữ thì đảo bánh. Chày vừa rút lên là các chị dùng tay nhúng nước dừa có pha đường đảo ổ bánh. Các bà mẹ lo xửng hấp. Ổ bánh được đem ra cán mỏng, cắt thành khoanh tròn, áo nước đường rồi phơi khô. Khi ăn thì đem nướng, bánh phồng lên tròn trịa, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Các lò bánh tráng hoạt động thâu đêm. Bánh tráng miền Tây có hương vị riêng bởi có nước cốt dừa bổ sung vào bột gạo. Khi ăn có vị bùi béo, mùi thơm của tinh túy trái dừa làm nên cái bánh tráng vừa giòn, lại dày dặn và hấp dẫn, không thể thiếu trong ngày Tết của nông thôn. Ở miệt vườn miền Tây không chỉ nổi tiếng với sản phẩm làm từ gạo và dừa, mà còn có những loại mứt làm từ khoai, bí, gừng... Miệt Chơn Thiện, Mỹ Tho (Tiền Giang) có loại bí đặc sắc được chọn làm mứt. Bí to, chắc, ít ruột. Món mứt của Mỹ Tho nổi tiếng bởi sự cầu kỳ chọn nguyên liệu, từng công đoạn chế biến. Ăn mứt bí sẽ cảm nhận sự ngọt thanh, thơm, bùi. Ngoài ra còn có món lạp xường Cần Thơ nổi tiếng cả miền Nam và xuất khẩu sang Campuchia, Thái Lan...
    Trên bến dưới thuyền, tiếng nói cười, tiếng máy nổ vang dội cả dòng sông. Người ta chuyển hàng về giao cho kịp Tết. Ngày 23 Tết tiễn Táo Quân về trời, các cụ đã nhắc nhở con cháu chọn đốn cây tre tốt, cao để dựng nêu. Cây nêu cao độ 4 mét, được trảy bỏ nhánh, chừa đọt có lá, chờ đến ngày 30 mới dựng nêu và đến mùng 7 thì hạ nêu.
    Sau ngày 23, nông thôn rộn ràng hẳn lên, người ta tranh thủ tát mương, chắt đìa, dỡ chà để bắt cá linh, lươn, ếch... đặc biệt là cá lóc, lươn được thả trong lu đất để làm thức ăn dự trữ trong ba ngày Tết. Nhà cửa được quét vôi, trang hoàng lại từ ngày 25 Tết. Con cháu cũng lo tu sửa, sơn quét vôi lại phần mộ của tổ tiên.
    Món chủ lực của vùng nông thôn Nam Bộ là bánh tét. Nhũng gia đình giàu có, con cháu đông đúc thường gói bánh tét đòn rất lớn. Khi tét bánh ra, khoanh bánh tròn trịa nằm gọn trong đĩa trông thật đẹp mắt, trung bình một đòn có đường kính một tấc tây và nặng khoảng 1kg. Người Nam Bộ thường dùng lá dừa băm nhuyễn, vắt lấy nước trộn vào nếp để bánh có màu xanh. Mỗi lần gói bánh chí ít cũng 3 - 4 chục đòn, tùy khả năng của mỗi gia đình. Hai đòn cột thành một cặp dụng ý cho đủ đôi, đủ cặp là niềm hạnh phúc để làm quà biếu.
    Đêm 29 không khí lành lạnh, mọi người quây quần bên bếp lửa hồng ấm áp canh chừng nồi bánh tét, vừa uống nước trà, vừa trò chuyện râm ran cả đêm. Người Nam Bộ ăn bánh tét với thịt kho tàu. Nồi thịt có đến hơn chục quả trứng vịt, ăn kèm với dưa giá, dưa cải. Ngày Tết người dân đồng bằng Nam Bộ thường có món cá lóc hấp hay nướng trụi, cuốn bánh tráng rất hấp dẫn. Lớp thanh niên lo chuẩn bị loại rượu hảo hạng, thường là rượu gạo ngon để nhâm nhi với các đặc sản miệt vườn. Các cụ xưa thường thích tự mình viết câu đối hoặc ra chợ nhờ các cụ đồ viết hộ câu đối mực Tàu lên tờ giấy đỏ. Chiều 30, mọi nhà chuẩn bị mâm cỗ để cúng rước ông bà về chung vui với con cháu trong 3 ngày Tết. Tối 30, bầu trời miền sông nước đen như mực, trên các kênh rạch vài chiếc ca nô nổ máy chạy vội về nhà để kịp đón giao thừa. Trong gia đình, người lớn bên tách trà thơm, chờ giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa. Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, ánh đèn lung linh huyền ảo. Mâm ngũ quả bóng láng, đủ các sản vật của miệt vườn ít có nơi nào bì kịp. Nào Xoài, mãng cầu, đu đủ, vú sữa, quýt, nhãn... màu sắc rất hài hòa. Trên bàn thờ được điểm thêm hai trái dưa hấu lớn đặt bên bộ đèn ***g. Chậu mai vàng đặt trước bàn thờ đã bắt đầu nở nụ xinh tươi. Trong đêm trừ tịch trôi đi lặng lẽ của một miền sông nước êm ả, người chủ gia đình thành kính cúng giao thừa, ông bước ra vườn để đón gió xuân xào xạc, thoảng trong không gian mùi hương trầm. Có lẽ mọi người đang cầu khấn một năm mới có nhiều may mắn và hạnh phúc.
    Từ giao thừa trở đi, người ta kiêng cữ nhiều việc: Không cãi vã lớn tiếng, không động đất, không quét nhà, xách nước. Đồng bằng Nam Bộ theo phong tục ?oMồng Một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy?T?T. Cứ thế gia đình nào cũng đưa con cháu về quê nội, rồi quê ngoại, sau đó mới đi thăm thầy cô giáo. Trên các kênh rạch, những chiếc xuồng tam bản chuyên chở khách thăm viếng thật đông vui, nhộn nhịp.
    Những năm gần đây, đồng bào đồng bằng Nam Bộ thường tổ chức du xuân miệt vườn trên sông Tiền bằng thuyền. Cả gia đình đi một thuyền hoặc hai ba gia đình thuê chung. Nằm giữa vùng nước mênh mông là những vùng đất trù phú của Thới Sơn, Tân Long, Tân Quy... được mệnh danh là vương quốc của trái cây. Nếu đổi thuyền nhỏ thì về rạch Miễu (Bến Tre), đây là vùng đất lịch sử. Bến Tre không chỉ nổi tiếng về cây lúa truyền thống mà còn là nơi sinh sản những giống cây mới như: sầu riêng Mon Thoong (Thái Lan), ổi Mã Lai, sa-pô-chê Mêhicô, đặc biệt là bưởi da xanh, ruột đỏ hồng rất đẹp, vị ngọt thanh không bị he. Ngày Tết đi chợ nổi Ngã Năm (Sóc Trăng) là vui nhất. Chợ nổi nằm ở giao điểm năm con sông đi Cà Mau, Vĩnh Quốc, Long Mỹ, Thạch Trị, Phụng Hiệp. Chợ có từ lâu đời, nhộn nhịp nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây có đến hàng trăm chiếc ghe lớn đậu san sát nhau. Hàng hóa không thiếu thứ gì, chủ yếu là hàng nông sản thực phẩm tươi sống. Trên bờ thì mua bán hàng tiêu dùng cao cấp. Ngày Tết đi chợ nổi mới thấy cái đông vui, độc đáo của một miền sông nước.
    Người dân ở đồng bằng Nam Bộ ngày nay đời sống đã khá lên, họ ăn Tết dài ngày. Có nhiều gia đình du xuân miệt vườn 2-3 ngày. Họ sinh hoạt ngay trên những chiếc ca nô của mình. Ban đêm họ ngủ giữa trời nước mênh mông. Họ ăn chơi hết mình, để sau đó lại vào công việc đồng áng đang cận kề và hứa hẹn một mùa bội thu mới.
  9. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá ẩm thực Việt Nam rất đa dạng và phong phú. mỗi miền lại có những nét riêng sau đây tôi xin nói về một nét riêng về những thứ mà người Nghệ An đi đâu mà cũng nhớ về nó:

    Tương Nam Đàn
    Tương là món ăn rất đỗi thân quen trong cuộc sống hằng ngày của người nông dân:
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương...

    Nam Đàn là một trong ba vùng làm tương ngon nổi tiếng cùng với tương Bần (Hưng Yên) và tương Cự Đà (Hà Tây).
    Tương Nam Đàn độc đáo, khác hai loại tương kia ở chỗ nó là "tương mảnh", hạt đậu làm tương chỉ xay vỡ thành "mảnh đậu" chứ không "nát như tương Bần". Chai tương Nam Đàn không có mầu nâu như tương Bần, mà vàng sánh như mật ong. Những mảnh đậu lơ lửng trong nước tương đặc quánh, thơm và ngọt lịm. Chỉ nhìn thôi cũng thấy hấp dẫn. Dù lượng muối bỏ vào làm tương không ít, nhưng vị đậm đà của muối biển đã chìm đi, nhường chỗ cho hương vị của thứ nước chấm đặc sắc.
    Ở Nam Đàn và cả Nghệ An, hầu như nhà nào cũng có một hũ tương. Nhiều nhà biết làm tương, nhưng những người thành thạo, có bí quyết để làm ra những chum tương đặc sản Nam Đàn, thì không còn nhiều. Kinh nghiệm làm tương được các bà, các mẹ ở Nam Đàn truyền cho con gái như một chút vốn cho cuộc sống mai này.
    Đã từ xa xưa ở Nam Đàn, Thanh Chương có câu ca "nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn".
    Tương Nam Đàn là loại nước chấm được nấu từ hạt đậu tương và hạt nếp hoặc hạt ngô làm mốc. Cứ vào dịp tháng 6 âm lịch hằng năm, người ta bắt đầu làm tương. Nhà nào cũng nấu cho được vài choé tương hoặc một chum tương. Muốn tương thơm ngon, đầu tiên phải phơi mốc được nắng. Mốc tương làm bằng gạo nếp hay ngô. Gạo nếp hay ngô giã trắng, đồ chín rải ra nong, lấy lá nhãn ủ đến khi lên mốc đưa ra phơi nắng khoảng 7-9 ngày. Đậu tương rang lên để nguội đem xay (đem xiết ra: theo American, xem phần dươi) cho vỡ đôi, vỡ ba, sau đó đổ nước vào nấu chín rồi đổ vào nước đậu (sau 7 đến 9 ngày) là đổ muối vào đánh đều cho muối tan với mốc, đậu. Cứ 5 nước tương thì 1 muối, nếu quá nhiều muối thì tương mặn, mất ngon, nếu bỏ ít muối thì tương hỏng (gọi là tương ỉnh). Cho nên người dân Nam Đàn thường nhớ công thức: "Năm tương một muối thì ngon. Nhiều tương ít muối đổ vườn mất thôi". Tương ngon ngọt là tương làm bằng mốc nếp, nhiều đậu phơi được nắng. Đây là loại tương đặc biệt người ta nấu riêng một choé, một chum dùng để làm nước chan hay nước chấm thịt luộc, trong những ngày giỗ tết, có khách. Còn loại tương được làm từ mốc ngô, ít đậu thì dùng để kho cá, chấm rau, chấm đậu, ăn với cơm hàng ngày. Ngày mùa gặt lúa về nấu nồi cơm gạo mới dẻo thơm chan với nước tương ngon, ăn thật đậm đà hương vị quê hương. Vào những ngày hè nóng bức dùng nước tương chấm với ngọn khoai lang luộc, rau muống luộc, cà luộc ăn với cơm, vừa mát, vừa đậm đà hương vị đồng quê.
    Ai đã từng ăn thịt bò, thịt bê luộc chấm với nước tương ngọt có ít gừng, tỏi, thì không quên được hương vị đặc biệt này.
    Người dân Nam Đàn thường giã nhỏ lạc rang hay vừng đen hoà với nước tương sền sệt để chấm chuối xanh hay khế chua thái mỏng ăn với cơm. Vắt xôi nếp mà chấm với nước tương ngọt cũng khá hấp dẫn.
    Để có được chum tương ngon, người ta cẩn thận lựa chọn từng cái chum. Chum được nung chín đều, men láng bóng, đổ nước ngâm thử ba, bốn ngày, đem úp miệng chum xuống đất. Đậu nấu tương phải chọn loại đậu mới, đều hạt và có lẽ chỉ giống đậu Tương Xuân trồng tại Nam Đàn mới cho những chum tương ngon nhất. Nước dùng để nấu tương, cũng kén như loại nước để nấu chè xanh. Gạo nếp thổi xôi làm mốc, muối dùng làm mặn cho tương đều phải lựa chọn kỹ càng. Lúc rang, lúc ủ đậu, khi nấu ngả tương, khi phơi và đánh tương... đều phải có bí quyết, kinh nghiệm, chọn nắng để phơi tương... Ai dám bảo làm tương không lắm công phu. Tương Nam Đàn, tương xứ Nghệ dễ mấy ai quên khi đã một lần thưởng thức.
  10. daovh

    daovh Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    15/02/2003
    Bài viết:
    880
    Đã được thích:
    1
    Mình thấy nhiều vùng của VN có những câu chuyện tình rất cảm động.Có thể chính những câu chuyện như thế đã góp một dòng chảy tạo thành tình yêu quê hương đất nước trong lòng người VN. Có thể các bạn đã nghe nói về Cao nguyên LangBiang được ghép từ tên của một đôi trai gái yêu nhau hay sự tích về sông Công - núi Cốc ở Thái Nguyên. Mình ,trong một dịp đi công tác , đã được đến thăm hồ núi Cốc, được ngồi trong xuồng xuôi theo dòng suối trong một cái hang rất đẹp và nghe giới thiệu về câu chuyện tình yêu của nàng Công và chàng Cốc. Chàng trai tên là Cốc là một thanh niên nghèo nhưng rất tốt bụng. Còn cô gái tên Công là con quan lang. Hai nguời yêu nhau tha thiết nhưng bị cha cô gái ngăn cản. Chàng trai vì nhớ người yêu đã hoá thành ngọn núi Cốc. Nước mắt cô gái đã chảy thành dòng sông Công chảy về phía núi. Bây giờ trên đó đã có một cái hồ rât rộng. Nếu bạn đến thăm nên đi thuyền để ngắm cảnh hồ và nghe giới thiệu về việc xây hồ và về các hòn đảo trên đó nhất là thưởng thức bài hát "Hồ trên núi" nổi tiếng.
    Câu chuyện nàng Công chàng Cốc ai đã nghe một lần đều nhớ mãi. Hay nhưng mà hơi buồn. Hình như các câu chuyện tình nổi tiếng đều hơi buồn. Viết đến đây mình nhớ đến mấy câu trong một bài hát ( lấy ý từ một câu thơ của Victo Huygô ) : " Ai đã từng khóc vì yêu xin hãy yêu cho thật nhiều. Ai đã từng chết vì yêu là đã sống trong tình yêu "

Chia sẻ trang này