1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

VĂN HỌC VIỆT NAM

Chủ đề trong 'Đức (German Club)' bởi kuestenkicker, 11/06/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. caphechieuthubay

    caphechieuthubay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/05/2002
    Bài viết:
    1.129
    Đã được thích:
    0
    Một năm có mươ?i hai tháng...Môfi tháng lại mang một sắc thái riêng cu?a đất trơ?i...khiến nôfi nhớ
    cu?a con ngươ?i vi? thế cufng đa dạng biết bao...Đọc '''' Thương nhớ mươ?i hai '''' cu?a Vuf Bă?ng, lại
    có ca?m giác '''' ngươ?i đi ti?m hi?nh cu?a chính mi?nh '''' trong nhưfng nôfi nhớ ấy..Du? chi? la? khoa?ng cách
    Bắc - Nam , nhưng cufng đu? đê? tạo nên một nôfi nhớ, chứ nói gi? Việt Nam va? '''''''' ..'''''''' ...Chi? tiếc không
    ti?m được full version đê? đọc, du? nhớ ră?ng trong tu? sách cu?a mi?nh hô?i xưa , cufng đaf có '''' Thương
    nhớ mươ?i hai ''''...
    Một đoạn trích giới thiệu đến mọi ngươ?i :
    ''''''''
    Thoạt đầu ai cũng tưởng chẳng làm sao. Cùng là đất nước, đi đâu mà chả thế? Từ Bắc vào Trung, đâu đâu lại không có những con mắt nhìn vào những con mắt mà như gói ghém cả một trời thương; từ Trung vào Nam, chỗ nào mà lại chẳng có những miệng cười, không nói ra lời mà hàm súc biết bao duyên thắm?Vậy mà không; lòng người xa nhà y như thể là khúc gỗ bị mối ăn, mục nát từ lúc nào không biết. Trông bề ngoài thì không có gì khác lạ, nhưng cầm một cánh hoa khẽ đạp vào thử mà xem: tiếng gỗ kêu nghe mệt mỏi, u buồn, mà nếu gõ mạnh thêm chút nữa, ta sẽ thấy gỗ vỡ tan, để lộ ra tảng mục lỗ chỗ như tổ ong, tiết ra một thứ bụi vàng hanh hao, nhạt nhẽo.Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ mục.Sài Gòn, Phú Lâm, Bình Lợi, Chợ Lớn, Lồ Ồ... vui quá, cứ uống rượu mạnh thế này, nghe con hát đàn vừa múa vũ vừa ca, lại cặp kè với con gái hơ hớ như trăng mới mọc thế này, thì sao lại có thể rầu rĩ được? Ấy vậy mà một buổi chiều trở gió kia, ngồi cúi xuống lòng để hỏi chuyện tim mình, ta cảm như có hàng vạn con mọt nhỏ li ti vừa rung cánh o o vừa đục khoét con tim bệnh tật. Và tự nhiên ta có cảm giác rằng thân thể ta, không biết từ lúc nào, đã bị mối "xông" và đang đi đến một chỗ một ruỗng, rã rời tan nát.
    .................
    Tại sao lại buồn? Tại sao lại chán?Không biết tại làm sao cả.
    ................
    Cho tới một ngày kia ... đang ngồi trong một tiệm ăn hẻo lánh ở trên sông Tân Thuận, trận mưa đầu mùa trút nước xuống phố phường. Những người Bắc Việt ngồi ở những bàn ăn gần đó nhìn mưa mà thấy thẫn thờ, mà thấy bơ vơ, tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi bầu không khí nặng nề lúc đó, bèn kiếm một câu gì để nói.Một người bảo:"Ở Bắc, có lẽ bây giờ cũng mưa đầu hè đấy nhỉ."Một người khác:"Thế nhưng mưa ở Bắc, nó khác kia, bà ạ"Một người khác nữa:"Cái gì cũng khác hết. Thôi đừng nói nữa, tôi muốn khóc đây."
    ( Em cufng có nhưfng vo? ốc rất đẹp ở bên na?y . Chị ba?o ră?ng : Ốc Đức khác ốc Việt Nam , em
    nhi? . Có thê? ốc la? giống nhau, nhưng lo?ng ngươ?i thi? rất khác , rất khác , .................)
    Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thương yêu, nhớ những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan còn thơm ngát hơn cả hoa cau, hoa bưởi. Người ta nhớ heo may giếng vàng; người ta nhớ cá mè, rau rút; người ta nhớ trăng bạc, chén vàng.
    ......................
                Ới những người thiên lý tương tư! Nếu bất ngờ những dòng sau đây có lạc vào tay bạn, mà thấy nói được lên một mối cảm hoài của bạn vẫn chất chứa ở bên lòng, thế là kẻ viết bài này lấy làm mãn nguyện lắm rồi.
                Đời mà có một người vui cái vui của mình, buồn cái buồn của mình chẳng là đủ rồi sao? Có tâm sự trong lòng, lặng nhìn nhau không nói mà cũng cảm biết, thế chẳng đủ rồi sao? 
                Thôi bây giờ, mặc cho ngòi bút đưa đi, đến đâu hay đó ... ''''''''
     
    Có lef la? một truyện nên đọc...nhất la? với nhưfng bạn Ha? Tha?nh...cufng có thê? sef ti?m thấy ơ?  đâu
    đấy một chút quen lắm chứ
    Một số tác phâ?m khác cu?a Vuf Bă?ng : Miếng ngon Ha? Nội, Miếng lạ miê?n Nam, Cha?ng Kim ngươ?i
    Bắc, cô Kiê?u ngươ?i Kinh...........
    Được caphechieuthubay sửa chữa / chuyển vào 02:01 ngày 04/10/2004
  2. caphechieuthubay

    caphechieuthubay Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/05/2002
    Bài viết:
    1.129
    Đã được thích:
    0
     

    Không đề (**)
    _Hoa
    Em không hát câu nào sao, cô gái?
    Trăng tháng năm treo lơ lửng tròn vành
    Lửa trại ấm em vừa hồng đôi má
    Lửa bập bùng soi dáng tóc em bay
     
    Em không nói câu nào sao, cô gái?
    Bạn bè em ồn ã thế kia mà         ( --->chính mình đây mà :-( )
    Đêm bất chợt một đêm biển động
    Tiếng sóng gầm xen tiếng nhạc ghi ta
     
    Em có thể quên đêm nay, cô gái?
    Mai xa nhau biết còn lại chút gì (---> làm sao quên được những nỗi nhớ )
    Thôi nghe trọn khúc dạo lòng anh nhé
    ?oBao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi...?
  3. qua_lac

    qua_lac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2004
    Bài viết:
    190
    Đã được thích:
    0
    QUA MẤY NGÕ HOA
    Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
    Về đi thôi o nớ chiều rồi
    Ngó làm chi mây trắng xa xôi
    Mắt buồn quá chao ôi là tội!
    Tay nhớ ai mà tay bối rối
    Áo thương ai ***g ***g đôi tà
    Đường về nhà qua mấy ngõ hoa
    Đừng có liếc mắt nhìn ong ****
    Có chi mô mà chân luống cuống
    Cứ tà tà ta bước song đôi
    Đi một mình tim sẽ đơn côi
    Tóc sẽ lệch đường ngôi không đẹp
    Để tóc rối cần chi phải kẹp
    Nắng sẽ chia nghìn sợi tơ huyền
    Buộc hồn o vào những cánh chim
    Bay lên đỉnh lòng anh ngủ đậu
    Cứ mím môi rứa là rất xấu
    O cười tươi duyên dáng vô cùng
    Cho anh nhìn những hạt răng xinh
    Anh sẽ đổi ngàn ngày thơ dại
    Mi sẽ chớp nghĩa là sắp háy
    Háy nguýt đi giận dỗi càng vui
    Gót chân đưa guốc mộc bồi hồi
    Anh chợt thấy trần gian quá chật!
    Không ngó anh răng nhìn xuống đất
    Đất có chi đẹp đẽ mô nờ ???
    Theo nhau từ hôm nớ hôm tê
    Anh hỏi mãi o răng không nói??
    Tình im lặng tình cao vời vợi
    Hay nói ra sợ thế gian cười
    Sợ phố ghen đổ lá me rơi
    Sợ chân bước sai hồi tim nhịp???
    Cứ khoan thai rồi ra cũng kịp
    Vạn mùa xuân chờ đón chung quanh
    Vạn buổi chiều anh vẫn lang thang
    Vẫn theo o về giờ tan học!
    Từ bốn cửa đông tây nam bắc
    Tới bốn mùa xuân hạ thu đông
    Theo nhau về như sáo sang sông
    Như chuồn chuồn có đôi có cặp
    Chim chìa vôi chuyền cành múa hát
    Trên hư không ve cười mùa hè
    O có nghe suốt dọc đường về
    Sỏi đá gọi tên người yêu dấu !
    Hoa tầm xuân tím hoang bờ dậu
    Lòng anh buồn chi lạ rứa thê!
    Nón nghiêng vành nắng chết đê mê
    Anh mê sảng theo chiều tắt chậm
    Chiều đang say vì tình vừa ngấm
    Hai hàng cây thương nhớ mặt trời
    Chiều ni về o nhớ thương ai?
    Chiều ni về chắc anh nhuốm bệnh
    Thuyền xuôi dòng ngẩn ngơ những bến
    Anh như là phố đứng trông mưa
    Anh như là quế nhớ trầm xưa
    Sợ một mai o qua mất bóng
    Một mai rồi tháng năm sẽ lớn
    O nguôi quên những sáng trời hồng
    O sẽ quên có một người mong
    Một kẻ đứng dọc trời trông đợi
    Còn nhớ chi ngôi trường con gái
    Lớp học sầu, ô cửa, giờ chơi
    Cặp sách quăng mô đó mất rồi
    Vì o bận tay bồng tay bế
    Chuyện hôm nay sẽ thành chuyện kể
    Những lúc chiều đem nắng sang sông
    O bâng khuâng nhè nhẹ hỏi lòng
    Mình nhớ ai mà buồn chi lạ??
    Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
    Về đi thôi o nớ chiều rồi
    Ngó làm chi mây trắng xa xôi
    Mắt buồn quá chao ôi là tội!
    Mường mán
  4. Mitdac

    Mitdac Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/12/2000
    Bài viết:
    3.065
    Đã được thích:
    0
    Hớ, bà con hứng chí, post bài loạn cào cào, Văn học, Thơ, Nghệ thuật sống, đọc cái này cứ tưởng cái kia....
  5. kuestenkicker

    kuestenkicker Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2004
    Bài viết:
    872
    Đã được thích:
    0
    Do nay khong thay chu MIt sang tac tho con coc nua... Nho qua..
    Em ơi, em ở nơi đâu
    Anh ngồi đầu cầu đợi hết cả đêm
    Tiếp đê chú Mit
  6. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Hết Ferien rồi,hơi chán.Cho ngô đồng post một chuyện cổ tích đọc được trên net để giải sầu những ai đang chán như ngô đồng nha!
    Một Chuyện Tình
    Bấy giờ, ở làng Từ có một thanh niên, tuổi đã ngoài 30 mà vẫn còn độc thân. Chàng là con nhà giầu, đẹp trai, học giỏi và ca vọng cổ mùi hết xẩy. Nhưng đời hay nói rằng: "nhân vô thập toàn", nên bên cạnh những ưu điểm đó chàng bị cái tật là thích tắm chuổng cời ngoài sông như con nít . Bởi dzậy, dân làng gọi chàng là Từ Đồng Tử.
    Danh tiếng chàng nổi như cồn, làng trên xóm dưới, các cô thiếu nữ nhìn thấy chàng tắm sông là tối về thao thức dệt mộng, ngủ không được. Nói cho ngay, chả mấy khi các cô được nhìn thấy Từ Đồng Tử tắm sông vì chàng chỉ tắm ở những bãi thanh vắng, xa làng mạc và giờ giấc thì không định trước.
    Hôm ấy, trời nóng nực, Từ Đồng Tử một mình ra bờ sông để tắm một phát cho mát mẻ. Sau khi đã cẩn thận quan sát chung quanh, chàng bèn...y như cũ là chuổng cời nhảy ùm xuống sông, miệng ca vọng cổ rần trời:
    "Nếu mai thất nghiệp anh về miền quê anh cắm câu
    Bắt con nhái bầu
    Đi ra đầu cầu
    Gặp em bước tới anh thả câu
    Nếu câu em đặng đem về làm dâu cho tía anh ... "
    Vừa khi ấy thì có tiếng người cười nói từ xa vọng lại. Chàng hãi quá vội vàng trèo lên bờ định bụng mặc lại quần áo rồi phú lỉnh đi chỗ khác. Nhưng ác thay, vào lúc sinh tử như thế này, chàng lại quên chỗ dấu quần áo - thế có chết người ta không chứ? Tiếng cười nói càng lúc càng gần làm chàng càng quýnh quáng. Trong lúc rối trí, chàng bèn nằm dài xuống bãi sông rồi lấy cát phủ lên người cho kín.
    Đám người ồn ào đang tiến đến nơi Từ Đồng Tử ẩn nấp là Phàm Dung Công Chúa và đám tuỳ tùng thân tín.
    Nói về Phàm Dung Công Chúa, tuổi đã ngoài 20 nhưng vẫn còn phòng không gối chiếc. Mặc dù, trong Kinh thành có rất nhiều công tử mê nàng như điếu đổ nhưng nàng vẫn chưa chấm ai cả. Nàng vẫn còn đợi người trong mộng. Thấy nàng khó khăn như vậy, một kẻ tiểu nhân trong đám công tử theo đuổi nàng mới phao lên rằng: công chúa có tật thích tắm sông! Giời ơi, tật nào thì chịu được chứ tật tắm sông thì anh nào mà chịu cho nổi! Vì thế, đã nhiều lần "nhìn những mùa thu đi," mà Phàm Dung Công Chúa "nghe sầu lên khoé mắt." Sầu như thế được vài năm thì nàng không thèm sầu nữa mà xin phép vua cha lên đường để tìm người mơ.
    Khi đến làng Từ, Phàm Dung Công Chúa không thèm ở Hotel mà đòi ra khu rừng gần bờ sông để cắm lều...ngủ cho mát. Từ chỗ này đến bờ sông cách nhau vài trăm thước và rất ít người qua lại. Dân làng mách với đám tuỳ tùng là khu rừng này, mấy lúc gần đây, cứ vào khoảng giữa trưa thì có tiếng ca vọng cổ não ruột phát ra, nghe kinh khiếp lắm. Có người nhiều chuyện lại mách rằng: tiếng hát đó của một người thất tình kinh niên, giận đời giận người nên tính tình rất hung dữ. Lại có anh quả quyết rằng: người này chắc chắn đã "giết người trong mộng" của mình rồi ẩn náu nơi đây. Nghe thế, mọi người trong đoàn khuyên can Phàm Dung Công Chúa đừng chơi dại, nhưng Công Chúa chả thèm nghe. Mọi người dù sợ muốn chết cũng phải dựng lều cắm trại trong khu rừng đầy nguy hiểm ấy để làm vui lòng Phàm Dung Công Chúa.
    Vào khoảng giữa trưa, sau khi lều trại đã được dưng lên, Phàm Dung Công Chúa thấy thèm tắm một phát. Nàng mang theo dăm tì nữ để giúp việc vặt, rồi cùng họ ra bờ sông. Trên đường đi, chủ tớ ca hát òm xòm, vô tình báo động cho anh Từ Đồng Tử tìm đường trốn. Nói dại đổ đi, nếu anh Từ Đồng Tử không biết có người đang đi tới mà cứ trần trụi ca vọng cổ mãi thì có khối chuyện vui đấy. Nhưng ở đời, trong cái may lại có cái rủi luôn chực sẵn, chả ai biết trước được! Khi ra tới bờ sông, Phàm Dung Công Chúa và đám tỳ nữ dùng vải quây quanh một vùng, khoảng dăm mét vuông để tắm. Rủi thay, nơi ẩn náu của anh Từ Đồng Tử lại nằm trong "dăm mét vuông" đó.
    Nhắc lại Từ Đồng Tử, từ lúc đắp cát lên người để che dấu thân phận phàm tục của mình thì kinh hãi trong lòng lắm lắm. Chàng tự trách mình đi tắm không coi ngày chán, thì quay ra chửi cái đám đông vô duyên kia. Không biết họ là ai, ở đâu tới, làm nghề ngỗng gì mà giờ này lại rỗi rãnh ra đây hóng gió thế! Thiếu gì những hồ tắm lịch sự, sang trọng trong khu downtown không chịu chọn mà lựa cái chỗ vắng vẻ này mà tắm với táp. Vớ vẩn đến thế là cùng! Đang lúc chửi hăng như thế thì Từ Đồng Tử nghe tiếng hát oanh vàng của ai đó từ trên lớp cát trên người chàng vọng xuống:
    "Đừng xa em đêm nay, ba má em đã ngủ say
    Đừng đi anh, em đang vui thí mồ
    Mời anh xơi lon Bia, em đi kiếm bao Bò Khô
    Xâu Nem Chua với chai "Rờ Mi" ( Remy Martin)
    (nhái bài Đừng Xa Em Đêm nay)
    - À, "cái con này" gớm thật: mang món nhậu ngon, chai rượu ngọt ra để dụ dỗ kẻ sành ăn nhậu thì ai nỡ lòng nào mà về cho đặng. Khéo đến thế là cùng! Nếu thằng cha trong bài hát mà vẫn cứ đòi về sau khi được mời mọc các món này thì thật là hết ý. Giời ơi, nếu là ta thì nhất định ta sẽ ở lì đó cho đến sáng. Mà thôi, để coi ý thằng chả như thế nào?
    Từ Đồng Tử nghĩ thế và vểnh tai nghe tiếp bài hát do Phàm Dung Công Chúa đang hát om xòm ở trên:
    "Đừng xa em đêm nay, em mới "o đơ" Lòng Heo
    Và Chim Quay, thêm hai con "hum-mờ" (Hummer-tôm hùm)
    Ngồi đi anh, sao anh đứng như là cây
    Và hãy nói "anh thích thí mồ!"
    - Lại thêm hai ba món nữa ! Ăn như thế này có nước bội thực chứ chả chơi ! Này, nếu ăn không hết thì gói lại mang về nhé. Nhất là món hum-mờ mắc mỏ thì thật là không nên phí phạm. Giời ơi, tới giờ Mittagessen rồi mà ai đó cứ réo tên ba cái món ăn ra mà ca hát om xòm làm ta càng thêm xót xa ruột gan lắm. Ai đó ơi, xin hiểu cho "nỗi lòng" này với!
    Từ Đồng Tử tự nói với mình như vậy và lạ thay, ở phía trên mặt đất, Phàm Dung Công Chúa đổi tông qua bài khác cái xoẹt :
    "Má ơi má
    Cái anh này dzê
    Anh nắm tay con
    Cùng kinh
    Cùng kinh cắc cùng kinh ... "
    Nghe Phàm Dung Công Chúa ca vọng cổ, Từ Đồng Tử mắc cười muốn chết: " Mèn ơi, ca dzở ẹt dzậy mà cũng đòi ca. Phải chi tui hổng phải nằm im ở đây thì tui ca cho mà nghe."
    Từ Đồng Tử vui chưa được bao lâu thì cảm thấy thân thể mình nóng ran. Dường như có một luồng nước nóng từ phía trên lớp cát đang từ từ ngấm vào mình. Từ Đồng Tử lầm bầm:
    - Hồi nãy, nước sông lạnh muốn chết, làm mình teo cả ... mấy đầu ngón tay. Hổng hiểu "con nhỏ này" tắm bằng nước gì mà nóng quá trời thế này ? Hay là ... "
    Như nghĩ ra điều gì ghê gớm lắm, Từ Đồng Tử kêu thét lên: "Tía má ơi, chết con rồi! Kỳ này hổng chết ngắc thì cũng lờ đờ khó nuôi!
    Trong lúc sợ hãi quá đỗi, Từ Đồng Tử suy nghĩ tầm bậy tầm bạ thế. Thật ra, Phàm Dung Công Chúa dùng nước nóng để tắm thôi. Việc dùng nước nóng để tắm của Phàm Dung Công Chúa cũng có sự tích truyền kỳ. Theo người biết chuyện thì rằng: Phàm Dung Công Chúa rất ham thích văn nghệ văn gừng. Ngay từ nhỏ, nàng đã học đàn, sáo, ca vọng cổ, tân nhạc với các danh cầm, danh ca nổi tiếng đương thời. Ông thầy dậy ca thấy nàng ăn nói nhỏ nhẹ quá, sợ sau này nàng không đủ hơi để hát những đoạn nhạc dài, mới bảo rằng: " Tiên học hét, hậu học la. Cốt lấy cái dài hơi trước rồi sau đó mới ... tính được. Thời gian và không gian thích hợp nhất để luyện giọng là khi đi tắm." Phàm Dung Công Chúa nghe lời thầy, từ đó, mỗi khi đi tắm nàng ráng ... luyện hét. Nàng cố gắng cho tiếng hát của mình át tiếng nước chảy từ cái rô-mi-nê mở hết cỡ. Nàng hát từ bài này qua bài khác mà không cần nhạc mở đầu, nhớ đoạn nào phang đoạn đó, từ tân nhạc qua vọng cổ cái xoẹt mà không cần phải báo trước. Nhiều khi tinh thần văn nghệ lên cao quá độ, nàng tắm đến ba bốn tiếng đồng hồ là thường!
    Đáng lẽ mọi chuyện không đến nỗi nào, nếu một ngày kia các quan trong triều không làm đơn đòi vua chấm dứt sự nghiệp văn nghệ của Phàm Dung Công Chúa. Trong đơn họ nói: Công chúa hay chọn những giờ giấc oái oăm để luyện giọng. Chẳng hạn như giữa trưa, sau giờ lunch, mọi người đều thấy buồn ngủ thì công chúa cất tiếng ca làm cho quần thần không nhắm mắt được. Hay lúc nữa đêm, khi mọi người trong Hoàng Cung đã chìm vào giấc điệp thì tiếng hát lanh lảnh xé không gian của Công Chúa lại vang lên, làm kinh động cả nhân gian. Tóm lại, họ phán: nếu Phàm Dung Công Chúa không chịu "giã từ vũ khí" thì quần thần trong triều không thể làm việc được!
    Nhà vua rất khó xử. Một bên là con mình với giọng ca vàng hiếm có. Còn bên kia là quần thần muốn lấy Phàm Dung Công Chúa làm cớ để nghỉ xả hơi dài hạn. May thay, bấy giờ có người hiến kế rằng: Phàm Dung Công Chúa muốn thả dàn luyện giọng thì nên chịu khó ra bờ sông để tắm. Ở đó vắng vẻ, tiếng hát của nàng sẽ chả làm phiền ai cả! Nếu sợ nước sông lạnh, Công Chúa có thể tắm bằng nước nóng. Nhà vua và Công Chúa rất hài lòng với giải pháp này. Mấy anh Công Tử trong Kinh Thành, thấy Phàm Dung Công Chúa hay ra bờ sông để tắm, thì đồn ầm lên là Phàm Dung Công Chúa thích tắm sông. Rõ là họ chỉ được cái nhảm nhí!
    Trở lại lúc Từ Đồng Tử kinh hãi, tâm thần bấn loạn mà nghĩ tầm bậy tầm bạ, thì ở trên mặt đất Phàm Dung Công Chúa sai bảo đám tì nữ:
    - Xuân, Hạ, Thu, Đông các người mau mang thêm hai thùng phuy nước nóng để ta tắm cho đã.
    Nghe qua, Từ Đồng Tử thở phào nhẹ nhỏm, rồi cười mình ên : "Dzậy mà ta cứ tưởng ... tượng !" Lại có tiếng của Phàm Dung Công Chúa vọng xuống: "Lần này, các người cho nước nóng thêm chút nhe. Nước càng nóng, ta hát càng hay!". Nói xong, nàng lên giọng. Tiếng hát của nàng cao vút và liêu trai rất phết:
    "Đời còn gì hơn ăn
    Sáng đá Bò Viên, tối làm tô Mì Gà
    Còn thấy đói, chơi thêm tô Mì Xào
    Và hai ly Đá Chanh không bỏ đường"
    (nhái bài Nữa Đêm Ngoài Phố)
    Từ Đồng Tử nghe Phàm Dung Công Chúa đòi hỏi nước phải nóng hơn nữa, thì càng thêm kinh khiếp: "Mèn ơi, nước nóng như thế này mà còn đòi nóng thêm nữa sao?" Rồi như có quỷ thần xui khiến, chàng bèn đứng phắt dậy, quên cả mình đang trần trụi, để chửi "ai đó" một trận cho đã.
    (Tự ý đục bỏ đoạn tả Từ Đồng Tử nhổm dậy).
    Khi nhìn thấy "người đó" đang sửng sốt nhìn mình mà lại đẹp như tiên thì Từ Đồng Tử quên hết mọi sự thế gian. Giận người chơi ác, tức mình vì cả nể quá đổi nên Từ Đồng Tử bật khóc nức nở.
    - Nàng ơi, sao nàng lại nỡ nhẫn tâm dùng nước nóng để tắm. Giờ đây, thân thể ta chỗ nào cũng bị phỏng hết trơn hết trọi. Điệu này khi ta trở về nhà, Tía Má ta làm sao nhận ra ta nữa đây ... trời !
    Phàm Dung Công Chúa đang sợ hãi, miệng la không thành tiếng, nghe Từ Đồng Tử "vô câu vọng cổ" trên thì nàng phì ra cười:
    - Chèn đét ơi, anh làm tui nhớ tuồng Cải Lương Lan và Điệp ghê. Nhớ lúc Điệp cố rướn người lên để nắm lấy dây chuông đã bị Lan cắt đứt một đoạn nhưng vì lùn quá nên cố gắng mấy, chàng cũng không với được cái dây chuông. Điệp giận mình lùn mà khóc lóc thảm thiết chứ đâu phải, như mấy ông dăng sĩ tả, là chàng bị tình yêu vật mà khóc. Thiệt là mắc cười.
    Từ Đồng Tử thấy Phàm Dung Công Chúa nhắc đến Điệp thì chàng biết là đã gặp tri kỷ. Trong bụng chàng mừng muốn chết, định "chơi" vài câu nữa nhưng "vô" không được vì các vết phỏng làm chàng đau đớn. Phàm Dung Công Chúa thấy vậy mới bảo:
    - Chàng ngồi xuống đây, để tôi lấy "phó mát" xức cho.
    Từ Đồng Tử nghe lời nàng răm rắp. Phàm Dung Công Chúa xoa thuốc đến đâu, Từ Đồng Tử cảm thấy chỗ đó không còn đau nữa mà cứ mát rượi đi. Lạ quá, Từ Đồng Tử hỏi: "Thuốc này là thuốc Tiên chăng?" Phàm Dung Công Chúa lắc đầu, nói: " Thuốc cuả Tây đấy, chứ thuốc Tiên gì!" Từ Đồng Tử nghĩ:
    - Gía mình có được một chai để mang về cho Tía Má xài thì hay quá.
    Đọan Từ Đồng Tử lại òa lên khóc. Lần này còn thảm thiết hơn lần trước! Phàm Dung Công Chúa quýnh lên, hỏi:
    - Sao lần này chàng khóc to thế?
    Từ Đồng Tử được nước làm tới, khóc to tiếng hơn :
    - Tôi nghĩ đến Tiá Má tôi mà lòng đau như cắt. Đã ba mươi năm, trừ Tía Má tôi, nàng là người đầu Phàm nhìn thấy tôi - chàng chỉ vào người mình - như thế này. Nếu dân làng biết tôi đã bị "nhòm ngó", không còn trong trắng nữa, họ sẽ bắt tôi bỏ vào ***g heo rồi thả trôi sông. Tôi chết đi rồi, lấy ai mà phụng dưỡng Tía Má tôi.
    Nghe Từ Đồng Tử giải bầy, Phàm Dung Công Chúa thêm hoảng sợ:
    - Tôi đâu cố ý nhòm ngó, chẳng qua là "tình cờ" nên mới ra cớ sự này. Vậy tôi phải làm gì để lấy lại sự trong trắng cho chàng?
    Từ Đồng Tử vội nín khóc, tỉnh bơ nói rằng:
    - Nếu nàng không chịu nhận tôi làm chồng thì tôi không dám về làng.
    Nói ngay, Phàm Dung Công Chúa cũng chịu bộ vó của Từ Đồng Tử lắm. Nàng đã đi nhiều nơi, gặp nhiều người nhưng chưa có anh nào đẹp trai và đô con như Từ Đồng Tử cả. Tuyệt nhất là Từ Đồng Tử còn biết "dô" vọng cổ, mùi không thua gì ca sĩ chuyên nghiệp. Nói dại đổ đi, nếu Từ Đồng Tử bị dân làng thả ***g heo thì thật là phí của giời.
    Nay nghe Từ Đồng Tử mở lời như vậy, Phàm Dung Công Chúa bèn bằng lòng cái xoẹt. Một là để cứu người ngay gặp nạn, hai là từ đây trên đường đời có người bạn đường biết ca "vọng cổ" cũng đỡ buồn. Từ Đồng Tử mừng hết lớn khi Phàm Dung Công Chúa bằng lòng, nhưng chả nhẽ không làm yêu sách gì thì coi sao được, nên chàng nữa đùa nữa thật:
    - Theo lệ cũ từ xưa rằng một người bị "thất tiết" thì phải cắt bỏ phần thân thể đã bị người khác nhòm thấy. Nay tôi hỏi nàng một câu rất quan trọng, xin nàng trả lời thành thật cho.
    - Xin chàng cứ hỏi.
    Từ Đồng Tử xuống giọng vừa đủ cho Phàm Dung Công Chúa nghe:
    - Hồi nãy, nàng nhìn thấy phần nào trên người của tôi vậy?
    Phàm Dung Công Chúa cũng nói nhỏ như tiếng muỗi bay:
    - Tôi chỉ nhìn thấy mấy sợi tóc trên đầu chàng thôi.
  7. kuestenkicker

    kuestenkicker Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2004
    Bài viết:
    872
    Đã được thích:
    0

    Đôi dòng tiểu sử
    * "Bà Chúa thơ Nôm" là con của Hồ Sĩ Danh (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, và một người thiếp quê ở Hải Dương.
    * Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839).
    * Bà là em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786), đậu Hoàng Giáp, làm quan đến Hành Tham Tụng, tước Quận Công, cùng Bùi Huy Bích đứng đầu phủ chúa Trịnh Sâm, Trịnh Khải.
    * Tác phẩm nổi bật nhất của bà là số thơ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập (dù có đôi bài đáng nghi vấn). Ngoài ra bà còn để lại tập thơ chữ Hán tựa đề Lưu Hương Ký.
    * Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ.
    * Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ... trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc. Xuân Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là "tót vời của nguồn thơ nôm na bình dân".
    Vài bài thơ chọn lọc được dịch ra tiếng Đức
    Bánh Trôi Nước
    Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
    Bảy nổi ba chìm với nước non.
    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
    Der Schwimmende Kuchen
    Mein Leib ist weiss, mein Schicksal rund
    Unter Wasser bin ich getaucht
    doch steige ich aus der Tiefe wieder empor,
    ob hart oder weich,
    liegt an den Händen, die mich formen.
    Mein treues rotes Herz jedoch,
    bewahre ich immer.
    Trách Chiêu Hổ I
    Anh đồ tỉnh, anh đồ say
    Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
    Này này chị bảo cho mà biết,
    Chốn ấy hang hầm chớ mó tay !
    Scherz mit dem dichter Chieu Ho
    Bist du wach
    oder betrunken, lieber Meister
    warum scherzest du
    mit dem Schwester Mond bei Tag
    du, gibt ach!
    ich warne Dich:
    In diese Tigerhöhle
    darfst Du deine Hand nicht stecken.
  8. soleboyxxx

    soleboyxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    645
    Đã được thích:
    0
    Thủa xưa đi học tôi rất thích Chinhphụ Ngâm nhưng chỉ được học trích đoạn. Nay tình cờ tìm thấy, gửi lên tặng bạn nào cũng thích như tôi...
    ---------------------------------------------------------------------
    Chinh phụ Ngâm
    Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
    Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên(1)
    Xanh kia thăm thẳm từng trên
    Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
    Trống Tràng Thành (2) lung lay bóng nguyệt,
    Khói Cam Tuyền (3) mờ mịt thức mây.
    Chín lần gươm báu trao tay,
    Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
    Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
    Áo nhung (4) trao quan vũ từ đây.
    Sứ trời sớm giục đường mây,
    Phép công là trọng niềm tây (5) sá nào.
    Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,
    Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa (6)
    Bóng cờ tiếng trống xa xa,
    Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng.
    Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
    Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
    Thành liền (7) mong tiến bệ rồng,
    Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời (8)
    Chí làm trai dặm nghìn da ngựa (9)
    Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.(10)
    Giã nhà đeo bức chiến bào,
    Thét roi cầu Vị (11) ào ào gió thu.
    Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
    Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
    Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
    Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền.
    Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
    Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
    Nhủ rồi taylại trao liền
    Bước đi một bước lại vin áo chàng.
    Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
    Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San.(12)
    Múa gươm (13) rượu tiễn chưa tàn,
    Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
    Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử (14)
    Tới Man Khê bàn sự Phục Ba (15)
    Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
    Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
    Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
    Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
    Hà lương (16) chia rẽ đường này
    Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi.
    Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu, (17)
    Ngựa sau còn khuất nẻo Tràng Dương. (18)
    Quân đưa chàng ruổi lên đường,
    Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
    Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng.
    Hàng cờ bay trông bóng phất phơ.
    Dấu chàng theo lớp mây đưa,
    Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
    Chàng thì đi cõi xưa mưa gió,
    Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
    Đoái trông theo đã cách ngăn,
    Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.
    Chốn Hàm Dương (19) chàng còn ngoảnh lại,
    Bến Tiêu Tương (20) thiếp hãy trông sang.
    Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
    Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
    Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
    Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
    Lòng chành ý thiếp ai sầu hơn ai?
    Chàng từ đi vào nơi gió cát,
    Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
    Xưa nay chiến địa dường bao,
    Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
    Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
    Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
    Ôm yên gối trống đã chồn.
    Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
    Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại, (21)
    Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. (22)
    Hình khe thế núi gần xa,
    Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
    Sương đầu núi buổi chiều như gội,
    Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
    Não người áo giáp bấy lâu,
    Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
    Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
    Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
    Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
    Chẳng nơi hãn hải (23) thì miền Tiêu Quan. (24)
    Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
    Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
    Lên cao trông thức mây *****g ,(25)
    Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
    Chàng từ sang đông nam khơi nẻo,
    Biết nay chàng tiến thảo (26) nơi đâu.
    Những người chinh chiến bấy lâu,
    Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
    Nức hơi mạnh ân dày từ trước,
    Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.
    Non Kì (27) quạnh quẽ trăng treo,
    Bến Phì (28) gió thổi đìu hiu mấy gò.
    Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
    Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
    Chinh phu tử sĩ mấy người,
    Nào ai mạc mặt (29) nào ai gọi hồn?
    Dấu binh lửa nước non như cũ,
    Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
    Phận trai già ruổi chiến trường,
    Chàng Siêu (30) tóc đã điểm sương mới về.
    Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
    Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
    Xông pha gió bãi trăng ngàn,
    Tên reo (31) đầu ngựa giáo dan (32) mặt thành.
    Áng công danh trăm đường rộn rã,
    Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
    Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai.
    Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây.
    Trong cửa này đã đành phận thiếp,
    Ngoài mây kia há kiếp chàng vay (33)?
    Những mong cá nước vui vầy,
    Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
    Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
    Chàng há từng học lũ vương tôn (34).
    Cớ sao cách trở nước non,
    Khiến người thôi sớm thì hôm những sầu?
    Trang phong lưu đang chừng niên thiếu,
    Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
    Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
    Quan san để cách hàn huyên(35) cho đành!
    Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
    Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
    Nay quyên đã giục oanh già,
    Ỷ nhi (36) lại gáy trước nhà líu lo.
    Thuở đăng đồ (37) mai chưa dạn gió,
    Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
    Nay đào đã quyến gió đông,
    Phù dung lại đã bên sông bơ xờ. (Có bản chép : Tuyết mai trắng bãi phù dung đỏ bờ.)
    Hẹn cùng ta Lũng Tây (38) nham ấy,
    Sớm đã trông nào thấy hơi tăm.
    Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
    Chiều hôm nghe dậy tiếng cầm (39) lao xao
    Hẹn nơi nao Hán Dương (40) cầu nọ
    Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
    Ngập ngừng gió thổi áo bào,
    Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. (41)
    Tin thường lại người không thấy lại,
    Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
    Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
    Sân đi một bước trăn tình ngẩn ngơ.
    Thư thường lại người chưa thấy lại,
    Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
    Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
    Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
    Thử tính lại diễn khơi (42) ngày ấy,
    Tiền sen (43) này đã nảy là ba.
    Xót người lần lữa ải xa,
    Xót người nương chốn hoàng hoa (44) dặm dài.
    Tình gia thất nào ai chẳng có.
    Kia lão thân (45) khuê phụ (46) nhớ thương.
    Mẹ già phơ phất mái sương.
    Con thơ măng sữa vả đương phù trì (47)
    Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
    Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
    Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
    Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
    Nay một thân nuôi già dạy trẻ.
    Nỗi quan hoài mang mể biết bao.
    Nhớ chàng trải mấy sương sao,
    Xuân từng đổi mới đông nào còn dư.
    Kể năm đã ba tư cách diễn,
    Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
    Ước gì gần gũi tấc gang.
    Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
    Thoa cung Hán(48) thuở ngày xuất giá,
    Gương lầu Tần (49) dấu cũ soi chung.
    Cậy ai mà gửi tới cùng,
    Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư?
    Nhẫnđeo tay (50) mọi khi ngắm nghía
    Ngọc cài đầu (50) thuở bé vui chơi.
    Cậy ai mà gửi tới nơi,
    Để chàng trân trọng dấu người tương thân?
    Trải mấy xuân tin đi tin lại,
    Tới xuân này tin hãy vắng không.
    Thấy nhạn luống tưởng thư phong, (51)
    Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.
    Gió tây nổi khôn đường hồng tiên, (52)
    Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
    Màn mưa trướng tuyết xông pha,
    Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. (53)
    Đề chữ gấm (54) phong thôi lại mở,
    Gieo bói tiền (55) tin dở còn ngờ,
    Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
    Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
    Há như ai hồn say bóng lẫn,
    Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
    Trâm cài xiêm thắt (56) thẹn thùng,
    Lệch làn tóc rối lỏng vòng lưng eo.
    Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
    Ngồi rèm thưa rủ thác (57) đòi phen.
    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
    Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
    Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
    Buồn rầu nói chẳng nên lời,
    Hoa đèn (58) kia với bóng người khá thương.
    Gà eo óc gáy sương năm trống,
    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
    Khắc giờ đằng đẵng như niên,
    Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
    Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
    Gương gượng soi lệ lại chứa chan.
    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
    Dây uyên (59) kinh đứt phim loan (59) ngại chùng.
    Lòng này gửi gió đông có tiện,
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
    Non yên dầu chẳng tới miền,
    Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.
    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
    Cảnh buồn người thiết tha lòng.
    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
    Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
    Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô.
    Giọt sương phủ bụi chim gù,
    Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.
    Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
    Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
    Lá màn lay ngọn gió xuyên,
    Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
    Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm,
    Nguyệt *****g hoa hoa thắm từng bông.
    Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng,
    Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
    Đâu xiết kể muôn sầu nghìn não,
    Từ nữ công phụ xảo đều nguôi.
    Biếng cầm kim biếng đưa thoi,
    Oanh đôi thẹn dệt **** đôi ngại thùa.
    Mặt biếng tô miệng càng biếng nói,
    Sớm lại chiều dòi dõi nương song.
    Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
    Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
    Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,
    Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Lăng.
    Khác gì ả Chức (60) chị Hằng, (61)
    Bến Ngân (62) sùi sụt cung trăng chốc mòng.
    Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối,
    Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm
    Mượn hoa mượn rượu giải buồn
    Sầu làm rượu nhạt muộn dồn hoa ôi.
    Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng,
    Ôm đàn tranh mẩy phím rời tay.
    Xót người hành dịch (63) bấy nay,
    Dặm xa thêm mỏi tráp đầy lại vơi.
    Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
    Trống tiều (64) khua như rứt buồng gan.
    Võ vàng đổi khác dung nhan,
    Khuê li (65) mới biết tân toan (66) dường này.
    Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
    Chua cay này há có vì ai?
    Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
    Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề!
    Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
    Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn?
    Bui còn hồn mộng được gần,
    Đêm đêm thường tới Giang Tân tìm người.
    Tìm chàng thuở Dương Đài (67) lối cũ,
    Gặp chàng nơi Tương Phố (68) bến xưa.
    Sum vầy mấy lúc tình cờ,
    Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
    Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
    Được gần chàng bến Lũng thành Quan.
    Khi mơ những tiếc khi tàn,
    Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không.
    Bui có một tấm lòng chẳng dứt,
    Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
    Lòng theo nhưng chửa thấy người.
    Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
    Trông bến nam bãi chia mặt nước,
    Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh.
    Nhà thôn mấy xóm chông chênh, (69)
    Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
    Trông đường bắc đôi chòm quán khách,
    Rườm rà cây xanh ngắt núi non.
    Lúa thành thoi thóp bên cồn,
    Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
    Non đông thấy lá hầu chất đống,
    Trĩ sập sè mai cũng bẻ bai.
    Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
    Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
    Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
    Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu.
    Ngàn thông chen chúc khóm lau,
    Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
    Trông bốn bề chân trời mặt đất,
    Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
    Lớp mây ngại mắt khôn nhìn,
    Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan? (70)
    Giây rút đất (71) dễ khôn học chước,
    Khăn gieo cầu (72) nào được thấy tiên.
    Lòng này hoá đá cũng nên,
    E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
    Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
    Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong (73)
    Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,
    Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
    Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
    Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa?
    Hướng dương lòng thiếp như hoa,
    Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
    Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.
    Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
    Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
    Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần!
    Chồi lan nọ trước sân đã hái,
    Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
    Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
    Ngửa trông xem vẻ thiên chương (74) thẫn thờ.
    Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
    Độ Khuê triền (75) buổi có buổi không.
    Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
    Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
    Một năm một nhạt mùi son phấn.
    Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
    Xưa sao hình ảnh chẳng rời.
    Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương? (76)
    Chàng ruổi ngựa dằm trường mây phủ,
    Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
    Gió xuân ngày một vắng tin,
    Khá thương nhỡ hết mấy phen lương thì (77)
    Sẩy nhớ khi cành Diêu đoá Ngụy,(78)
    Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
    Nọ thì ả Chức nàng Ngâu,
    Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông
    Thương một kẻ phòng không luốn giữ,
    Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
    Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
    Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh:
    Xuân thu để giận quanh ở dạ,
    Hợp li đành buồn quá khi vui.
    Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
    Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
    Kia Văn Quân (79) mĩ miều thuở trước;
    E đến khi đầu bạc mà thương.
    Mặt hoa nọ gã Phan lang (80)
    Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng.
    Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
    Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
    Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa,
    Gái tơ mấy chốc sẩy ra nạ dòng.
    Gác xuân nọ mơ mòng vẻ mặt,
    Lầu hoa kia phảng phất mùi hương.
    Trách trời sao để nhỡ nhàng,
    Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
    Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
    Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
    Chẳng xem chim yến trên rường,
    Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
    Kia loài sâu đôi đầu cùng sánh,
    Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
    Liễu sen là thức cỏ cây,
    Đôi hoa cũng sánh đôi dây cũng liền.
    Ấy loài vật tình duyên còn thế,
    Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
    Thiếp xin về kiếp sau này,
    Như chim liền cánh như cây liền cành.
    Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
    Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
    Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
    Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
    Xin làm theobóng cùng chàng vậy,
    Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
    Chàng nương vừng nguyệt phỉ nguyền,
    Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
    Lòng hứa quốc (81) tựa son ngăn ngắt,
    Sức tí dân (82) dường sắt tri tri
    Máu Thiều Vu (83) quắc (84) Nhục Chi (85),
    Ấy thì buổi uống ấy thì bữa ăn.
    Mũi đòng vác (86) đòi lần hăm hở,
    Đã lòng trời gìn giữ người trung.
    Hộ chàng trăm trận nên công,
    Buông tên ải bắc treo cung non đoài.
    Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
    Tiếng khải ca trở lại thần kinh.
    Non Yên (87) tạc đá đề danh,
    Triều thiên (88) vào trước cung đình (89) dâng công.
    Nước duềnh Hán vác đòng rửa sạch,
    Khúc nhạc từ réo rắt ngợi khen.
    Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
    Tên ghi gác Khói (90) tượng truyền đài Lân (91)
    Nền huân tướng đai cân rạng vẻ (92),
    Chữ đồng hưu (93) bia để nghìn đông.
    Ơn trên tử ấm thê phong,
    Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
    Thiếp chẳng dại như người Tô phụ, (94)
    Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương (95).
    Khi về đeo quả ẩn vàng,
    Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao.
    Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
    Xin vì chàng rũ lớp phong sương.
    Vì chàng tay chuốc chén vàng,
    Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
    Giở khăn lệ chàng trông từng tấm,
    Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu.
    Câu vui đổi với câu sầu,
    Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
    Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
    Sẽ ca dần ren rén từng thiên.
    Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
    Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
    Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
    Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
    Ngâm nga mong gửi chữ tình,
    Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.
    Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm

  9. soleboyxxx

    soleboyxxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    645
    Đã được thích:
    0
    GIẢI NGHĨA
    -----------------------
    1. Truân chuyên: gian nan khốn khó
    2. Trường thành: Vạn Lí trường thành, do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng.
    3. Cam tuyền: Tên đất
    4.Ảo nhung: áo của quân nhân.
    5. Niềm tây: Niềm riêng.
    6. Thê noa: vợ con.
    7. Thành liền: bởi chữ "liên thành" (những thành liền nhau). Điển tích: Nước Triệu có hai hòn ngọc bích. Vua nước Tần viết thư xin đem năm thành trì đổi ngọc ấy. Về sau, vật gì quí báu gọi là có giá "liên thành".
    8. Thiên kiêu: giặc trời Hán thư có câu "Hồ giả thiên chi kiêu tử" (giặc Hồ là đám con khó dạy của trời).
    9. Da ngựa: bởi chữ "mã cách" (Mã: ngựa; cách: da). Điển tích: Đời Đông Hán; Mã Viện, tướng giỏi, từng nói: "Làm trai nên chết chốn sa trường biên ải, lấy da ngựa bọc thây chôn mới gọi là trai".
    10. Thái Sơn, hồng mao: Tư Mã Thiên nói: "Người ta vẫn có cái chết, song có cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, có cái chết không đáng nhẹ như lông chim hồng". ý nói có sự đáng chết và không đáng chết.
    11. Cầu vị (Vị kiều): Lí Bạch có câu thơ "Tuấn mã nhược phong phiêu, minh tiên xuất Vị kiều".
    (Ngựa giỏi đi nhanh như gió cuốn, thét roi ra lối cầu sông vị).
    12. Có câu hát "Tướng quân tam tiễn định Thiên Sơn, tráng sĩ trường ca nhập Hán quan" (ba mũi tên của tướng quan lấy được núi Thiên Sơn, tráng sĩ hát dài mà kéo quân vào cửa ải Hán).
    13. Gươm (Long Tuyền): Tên một thanh kiếm báu.
    14. Giới Tử, Lâu Lan: Phó Giới Tử, tướng nhà Đường, dùng mưu giết chết vua đất Đại Uyển là Lâu Lan.
    15. Man Khê, Phục Ba: Mã Viện, đời Đông Hán, lĩnh chức Phục Ba tướng quân, từng đánh dẹp bọn rợ ở Man Khê.
    16. Hà Lương: (hà: sông, lương: cầu). Ngày xưa tiễn đưa nhau thường đến chốn "cầu sông".
    17. Tế Liễu: Vua Hán Văn Đế đến doanh Tế Liễu là nơi đồn quân của tướng Chu á Phu để khao thưởng quân sĩ.
    18. Tràng Dương: Tên đất (cũng là tên cung của nhà Tần).
    19. Hàm Dương: Tên đất, tây kinh của nhà Tần.
    20. Tiêu Tương: tên sông.
    21. Thành Bạch Đăng. Vua Hán Cao Tổ từng bị vây ở đấy.
    22. Thanh Hải: Tên đất. Đời Đường, rợ Thổ Cốc Hồn hùng cứ ở đấy.
    23. Hãn hải: Bãi sa mạc.
    24. Tiêu Quan: tên cửa ải ở nơi hiểm trở. Các đời Đường, Tống xây luỹ đắp đồn chống rợ Thổ Phồn.
    25. Lên cao trông thức mây *****g: Điển tích: Đời Đường, Địch Nhân Kiệt đi đánh giặc xa nhà, lên núi cao trông đám mây trắng ở xa xa, nói với quân sĩ rằng: "Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy", ý nói nhớ nhà.
    26. Tiến thảo: (Tiến: đi tới; thảo: đánh dẹp giặc cướp).
    27. Non Kì (Kì Sơn): Núi Kì Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đấy.
    28. Bến Phì (Phì Thuỷ): tên sông. Bồ Kiên nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây đắp thành gò.
    29. Mạc mặt: vẽ ra nét mặt. (Dịch chữ "đan thanh" (đan: sắc đỏ; thanh: sắc xanh).
    30. Ban Siêu: danh tướng đời Hán, theo việc binh nhưng ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi.
    31. Tên reo đầu ngựa (minh đích) : (minh: kêu; đích: mũi tên bịt sắt) : tên nỏ bịt sắt, bắn đi vang ra tiếng.
    32. Giáo dan (duyên can) : (duyên: leo; can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt thành (duyên - doan).
    33. Vay: tiếng đệm của câu than thở.
    34. Vương tôn: con nhà giàu sang, ưa đi chơi không đoái đến gia đình.
    35. Quan san, hàn huyên: (quan : ải ; san : núi : hàn : lạnh ; huyên : ấm), ý nói cách trở, không biết tin tức của nhau.
    36. Ý nhi: chim én (yến) thường làm tổ trong mái nhà.
    37. Đăng đồ: lên đường ra đi nơi xa.
    38. Lũng Tây (Lũng Tây sầm): núi nhỏ mà cao (sầm) ở đất Lũng Tây.
    39. Tiếng cầm: tiếng chim chóc.
    40. Hán Dương: tên đất.
    41. (Mộ trào) : (mộ : chiều : trào, triều : con nước) : con nước lên buổi chiều hôm.
    42. Diễn khơi ngày ấy: từ ngày cách xa nhau.
    43. Tiền sen: dịch chữ "hà tiền" (hà : sen : tiền : đồng tiền), lá sen non nổi ở mặt nước như đồng tiền.
    44. Hoàng hoa thú: lính thú đời xưa, cứ tháng 9 thì cắt đi, đến tháng 9 năm sau mới đổi về. Tháng 9 là mùa hoa cúc nở, sắc vàng, cho nên gọi là "Hoàng hoa thú".
    45. Lão thân: cha mẹ già.
    46. Khuê phụ: người vợ ở chốn khuê phòng.
    47. Phù trì: trông nom, ẵm bồng.
    48. (Hán cung thoa): nhắc tích Hán Vũ đế ban cho bà Triệu Tiếp Dư một cái thoa ngọc.
    49. (Tần lâu kính): Tần Thuỷ Hoàng có cái gương lớn gọi là "chiếu đảm kính", soi thấy mật trong thân thể, biết được người nào có tà tâm.
    50. (Câu chỉ ngân, tao đầu ngọc) : nhẫn đeo tay bằng bạc; trâm cài đầu bằng ngọc.
    51. Lấy thích Tô Vũ xé áo lụa viết thư, cột vào chân chim nhạn thả bay về Hán.
    52. Hồng tiện: nhờ nhạn đem thư buộc ở chân (hồng: chim nhạn trống; nhạn: chim mái).
    53. Màn mưa trướng tuyết (hổ trướng, lang vi): trướng hổ, màn lang, chỉ những nơi đóng quân ở cõi ngoài.
    54. (Cẩm tự đề thi): Đời Tấn, Đậu Thao đi lính, vợ là Tô Huệ làm bài thi "hồi văn" dệt vào gấm dâng lên vua mà xin cho chồng về.
    55. (Kim tiền vấn bốc): gieo ba đồng tiền bàng khi bói quẻ.
    56. Xiêm thắt: áo quần thắt nhỏ (thân thể gầy vì nhớ chồng).
    57. Rủ thác: bỏ rèm xuống, cuốn lên.
    58. Hoa đèn: dịch chữ "đăng hoa" (đĩa đèn dầu xưa).
    59. Dây uyên, phím loan: hai sợi dây đàn như đôi chim uyên ương, hai phím đàn như đôi chim loan phụng. Chinh phụ không muốn lên dây đàn, sợ đứt dây hoá ra điềm xấu.
    60. Chức nữ.
    61. Hằng Nga
    62. Bến sông Ngân Hà, nơi Ngưu Lang - Chức Nữ gặp gỡ.
    63. Hành dịch: đi làm nghĩa vụ (đi lính).
    64. Trống canh ở trại quân.
    65. Khuê li: xa cách nhau lâu ngày.
    66. Tân toan: (tân: cay; toan: chua): nỗi chua cay.
    76. Dương Đài: tên núi, vua Tương Vương nước Sở mộng gặp thần nữ Vu Sơn ở đấy.
    68. Bến sông Tiêu Tương.
    69. (Tỉnh ấp) : (tỉnh: giếng; ấp: xóm) : những nơi xóm làng.
    70. Ngọc quan: Ngọc Môn quan, tên một cửa ải, nơi giáp giới xứ Tây Vực.
    71. Gậy rút đất: Phí Trường Phòng học được thuật rút đất, hễ dùng cái gậy trỏ xuống đất thì nghìn dặm đường cũng thu lại ở trước mắt.
    72. Khăn gieo cầu: Thôi sinh vào núi lấy được tiên nữ làm vợ, học được phép tàng hình, lẻn vào trong cung để tinh nghịch, bị đạo sĩ đuổi bắt. Chàng chạy về núi, còn cách con sông, tiên nữ hoá phép ném cái khăn biến thành nhịp cầu ngũ sắc để cho chàng chạy qua.
    73. Hai câu này dịch hai câu thơ của bài "Khuê oán" của Vương Xương Linh, thi sĩ đời Đường:
    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
    Hối giao phu tế mịch phong hầu
    74. Thiên chương: các vẻ trên trời, như: tinh tú, nhật, nguyệt...
    75. Khuê triền: độ đi của sao Khuê.
    76. Sâm, Thương: sao Sâm (sao Hôm) phương Tây, sao Thương (sao mai) ở phương Đông, một ngôi hiện ra thì một ngôi lặn đi không cùng trông thấy mau. Ý nói sự li biệt.
    77. Lương thì: thời tươi đẹp.
    78. Diêu hoàng, Nguỵ tử: nhà Diêu Sùng có hoa mẫu đơn vàng (hoàng); nhà Nguỵ Nhân Phổ có hoa mẫu đơn tía (tử).
    79. Văn Quân: giai nhân đời Hán, Trác Văn Quân, goá chồng, nghe Tư Mã Tương Như đàn khúc "Phụng cầu hoàng" ưng theo làm vợ. Sau Tương Như muốn lấy vợ lẽ, Văn Quân bèn làm bài "Bạch đầu ngâm". Tương Như cảm kích, thôi không lấy lẽ, cùng Văn Quân ở đời đến già.
    80. Phan lang: người con trai tuấn tú đời Tấn Phan An Nhân, mỗi khi ra đường, con gái hay ghẹo, ném quả đầy xe.
    Điển tích này và điển tích trên ý nói: một ngày kia vợ chồng cùng già.
    81. Hứa quốc: một lòng đem thân giúp nước.
    82.Tý dân: Hết sức che chở nhân dân.
    83. Thiền Vu: chúa của rợ Hung Nô.
    84. Quắc: lỗ tai trái. Dâng đầu giặc ghi công chỉ cần xẻo lỗ tai trái đem về nộp.
    85. Nhục chi: tên nước xưa ở miền Tây Vực.
    86. Đòng vác: gươm giáo.
    87. Non Yên: Núi Yên Nhiên ở đất ngoại Mông Cổ. Đời Hậu Hán, Đậu Hiến đánh đuổi rợ Hung Nô đến đấy, lên núi khắc công huân vào đá, rồi về.
    88. Triều thiên: thiên triều, triều (đình) vua.
    89. (Vị Ương cung): cung điện nhà Hán, chu vi rộng lớn, xây dựng luôn, hết cung này đến điện nọ không bao giờ rồi, cho nên đặt tên"Vị Ương"(chưa hết); cũng như: dạ vị ương (đêm chưa sáng).
    90. Gác Khói: Lăng Yên các (lăng yên: cao vượt trên tầng mây khói), vua Đường Thái Tông cho dựng để vẽ hình 24 công thần.
    91. Đài Lân: Kì Lân đài, Vua Hán Tuyên đế cho vẽ tượng 10 công thần ở đấy.
    92. Mao tư khoán: (mao: cỏ tranh; tư: cỏ gai; khoán: vZn tự để làm tin): Đời xưa phong hầu, vua ban cho đất ngũ sắc có bọc mao tư, hoặc cho tấm thiết khoán (tấm sắt ghi công trạng).
    dịch giả dùng "nền huân tướng" dịch từ ngữ này (huân công, huân nghiệp: công nghiệp to lớn).
    93. Đồng hưu: bởi câu "dữ quốc đồng hưu thích" (cùng lo cùng vui với nước nhà).
    94. Tô phụ: vợ Tô Tần. Khi còn hàn vi, Tô Tần về nhà, người vợ cứ ngồi trên khung cửi, không thèm đứng dậy.
    95. Lạc Dương: chỉ Tô Tần, người Lạc Dương.
  10. _Shin_

    _Shin_ Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2004
    Bài viết:
    773
    Đã được thích:
    0
    Em Shin thích khổ thơ này nhất.............Nếu chú ý, ta sẽ thấy các câu văn cứ thế xếp gối lên nhau..........Từ cuối của câu này trở thành từ đầu của câu kế tiếp.............tạo nên một mạch thơ xuyên chuỗi , ví thể như nỗi nhớ của người chinh phụ hướng tới người chinh phu.............sự chờ đợi của người vợ cứ da diết, sầu muộn ...............
    Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
    Nỗi buồn trong lòng người, thấm cả ra cảnh vật............" Ngàn dâu xanh ngắt một màu " ................Chỉ là một màu thôi, màu nhớ nhung, màu hy vọng.................Vì có mấy khi người ra đi chinh chiến mà khải hoàn trở về đây.............???
    Một điều nữa cần phải nói tới đó là từ xanh ngắt chứ không phải là xanh ngát ............. Từ ngắt được dùng rất đắc địa vì như thế mới lột tả được nỗi sầu muộn của người thiếp................Nó làm cho câu thơ thêm đau hơn, cảnh cũng buồn hơn, hiu hắt trong lòng người vợ vậy.............
    Có câu thơ cũng nói về tấm lòng người chinh phụ nhưng không được phù hợp với câu thơ này lắm song em Shin cũng xin trích :
    Em không nghe mùa thu
    Dưới trăng mờ thổn thức
    Em không nghe rạo rực
    Hình ảnh người chinh phu
    Trong lòng người chinh phụ

    ( Tiếng Thu - Lưu Trọng Lư )
    ( ôi, tại anh sole, lại làm em văn chương chữ nghĩa ở đây rồi........................lâu lâu không học văn cũng thấy nhơ nhớ, 12 năm chuyên văn của mình, giờ còn lại từng này đây............ )

Chia sẻ trang này