1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Redcrystalheart, 11/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Bác CoDep không hiểu ý tôi rồi!
    Người Việt Nam thời xưa và nay, ít nhiều có quan hệ về huyết thống, gần gũi về văn hoá, phong tục, lối sống ... với những nhóm nhóm Việt khác thời cổ ở Trung Hoa, trong đó có người Việt ở vùng Cối Kê. Chứ tôi không đánh đồng "người Việt chúng ta ngày nay là con cháu của cả người Việt vốn ở trên đất Việt và người Hoa vốn ở Cối Kê" đâu!
    Tôi không biết chữ Hán cổ, những tài liệu này tôi trích dẫn và lấy từ Viện Việt học, mục Việt Học Thư Quán, sách Việt Sử Toàn Thư do sử gia Phạm Văn Sơn soạn thảo vào năm 1960, hội chuyên gia Việt Nam chuyển sang ấn bản điện tử vào năm 1996.
    Tôi xin post địa chỉ này lên để bác và mọi người nghiền ngẫm:
    http://www.viethoc.org/index.php?module=pagemaster&PAGE_user_op=view_page&PAGE_id=47&MMN_position=28:28
    http://www.viethoc.org/eholdings/sach/vstt.pdf
  2. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Đối với thuyết người Việt cổ chỉ gói trong phạm vi Bắc bộ hiện nay thì:
    1. dek giải thích được trống đồng đào được khá nhiều ở TQ, Đặc biệt ở Quảng tây
    2. nếu cho rằng trống đồng đào ở TQ của dân tộc khác thì giả thuyết văn minh Đông sơn của người Việt cổ vứt sọt rác.
    3. như vậy An dương vương (nếu có thật) cũng chả khác dek gì Triệu Đà vì cũng là kẻ xâm lược.
    4. đừng có nhận vơ cuộc kháng chiến chống Đồ Thư là của người Việt vì đó là cuộc chiến diễn ra trên đất Lĩnh nam (phần lớn Lưỡng Quảng ngày nay) chứ dek phải diễn ra ở Bắc bộ VN ngày nay.
    5. Hai Bà Trưng đừng hòng chiếm được 65 thành toàn cõi Lĩnh nam vì đối với dân bản địa Hai Bà cũng là quân xâm lược chẳng khác dek gì quân Hán
    Các chú thấy cái thuyết này nó lủng củng và sử VN hiện đại mâu thuẫn nhau bỏ mẹ chưa? Đại diện hăng hái nhất của thuyết này hình như là ông CoDep
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đúng vậy .
    Tôi hăng hái trong niềm tin người Việt cổ vốn ở miền bắc Việtnam,
    đối lại niềm tin người Việt cổ vốn ở nam Trung hoa.
    Tuy vậy, tôi tán thành những điểm bạn vừa nêu trên .
    1- Văn hoá Đông sơn bao gồm nhiều dân tộc, vì lúc ấy chưa
    có dân tộc Kinh Việtnam . Các dân tộc miền này hình thành
    sau thời gian Đông Sơn . Trống đồng được làm ra bởi người
    Kinh miền bắc ViệtNam và người Choang tỉnh Vân Nam và
    tỉnh Quảng Tây Trung Hoa, không phải người Hán.
    2- Vua Hùng, An Dương Vương là truyện bịa .
    3- Hai Bà Trưng đâu có lên Lĩnh nam ở Quảng Đông?
    Sự việc và kết luận của bạn có những chỗ không thật.
  4. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    Bác Codep đoạn này là thế nào ha bác???
  5. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0

    Bác CoDep không tin vào các vua Hùng, những người anh hùng này được lập đền thờ ở trên dãy Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ, được xem như là thuỷ tổ của người Việt, gắn liền với câu chuyện truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, với cuơng vực nước Văn Lang rộng lớn trải dài từ bờ Nam sông Dương Tử trải xuống dãy Hoành Sơn, tức là đất Bách Việt xưa. Người Việt Nam mình vẫn truyền tụng câu ca dao để nhắc nhở nhau mình là người Việt con cháu của các vua Hùng, hay như gọi những người đồng tộc là "đồng bào" để không quên gốc:
    "Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba".
    Bác không tin vào truyền thuyết, bác dựa vào những thư tịch sách vở được ghi chép rõ ràng từ những sách cổ thư của cả Việt Nam, Trung Hoa và những gì khai quật được rõ ràng mà suy xét nhận định một cách đầy lý trí về một thời kỳ cổ xưa để tin rằng người Việt vốn là ở Bắc bộ Việt Nam như sách giáo khoa chính sử hiện nay.
    Nhưng than ôi! Quá duy lí sẽ mất tình. Chúng ta phải hiểu rằng: Mặc dù truyền thuyết không chứa đựng tất cả sự thật của lịch sử nhưng truyền thuyết chứa đựng những mấu chốt của lịch sử, nó là ánh hào quang rọi về những thời điểm xa xưa của quá khứ. Thậm chí người xưa cũng hiểu điều này, thế cho nên cách đây quãng 400 năm mặc dầu ẩn chứa nhiều sự hồ nghi nhưng sử thần Ngô Sĩ Liên đã trân trọng viết về họ Hồng Bàng các vua Hùng coi như đó là một phần quan trọng nguồn gốc của lịch sử dân tộc. Có câu rằng:
    "Trăm năm bia đá cũng mòn
    Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ"
    Vậy mà cho đến thời kỳ hiện đại này vẫn còn có những người theo đường lối duy lý, bài bác truyền thuyết, chỉ coi như một câu chuyện cổ tích không hơn, chỉ là "cốc Cà Phê" để thưởng thức. Nếu như vậy chẳng hoá ra muốn nói rằng truyền thuyết đời đời tổ tiên truyền lại với những ngụ ý sâu xa trong ấy lại là chuyện nhảm nhí ư?
    Mặc dầu theo đường lối duy lý, chỉ tin vào sách vở ghi chép lại rõ ràng cụ thể, nhưng sách vở nào sẽ ghi chép lại đây khi dân tộc hơn 1000 năm bị mất nước và mọi văn hoá đều bị kẻ thù phương Bắc triệt tiêu tối đa, sách vở ghi chép xa xưa nhất lại do chính kẻ thù viết nên, thế mà lại tin vào chính sách vở thư tịch của kẻ thù để làm đường lối nhận định biên chép về sử nước nhà. Điều này thật khó chấp nhận. Sách vở kẻ thù chỉ có thể phản ánh phần nào, còn thì trong đó có rất nhiều cái vì đầu óc kỳ thị chủng tộc mà những nhà sử gia của họ cũng sẽ viết hạ thấp kẻ khác, lẽ nào điều này là khó hiểu?
    Về nguồn gốc người Việt(Kinh) Việt Nam hiện nay thật sự là vẫn còn nhiều điều cần phải xem xét lại, phải dựa vào sách vở cổ thư Việt Nam, Trung Hoa, dựa vào khảo cổ học, di truyền học, ngôn ngữ, văn hoá, ... một điều quan trọng không thể bỏ qua là những câu chuyện truyền thuyết truyền miệng trong dân gian như Con Rồng Cháu Tiên, các vua Hùng, họ Hồng Bàng, nước Văn Lang.
    Lâu nay, nhiều học giả nước ngoài đã có cái nhìn khác đối với vùng Đông Nam Á, trước họ cho rằng Đông Nam Á là vùng trũng của văn minh thế giới, nền văn minh Đông Nam Á từng có được chẳng qua là do nhập từ các nền văn minh Trung Hoa hoặc ấn Độ, nhưng đến giờ họ bắt đầu đã có những cái nhìn ngược lại.
    Chúng ta biết hệ thống giáo dục nước nhà hiện nay thuộc hàng kỳ quái nhất thế giới, đã bao nhiêu năm nay chúng ta cứ cải cách lên cải cách xuống nhưng kết quả thật tệ, bao nhiêu trí thức tâm huyết đau lòng rằng những cái nên sửa thì lại không sửa, những cái không nên thì lại sửa, thế cho nên học thuyết mới về nguồn gốc Việt cũng như nhà nước Văn Lang cổ của các vua Hùng có lẽ còn rất lâu mới được cập nhật để giảng dạy các thế hệ mầm Việt. Tuy nhiên chắc chắn rằng dù muộn đến mấy thì việc ấy cũng sẽ đến...
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    1-Trống đồng là sản phẩm đặc trưng của người Việt, được tìm thấy ở Việt Nam và khắp miền Nam Trung Hoa. Ở miền Nam Trung Hoa không chỉ có ở tỉnh Quảng Tây, Vân Nam mà thôi đâu. Trống đồng đẹp và tinh xảo nhất là trống đồng Đông Sơn của Lạc Việt và ở Hưng Văn, Tứ Xuyên(nước Ba Thục xưa). Đồ đồng và trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá nước Sở, ...
    2-Thời đại Hùng vương, Thục vương có thật. Theo các Ngọc Phả các xã quanh vùng có đền thờ các vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn Bảo Tàng, Bộ Văn Hoá (số hiệu HT.AE9) thì các tài liệu này không ghi chép 18 đời vua Hùng mà lại ghi lại là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm can chi lúc sinh và lúc lên ngôi. Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy.
    Mười tám chi ấy như sau:
    1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, huý Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trCN) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 trCN) đến Đinh Hợi (2749 trCN) so ngang với Trung Quốc thời Tam Hoàng.(?)
    2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, huý Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 trCN) lên ngôi năm 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 trCN) đến năm Bính Thìn (2525 trCN) ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
    3.Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, huý Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương, từ năm Đinh Tỵ (2524 trCN) đến năm Bính Tuất (2253 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Thuấn, Hữu Ngu
    4.Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, huý Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254 trCN) không rõ truyền mấy đời vua, chi này ở ngôi 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 trCN) đến Mậu Thìn (1918 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Quýnh nhà Hạ.
    5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, huý Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 trCN) lên ngôi khi 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng Hùng Hy Vương, ở ngôi 200 năm, từ Kỷ Tỵ (1912 TrCN) đến Mậu Tý (1713 trCN). Nhang Trung Quốc thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
    6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, huý Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu, lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TrCN). Ngang Trung Quốc thời ốc Đinh nhà Thương.
    7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, huý Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ(1768 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi, truyền năm đời vua đều xưng Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm từ Canh Tuất (1631 trCN) đến năm Kỷ Tỵ(1432 TrCN). Ngang Trung Quốc thời tổ ất nhà Thương.
    8. Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương, huý Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TrCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vuơng, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ(1431 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TrCN) ngang Trung Quốc thời Nam Canh nhà Thương.
    9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, huý Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1357 TrCN) lên ngôi khi 45 tuổi truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, từ năm Canh Ngọ (1251TrCN) đến năm*ỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
    10. Chi ất: Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287 TrCN), lên ngôi khi 37 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Uy Vương,ở ngôi tất cả 90 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 TrCN) đến năm Kỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc thời Tổ Giáp nhà Ân.
    11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, huý Hưng Đức Lang,sinh năm Canh Tuất (1211 TrCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm , từ năm Canh Tý (1161 TrCN) đến năm đến năm Bính Tuất (1055 TrCN) Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
    12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, huý Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 TrCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 96 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TrCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Mục Vương nhà Tây Chu.
    13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, huý Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi(982 TrCN) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 105 năm, từ năm Quý Hợi (958 trCN) đến Đinh Mùi (854 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
    14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, huý Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TrCN) lên ngôi khi 42 tuổi truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ Mậu Thân (755 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Tây Chu.
    15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TrCN) lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Triệu Vương, từ năm Đinh Hợi(754 TrCN) đên năm Canh Thân(661 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
    16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương, huý Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TrCN), lên ngôi khi 53 tuổi, truyền 3 đời vua, tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TrCN) đến Nhâm Thìn (1569 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
    17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, huý Bảo Quan Lang, sinh năm ất Dậu (576 TrCN) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 TrCN) đến năm Nhâm Thân ( 409 TrCN) Ngang Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
    Chi Quý: Hùng Duệ Vương, huý Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 TrCN), lên ngôi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ ba đời), ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TrCN) đến Quý Mão (258 TrCN). Ngang với năm thứ 17 Uy Liệt Vương đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc."
    3- Sau khi nước Nam Việt bị nhà Hán tiêu diệt, thì nhà Hán chia lại nước Nam Việt thành bộ Giao Chỉ, gồm có 9 quận gồm: 3 quận thuộc Âu Lạc cũ :Giao Chỉ(trùng tên với bộ Giao Chỉ), Cửu Chân và Nhật Nam. 2 quận thuộc đảo Hải Nam: Châu Nhai và Đạm Nhĩ. 4 quận thuộc Tây Âu và Nam Việt cũ: Quế Lâm, Thương Ngô, Nam Hải và Hợp Phố. Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một viên Thứ sử, đứng đầu mỗi quận là một viên Thái thú người Hán, dưới các huyện là các quý tộc người Việt bản địa.
    Khi hai bà Trưng khởi nghĩa, các quý tộc khắp vùng Nam Việt cũ(tức là vùng Lĩnh Nam, bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng hiện nay) đều hưởng ứng. Theo truyền thuyết, khi quân Mã Viện sang đàn áp, thì nhiều tướng lĩnh của hai bà Trưng đã đem quân lên đến Tràng Sa, gần dãy Ngũ Lĩnh để chặn đánh quân Hán như các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Đào Chiêu Hiển, ... Kết cục như thế nào mọi người đã biết, thế quân Hán quá mạnh, trong các trận đánh ở bên vùng Lưỡng Quảng rất nhiều tướng lĩnh đã hi sinh.
  7. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    1-Trống đồng là sản phẩm đặc trưng của người Việt, được tìm thấy ở Việt Nam và khắp miền Nam Trung Hoa. Ở miền Nam Trung Hoa không chỉ có ở tỉnh Quảng Tây, Vân Nam mà thôi đâu. Trống đồng đẹp và tinh xảo nhất là trống đồng Đông Sơn của Lạc Việt và ở Hưng Văn, Tứ Xuyên(nước Ba Thục xưa). Đồ đồng và trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá nước Sở, ...
    2-Thời đại Hùng vương, Thục vương có thật. Theo các Ngọc Phả các xã quanh vùng có đền thờ các vua Hùng như xã Hy Cương (Vĩnh Phú) hiện lưu trữ tại Vụ bảo tồn Bảo Tàng, Bộ Văn Hoá (số hiệu HT.AE9) thì các tài liệu này không ghi chép 18 đời vua Hùng mà lại ghi lại là 18 chi. Mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm can chi lúc sinh và lúc lên ngôi. Các đời vua trong một chi đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy.
    Mười tám chi ấy như sau:
    1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, huý Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trCN) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 trCN) đến Đinh Hợi (2749 trCN) so ngang với Trung Quốc thời Tam Hoàng.(?)
    2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, huý Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 trCN) lên ngôi năm 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 trCN) đến năm Bính Thìn (2525 trCN) ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
    3.Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, huý Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương, từ năm Đinh Tỵ (2524 trCN) đến năm Bính Tuất (2253 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Thuấn, Hữu Ngu
    4.Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, huý Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254 trCN) không rõ truyền mấy đời vua, chi này ở ngôi 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 trCN) đến Mậu Thìn (1918 trCN). Ngang Trung Quốc thời Đế Quýnh nhà Hạ.
    5. Chi Tốn: Hùng Hy Vương, huý Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 trCN) lên ngôi khi 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng Hùng Hy Vương, ở ngôi 200 năm, từ Kỷ Tỵ (1912 TrCN) đến Mậu Tý (1713 trCN). Nhang Trung Quốc thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.
    6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, huý Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu, lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TrCN). Ngang Trung Quốc thời ốc Đinh nhà Thương.
    7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, huý Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ(1768 trCN) lên ngôi khi 18 tuổi, truyền năm đời vua đều xưng Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm từ Canh Tuất (1631 trCN) đến năm Kỷ Tỵ(1432 TrCN). Ngang Trung Quốc thời tổ ất nhà Thương.
    8. Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương, huý Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TrCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vĩ Vuơng, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ(1431 TrCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TrCN) ngang Trung Quốc thời Nam Canh nhà Thương.
    9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, huý Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1357 TrCN) lên ngôi khi 45 tuổi truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, từ năm Canh Ngọ (1251TrCN) đến năm*ỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
    10. Chi ất: Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287 TrCN), lên ngôi khi 37 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Uy Vương,ở ngôi tất cả 90 năm, từ năm Canh Ngọ (1251 TrCN) đến năm Kỷ Hợi (1162 TrCN) ngang Trung Quốc thời Tổ Giáp nhà Ân.
    11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, huý Hưng Đức Lang,sinh năm Canh Tuất (1211 TrCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm , từ năm Canh Tý (1161 TrCN) đến năm đến năm Bính Tuất (1055 TrCN) Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
    12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, huý Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 TrCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền ba đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 96 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TrCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Mục Vương nhà Tây Chu.
    13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, huý Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi(982 TrCN) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 105 năm, từ năm Quý Hợi (958 trCN) đến Đinh Mùi (854 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
    14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, huý Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TrCN) lên ngôi khi 42 tuổi truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ Mậu Thân (755 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Tây Chu.
    15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TrCN) lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua, đều xưng là Hùng Triệu Vương, từ năm Đinh Hợi(754 TrCN) đên năm Canh Thân(661 TrCN) ngang Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
    16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương, huý Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TrCN), lên ngôi khi 53 tuổi, truyền 3 đời vua, tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TrCN) đến Nhâm Thìn (1569 TrCN). Ngang Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
    17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, huý Bảo Quan Lang, sinh năm ất Dậu (576 TrCN) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 TrCN) đến năm Nhâm Thân ( 409 TrCN) Ngang Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
    Chi Quý: Hùng Duệ Vương, huý Huệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 TrCN), lên ngôi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ ba đời), ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TrCN) đến Quý Mão (258 TrCN). Ngang với năm thứ 17 Uy Liệt Vương đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc."
    3- Sau khi nước Nam Việt bị nhà Hán tiêu diệt, thì nhà Hán chia lại nước Nam Việt thành bộ Giao Chỉ, gồm có 9 quận gồm: 3 quận thuộc Âu Lạc cũ :Giao Chỉ(trùng tên với bộ Giao Chỉ), Cửu Chân và Nhật Nam. 2 quận thuộc đảo Hải Nam: Châu Nhai và Đạm Nhĩ. 4 quận thuộc Tây Âu và Nam Việt cũ: Quế Lâm, Thương Ngô, Nam Hải và Hợp Phố. Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một viên Thứ sử, đứng đầu mỗi quận là một viên Thái thú người Hán, dưới các huyện là các quý tộc người Việt bản địa.
    Khi hai bà Trưng khởi nghĩa, các quý tộc khắp vùng Nam Việt cũ(tức là vùng Lĩnh Nam, bao gồm phần lớn Lưỡng Quảng hiện nay) đều hưởng ứng. Theo truyền thuyết, khi quân Mã Viện sang đàn áp, thì nhiều tướng lĩnh của hai bà Trưng đã đem quân lên đến Tràng Sa, gần dãy Ngũ Lĩnh để chặn đánh quân Hán như các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Đào Chiêu Hiển, ... Kết cục như thế nào mọi người đã biết, thế quân Hán quá mạnh, trong các trận đánh ở bên vùng Lưỡng Quảng rất nhiều tướng lĩnh đã hi sinh.
    [/QUOTE]
    Trống đồng tìm thấy được cả ở khu vực miền nam TQ,tiếp giáp với biên giới VN và nơi giáp nhau giữa tỉnh Hồ Nam và Quý CHâu TQ. Đồng ý là chắc chắn có sự giao thoa VH của các dân tộc nhưng trống đồng Đông Sơn của VN là hoàn toàn xuất phát từ trong nội địa chưa chẳng có sự bắt trước ở đây cả, Bằng chứng là các hoa văn,hoạ tiết trên mặt trống . Tuy không phủ định là có sự giao lưu văn hoá giữa Đông Sơn ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và vùng đồng cỏ phía Tây cho đến văn hoá Hallstatt Châu Âu, nhất là sự tương quan của một số hoa văn như các hoa văn ngôi sao trung tâm, xoắn ốc, thừng tết.. nhưng có rất nhiều hoa văn đặc biệt bản địa mà chỉ có ở Đông Sơn Việt Nam như nhà sàn, thuyền, người mặc áo lông chim, chim, cá, voi, hổ, hươu, cóc ... . Đặc biệt ?othần thái Đông Sơn? trên trống đồng có tính chất bản địa Lạc Việt và khác xa với thần thái của trống đồng và đồ đồng của các văn hoá khác
    Tên đúng của Ngọc phả này là Hùng đồ thập bát diệp thánh vương ngọc phả cổ truyền,tức là Ngọc phả cổ truyền về mười tám đời vua thánh triều Hùng,và tên thứ 2 là Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh Vương ngọc phả cổ truyên, của làng Trung Nghĩa,xã Nghĩa Cương chứ không phải Hy cương. Bản ngọc Phả ghi rõ niên đại là: " Ngày tốt,tháng Mười,mùa đông,năm Canh tý (1600).. Nói chung niên đại chính thức của nó thì được các nhà sử học chắc chắn một điều là ở khoảng thế kỷ 17-18.. Nó quá xa với những gì gọi là thời Hùng Vương. Hơn nữa nó lại thuộc về thể loại văn bản bản thần kỳ,hoang tưởng,vốn chỉ có ở những người ghi chép đã chịu ảnh hưởng quá nặng của Đạo giáo. Cho nên những gì nói về vua Hùng khó có thể xem là sự thật được.
    Được vnhn sửa chữa / chuyển vào 19:54 ngày 07/09/2006
  8. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bạn ChauPhi dài giòng quá .
    Ai cũng biết truyền thuyết 18 Vua Hùng rồi, khỏi phải kể từng
    người ra làm gì .
    Phần đuôi của bạn cũng kể truyền thuyết Hai Bà Trưng đưa
    quân lên LĩnhNam (phía bắc Quảng Đông) đánh trận, nhưng
    bạn quên không kể kẻ nào bịa ra truyền thuyết này.
    Có lẽ kẻ đó không kể quân Hai Bà lên Trường Thành đánh
    quân Hung Nô bảo vệ miền đất Bắc Kinh, vì lộ liễu quá.
  9. ntcbk

    ntcbk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2006
    Bài viết:
    994
    Đã được thích:
    0
    Bác CoDep nói rõ hơn có được không?
  10. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Ông Codep
    Tôi chờ ông đưa ra lập luận chứng minh lời nói của mình chứ không phải ai không theo ông thì là sai hết.
    Tranh luận về LS mà vào nhõn dăm ba dòng bảo người khác sai có vẻ như không thuyết phục lắm?????????
    1. Các nguồn sử chính thống của CHXHCNVN đều nói rằng người Việt ở Lĩnh Nam đã kháng chiến chống lại quân Tần. Các nguồn "dã sử" hay dạng nghiên cứu nghiệp dư như TTD cũng nói thế. Ông không tin có thể mở SGK LS ra xem hay vào các website của chính quyền chẳng hạn.
    2.Hai Bà Trưng đánh sang tận Quảng đông Quảng tây cũng là điều được sách sử "chính thống" công nhận với những chú thích kiểu như Hợp phố bây giờ thuộc Quảng đông vv...
    Tôi thấy ông có vẻ "chính thống" lắm sao lại không tin sách của nhà nước nhỉ? Ông chửi TTD và những người tin theo các nguồn dã sử nhưng ông cũng phủ nhận luôn các nguồn chính thống. Xin hỏi ông có nguồn nào chứng minh các lập luận của mình?
    Thời gian đầu tôi cũng ngỡ ông có nhiều kiến thức lắm nhưng đọc các bài của ông tòan thấy chê người khác chính kiến trong khi lại chẳng có lập luận xác đáng hay đưa ra thông tin gì có giá trị thì tôi chán hẳn.
    Trên diễn đàn này chưa biết đúng sai nhưng tôi rất tôn trọng những ai dám đưa ra lập luận chứng minh lý lẽ của mình. Chứ còn quẳng vài ba câu theo kiểu không theo tao là sai bét thì tôi xin nhường lại diễn đàn cho ông múa may một mình.

Chia sẻ trang này