1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Redcrystalheart, 11/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. 13am

    13am Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    241
    Đã được thích:
    0
    tôi có 1 chút hơi hồ đồ . nếu như bác nói thì phạm vi của nước Việt thời kỳ CHiến Quốc là cực kỳ rộng lớn - Nếu tính toán kỹ thì là rộng nhất thời đó - Nếu như vậy thì phải có sử sách rõ ràng về Nước Lớn này - trong khi trong Sử Sách của chúng ta chỉ nhắc đến 1 thành duy nhất - Thành Cổ Loa - khi thành này bị tiêu diệt , nước Âu Lạc cũng biến mất .
    Cả 1 đất nước rộng lớn ko thể chỉ có 1 thành trì , Nếu nước Bách Việt do trăm bộ lạc Việt hình thành , vậy thì mỗi bộ lạc phải có 1 thành trì riêng , 1 lịch sử vong quốc riêng , tại sao chỉ mỗi Việt Nam là được ghi chép lại
  2. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Cuốn này cũng không phải là không "có vấn đề" đâu. Mời bạn đọc đoạn phân tích sau:
    2. ?~Bố Cái?T theo thuyết ?~Mã Lai?T
    ?~Thuyết Mã Lai?T [1] truy tầm nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua rất nhiều đường hướng khác nhau. Đại khái, song song với chủng Mông-gô-Lích, chủng Mã Lai là một chủng lớn thứ nhì đã tạo dựng nên người Á Châu ngày nay. Chủng Mã Lai xuất phát từ miền bình nguyên khu vực Tây Tạng tiến về phía Đông và Đông Nam. Nhóm đầu gọi Proto-Malay, và cuộc di dân đầu tiên xảy ra cách đây khoảng 5000 năm. Nhóm thứ nhì gọi Deutro-Malay ?" di tản theo hướng của nhóm trước, cách đây khoảng 2500 năm. Bình Nguyên Lộc đã bỏ ra hơn 10 năm để nghiên cứu về đề tài, nhưng khi viết nên quyển ?~Mã Lai?T, lại gây nhiều ngộ nhận. Phần lớn do ở tầm vóc hết sức phức tạp của vấn đề. Thường đòi hỏi hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc các lãnh vực khác nhau nhưng hỗ tương lẫn nhau. Thêm vào đó, tác giả đã dùng những tên gọi, thời bây giờ có thể nói không được ?~thuận lý?T hoặc ?~nghe hợp tai chính trị?T cho lắm. Đại khái, thay vì Proto-Malay, Deutro-Malay, tác giả đặt ra Mã Lai đợt I và Mã Lai đợt II. Làm nhiều người đọc dễ hiểu nhầm Mã Lai I và II, là hai đợt di cư do chính tác giả ?~sáng tác?T ra. Hoặc Mã Lai đợt I (còn gọi chủng In-đô-nê-sien) xuất phát từ Mã Lai Á, đem lôm chôm và sầu riêng, mà mò lên Việt cổ rồi định cư ở đó. Bởi ngày nay có hai quốc gia lớn In-đô-nê-sien và Mã Lai Á, nên hầu như mọi sách vở viết về các chủng Malay hoặc In-đô-nê-sien đều tránh dùng các thứ từ này. Để tránh lôi các nước khác nhau trở thành bà con cùng gốc gác chủng tộc với nhau.
    Có lẽ quá hứng khởi với kết quả công trình nghiên cứu của riêng ông, nhất là việc so sánh hằng ngàn từ Việt với tiếng Mã Lai và các phương ngữ Hoa Nam, và làm quen được tinh thần lô-gích trong nghiên cứu, Bình Nguyên Lộc đã mạnh tay công kích gần như tất cả những công trình của các vị học giả Tây phương, như Aurousseau, Maspéro, Madrolle, Coedès, Jansé, v.v. cũng như nhiều giáo sư Việt đang giảng dạy tại các đại học thời đó ở miền Nam. Mang đến hậu quả tai hại kéo dài hàng chục năm: Giới khoa bảng thường tẩy chay hay không thích đọc ?~thuyết Mã Lai?T, hoặc ngộ nhận rằng ?~thuyết Mã Lai?T nói về người Việt có gốc Mã Lai xuất phát từ miệt phía dưới, thích ăn nhiều trái lôm chôm hay măng cụt, và đem trầu cau lên vùng Bắc Việt rồi ở luôn tại đó. Hoặc họ hết thuốc xâm mình nên mò lên miệt trên, và xin nhận nơi đó làm quê hương [12]. Tuy vậy quyển Mã Lai vẫn được tái bản đều đều. Cũng nhờ ở lý do ?~thuận lý chính trị?T. Bởi ngày nay ít ai thích đề cập đến chủng tộc Mã Lai trong khi có hai nước lớn mang chủng tộc này là In-đô-nê-xia và Mã Lai Á. Quyển ?~Mã Lai?T do đó trở thành một quyển sách hiếm về liên hệ của ?~chủng Mã Lai?T với dân Việt.

    Trích từ bài "Thử tìm hiểu sử Việt cổ: Bố Cái Đại Vương và chữ Nôm" của Nguyên Nguyên bên diễn đàn dactrung. KHông thể phủ nhận những công lao của ông BNL khi xuất bản công trình này, tuy nhiên cũng không thể bỏ qua những sai sót của ông.
    Một số chủ đề tham khảo:

    - http://5nam.ttvnol.com/f_533/122184.ttvn
    - [topic]23404[/topic]
    - http://5nam.ttvnol.com/f_533/355420.ttvn
    - http://5nam.ttvnol.com/f_533/109355.ttvn
    - http://5nam.ttvnol.com/f_533/123456.ttvn
    - http://5nam.ttvnol.com/f_533/176625.ttvn
    u?c mltr_sg s?a vo 15:40 ngy 17/08/2006
  3. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Cuốn này cũng không phải là không "có vấn đề" đâu. Mời bạn đọc đoạn phân tích sau:
    2. ?~Bố Cái?T theo thuyết ?~Mã Lai?T
    ?~Thuyết Mã Lai?T [1] truy tầm nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua rất nhiều đường hướng khác nhau. Đại khái, song song với chủng Mông-gô-Lích, chủng Mã Lai là một chủng lớn thứ nhì đã tạo dựng nên người Á Châu ngày nay. Chủng Mã Lai xuất phát từ miền bình nguyên khu vực Tây Tạng tiến về phía Đông và Đông Nam. Nhóm đầu gọi Proto-Malay, và cuộc di dân đầu tiên xảy ra cách đây khoảng 5000 năm. Nhóm thứ nhì gọi Deutro-Malay ?" di tản theo hướng của nhóm trước, cách đây khoảng 2500 năm. Bình Nguyên Lộc đã bỏ ra hơn 10 năm để nghiên cứu về đề tài, nhưng khi viết nên quyển ?~Mã Lai?T, lại gây nhiều ngộ nhận. Phần lớn do ở tầm vóc hết sức phức tạp của vấn đề. Thường đòi hỏi hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc các lãnh vực khác nhau nhưng hỗ tương lẫn nhau. Thêm vào đó, tác giả đã dùng những tên gọi, thời bây giờ có thể nói không được ?~thuận lý?T hoặc ?~nghe hợp tai chính trị?T cho lắm. Đại khái, thay vì Proto-Malay, Deutro-Malay, tác giả đặt ra Mã Lai đợt I và Mã Lai đợt II. Làm nhiều người đọc dễ hiểu nhầm Mã Lai I và II, là hai đợt di cư do chính tác giả ?~sáng tác?T ra. Hoặc Mã Lai đợt I (còn gọi chủng In-đô-nê-sien) xuất phát từ Mã Lai Á, đem lôm chôm và sầu riêng, mà mò lên Việt cổ rồi định cư ở đó. Bởi ngày nay có hai quốc gia lớn In-đô-nê-sien và Mã Lai Á, nên hầu như mọi sách vở viết về các chủng Malay hoặc In-đô-nê-sien đều tránh dùng các thứ từ này. Để tránh lôi các nước khác nhau trở thành bà con cùng gốc gác chủng tộc với nhau.
    Có lẽ quá hứng khởi với kết quả công trình nghiên cứu của riêng ông, nhất là việc so sánh hằng ngàn từ Việt với tiếng Mã Lai và các phương ngữ Hoa Nam, và làm quen được tinh thần lô-gích trong nghiên cứu, Bình Nguyên Lộc đã mạnh tay công kích gần như tất cả những công trình của các vị học giả Tây phương, như Aurousseau, Maspéro, Madrolle, Coedès, Jansé, v.v. cũng như nhiều giáo sư Việt đang giảng dạy tại các đại học thời đó ở miền Nam. Mang đến hậu quả tai hại kéo dài hàng chục năm: Giới khoa bảng thường tẩy chay hay không thích đọc ?~thuyết Mã Lai?T, hoặc ngộ nhận rằng ?~thuyết Mã Lai?T nói về người Việt có gốc Mã Lai xuất phát từ miệt phía dưới, thích ăn nhiều trái lôm chôm hay măng cụt, và đem trầu cau lên vùng Bắc Việt rồi ở luôn tại đó. Hoặc họ hết thuốc xâm mình nên mò lên miệt trên, và xin nhận nơi đó làm quê hương [12]. Tuy vậy quyển Mã Lai vẫn được tái bản đều đều. Cũng nhờ ở lý do ?~thuận lý chính trị?T. Bởi ngày nay ít ai thích đề cập đến chủng tộc Mã Lai trong khi có hai nước lớn mang chủng tộc này là In-đô-nê-xia và Mã Lai Á. Quyển ?~Mã Lai?T do đó trở thành một quyển sách hiếm về liên hệ của ?~chủng Mã Lai?T với dân Việt.

    Trích từ bài "Thử tìm hiểu sử Việt cổ: Bố Cái Đại Vương và chữ Nôm" của Nguyên Nguyên bên diễn đàn dactrung. KHông thể phủ nhận những công lao của ông BNL khi xuất bản công trình này, tuy nhiên cũng không thể bỏ qua những sai sót của ông.
    Một số chủ đề tham khảo:

    - [topic]122184[/topic]
    - [topic]23404[/topic]
    - [topic]355420[/topic]
    - [topic]109355[/topic]
    - [topic]123456[/topic]
    - [topic]176625[/topic]
  4. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dân tộc Việt là một dân tộc sinh hoạt với nước nhiều hơn là trên đất liền.Điều này đã được các sách sử ghi lại rất rõ ràng. Trong Thiên Vũ Cống và Việt Tuyệt Thư có viết:
    Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc biệt về mặt thủy trong các cuộc xung đột với Trung quốc từ 20 thế kỷ nay).Họ ở núi mà đi đường thủy lấy
    thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mình. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến )
    Lịch sử các nước Bách Việt đều được ghi chép lại thưa bạn, nhưng qua những năm tháng chiến tranh và cai trị khắc nghiệt của người phương Bắc thì chẳng có gì còn sót lại ngoài vài cuốn sử cổ như ĐVSKTT hay LNCQ.... hầu hết những quyển sử này được chép từ thế kỉ 14. Cũng như nước Sở xưa bị Tần Thuỷ Hoàng đốt sạch sách sử chỉ vì bị xem là dân "man di mọi rợ" !!
    Được redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 21:45 ngày 11/03/2005
  5. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Dân tộc Việt là một dân tộc sinh hoạt với nước nhiều hơn là trên đất liền.Điều này đã được các sách sử ghi lại rất rõ ràng. Trong Thiên Vũ Cống và Việt Tuyệt Thư có viết:
    Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc biệt về mặt thủy trong các cuộc xung đột với Trung quốc từ 20 thế kỷ nay).Họ ở núi mà đi đường thủy lấy
    thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mình. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến )
    Lịch sử các nước Bách Việt đều được ghi chép lại thưa bạn, nhưng qua những năm tháng chiến tranh và cai trị khắc nghiệt của người phương Bắc thì chẳng có gì còn sót lại ngoài vài cuốn sử cổ như ĐVSKTT hay LNCQ.... hầu hết những quyển sử này được chép từ thế kỉ 14. Cũng như nước Sở xưa bị Tần Thuỷ Hoàng đốt sạch sách sử chỉ vì bị xem là dân "man di mọi rợ" !!
    Được redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 21:45 ngày 11/03/2005
  6. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Để rộng đường cho việc chứng minh Câu Tiễn là người Việt, trước hết tôi xin nói về tập tục sinh hoạt, đời sống và một chút sơ qua về nguồn gốc Việt tộc.
    Trong các cổ sử như Việt Tuyệt Thư, Sử Ký, Thiên Vũ Cống có nói chút ít về lối sống và sinh hoạt của người Việt cổ. Có rất nhiều những nhà khoa học của ta cũng như nước ngoài nghiên cứu về vấn đề này.
    Cũng như người nước Ngô, người Việt vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô sơ, lại chưa biết dùng cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng đất cao và ăn trọng yếu là tôm cá, sò hến.
    Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu. Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu
    tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến.
    Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di tích đến đời Hậu Hán.
    Về văn hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán,về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba tiếng Hán.
    Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục khắc cánh tay để ăn thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa "Tô Tem" . Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết rất thành kính. Các nhà quý
    tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá, đất hay đồng, vào áo quan để người chết có các thức dùng.
    Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sau khi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế
    độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với người Hán tộc.
    Để hiểu rõ hơn về nếp sống thuỷ sinh của dân tộc Việt. Mời các bạn đọc bài nghiên cứu của GS Vũ Hữu San ở bên dưới
    Được redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 22:44 ngày 11/03/2005
  7. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Để rộng đường cho việc chứng minh Câu Tiễn là người Việt, trước hết tôi xin nói về tập tục sinh hoạt, đời sống và một chút sơ qua về nguồn gốc Việt tộc.
    Trong các cổ sử như Việt Tuyệt Thư, Sử Ký, Thiên Vũ Cống có nói chút ít về lối sống và sinh hoạt của người Việt cổ. Có rất nhiều những nhà khoa học của ta cũng như nước ngoài nghiên cứu về vấn đề này.
    Cũng như người nước Ngô, người Việt vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô sơ, lại chưa biết dùng cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng đất cao và ăn trọng yếu là tôm cá, sò hến.
    Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu. Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu
    tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến.
    Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di tích đến đời Hậu Hán.
    Về văn hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán,về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba tiếng Hán.
    Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục khắc cánh tay để ăn thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa "Tô Tem" . Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết rất thành kính. Các nhà quý
    tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá, đất hay đồng, vào áo quan để người chết có các thức dùng.
    Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sau khi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế
    độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với người Hán tộc.
    Để hiểu rõ hơn về nếp sống thuỷ sinh của dân tộc Việt. Mời các bạn đọc bài nghiên cứu của GS Vũ Hữu San ở bên dưới
    Được redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 22:44 ngày 11/03/2005
  8. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Hải-Quân và nếp sống Thủy-sinh
    trong dòng sinh-mệnh dân-tộc

    Hải-Sử dân ta không những dài như trường-giang, rộng tựa đại-dương mà đã khởi đi từ sáu bảy chục ngàn năm về trước.
    Vũ Hữu San

    Sử-ký ở nước ta
    Cụ Lệ-thần Trần-Trọng-Kim viết trong phần Tựa của cuốn "Việt-Nam Sử-Lược," quyển 1 như sau:
    "Chủ-đích (của việc ghi chép Sử) là để làm một cái gương chung-cổ cho ngư(c)i cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sinh-họat của người trước đã phải lao-tâm lao-lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa-vị ở dưới bóng mặt trời này. Người trong nước có thông-hiểu những sự-tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học-hành, hết sức làm-lụng, để vun-đắp thêm vào cái nền xã-hội của tiên-tổ đã xây-dựng nên mà để lại cho mình ..."
    Chủ-đích của vị Sử-gia tăm-tiếng họ Trần cũng là niềm mong ước của mọi người chúng ta khi đọc Việt-Sử. Tuy thế người lính thủy hay người thường-dân hành thủy hay cả những người yêu sông nước, biển cả - muốn thông-hiểu sự-tích nước mình, dân mình liên-hệ ra sao với sinh-hoạt nước - lại không được cái may mắn như vậy. Cầm cuốn Sử nước ta lên mà xem cho hết, người đọc chỉ thấy các sinh-hoạt quá-khứ của tiền-nhân ở trên đất, trên bờ; tương-tự như trong những cuốn sách sử-ký của các dân-tộc khác nằm trong lục-địa.
    Sử-gia Trần-Trọng-Kim nhận-xét về chuyện "Sử nước ta được chép theo lối sử Tàu" một cách xác-đáng như sau: "Cái lối làm sử của ta theo lối biên-niên của Tàu, nghiã là năm nào tháng nào có chuyện gì quan-trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải-thích cái gốc-ngọn và sự liên-can việc ấy với việc khác là thế nào." Vì thế, sinh-hoạt thực-sự của đại-đa-số dân-chúng không được nói đến trong Việt-sử.
    Donald Worster đã một lần chê trách các nhà viết sử. Chúng ta cũng có thể bắt chước Ông mà phát-biểu một câu "nhẹ-nhàng" như sau: "Viết sử mà không có nước ở trong, đó là một thiếu sót lớn. Kinh-nghiệm nhân-loại (và đặc-biệt là của nguời "nước" ta) đâu có khô khan đến như vậy!"
    Cách ghi chép chính-sử là như vậy. Tuy nhiên may mắn hơn cho dân ta, những sinh-hoạt thủy-sinh được kể lại khá nhiều qua dã-sử, cổ-tích và thần-thoại. Ngoài ra trong một số sách cổ-văn hiếm hoi, ta cũng thấy người xưa ghi-nhận được những sinh-hoạt. Sách Tàu cũng nói "Người Việt-cổ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ thân dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu-lự, thuyền có lầu tức Lâu-thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua-thuyền... Theo Hoài-Nam-Vương Lưu-An đời Hán, thì người Việt rất thạo thủy-chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền."
    Hồn "Nước" dựng nước Việt-Nam
    Biển Đông bao quanh một nửa đất nước chúng ta. Theo Bernard Philippe Groslier, biển cả đã gợi ra trong trí óc người dân Đông-Dương cái ấn-tượng về nguồn gốc của muôn loài, một tâm-tưởng đến cả thế-giới trước khi khai-thiên lập-địa và cũng là nơi quê-hương cho người chết (tổ-tiên) trở về.
    Mỗi khi đề-cập đến đất nước quê-hương, mọi người Việt chúng ta đều có một ý-thức sâu xa về "hồn nước linh-thiêng". Một học-giả ngoại-quốc, Tiến-sĩ Keith Weller Taylor có lẽ là người đầu-tiên nhận ra điều này. Ông phân-tích chính-xác nhiều điều về tính-thần tự-chủ của dân Việt-Nam rất đúng. Taylor cho rằng: "Nước (Water) có hồn nước (Aquatic Spirit) linh-thiêng, có năng-lực tạo dựng nên dân-tộc, nên nước Việt-Nam chính-thống..." Chúng tôi rất thích đoạn-văn của Ông, tuy ngắn gọn nhưng ý-tứ uyên-bác, khó dịch sao cho chính-xác được. Vậy xin chép lại nguyên-văn như sau: "The idea of an aquatic spirit''s being the source of political power and legitimacy, which attended the formation of the Vietnamese people in prehistoric times, is the earliest hint of the concept of the Vietnamese as a distinct and self-conscious people".
    Hải-Sử, nơi chất chứa những (truyền-thống) cực kỳ quan-yếu của dân-tộcTại các nước Âu-Mỹ, Hải-sử (Maritime History) là một ngành khoa-học được khai-sinh từ lâu. Nhưng ở xứ ta, danh-từ "Hải-sử" ít khi được nghe nói tới, và cũng chưa có một cuốn Sử nào ghi chép thuần các sinh-hoạt thủy-sinh. Tuy vậy nếu xét cho kỹ, chúng ta thấy rằng Hải-Sử đúng là nơi cần-thiết cho việc ghi chép các thành-tích lẫy-lừng và truyền-thống cực-kỳ quan-yếu của dân-tộc.
    Một phần của bài viết, phần "Tiền Hải-Sử" Việt-Nam mà chúng tôi trình-bày tiếp đây là những kiến-thức mới mẻ. Nhờ tiến-bộ trong nhiều ngành khoa-học, ngày nay nhân-loại hiểu biết nhiều hơn về quá-khứ. Tuy một số chi-tiết nhỏ còn là giả-thuyết, nhưng nói một cách tổng-quát, có nhiều nét độc-đáo về sinh-hoạt nước của tiền-nhân chúng ta đáng nói và đã có nhiều học-giả quốc-tế đổ xô đến nghiên-cứu.
    Không ở một nơi nào khác trên địa-cầu, Khoa Tiền-hải-sử có nhiều vấn-đề cần tìm hiểu như tại khu-vực Biển Đông.
    Riêng với dân-tộc Việt-Nam, Tiền-hải-sử phải được coi là một ngành học quan-trọng vì nhiều lý-do sau đây:
    - Truyền-thống hàng-hải lâu đời của dân-tộc hiện-diện trong mọi sinh-hoạt dân-tộc.
    - Bờ biển Việt-Nam và Hoa-Nam từ xưa đến nay chính là nơi quy-tụ nhiều kiểu ghe thuyền phong-phú hơn bất cứ nơi nào khác trên thế-giới. Kiến-trúc tàu bè Việt-Nam rất độc-đáo và đã đạt đến trình-độ kỹ-thuật cao ngay từ cổ-thời. Clinton Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut) ở Đông-Nam-Á thuộc những bộ-lạc Hải-du (Sea nomads) phát-triển truyền-thống hàng-hải trước khi chính họ mở mang nông-nghiệp.
    - Những nền văn-minh "nước" từ Hoà-Bình đến Đông-Sơn xuất-hiện liên-tục trong tiến-trình sinh-hoạt văn-hoá của người Việt-Nam. Nền văn-minh Hoà-Bình đã tiến-triển trong khoảng thời-gian 9,000- 5,600 năm TTL., chuyển sang Bắc-Sơn 8,300-5,900 năm TTL., liên-tục qua nhiều nền văn-minh; sau này tới thời Đồ Đồng của Phùng-Nguyên 3,000-1500 năm TTL., rồi Đông-Sơn 500 năm TTL., rõ ràng nhuốm mầu sắc hàng-hải."
    - Theo Bernard Philippe Groslier, và dân-cư Đông-Dương (trong đó đại-biểu chính là Việt-Nam) đã đóng vai trò quan-trọng trong vùng Đông-Nam-Á. Cho dù Java có thể là nơi con người xuất-hiện trước hết, nhưng Đông-Dương luôn luôn là cái kho chứa nhân-lực mà từ đó gửi đi khai-hoá khắp vùng.
    - Wilhelm G. Solheim II viết rằng: nh-hưởng của văn-minh Hoà-Bình tạo-lập lên các nền văn-minh Yangshao (Ngưỡng-Thiều, miền bắc Trung-Hoa.) và cả nền văn-minh Lungshan (Long-Sơn) cũng từ phiá Nam đem lại.
    Solheim còn đi xa hơn nữa, Ông cho rằng Đông-Nam-Á thời cổ chính là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với khắp các nơi ở dọc bờ biển Á-Châu, Âu-Châu, Phi-Châu, Đại-Dương-Châu và ở cả Mỹ-Châu. Solheim lý-luận rằng chỉ có sự kiện Đông-Nam-Á giữ vai-trò trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe toẻ ra khắp phía, người ta mới giải thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng giữa những sinh-hoạt văn-hoá như vậy.
    Bài viết này nằm trong chủ-đề "Hải-Sử", chúng tôi xin trình-bày về những sinh-hoạt thủy-sinh của dân ta trên sông nước (thủy), biển Đông (hải) và ngoài Đại-(dương). Đặc-biệt, hoạt-động Thủy, Hải, (Tuần-) Dương-quân đươc đặc-biệt kể đến như là những thành-tích cực-kỳ quan-trọng trong dòng sinh-mệnh của dân-tộc.
  9. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Hải-Quân và nếp sống Thủy-sinh
    trong dòng sinh-mệnh dân-tộc

    Hải-Sử dân ta không những dài như trường-giang, rộng tựa đại-dương mà đã khởi đi từ sáu bảy chục ngàn năm về trước.
    Vũ Hữu San

    Sử-ký ở nước ta
    Cụ Lệ-thần Trần-Trọng-Kim viết trong phần Tựa của cuốn "Việt-Nam Sử-Lược," quyển 1 như sau:
    "Chủ-đích (của việc ghi chép Sử) là để làm một cái gương chung-cổ cho ngư(c)i cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sinh-họat của người trước đã phải lao-tâm lao-lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa-vị ở dưới bóng mặt trời này. Người trong nước có thông-hiểu những sự-tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học-hành, hết sức làm-lụng, để vun-đắp thêm vào cái nền xã-hội của tiên-tổ đã xây-dựng nên mà để lại cho mình ..."
    Chủ-đích của vị Sử-gia tăm-tiếng họ Trần cũng là niềm mong ước của mọi người chúng ta khi đọc Việt-Sử. Tuy thế người lính thủy hay người thường-dân hành thủy hay cả những người yêu sông nước, biển cả - muốn thông-hiểu sự-tích nước mình, dân mình liên-hệ ra sao với sinh-hoạt nước - lại không được cái may mắn như vậy. Cầm cuốn Sử nước ta lên mà xem cho hết, người đọc chỉ thấy các sinh-hoạt quá-khứ của tiền-nhân ở trên đất, trên bờ; tương-tự như trong những cuốn sách sử-ký của các dân-tộc khác nằm trong lục-địa.
    Sử-gia Trần-Trọng-Kim nhận-xét về chuyện "Sử nước ta được chép theo lối sử Tàu" một cách xác-đáng như sau: "Cái lối làm sử của ta theo lối biên-niên của Tàu, nghiã là năm nào tháng nào có chuyện gì quan-trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải-thích cái gốc-ngọn và sự liên-can việc ấy với việc khác là thế nào." Vì thế, sinh-hoạt thực-sự của đại-đa-số dân-chúng không được nói đến trong Việt-sử.
    Donald Worster đã một lần chê trách các nhà viết sử. Chúng ta cũng có thể bắt chước Ông mà phát-biểu một câu "nhẹ-nhàng" như sau: "Viết sử mà không có nước ở trong, đó là một thiếu sót lớn. Kinh-nghiệm nhân-loại (và đặc-biệt là của nguời "nước" ta) đâu có khô khan đến như vậy!"
    Cách ghi chép chính-sử là như vậy. Tuy nhiên may mắn hơn cho dân ta, những sinh-hoạt thủy-sinh được kể lại khá nhiều qua dã-sử, cổ-tích và thần-thoại. Ngoài ra trong một số sách cổ-văn hiếm hoi, ta cũng thấy người xưa ghi-nhận được những sinh-hoạt. Sách Tàu cũng nói "Người Việt-cổ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ thân dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu-lự, thuyền có lầu tức Lâu-thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua-thuyền... Theo Hoài-Nam-Vương Lưu-An đời Hán, thì người Việt rất thạo thủy-chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền."
    Hồn "Nước" dựng nước Việt-Nam
    Biển Đông bao quanh một nửa đất nước chúng ta. Theo Bernard Philippe Groslier, biển cả đã gợi ra trong trí óc người dân Đông-Dương cái ấn-tượng về nguồn gốc của muôn loài, một tâm-tưởng đến cả thế-giới trước khi khai-thiên lập-địa và cũng là nơi quê-hương cho người chết (tổ-tiên) trở về.
    Mỗi khi đề-cập đến đất nước quê-hương, mọi người Việt chúng ta đều có một ý-thức sâu xa về "hồn nước linh-thiêng". Một học-giả ngoại-quốc, Tiến-sĩ Keith Weller Taylor có lẽ là người đầu-tiên nhận ra điều này. Ông phân-tích chính-xác nhiều điều về tính-thần tự-chủ của dân Việt-Nam rất đúng. Taylor cho rằng: "Nước (Water) có hồn nước (Aquatic Spirit) linh-thiêng, có năng-lực tạo dựng nên dân-tộc, nên nước Việt-Nam chính-thống..." Chúng tôi rất thích đoạn-văn của Ông, tuy ngắn gọn nhưng ý-tứ uyên-bác, khó dịch sao cho chính-xác được. Vậy xin chép lại nguyên-văn như sau: "The idea of an aquatic spirit''s being the source of political power and legitimacy, which attended the formation of the Vietnamese people in prehistoric times, is the earliest hint of the concept of the Vietnamese as a distinct and self-conscious people".
    Hải-Sử, nơi chất chứa những (truyền-thống) cực kỳ quan-yếu của dân-tộcTại các nước Âu-Mỹ, Hải-sử (Maritime History) là một ngành khoa-học được khai-sinh từ lâu. Nhưng ở xứ ta, danh-từ "Hải-sử" ít khi được nghe nói tới, và cũng chưa có một cuốn Sử nào ghi chép thuần các sinh-hoạt thủy-sinh. Tuy vậy nếu xét cho kỹ, chúng ta thấy rằng Hải-Sử đúng là nơi cần-thiết cho việc ghi chép các thành-tích lẫy-lừng và truyền-thống cực-kỳ quan-yếu của dân-tộc.
    Một phần của bài viết, phần "Tiền Hải-Sử" Việt-Nam mà chúng tôi trình-bày tiếp đây là những kiến-thức mới mẻ. Nhờ tiến-bộ trong nhiều ngành khoa-học, ngày nay nhân-loại hiểu biết nhiều hơn về quá-khứ. Tuy một số chi-tiết nhỏ còn là giả-thuyết, nhưng nói một cách tổng-quát, có nhiều nét độc-đáo về sinh-hoạt nước của tiền-nhân chúng ta đáng nói và đã có nhiều học-giả quốc-tế đổ xô đến nghiên-cứu.
    Không ở một nơi nào khác trên địa-cầu, Khoa Tiền-hải-sử có nhiều vấn-đề cần tìm hiểu như tại khu-vực Biển Đông.
    Riêng với dân-tộc Việt-Nam, Tiền-hải-sử phải được coi là một ngành học quan-trọng vì nhiều lý-do sau đây:
    - Truyền-thống hàng-hải lâu đời của dân-tộc hiện-diện trong mọi sinh-hoạt dân-tộc.
    - Bờ biển Việt-Nam và Hoa-Nam từ xưa đến nay chính là nơi quy-tụ nhiều kiểu ghe thuyền phong-phú hơn bất cứ nơi nào khác trên thế-giới. Kiến-trúc tàu bè Việt-Nam rất độc-đáo và đã đạt đến trình-độ kỹ-thuật cao ngay từ cổ-thời. Clinton Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut) ở Đông-Nam-Á thuộc những bộ-lạc Hải-du (Sea nomads) phát-triển truyền-thống hàng-hải trước khi chính họ mở mang nông-nghiệp.
    - Những nền văn-minh "nước" từ Hoà-Bình đến Đông-Sơn xuất-hiện liên-tục trong tiến-trình sinh-hoạt văn-hoá của người Việt-Nam. Nền văn-minh Hoà-Bình đã tiến-triển trong khoảng thời-gian 9,000- 5,600 năm TTL., chuyển sang Bắc-Sơn 8,300-5,900 năm TTL., liên-tục qua nhiều nền văn-minh; sau này tới thời Đồ Đồng của Phùng-Nguyên 3,000-1500 năm TTL., rồi Đông-Sơn 500 năm TTL., rõ ràng nhuốm mầu sắc hàng-hải."
    - Theo Bernard Philippe Groslier, và dân-cư Đông-Dương (trong đó đại-biểu chính là Việt-Nam) đã đóng vai trò quan-trọng trong vùng Đông-Nam-Á. Cho dù Java có thể là nơi con người xuất-hiện trước hết, nhưng Đông-Dương luôn luôn là cái kho chứa nhân-lực mà từ đó gửi đi khai-hoá khắp vùng.
    - Wilhelm G. Solheim II viết rằng: nh-hưởng của văn-minh Hoà-Bình tạo-lập lên các nền văn-minh Yangshao (Ngưỡng-Thiều, miền bắc Trung-Hoa.) và cả nền văn-minh Lungshan (Long-Sơn) cũng từ phiá Nam đem lại.
    Solheim còn đi xa hơn nữa, Ông cho rằng Đông-Nam-Á thời cổ chính là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với khắp các nơi ở dọc bờ biển Á-Châu, Âu-Châu, Phi-Châu, Đại-Dương-Châu và ở cả Mỹ-Châu. Solheim lý-luận rằng chỉ có sự kiện Đông-Nam-Á giữ vai-trò trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe toẻ ra khắp phía, người ta mới giải thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng giữa những sinh-hoạt văn-hoá như vậy.
    Bài viết này nằm trong chủ-đề "Hải-Sử", chúng tôi xin trình-bày về những sinh-hoạt thủy-sinh của dân ta trên sông nước (thủy), biển Đông (hải) và ngoài Đại-(dương). Đặc-biệt, hoạt-động Thủy, Hải, (Tuần-) Dương-quân đươc đặc-biệt kể đến như là những thành-tích cực-kỳ quan-trọng trong dòng sinh-mệnh của dân-tộc.
  10. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Những Thuyền-nhân Đầu-tiên của Nhân-loại
    Trước hết, ta phải kể đến vấn-đề thật cổ-kính của thời-gian mà ít ai tưởng-tượng nổi. Phải có một thứ "văn-minh nước" nào đó đã xuất-hiện từ lâu tại vùng đồng-bằng Sunda. Kỹ-thuật thuyền bè của dân-cư Biển Đông đủ tiến-bộ để giúp di-dân đường biển từ Đông-Nam-Á sang Úc-Châu từ 60,000 năm trước. Chứng-cớ hiển-nhiên này không những đã được những nhà Úc-Châu-học công-nhận, mà các khoa-học-gia mọi ngành khoa-học khác cũng đồng-ý.
    Văn-minh Nước thời Băng-Đá
    Trong khoảng 60,000 năm cho đến nay, Trái Đất trải qua nhiều giai-đoạn nóng và lạnh chen kẽ nhau. Mực nước biển đã dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Khi băng đá hai cực địa-cầu tan rã thì nước biển dâng lên nhanh. Cho đến khoảng 4,000 năm trước Tây-lịch (TTL), hàng trăm ngàn dậm vuông lục-địa đã bị ngập dưới Biển Đông. Vì diện-tích đất đai bị suy-giảm nên mật-độ dân-số gia-tăng. Nhiều sự tiếp-xúc, trao đổi, va chạm giữa những giống người khác nhau đã xảy ra. Lúc xưa dân-cư sống rải rác khắp nơi trong vùng đất thấp rộng lớn Sunda, nay cùng gặp nhau trong một môi-trường sinh-hoạt mới vùng đồi núi. Tiến-bộ khởi-sự từ đó.
    Theo ý-kiến của một số nhà khảo-cổ, khi nước ngập nơi cư-trú, dân-chúng từ vùng Sunda (kể cả Hoàng-Sa, Trường-Sa) đã chạy lên các vùng cao. Học-giả Thái-Lan Sumet Jumsai cho hay vào khoảng 16,000 năm trước đây, khi mực nước biển dâng lên nhanh thì số lớn dân-cư đã di-chuyển về khu-vực phía Bắc của Biển Đông. Có lẽ vì nhờ tập-trung nhiều nhân-lực, văn-minh Hoà-Bình bộc-phát. Peter Bellwood tường-trình công-trình chinh-phục Thái-Bình-Dương của dân-cư Hoà-Bình (Hoabinhians) trong cuốn sách nổi-danh của ông, cuốn "Man''s Conquest of the Pacific"
    Chester Norman cho rằng vịnh Bắc-phần và vịnh Thái-Lan mà lúc trước là hai vùng đồng-bằng trũng và cạn, nay biến thành hai vịnh biển mới. Văn-minh Hòa-Bình được tạo-dựng trong thời-gian thềm lục-địa Sunda bị ngập nước. Người ta phải di-chuyển đi khai-phá đồng-bằng. Yếu-tố quan-trọng nhất của đà phát-triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ-cốc thuần-hóa sau này thích-hợp cho ruộng nước. Khoảng 5,500 năm trước, cây lúa nước đã được trồng trọt.
    Sinh-hoạt Biển Đông thời hậu Băng-Đá
    Theo những ghi-nhận của ngành Địa-Chất-học, vào thời xa xưa, khoảng 16,000 năm trước, nuớc đại-đương dâng cao với đà gia-tăng nhanh nhất. Tại vùng Biển Đông vào thời Hău Băng-Đá, sự thay đổi của địa-thế rất mãnh-liệt. Những thay đổi đĩa-thế đã lôi-cuốn theo những thay đổi lớn về môi-sinh con người. Sự tiến-bộ vượt bực của văn-hoá người Việt (Yủeh) trong bối-cảnh bể dâu đó đã được William Meacham nghiên-cứu và trình-bày trong một bài viết rất nổi-tếng của Ông, nhan-đề "Origins and Development of the Yủeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia".
    Một số kết-quả khảo-cứu trực-tiếp liên-hệ đến sinh-hoạt thủy-sinh như sau:
    - Vì nguồn gốc và địa-bàn riêng biệt, sinh-hoạt người Việt ở duyên-hải khác-biệt với người Tàu ở Trung-thổ. Không thể nào vì thấy một vài ảnh-hưởng văn-hoá giống nhau mà người ta có thể coi dân Bách-Viêt như một thứ dân Tàu được. Nhiều chúng-cớ cho hay là loài người dã có mặt trên Sunda Land mười mấy ngàn năm trước. Những đồng-bằng thấp, được gọi tên chung là Sunda Land đó, nằm ngoài Biển Đông ngày nay đã hoàn-toàn bị ngập nước. Những dân-cư thời đó chính là tiền-nhân người (Bách-) Việt sau này. Họ sinh sống bằng cách thu-nhặt hải-sản như tôm cua, hào nghêu... , săn bát tôm cá ngoài hồ, ao, sông, biển. Trong khoảng từ 15,000 năm đến 4,000 năm trước đây, nước biển dâng lên, làm thay đổi môi-trường sinh-hoạt và tạo nên sự dồn ép mật-độ dân-số.
    - Văn-minh Hoà-Bình xuất-hiện 11,000 - 7,600 trước đây, văn-minh Bắc-Sơn, khoảng 8,300 - 5,900 năm trước Tây-Lịch (TTL.).
    - Bè tre và có thể cả loại ghe thuyền sơ-đảng được dùng khắp nơi, 10,000 năm TTL.

Chia sẻ trang này