1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Redcrystalheart, 11/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Những Thuyền-nhân Đầu-tiên của Nhân-loại
    Trước hết, ta phải kể đến vấn-đề thật cổ-kính của thời-gian mà ít ai tưởng-tượng nổi. Phải có một thứ "văn-minh nước" nào đó đã xuất-hiện từ lâu tại vùng đồng-bằng Sunda. Kỹ-thuật thuyền bè của dân-cư Biển Đông đủ tiến-bộ để giúp di-dân đường biển từ Đông-Nam-Á sang Úc-Châu từ 60,000 năm trước. Chứng-cớ hiển-nhiên này không những đã được những nhà Úc-Châu-học công-nhận, mà các khoa-học-gia mọi ngành khoa-học khác cũng đồng-ý.
    Văn-minh Nước thời Băng-Đá
    Trong khoảng 60,000 năm cho đến nay, Trái Đất trải qua nhiều giai-đoạn nóng và lạnh chen kẽ nhau. Mực nước biển đã dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Khi băng đá hai cực địa-cầu tan rã thì nước biển dâng lên nhanh. Cho đến khoảng 4,000 năm trước Tây-lịch (TTL), hàng trăm ngàn dậm vuông lục-địa đã bị ngập dưới Biển Đông. Vì diện-tích đất đai bị suy-giảm nên mật-độ dân-số gia-tăng. Nhiều sự tiếp-xúc, trao đổi, va chạm giữa những giống người khác nhau đã xảy ra. Lúc xưa dân-cư sống rải rác khắp nơi trong vùng đất thấp rộng lớn Sunda, nay cùng gặp nhau trong một môi-trường sinh-hoạt mới vùng đồi núi. Tiến-bộ khởi-sự từ đó.
    Theo ý-kiến của một số nhà khảo-cổ, khi nước ngập nơi cư-trú, dân-chúng từ vùng Sunda (kể cả Hoàng-Sa, Trường-Sa) đã chạy lên các vùng cao. Học-giả Thái-Lan Sumet Jumsai cho hay vào khoảng 16,000 năm trước đây, khi mực nước biển dâng lên nhanh thì số lớn dân-cư đã di-chuyển về khu-vực phía Bắc của Biển Đông. Có lẽ vì nhờ tập-trung nhiều nhân-lực, văn-minh Hoà-Bình bộc-phát. Peter Bellwood tường-trình công-trình chinh-phục Thái-Bình-Dương của dân-cư Hoà-Bình (Hoabinhians) trong cuốn sách nổi-danh của ông, cuốn "Man''s Conquest of the Pacific"
    Chester Norman cho rằng vịnh Bắc-phần và vịnh Thái-Lan mà lúc trước là hai vùng đồng-bằng trũng và cạn, nay biến thành hai vịnh biển mới. Văn-minh Hòa-Bình được tạo-dựng trong thời-gian thềm lục-địa Sunda bị ngập nước. Người ta phải di-chuyển đi khai-phá đồng-bằng. Yếu-tố quan-trọng nhất của đà phát-triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ-cốc thuần-hóa sau này thích-hợp cho ruộng nước. Khoảng 5,500 năm trước, cây lúa nước đã được trồng trọt.
    Sinh-hoạt Biển Đông thời hậu Băng-Đá
    Theo những ghi-nhận của ngành Địa-Chất-học, vào thời xa xưa, khoảng 16,000 năm trước, nuớc đại-đương dâng cao với đà gia-tăng nhanh nhất. Tại vùng Biển Đông vào thời Hău Băng-Đá, sự thay đổi của địa-thế rất mãnh-liệt. Những thay đổi đĩa-thế đã lôi-cuốn theo những thay đổi lớn về môi-sinh con người. Sự tiến-bộ vượt bực của văn-hoá người Việt (Yủeh) trong bối-cảnh bể dâu đó đã được William Meacham nghiên-cứu và trình-bày trong một bài viết rất nổi-tếng của Ông, nhan-đề "Origins and Development of the Yủeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia".
    Một số kết-quả khảo-cứu trực-tiếp liên-hệ đến sinh-hoạt thủy-sinh như sau:
    - Vì nguồn gốc và địa-bàn riêng biệt, sinh-hoạt người Việt ở duyên-hải khác-biệt với người Tàu ở Trung-thổ. Không thể nào vì thấy một vài ảnh-hưởng văn-hoá giống nhau mà người ta có thể coi dân Bách-Viêt như một thứ dân Tàu được. Nhiều chúng-cớ cho hay là loài người dã có mặt trên Sunda Land mười mấy ngàn năm trước. Những đồng-bằng thấp, được gọi tên chung là Sunda Land đó, nằm ngoài Biển Đông ngày nay đã hoàn-toàn bị ngập nước. Những dân-cư thời đó chính là tiền-nhân người (Bách-) Việt sau này. Họ sinh sống bằng cách thu-nhặt hải-sản như tôm cua, hào nghêu... , săn bát tôm cá ngoài hồ, ao, sông, biển. Trong khoảng từ 15,000 năm đến 4,000 năm trước đây, nước biển dâng lên, làm thay đổi môi-trường sinh-hoạt và tạo nên sự dồn ép mật-độ dân-số.
    - Văn-minh Hoà-Bình xuất-hiện 11,000 - 7,600 trước đây, văn-minh Bắc-Sơn, khoảng 8,300 - 5,900 năm trước Tây-Lịch (TTL.).
    - Bè tre và có thể cả loại ghe thuyền sơ-đảng được dùng khắp nơi, 10,000 năm TTL.
  2. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Người Việt và những Phát-minh thiết-yếu đóng góp cho Nhân-loại
    Trái đất chúng ta đang ở có tới gần ba phần tư bề mặt che phủ bởi nước. Các nhà văn-minh-học đều đồng-ý rằng văn-minh loài người tiến-triển được là nhờ sự chuyển-vận.
    Các sách Bách-Khoa Từ-Điển đồng-ý rằng cho đến ngày nay, chuyển-vận đường thủy vẫn quan-trọng hơn đường bộ và đường hàng-không. Nếu so với sự phát-triển đường biển thì "chuyển-vận trên đất liền phát-triển với một mức-độ chậm chạp hơn nhiều... Sự chuyển-vận đường bộ được cải-thiện rất ít cho mãi tới năm 1825, khi kỹ-sư người Anh George Stephenson áp-dụng máy hơi nước để chạy một đầu máy xe lửa ...
    Sinh-hoạt trên địa-bàn "Nước", dân Việt là tác-giả hầu hết những phát-minh thiết-yếu về đường thủy. Bè, thuyền độc-mộc, mái chèo, cánh buồm, bánh lái, thuyền nhiều thân (outriggers) cây xiếm ... là những công-trình sáng-tạo mà tiền-nhân ta đóng góp cho sự tiến-bộ của nhân-loại.
    Về đẩy thuyền (propulsion), kể từ việc dùng bè thả trôi cho đến cả kỹ-thuật cao như việc đi ngược gió hay lái thuyền tự-động cũng đều do tiền-nhân chúng ta tạo-dựng. Thành-quả đáng kể nhất có lẽ là cách sử-dụng phối-hợp tài-tình hai hệ-thống buồm và xiếm. Nhờ vậy, một số loại ghe thuyền ở Việt-Nam có thể tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa đổi tay lái.
    Người Việt "vượt" từ Ngư-nghiệp sang thẳng Nông-nghiệp
    Sau khi duyệt-xét lại những biến-chuyển về địa-thế bờ biển Đông-Á vào khoảng thời-gian từ 15,000 năm TTL. đến 4,000 TTL., nhà địa-lý-học Carl Sauer đi đến kết-luận: Đông-Nam-Á là nơi khởi-sự nông-nghiệp.
    Theo một số học-giả Việt-Nam, danh-tự "Việt" có nghiã là tiến lên, vượt trội lên... Tính kiên-quyết của dân ta vượt mọi khó khăn trở ngại biểu-lộ ngay từ trong những ngày đầu sinh-hoạt. Nhà địa-lý-học Carl Sauer đã đề-cao tinh-thần tiến-bộ của dân-cư giống Việt (Yủeh) vào giai-đoạn khởi-nguyên nền văn-hoá Hoà-Bình ở vùng đất "Sunda -Hoà Bình" như sau: "Mực nước biển dâng cao làm tăng thêm nhịp bồi đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị ngập lụt. Dân-cư khi xưa ở rải rác thì lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo những nguồn nước... Một thế-giới mới đã thành hình, sự thay đổi môi-trường vật-lý địa-dư đã trở thành cơ-hội thuận-tiện tối-đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí óc tò mò để tìm thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp."

    Người Việt Nông-nghiệp và Thương-Mại
    Trong sinh-hoạt nông-nghiệp, người ta thường chia người Đông-Nam-Á làm hai loại: dân miền cao và dân miền xuôi. Dân miền cao trồng các loại hoa màu hợp cho vùng đất khô ráo. Dân miền xuôi canh-tác lúa nước, cần dẫn nước vào ruộng. Phải cần kỹ-thuật cao và có tổ-chức điều-hành tốt thì số lượng thực-phẩm sản-xuất mới gia-tăng.
    Xã-hội miền xuôi lại có thể phân-biệt thành hai thành-phần: là nông-dân và thương-gia. Đạc-điểm sinh-hoạt này được Donald G. McCloud trình-bày. Ông viết rằng: Dân-cư đồng bằng có hai nghề canh-nông và thương-mại, tức là cầy bừa ruộng nương và buôn bán viễn-dương. Nhóm hải-hành viễn-dương trao đổi hàng-hoá có nhiều cơ-hội trở nên giàu sang và thường nắm giữ thế-lực chính-trị. Nếu thế xã-hội Việt ngày xưa, rất có thể chỉ gồm hai giới Nông và Công
    Khi xem xét tình-trạng Đông-Nam-Á từ thế-kỷ thư 9 đến 14, các nhà nghiên-cứu hợp-biên một sộ sách nhan đề: "Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries," (e***ed by David G. Marr and A. C. Milner), Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, phát-hành năm 1986. Các báo-cáo của nhóm này cho thấy xã-hội Đại-Việt vẫn còn mang nhiều nét văn-hoá địa-phương Đông-Nam-Á hơn là văn-hoá Trung-Hoa. Hệ-thống xã-hội "Sĩ Nông Công Thương" mới thành-hình khi nước ta nhiễm cái ảnh-hưởng văn-hoá Trung-Hoa một cách nặng-nề mà thôi.
    Người Tàu lúc xưa rất run sợ trước những chuyến hải-hành xuyên-dương như: phải đi tàu Man, sợ cướp, sợ bị giết, sợ chết đuối, sợ xa nhà nhiều năm... Trong khi đó, sách sử Trung-Hoa ghi chép nhiều chi-tiết về hoạt-động thương mại của người Bách-Việt. Sinh-hoạt của những thương-gia Việt giầu có kiểu "phú-gia địch-quốc" nhờ thương-mại viễn-duyên được ghi lại khá nhiều. Theo học-giả Sterling Seagrave thì những người Trung-Hoa trong nước và hải-ngoại giầu có ngày nay là nhờ đươc thừa-hưởng truyền-thống thương-mại từ người Việt thời chiến-quốc. Seagrave không ngại-ngần, đã sử-dụng những "chữ lớn" như Roots (gốc rẽ), Children of Yueh (con cháu người Việt) để đề-cập đến nhiều nhân-vật kim cổ nổi danh như vậy.
  3. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Người Việt và những Phát-minh thiết-yếu đóng góp cho Nhân-loại
    Trái đất chúng ta đang ở có tới gần ba phần tư bề mặt che phủ bởi nước. Các nhà văn-minh-học đều đồng-ý rằng văn-minh loài người tiến-triển được là nhờ sự chuyển-vận.
    Các sách Bách-Khoa Từ-Điển đồng-ý rằng cho đến ngày nay, chuyển-vận đường thủy vẫn quan-trọng hơn đường bộ và đường hàng-không. Nếu so với sự phát-triển đường biển thì "chuyển-vận trên đất liền phát-triển với một mức-độ chậm chạp hơn nhiều... Sự chuyển-vận đường bộ được cải-thiện rất ít cho mãi tới năm 1825, khi kỹ-sư người Anh George Stephenson áp-dụng máy hơi nước để chạy một đầu máy xe lửa ...
    Sinh-hoạt trên địa-bàn "Nước", dân Việt là tác-giả hầu hết những phát-minh thiết-yếu về đường thủy. Bè, thuyền độc-mộc, mái chèo, cánh buồm, bánh lái, thuyền nhiều thân (outriggers) cây xiếm ... là những công-trình sáng-tạo mà tiền-nhân ta đóng góp cho sự tiến-bộ của nhân-loại.
    Về đẩy thuyền (propulsion), kể từ việc dùng bè thả trôi cho đến cả kỹ-thuật cao như việc đi ngược gió hay lái thuyền tự-động cũng đều do tiền-nhân chúng ta tạo-dựng. Thành-quả đáng kể nhất có lẽ là cách sử-dụng phối-hợp tài-tình hai hệ-thống buồm và xiếm. Nhờ vậy, một số loại ghe thuyền ở Việt-Nam có thể tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa đổi tay lái.
    Người Việt "vượt" từ Ngư-nghiệp sang thẳng Nông-nghiệp
    Sau khi duyệt-xét lại những biến-chuyển về địa-thế bờ biển Đông-Á vào khoảng thời-gian từ 15,000 năm TTL. đến 4,000 TTL., nhà địa-lý-học Carl Sauer đi đến kết-luận: Đông-Nam-Á là nơi khởi-sự nông-nghiệp.
    Theo một số học-giả Việt-Nam, danh-tự "Việt" có nghiã là tiến lên, vượt trội lên... Tính kiên-quyết của dân ta vượt mọi khó khăn trở ngại biểu-lộ ngay từ trong những ngày đầu sinh-hoạt. Nhà địa-lý-học Carl Sauer đã đề-cao tinh-thần tiến-bộ của dân-cư giống Việt (Yủeh) vào giai-đoạn khởi-nguyên nền văn-hoá Hoà-Bình ở vùng đất "Sunda -Hoà Bình" như sau: "Mực nước biển dâng cao làm tăng thêm nhịp bồi đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị ngập lụt. Dân-cư khi xưa ở rải rác thì lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo những nguồn nước... Một thế-giới mới đã thành hình, sự thay đổi môi-trường vật-lý địa-dư đã trở thành cơ-hội thuận-tiện tối-đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí óc tò mò để tìm thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp."

    Người Việt Nông-nghiệp và Thương-Mại
    Trong sinh-hoạt nông-nghiệp, người ta thường chia người Đông-Nam-Á làm hai loại: dân miền cao và dân miền xuôi. Dân miền cao trồng các loại hoa màu hợp cho vùng đất khô ráo. Dân miền xuôi canh-tác lúa nước, cần dẫn nước vào ruộng. Phải cần kỹ-thuật cao và có tổ-chức điều-hành tốt thì số lượng thực-phẩm sản-xuất mới gia-tăng.
    Xã-hội miền xuôi lại có thể phân-biệt thành hai thành-phần: là nông-dân và thương-gia. Đạc-điểm sinh-hoạt này được Donald G. McCloud trình-bày. Ông viết rằng: Dân-cư đồng bằng có hai nghề canh-nông và thương-mại, tức là cầy bừa ruộng nương và buôn bán viễn-dương. Nhóm hải-hành viễn-dương trao đổi hàng-hoá có nhiều cơ-hội trở nên giàu sang và thường nắm giữ thế-lực chính-trị. Nếu thế xã-hội Việt ngày xưa, rất có thể chỉ gồm hai giới Nông và Công
    Khi xem xét tình-trạng Đông-Nam-Á từ thế-kỷ thư 9 đến 14, các nhà nghiên-cứu hợp-biên một sộ sách nhan đề: "Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries," (e***ed by David G. Marr and A. C. Milner), Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, phát-hành năm 1986. Các báo-cáo của nhóm này cho thấy xã-hội Đại-Việt vẫn còn mang nhiều nét văn-hoá địa-phương Đông-Nam-Á hơn là văn-hoá Trung-Hoa. Hệ-thống xã-hội "Sĩ Nông Công Thương" mới thành-hình khi nước ta nhiễm cái ảnh-hưởng văn-hoá Trung-Hoa một cách nặng-nề mà thôi.
    Người Tàu lúc xưa rất run sợ trước những chuyến hải-hành xuyên-dương như: phải đi tàu Man, sợ cướp, sợ bị giết, sợ chết đuối, sợ xa nhà nhiều năm... Trong khi đó, sách sử Trung-Hoa ghi chép nhiều chi-tiết về hoạt-động thương mại của người Bách-Việt. Sinh-hoạt của những thương-gia Việt giầu có kiểu "phú-gia địch-quốc" nhờ thương-mại viễn-duyên được ghi lại khá nhiều. Theo học-giả Sterling Seagrave thì những người Trung-Hoa trong nước và hải-ngoại giầu có ngày nay là nhờ đươc thừa-hưởng truyền-thống thương-mại từ người Việt thời chiến-quốc. Seagrave không ngại-ngần, đã sử-dụng những "chữ lớn" như Roots (gốc rẽ), Children of Yueh (con cháu người Việt) để đề-cập đến nhiều nhân-vật kim cổ nổi danh như vậy.
  4. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Địa-bàn Cư-trú của Tổ-tiên và Nhu-cầu của Quân Thủy
    Địa-bàn cư-trú chủ-yếu của tổ-tiên ta là khu-vực mới được phù-sa sông Hồng, sông Mã bồi đắp. Vùng đất này nằm giữa một bên là núi cao, một bên là biển cả.
    Địa-bàn sinh-hoạt thời cổ cũng là nơi giao-tiếp giữa hai môi-trường: núi và biển. Có hai đặc-điểm nổi bật lên như sau:
    - Hệ-thống sông ngòi thoát nước dày đặc, có hình-dạng nan quạt ở đầu thượng nguồn.
    - Mưa lũ hàng năm tràn lan khắp nơi. Nước chảy đến mấy chỗ trũng, tạo ra vô số đầm lầy, hồ ao chi chít.
    Địa-hình tạo nên một ''thế-giới nước'' tác-động trực-tiếp đến cuộc sống hàng ngày của người Việt cổ. Các di-tích khảo-cổ cho chúng ta biết rằng tất cả các địa-điểm cư-trú đều nằm trên các gò bãi. Có thể nói nước bao quanh làng xã Viêt-Nam. Nước tạo nên biên-giới thiên-nhiên chia cắt từng vùng đất. Nước là môi-trường sinh-sống của người Viêt-Nam.
    Từ lâu, khái-niệm về quê-hương, xứ sở, về lãnh-thổ, tổ-quốc đã được tổ-tiên ta thể-hiện bằng tên của môi-trường gắn chặt với cuộc sống của mình: Nước !
    Phương-tiện di-chuyển chính-yếu của người dân Việt thời cổ suốt mấy chục ngàn năm là thuyền bè. Ngay khi một tập-hợp võ-trang nào đó được hình-thành, thuyền bè đương-nhiên trở nên phương-tiện đầu tiên và căn-bản của các cuộc hành-quân. Những trang-bị trên thuyền lập tức biến thành khí-cụ cơ-hữu của quân thủy.
    Những người lính Việt đầu tiên của quân-ngũ có lẽ không mang nặng nhiệm-vụ bảo-vệ "diện-địa". Những quân-nhân này nằm lòng phần trọng-trách giữ an-ninh "đường thủy" nhiều hơn. Từ-ngữ "giữ nước" có thể đã ghi lại dấu vết rằng "các người lính đầu tiên phục-vụ dưới cờ nước ta là những người lính thủy".
    Có nhiều lý-lẽ tạo nên sự tin-tưởng rằng Thủy-quân của ta ra đời trước Lục-quân.
    Huyền-sử "Nước" và Thần-thoại Dân-tộc
    Các truyền-thuyết xưa nhất của dân-tộc đều là những truyện cổ-tích mà nội-dung có gốc rễ sâu đậm về hàng-hải. Xin lược-kê một số nhỏ như sau:
    - Dân ta khởi đi từ Động-Đình-Hồ, dòng dõi Long-Quân với các vua Kinh-Dương-Vương, Lạc-Long-Quân.
    - Bọc trăm trứng sinh trăm con: 50 con lên núi, 50 con xuống biển.
    - Người Văn-Lang làm nghề chài lưới, vua bắt dân lấy chàm vẽ mình để thuồng luồng tưởng rằng đồng-loại mà không làm hại.
    - Thuyền của dân ta vẽ hai con mắt, có ý để cho các thủy-quái ở sông, ở bể không quấy-nhiễu đến.
    - Truyện Thủy-tinh đánh nhau với Sơn-Tinh...
    Bàn về danh-hiệu của Kinh-Dương Vương và Lạc-Long Quân ta không thể quên chữ Kinh tức là đất Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa-bàn của giống Giao-Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc-Long Quân cũng vậy. Danh-hiệu này chỉ có nghiã là vua của giống Lạc-Long cũng như Kinh-Dương Vương là vua miền châu Kinh, châu Dương. Lạc-Long Quân lấy Âu-Cơ tức nàng con gái đất Âu. Chữ Âu là tên một con sông nước Việt (Chiết-Giang) ngày nay vẫn còn. Nó nhắc chữ Âu-Lạc, Âu-Việt, Đông-Âu, Tây Âu ... Tất cả địa-đanh đều ở miền Biển, chằng chịt nhiều sông hồ.
    Huyền-sử nước ta đưa ra nhiều hình-ảnh về những chuyến di-dân từ Biển Đông vào cư-trú dọc duyên-hải, chẳng hạn như các chuyện sau đây:
    Truyện Lạc-Long-Quân kể rằng: Ông vua Rồng này có quê Mẹ từ ngoài biển cả đi vào, giúp dân trừ yêu-quái trên đất liền, dạy dân cách trồng lúa để ăn, may quần áo để mặc. Sau này dù Lạc-Long-Quân đã bắt cóc và lấy Âu-Cơ thuộc giống tiên làm vợ, nhưng ông thường trở về lại Thủy-Cung.
    Huyền-thoại Sơn-tinh Thủy-tinh làm chứng cho giai-đoạn giao-tiếp giữa những "người đường biển" và những "người đường cao". Cảnh-trí tuy ghi lại từ thời những Vua Hùng dựng nước, nhưng chứng-tích khảo-cổ lại tiết-lộ rằng thời-gian đã có thể xảy ra từ hàng chục ngàn năm trước.
    Thần-thoại "Ông Thần Độc-Cước" vùng Sầm Sơn, Thanh-Hoá cũng vậy. Vị thần loại-trừ bọn cướp từ biển vào, toán giặc từ núi xuống, giữ cho dân vùng duyên-hải được yên ổn làm ăn.

    Hình-bóng Thần-kỳ của Hải-quân
    Truyện Sơn-tinh Thủy-tinh làm chứng cho giai-đoạn giao-tiếp giữa những "người đường biển" và những "người đường cao". Huyền-thoại được kể như ghi lại trong thời những Vua Hùng dựng nước, nhưng chứng-tích khảo-cổ lại có thể tiết-lộ khác-biệt: thời-gian hai sinh-hoạt của cư-dân từ Biển Đông đi lên và từ Núi Rừng đi xuống, giao-tiếp nhau đã xảy ra từ hàng chục ngàn năm trước. Và cũng có thể là ... tiền-thân của những người chiến-sĩ biển đã xuất-hiện qua vai trò Thủy-Tinh
    Trong giai-đoạn sáu chục ngàn năm, tính từ các chuyến đi Úc của người Đông-Nam-Á đến khi Vua Hùng dựng nước Văn-Lang, chắc chắn đã có nhiều tổ-chức hay lực-lượng trên Biển Đông của dân ta được thành-lập. Trong sứ-mạng bảo-vệ các hoạt-động thủy-sinh cho đồng-bào, những tổ-chức quân thủy này chắc chắn là các nhóm võ-trang đầu-tiên của nhân-loại chiến-đấu trên mặt nước.
    Sinh-hoạt trong môi-trường "nước Biển Đông", quân thủy của ta ngay từ những ngày đầu đã là hải-quân nước xanh thuần-tuý. Ý-tưởng "Nước Nâu trước, Nước Xanh sau" của Đại-tá Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ chỉ đúng cho các khu-vực ngoài Đông-Nam-Á mà thôi.
    Vua Hồng Lạc (Bua, Bố Rồng) từ biển vào bờ, định-quốc an-dân, mang hình-ảnh hào-hùng của một vị Tổ tiên-khởi Hải-quân ngày nay. Theo ý ông Trần-Quốc-Vượng, Lạc-Long-Quân là vị anh-hùng văn-hoá lớn nhất của Thần-thoại Việt-Nam, từ biển tới, từ sông lên, diệt "Ngư-tinh", "Mộc-tinh", "Hồ-tinh", khai-sáng miền châu-thổ sông Hồng. Lạc-Long-Quân cũng là vị anh-hùng văn-hoá đầu tiên chống sự xâm-lấn của phương Bắc (Đế-Lai), bảo hộ lãnh-thổ riêng cho con cháu dựng nước..."
    Những Đường Thuyền-nhân Di-tản
    Dân Việt là giống dân bản-địa của Biển Đông. Tuy yêu quê-hương, nhưng cũng có ngườI vì hoàn-cảnh ngặt nghèo mà phải ly-hương.
    Di-cư đường biển là đề-tài đã được nhiều học-giả nghiên-cứu. Elden Best tìm ra nhiều nguyên-nhân đã khiến người ta phải rời bỏ quê-hương đi xa. Trường-hợp "Thuyền-nhân Việt ly-hương" ngày nay và 4,000 năm trước, cũng nằm trong những lý-lẽ tương-tự.
    Học-giả Mỹ Stephen C. Jett có cùng ý-kiến với Elden Best, nhận thấy nhiều chứng-tích rằng người tị-nạn cũng thực-hiện những chuyến xuyên Thái-Bình-Dương. Các áp-lực của dân Tàu tại vùng Đông-Á, những sự bành-trướng lãnh-thổ của nước Trung-Hoa đã tạo nên nhiền đợt di-dân đông đảo đi về Nam, chạy ra các đảo, và lang bạt ra xa cho tới tận Phi-Châu và Mã-Đảo. Jett cũng như nhiều nhà khảo-cứu tiếng-tăm khác cho rằng nhiều ít phải có những nhóm di-tản đã vượt đại-dương qua Mỹ-Châu.
    Một số Học-giả tiền-tiến người Trung-Hoa cũng nhận thấy rằng dân Bách-Việt đã tới Mỹ-Châu. Theo Paul Shao, tuy người ta thấy có dấu-vết văn-minh Trung-Hoa trên đất Mỹ nhưng những di-dân Á-Đông mang văn-minh đi truyền-bá phần lớn lại không phải người Trung-hoa thuần-túy mà là các giống dân khác như Đông-Di, Nam-Man...
    Nhân dịp phổ-biến các kết-quả khảo-cứu, Paul Shao đã kêu gọi mọi người nghiên-cứu kỹ-lưỡng vai trò khai-phá Mỹ-châu của tị-nạn Việt chúng ta, đặc-biệt là các "thuyền-nhân" trốn chạy ngoại-xâm.
  5. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Địa-bàn Cư-trú của Tổ-tiên và Nhu-cầu của Quân Thủy
    Địa-bàn cư-trú chủ-yếu của tổ-tiên ta là khu-vực mới được phù-sa sông Hồng, sông Mã bồi đắp. Vùng đất này nằm giữa một bên là núi cao, một bên là biển cả.
    Địa-bàn sinh-hoạt thời cổ cũng là nơi giao-tiếp giữa hai môi-trường: núi và biển. Có hai đặc-điểm nổi bật lên như sau:
    - Hệ-thống sông ngòi thoát nước dày đặc, có hình-dạng nan quạt ở đầu thượng nguồn.
    - Mưa lũ hàng năm tràn lan khắp nơi. Nước chảy đến mấy chỗ trũng, tạo ra vô số đầm lầy, hồ ao chi chít.
    Địa-hình tạo nên một ''thế-giới nước'' tác-động trực-tiếp đến cuộc sống hàng ngày của người Việt cổ. Các di-tích khảo-cổ cho chúng ta biết rằng tất cả các địa-điểm cư-trú đều nằm trên các gò bãi. Có thể nói nước bao quanh làng xã Viêt-Nam. Nước tạo nên biên-giới thiên-nhiên chia cắt từng vùng đất. Nước là môi-trường sinh-sống của người Viêt-Nam.
    Từ lâu, khái-niệm về quê-hương, xứ sở, về lãnh-thổ, tổ-quốc đã được tổ-tiên ta thể-hiện bằng tên của môi-trường gắn chặt với cuộc sống của mình: Nước !
    Phương-tiện di-chuyển chính-yếu của người dân Việt thời cổ suốt mấy chục ngàn năm là thuyền bè. Ngay khi một tập-hợp võ-trang nào đó được hình-thành, thuyền bè đương-nhiên trở nên phương-tiện đầu tiên và căn-bản của các cuộc hành-quân. Những trang-bị trên thuyền lập tức biến thành khí-cụ cơ-hữu của quân thủy.
    Những người lính Việt đầu tiên của quân-ngũ có lẽ không mang nặng nhiệm-vụ bảo-vệ "diện-địa". Những quân-nhân này nằm lòng phần trọng-trách giữ an-ninh "đường thủy" nhiều hơn. Từ-ngữ "giữ nước" có thể đã ghi lại dấu vết rằng "các người lính đầu tiên phục-vụ dưới cờ nước ta là những người lính thủy".
    Có nhiều lý-lẽ tạo nên sự tin-tưởng rằng Thủy-quân của ta ra đời trước Lục-quân.
    Huyền-sử "Nước" và Thần-thoại Dân-tộc
    Các truyền-thuyết xưa nhất của dân-tộc đều là những truyện cổ-tích mà nội-dung có gốc rễ sâu đậm về hàng-hải. Xin lược-kê một số nhỏ như sau:
    - Dân ta khởi đi từ Động-Đình-Hồ, dòng dõi Long-Quân với các vua Kinh-Dương-Vương, Lạc-Long-Quân.
    - Bọc trăm trứng sinh trăm con: 50 con lên núi, 50 con xuống biển.
    - Người Văn-Lang làm nghề chài lưới, vua bắt dân lấy chàm vẽ mình để thuồng luồng tưởng rằng đồng-loại mà không làm hại.
    - Thuyền của dân ta vẽ hai con mắt, có ý để cho các thủy-quái ở sông, ở bể không quấy-nhiễu đến.
    - Truyện Thủy-tinh đánh nhau với Sơn-Tinh...
    Bàn về danh-hiệu của Kinh-Dương Vương và Lạc-Long Quân ta không thể quên chữ Kinh tức là đất Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa-bàn của giống Giao-Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc-Long Quân cũng vậy. Danh-hiệu này chỉ có nghiã là vua của giống Lạc-Long cũng như Kinh-Dương Vương là vua miền châu Kinh, châu Dương. Lạc-Long Quân lấy Âu-Cơ tức nàng con gái đất Âu. Chữ Âu là tên một con sông nước Việt (Chiết-Giang) ngày nay vẫn còn. Nó nhắc chữ Âu-Lạc, Âu-Việt, Đông-Âu, Tây Âu ... Tất cả địa-đanh đều ở miền Biển, chằng chịt nhiều sông hồ.
    Huyền-sử nước ta đưa ra nhiều hình-ảnh về những chuyến di-dân từ Biển Đông vào cư-trú dọc duyên-hải, chẳng hạn như các chuyện sau đây:
    Truyện Lạc-Long-Quân kể rằng: Ông vua Rồng này có quê Mẹ từ ngoài biển cả đi vào, giúp dân trừ yêu-quái trên đất liền, dạy dân cách trồng lúa để ăn, may quần áo để mặc. Sau này dù Lạc-Long-Quân đã bắt cóc và lấy Âu-Cơ thuộc giống tiên làm vợ, nhưng ông thường trở về lại Thủy-Cung.
    Huyền-thoại Sơn-tinh Thủy-tinh làm chứng cho giai-đoạn giao-tiếp giữa những "người đường biển" và những "người đường cao". Cảnh-trí tuy ghi lại từ thời những Vua Hùng dựng nước, nhưng chứng-tích khảo-cổ lại tiết-lộ rằng thời-gian đã có thể xảy ra từ hàng chục ngàn năm trước.
    Thần-thoại "Ông Thần Độc-Cước" vùng Sầm Sơn, Thanh-Hoá cũng vậy. Vị thần loại-trừ bọn cướp từ biển vào, toán giặc từ núi xuống, giữ cho dân vùng duyên-hải được yên ổn làm ăn.

    Hình-bóng Thần-kỳ của Hải-quân
    Truyện Sơn-tinh Thủy-tinh làm chứng cho giai-đoạn giao-tiếp giữa những "người đường biển" và những "người đường cao". Huyền-thoại được kể như ghi lại trong thời những Vua Hùng dựng nước, nhưng chứng-tích khảo-cổ lại có thể tiết-lộ khác-biệt: thời-gian hai sinh-hoạt của cư-dân từ Biển Đông đi lên và từ Núi Rừng đi xuống, giao-tiếp nhau đã xảy ra từ hàng chục ngàn năm trước. Và cũng có thể là ... tiền-thân của những người chiến-sĩ biển đã xuất-hiện qua vai trò Thủy-Tinh
    Trong giai-đoạn sáu chục ngàn năm, tính từ các chuyến đi Úc của người Đông-Nam-Á đến khi Vua Hùng dựng nước Văn-Lang, chắc chắn đã có nhiều tổ-chức hay lực-lượng trên Biển Đông của dân ta được thành-lập. Trong sứ-mạng bảo-vệ các hoạt-động thủy-sinh cho đồng-bào, những tổ-chức quân thủy này chắc chắn là các nhóm võ-trang đầu-tiên của nhân-loại chiến-đấu trên mặt nước.
    Sinh-hoạt trong môi-trường "nước Biển Đông", quân thủy của ta ngay từ những ngày đầu đã là hải-quân nước xanh thuần-tuý. Ý-tưởng "Nước Nâu trước, Nước Xanh sau" của Đại-tá Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ chỉ đúng cho các khu-vực ngoài Đông-Nam-Á mà thôi.
    Vua Hồng Lạc (Bua, Bố Rồng) từ biển vào bờ, định-quốc an-dân, mang hình-ảnh hào-hùng của một vị Tổ tiên-khởi Hải-quân ngày nay. Theo ý ông Trần-Quốc-Vượng, Lạc-Long-Quân là vị anh-hùng văn-hoá lớn nhất của Thần-thoại Việt-Nam, từ biển tới, từ sông lên, diệt "Ngư-tinh", "Mộc-tinh", "Hồ-tinh", khai-sáng miền châu-thổ sông Hồng. Lạc-Long-Quân cũng là vị anh-hùng văn-hoá đầu tiên chống sự xâm-lấn của phương Bắc (Đế-Lai), bảo hộ lãnh-thổ riêng cho con cháu dựng nước..."
    Những Đường Thuyền-nhân Di-tản
    Dân Việt là giống dân bản-địa của Biển Đông. Tuy yêu quê-hương, nhưng cũng có ngườI vì hoàn-cảnh ngặt nghèo mà phải ly-hương.
    Di-cư đường biển là đề-tài đã được nhiều học-giả nghiên-cứu. Elden Best tìm ra nhiều nguyên-nhân đã khiến người ta phải rời bỏ quê-hương đi xa. Trường-hợp "Thuyền-nhân Việt ly-hương" ngày nay và 4,000 năm trước, cũng nằm trong những lý-lẽ tương-tự.
    Học-giả Mỹ Stephen C. Jett có cùng ý-kiến với Elden Best, nhận thấy nhiều chứng-tích rằng người tị-nạn cũng thực-hiện những chuyến xuyên Thái-Bình-Dương. Các áp-lực của dân Tàu tại vùng Đông-Á, những sự bành-trướng lãnh-thổ của nước Trung-Hoa đã tạo nên nhiền đợt di-dân đông đảo đi về Nam, chạy ra các đảo, và lang bạt ra xa cho tới tận Phi-Châu và Mã-Đảo. Jett cũng như nhiều nhà khảo-cứu tiếng-tăm khác cho rằng nhiều ít phải có những nhóm di-tản đã vượt đại-dương qua Mỹ-Châu.
    Một số Học-giả tiền-tiến người Trung-Hoa cũng nhận thấy rằng dân Bách-Việt đã tới Mỹ-Châu. Theo Paul Shao, tuy người ta thấy có dấu-vết văn-minh Trung-Hoa trên đất Mỹ nhưng những di-dân Á-Đông mang văn-minh đi truyền-bá phần lớn lại không phải người Trung-hoa thuần-túy mà là các giống dân khác như Đông-Di, Nam-Man...
    Nhân dịp phổ-biến các kết-quả khảo-cứu, Paul Shao đã kêu gọi mọi người nghiên-cứu kỹ-lưỡng vai trò khai-phá Mỹ-châu của tị-nạn Việt chúng ta, đặc-biệt là các "thuyền-nhân" trốn chạy ngoại-xâm.
  6. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Nước Văn-Lang , Văn-minh Đông-Sơn và Thế-lực trên Biển
    Văn-Lang là danh-hiệu nước ta thời-đại Hùng-Vương. Đồ Đồng và nhất là các trống Đông-Sơn được sản-xuất vào thiên-kỷ thứ nhất TTL. tiêu-biểu cho nền văn-hoá của dân-tộc thời-kỳ mở nước và dựng nước.
    "Không-gian của xã-hội Văn-Lang - Âu-Lạc là không-gian của Văn-Hoá Đông-Sơn, cũng là không-gian tìm được nhiều trống Đông-Sơn nhất và tồn-tại nhiều trống cổ nhất. Đó là vùng Bắc Việt-Nam và khu-vực Nam Hoa-Nam." Thời-gian là thời-đại Hùng-Vương. Những sinh-hoạt (dân-gian) lúc đó được ghi nhận qua nhiều hình ảnh trên trống đồng.
    Sử-gia D. G. E. Hall nhận-xét về người Việt thời Hùng-Vương như sau: "Dân thuộc văn-hoá Đông-Sơn phát-triển cao-độ khả-năng hàng-hải và kiến-trúc Tàu bè, họ là những nhà hàng-hải gan dạ với số vốn hiểu biết nào đó về Thiên-văn-học." Trong khi nghiên-cứu, Peter Bellwood lấy thêm tái-liệu của Spiegel (197, Badner (1972) để chứng-minh và đi đến kết-luận là những kiểu mẫu kỷ-hà đặc-biệt của Đông-Sơn tìm thấy ở vùng Sepik, quần-đảo Admiralties, New Ireland, và Trobriand Islands...
    Khi khảo-sát văn-hoá thời Đông-Sơn, nhiều học-giả gồm cả Đông-phương lẫn Tây-phương như Chikamouri, Bezacier, Manuel, và nhất là Keith Weller Taylor, đã đồng-ý rằng: "Các hình vẽ và trang-trí trên trống đồng Đông-Sơn luôn luôn tạo nên ý-tưởng về những biểu-tượng của nghệ-thuật hàng-hải, đồng-thời minh-chứng một cách không thể lầm lẫn về tầm ảnh-hưởng của một thế-lực dựa trên căn-bản của biển cả."
    Thủy-quân của Vua Hùng và Trống Đồng-cổ Đan-NêHuyền-thoại sớm-sủa nhất về chiến-công của Thủy-quân Văn-Lang được nhắc nhở qua chứng-tích một ngôi đền cổ tại tỉnh Thanh-Hoá. Sau chuyến viễn-chinh thắng giặc vùng duyên-hải phiá Nam mà sau này là đất Chiêm-Thành, một vị vua Hùng đã cho đúc trống đồng kỷ-niệm và lập đền thờ Đồng-Cổ trên núi Tam-Thai, xã Đan-Nê. Gần 3,000 năm trước, vùng châu thổ chưa được phù-sa bồi đắp, sông ngòi đầm lầy, ao hồ khắp nơi. Từ kinh-đô Phong-Châu (huyện Bạch-Hạc, tỉnh Vĩnh-Yên ngày nay) khi muốn viễn-chinh tiễu-trừ giặc miền biển (Trung-Việt ngày nay), nhà Vua chỉ có mỗi một phương-tiện là sử-dụng thủy-quân để có thể di-chuyển, tiếp-liệu, bất-thần tấn-công và truy-sát kẻ địch tận ngoài khơi mà thôi.
    Chiến-tích của Thủy-Quân cũng ngẫu-nhiên mang lại vinh-dự cho Trống Đồng Đan-Nê. Những ghi chép về trống đồng cổ trong sử sách Việt Nam còn lại rất ít, và thật ra cũng chỉ xoay quanh hai chiếc trống mà thôi. Nguyễn Duy Hinh trong bài "Trống Đồng trong Sử Sách" cũng nhắc đến tình trạng này. Trống Đan Nê đã được các sách nhắc đến: Việt Điện U linh (1029) , Đại Việt Sử ký Toàn thư (1479) , Lĩnh Nam chích quái (1492-1493) Đại Nam Nhất thống Chí . Những đoạn văn ghi chép trong các sách này khẳng định, bổ sung nhau và được xác định chắc chắn thêm qua tư liệu dân tộc học. Một chiếc khác có khả năng là trống Miếu Môn I, có thể đã được ghi nhận trong thần tích của làng Thượng Lâm, do Đinh Tiên Hoàng ban thưởng để làm trống thờ.

    Pháo-tiễn đầu tiên trên Chiến-thuyền
    Trong các trống đồng Đông-Sơn, trống đồng Ngọc Lũ I là một sản phẩm đã xuất hiện hồi thế kỷ VII trước công nguyên. Chiến-thuyền phải có trước trống đồng một thời gian và có cơ sở để giả định rằng trước đây khoảng 2800 năm hoặc 2900 năm hay hơn nữa, người Việt Nam hoặc 2900 năm hay hơn nữa, người Việt Nam cổ đại đã biết chế tạo ra chiến-thuyền có pháo-tháp nỏ thần cho thủy-quân.
    Huyền-thoại "Nỏ Thần" đã được tiền-nhân chúng ta kể đi kể lại từ nhiều nghìn năm qua. Tuy vậy, chỉ mới vào thế-kỷ thứ 20, người ta mới tìm được chứng-tích trên trống đồng. Và hiển-nhiên hơn nữa, các nhà khảo-cổ đã đào được hàng ngàn mũi tên đồng ở Đồng-Đậu, Gò Mun và Cổ-Loa.
    Các chiến-thuyền đời Hùng-Vương với Nỏ Thần được ghi lại rất rõ nét trên nhiều chiếc trống đồng. Nỏ Thần đặt trên Pháo-tháp là thượng-tầng kiến-trúc của chiến-thuyền. Nét vẽ tuy ít nhưng cho thấy cơ-quan máy móc để nạp pháo-tiễn liên-hoàn. - Vào thời đó, vũ-khí này rất lợi hại vì có tầm xa, bắn cả tên bằng đồng hay tên lửa. Cánh nỏ và mũi tên lớn quá khổ, có tới 2-3m.
    Cổ-Loa thành, Căn-cứ Hải-Quân
    Cuối thời đại Hùng Vương, cụ thể là thời kỳ nước Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, thủy quân của nước Việt Nam cổ đại lại được tổ chức quy mô hơn. Các công trình nghiên cứu về thành Cổ Loa cho chúng ta biết rằng: Bao quanh thành Cổ Loa có ba con hào ăn thông với nhau và thông với sông Hoàng Giang. Nhờ vậy thuyền bè có thể đi lại xung quanh cả ba vòng thành và có thể ra sông Hoàng Giang, sông Hồng, sông Cầu, sông Lục Đầu để tiến ra biển Đông. Truyền thuyết nói An Dương Vương thường ngự thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng Giang.
    Như vậy thành Cổ Loa không chỉ là một căn cứ bộ binh mà con là một căn cứ thủy binh nữa. Khu Đầm và cả khu "Vườn thuyền" của miền Cổ Loa xưa có đủ chỗ cho hàng trăm chiếc thuyền đậu và đi lại.
    Cổ-Loa có vị-trí thuận-lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng-bằng Bắc-Bộ vào thời nhà Thục (257-207 TTL.). Căn-cứ thủy-binh này chính là vị-trí chiến-lược, nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới của sông Thái-Bình. Hai mạng lưới này chi phối toàn bộ hệ-thống đường thủy tại Bắc Bộ. Qua con sông Hoàng, chiến-thuyền có thể toả đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng, có thể thâm-nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc-Bộ. Nếu xuôi sông Hồng, chiến-thuyền có thể ra đến Biển Đông. Còn muốn đến vùng Đông Bắc-Bộ thì dùng con sông Cầu để thâm-nhập vào hệ-thống sông Thái-Bình đến tận sông Thương và sông Lục-Nam.
    Thành-tích viễn-dương của tiền-nhân Việt
    Trên quan-điểm của một người Á-Đông, Wang Gungwu đã làm một cuộc nghiên-cứu về giao-thương thời cổ trong biển Nam-Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ-biến kết-quả của công-trình đó, cơ-sở xuất-bản của Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát-hành một cuốn sách nhan-đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea".
    Wang mô-tả khá đầy đủ về những hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ trước khi thành-lập triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, thổ-dân người Việt, sau khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, vẫn tiếp-tục nắm giữ hầu hết ngành hàng-hải dọc duyên-hải hay đường viễn-duyên đến các nước Đông-Nam-Á và ?zn-Độ, như đã từng nắm giữ trước kia.
    Thương-cảng sầm uất ngày xưa
    Về các thương-cảng, Wang cho rằng từ thời cổ xưa cho đến đời Tống, cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Á và Đông-Nam-Á đều ở Bắc-phần nước ta. Đặc-biệt là Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội ngày nay) với vùng hậu-cảng trù-phú nhất đế-quốc Hán là quận Giao-Chỉ.
    Con đường biển buôn bán các đồ gia vị (Spice route) cổ-thời không qua đến Tầu mà chỉ đến Trung và Bắc Việt Nam rồi mới theo đường bộ mà sang nam Trung Hoa.
    G. R. G. Worcester cho rằng Hà-Nội đúng là trạm hải-hành cuối cùng giữa Tây-phương và Đông-Á trong cổ-thời. Worcester hình-dung một "hải-trình tơ lụa" như sau: "...có thể đã có những ảnh-hưởng qua giao-tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa-trung-Hải, vì người ta tin rằng những thương-gia Phoenicia trên hải-trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông-Dương vào năm 650 TTL."
    Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển và viết sách địa-lý. Ông hình-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese, biển Sinus Magnus với hải-cảng Kattigara. Không còn nghi-ngờ gì, Sinus Magnus chính là Biển Đông nước ta. Có người cho rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Catigara hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay.
    Sau khi nước ta thâu-hồi được nền tự-chủ, các sách Việt-sử ghi-nhận những hoạt-động hải-thương sầm-uất nơi các hải-cảng như Hoa-Lư, Vân-Đồn, Phố-Hiến Hội-An...
    Thủy-quân thời Trưng-Vương
    Các sách sử giáo-khoa ghi chép sơ sài về triều-đại Trưng-Vương. Những khám-phá gần đây tìm ra các hoạt-động của thủy-quân thời đó. Cả tên của các vị chỉ-huy quân thủy cũng đã được mang ra ánh-sáng.
    Lạc-tướng Cao-Đoan là một tên tuổi hãn-hữu còn sót lại như là vị Bộ-Trưởng Thủy-Quân kiêm Đô-Đốc Tư-Lệnh Hạm-Đội đầu tiên của nước ta. Tham-khảo một số tài-liệu mới, các nhà sưu-tầm sử liệu tìm thấy như sau:
    Tướng Cao-Đoan là người làng Hạ-Lôi, cùng huyện Châu-Phong với hai vua Trưng. Ông tự chiêu-mộ nghĩa-quân nổi lên đánh quân Tàu, sau theo phò Trưng-Vương. Ông lập được nhiều công-trạng thủy-chiến. Phu-Nhân họ Cao là trợ-thủ đác-lực cho chồng. Tướng Cao-Đoan nắm trọng-trách thủy-quân trong suốt triều-đại Trưng-Vương. Khi Hán-Đế sai Mã-Viện đem quân sang xâm-lược, Ông cùng vợ đem quân thủy chống giữ các nơi hiểm-yếu. Tướng Cao-Đoan bị tử-thương, Ông chết ngày 20 tháng 7 năm 43. Dân ta nhớ ơn, lập đền thờ hương khói cả hai vợ chồng.
    Ngoài chiến-công của các nữ-tướng về bộ-chiến, nhiều thành-tích thủy-chiến vào thờI Hai Vua Bà cũng đang được các nhà viết sử thu-nhặt. Qua tài-liệu của các thần-phả, nhiều lần Bác-sĩ Trần-Đại-Sĩ đã tôn-vinh các chiến-công thủy-chiến thời xưa trong pho thiểu-thuyết "Anh-Hùng Lĩnh-Nam."

    Tướng-lãnh Thủy-quân và đền thờ Rồng, Rắn

    Thờ-kính và noi gương anh-hùng dân-tộc là truyền-thống dân-tộc. Vì ảnh-hưởng của sinh-hoạt đi vào tín-ngưỡng, dân ta lập đền thờ Rồng Rắn khắp nơi, đồng-hoá thủy-quái với danh-nhân cứu-quốc. Giáo-sư Trần-Quốc-Vượng nhận ra rằng:
    "Dọc sông ngòi miền Bắc - sông con, sông cái - đâu chẳng có đền thờ rắn hay rồng (cho dù với xu-hướng "lịch sử-hoá", rắn rồng đã hoá thành tướng Hùng-Vương, tướng bà Trưng, tướng Triệu Việt Vương...). Và bao quanh những đền thờ đó là hội nước, hội đua thuyền cầu mưa. Rắn rồng, thuồng luồng, cá sấu... là biểu-tượng của Nước, của Thần Nước, của Mưa Dông."
    Thủy-quân Việt kháng-chiến thời Đô-HộSau khi Triệu Đà đánh chiếm nước Âu Lạc (năm 180 trước công nguyên) cho đến đầu thế kỷ X, nước Việt Nam cổ đại bị đặt dưới nền đô hộ của giai cấp phong kiến phương Bắc. Thời gian đen tối này dài đến hơn mười thế kỷ. Hơn mười thế kỷ này là hơn mười thế kỷ nước Việt Nam mất chủ quyền, nhưng trong thời gian đó nhân dân Việt Nam vẫn không ngừng đấu tranh nhằm giành lại nền độc lập đã bị mất. Vì vậy trong suốt hơn mười thế kỷ đó, bằng các trận đánh giặc cứu nước, nhân dân Việt Nam không thể không dùng thủy quân. Trong các trận chiến đấu chống quân Lương. Lý Bôn, Triệu Quang Phục đã dùng thủy quân.
  7. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Nước Văn-Lang , Văn-minh Đông-Sơn và Thế-lực trên Biển
    Văn-Lang là danh-hiệu nước ta thời-đại Hùng-Vương. Đồ Đồng và nhất là các trống Đông-Sơn được sản-xuất vào thiên-kỷ thứ nhất TTL. tiêu-biểu cho nền văn-hoá của dân-tộc thời-kỳ mở nước và dựng nước.
    "Không-gian của xã-hội Văn-Lang - Âu-Lạc là không-gian của Văn-Hoá Đông-Sơn, cũng là không-gian tìm được nhiều trống Đông-Sơn nhất và tồn-tại nhiều trống cổ nhất. Đó là vùng Bắc Việt-Nam và khu-vực Nam Hoa-Nam." Thời-gian là thời-đại Hùng-Vương. Những sinh-hoạt (dân-gian) lúc đó được ghi nhận qua nhiều hình ảnh trên trống đồng.
    Sử-gia D. G. E. Hall nhận-xét về người Việt thời Hùng-Vương như sau: "Dân thuộc văn-hoá Đông-Sơn phát-triển cao-độ khả-năng hàng-hải và kiến-trúc Tàu bè, họ là những nhà hàng-hải gan dạ với số vốn hiểu biết nào đó về Thiên-văn-học." Trong khi nghiên-cứu, Peter Bellwood lấy thêm tái-liệu của Spiegel (197, Badner (1972) để chứng-minh và đi đến kết-luận là những kiểu mẫu kỷ-hà đặc-biệt của Đông-Sơn tìm thấy ở vùng Sepik, quần-đảo Admiralties, New Ireland, và Trobriand Islands...
    Khi khảo-sát văn-hoá thời Đông-Sơn, nhiều học-giả gồm cả Đông-phương lẫn Tây-phương như Chikamouri, Bezacier, Manuel, và nhất là Keith Weller Taylor, đã đồng-ý rằng: "Các hình vẽ và trang-trí trên trống đồng Đông-Sơn luôn luôn tạo nên ý-tưởng về những biểu-tượng của nghệ-thuật hàng-hải, đồng-thời minh-chứng một cách không thể lầm lẫn về tầm ảnh-hưởng của một thế-lực dựa trên căn-bản của biển cả."
    Thủy-quân của Vua Hùng và Trống Đồng-cổ Đan-NêHuyền-thoại sớm-sủa nhất về chiến-công của Thủy-quân Văn-Lang được nhắc nhở qua chứng-tích một ngôi đền cổ tại tỉnh Thanh-Hoá. Sau chuyến viễn-chinh thắng giặc vùng duyên-hải phiá Nam mà sau này là đất Chiêm-Thành, một vị vua Hùng đã cho đúc trống đồng kỷ-niệm và lập đền thờ Đồng-Cổ trên núi Tam-Thai, xã Đan-Nê. Gần 3,000 năm trước, vùng châu thổ chưa được phù-sa bồi đắp, sông ngòi đầm lầy, ao hồ khắp nơi. Từ kinh-đô Phong-Châu (huyện Bạch-Hạc, tỉnh Vĩnh-Yên ngày nay) khi muốn viễn-chinh tiễu-trừ giặc miền biển (Trung-Việt ngày nay), nhà Vua chỉ có mỗi một phương-tiện là sử-dụng thủy-quân để có thể di-chuyển, tiếp-liệu, bất-thần tấn-công và truy-sát kẻ địch tận ngoài khơi mà thôi.
    Chiến-tích của Thủy-Quân cũng ngẫu-nhiên mang lại vinh-dự cho Trống Đồng Đan-Nê. Những ghi chép về trống đồng cổ trong sử sách Việt Nam còn lại rất ít, và thật ra cũng chỉ xoay quanh hai chiếc trống mà thôi. Nguyễn Duy Hinh trong bài "Trống Đồng trong Sử Sách" cũng nhắc đến tình trạng này. Trống Đan Nê đã được các sách nhắc đến: Việt Điện U linh (1029) , Đại Việt Sử ký Toàn thư (1479) , Lĩnh Nam chích quái (1492-1493) Đại Nam Nhất thống Chí . Những đoạn văn ghi chép trong các sách này khẳng định, bổ sung nhau và được xác định chắc chắn thêm qua tư liệu dân tộc học. Một chiếc khác có khả năng là trống Miếu Môn I, có thể đã được ghi nhận trong thần tích của làng Thượng Lâm, do Đinh Tiên Hoàng ban thưởng để làm trống thờ.

    Pháo-tiễn đầu tiên trên Chiến-thuyền
    Trong các trống đồng Đông-Sơn, trống đồng Ngọc Lũ I là một sản phẩm đã xuất hiện hồi thế kỷ VII trước công nguyên. Chiến-thuyền phải có trước trống đồng một thời gian và có cơ sở để giả định rằng trước đây khoảng 2800 năm hoặc 2900 năm hay hơn nữa, người Việt Nam hoặc 2900 năm hay hơn nữa, người Việt Nam cổ đại đã biết chế tạo ra chiến-thuyền có pháo-tháp nỏ thần cho thủy-quân.
    Huyền-thoại "Nỏ Thần" đã được tiền-nhân chúng ta kể đi kể lại từ nhiều nghìn năm qua. Tuy vậy, chỉ mới vào thế-kỷ thứ 20, người ta mới tìm được chứng-tích trên trống đồng. Và hiển-nhiên hơn nữa, các nhà khảo-cổ đã đào được hàng ngàn mũi tên đồng ở Đồng-Đậu, Gò Mun và Cổ-Loa.
    Các chiến-thuyền đời Hùng-Vương với Nỏ Thần được ghi lại rất rõ nét trên nhiều chiếc trống đồng. Nỏ Thần đặt trên Pháo-tháp là thượng-tầng kiến-trúc của chiến-thuyền. Nét vẽ tuy ít nhưng cho thấy cơ-quan máy móc để nạp pháo-tiễn liên-hoàn. - Vào thời đó, vũ-khí này rất lợi hại vì có tầm xa, bắn cả tên bằng đồng hay tên lửa. Cánh nỏ và mũi tên lớn quá khổ, có tới 2-3m.
    Cổ-Loa thành, Căn-cứ Hải-Quân
    Cuối thời đại Hùng Vương, cụ thể là thời kỳ nước Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, thủy quân của nước Việt Nam cổ đại lại được tổ chức quy mô hơn. Các công trình nghiên cứu về thành Cổ Loa cho chúng ta biết rằng: Bao quanh thành Cổ Loa có ba con hào ăn thông với nhau và thông với sông Hoàng Giang. Nhờ vậy thuyền bè có thể đi lại xung quanh cả ba vòng thành và có thể ra sông Hoàng Giang, sông Hồng, sông Cầu, sông Lục Đầu để tiến ra biển Đông. Truyền thuyết nói An Dương Vương thường ngự thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng Giang.
    Như vậy thành Cổ Loa không chỉ là một căn cứ bộ binh mà con là một căn cứ thủy binh nữa. Khu Đầm và cả khu "Vườn thuyền" của miền Cổ Loa xưa có đủ chỗ cho hàng trăm chiếc thuyền đậu và đi lại.
    Cổ-Loa có vị-trí thuận-lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng-bằng Bắc-Bộ vào thời nhà Thục (257-207 TTL.). Căn-cứ thủy-binh này chính là vị-trí chiến-lược, nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới của sông Thái-Bình. Hai mạng lưới này chi phối toàn bộ hệ-thống đường thủy tại Bắc Bộ. Qua con sông Hoàng, chiến-thuyền có thể toả đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng, có thể thâm-nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc-Bộ. Nếu xuôi sông Hồng, chiến-thuyền có thể ra đến Biển Đông. Còn muốn đến vùng Đông Bắc-Bộ thì dùng con sông Cầu để thâm-nhập vào hệ-thống sông Thái-Bình đến tận sông Thương và sông Lục-Nam.
    Thành-tích viễn-dương của tiền-nhân Việt
    Trên quan-điểm của một người Á-Đông, Wang Gungwu đã làm một cuộc nghiên-cứu về giao-thương thời cổ trong biển Nam-Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ-biến kết-quả của công-trình đó, cơ-sở xuất-bản của Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát-hành một cuốn sách nhan-đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea".
    Wang mô-tả khá đầy đủ về những hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ trước khi thành-lập triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, thổ-dân người Việt, sau khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, vẫn tiếp-tục nắm giữ hầu hết ngành hàng-hải dọc duyên-hải hay đường viễn-duyên đến các nước Đông-Nam-Á và ?zn-Độ, như đã từng nắm giữ trước kia.
    Thương-cảng sầm uất ngày xưa
    Về các thương-cảng, Wang cho rằng từ thời cổ xưa cho đến đời Tống, cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Á và Đông-Nam-Á đều ở Bắc-phần nước ta. Đặc-biệt là Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội ngày nay) với vùng hậu-cảng trù-phú nhất đế-quốc Hán là quận Giao-Chỉ.
    Con đường biển buôn bán các đồ gia vị (Spice route) cổ-thời không qua đến Tầu mà chỉ đến Trung và Bắc Việt Nam rồi mới theo đường bộ mà sang nam Trung Hoa.
    G. R. G. Worcester cho rằng Hà-Nội đúng là trạm hải-hành cuối cùng giữa Tây-phương và Đông-Á trong cổ-thời. Worcester hình-dung một "hải-trình tơ lụa" như sau: "...có thể đã có những ảnh-hưởng qua giao-tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa-trung-Hải, vì người ta tin rằng những thương-gia Phoenicia trên hải-trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông-Dương vào năm 650 TTL."
    Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển và viết sách địa-lý. Ông hình-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese, biển Sinus Magnus với hải-cảng Kattigara. Không còn nghi-ngờ gì, Sinus Magnus chính là Biển Đông nước ta. Có người cho rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Catigara hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay.
    Sau khi nước ta thâu-hồi được nền tự-chủ, các sách Việt-sử ghi-nhận những hoạt-động hải-thương sầm-uất nơi các hải-cảng như Hoa-Lư, Vân-Đồn, Phố-Hiến Hội-An...
    Thủy-quân thời Trưng-Vương
    Các sách sử giáo-khoa ghi chép sơ sài về triều-đại Trưng-Vương. Những khám-phá gần đây tìm ra các hoạt-động của thủy-quân thời đó. Cả tên của các vị chỉ-huy quân thủy cũng đã được mang ra ánh-sáng.
    Lạc-tướng Cao-Đoan là một tên tuổi hãn-hữu còn sót lại như là vị Bộ-Trưởng Thủy-Quân kiêm Đô-Đốc Tư-Lệnh Hạm-Đội đầu tiên của nước ta. Tham-khảo một số tài-liệu mới, các nhà sưu-tầm sử liệu tìm thấy như sau:
    Tướng Cao-Đoan là người làng Hạ-Lôi, cùng huyện Châu-Phong với hai vua Trưng. Ông tự chiêu-mộ nghĩa-quân nổi lên đánh quân Tàu, sau theo phò Trưng-Vương. Ông lập được nhiều công-trạng thủy-chiến. Phu-Nhân họ Cao là trợ-thủ đác-lực cho chồng. Tướng Cao-Đoan nắm trọng-trách thủy-quân trong suốt triều-đại Trưng-Vương. Khi Hán-Đế sai Mã-Viện đem quân sang xâm-lược, Ông cùng vợ đem quân thủy chống giữ các nơi hiểm-yếu. Tướng Cao-Đoan bị tử-thương, Ông chết ngày 20 tháng 7 năm 43. Dân ta nhớ ơn, lập đền thờ hương khói cả hai vợ chồng.
    Ngoài chiến-công của các nữ-tướng về bộ-chiến, nhiều thành-tích thủy-chiến vào thờI Hai Vua Bà cũng đang được các nhà viết sử thu-nhặt. Qua tài-liệu của các thần-phả, nhiều lần Bác-sĩ Trần-Đại-Sĩ đã tôn-vinh các chiến-công thủy-chiến thời xưa trong pho thiểu-thuyết "Anh-Hùng Lĩnh-Nam."

    Tướng-lãnh Thủy-quân và đền thờ Rồng, Rắn

    Thờ-kính và noi gương anh-hùng dân-tộc là truyền-thống dân-tộc. Vì ảnh-hưởng của sinh-hoạt đi vào tín-ngưỡng, dân ta lập đền thờ Rồng Rắn khắp nơi, đồng-hoá thủy-quái với danh-nhân cứu-quốc. Giáo-sư Trần-Quốc-Vượng nhận ra rằng:
    "Dọc sông ngòi miền Bắc - sông con, sông cái - đâu chẳng có đền thờ rắn hay rồng (cho dù với xu-hướng "lịch sử-hoá", rắn rồng đã hoá thành tướng Hùng-Vương, tướng bà Trưng, tướng Triệu Việt Vương...). Và bao quanh những đền thờ đó là hội nước, hội đua thuyền cầu mưa. Rắn rồng, thuồng luồng, cá sấu... là biểu-tượng của Nước, của Thần Nước, của Mưa Dông."
    Thủy-quân Việt kháng-chiến thời Đô-HộSau khi Triệu Đà đánh chiếm nước Âu Lạc (năm 180 trước công nguyên) cho đến đầu thế kỷ X, nước Việt Nam cổ đại bị đặt dưới nền đô hộ của giai cấp phong kiến phương Bắc. Thời gian đen tối này dài đến hơn mười thế kỷ. Hơn mười thế kỷ này là hơn mười thế kỷ nước Việt Nam mất chủ quyền, nhưng trong thời gian đó nhân dân Việt Nam vẫn không ngừng đấu tranh nhằm giành lại nền độc lập đã bị mất. Vì vậy trong suốt hơn mười thế kỷ đó, bằng các trận đánh giặc cứu nước, nhân dân Việt Nam không thể không dùng thủy quân. Trong các trận chiến đấu chống quân Lương. Lý Bôn, Triệu Quang Phục đã dùng thủy quân.
  8. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
  9. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
  10. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Oh yeah!
    Mấy ông tổ ngày xưa còn bán thuyền độc mộc cho dân da đỏ ở châu Mỹ, thế nên ngày nay người ta mới có cái từ canoe

Chia sẻ trang này