1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Redcrystalheart, 11/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Nếu bạn căn cứ vào 2 chỗ bạn tô đậm để khẳng định Văn Lang = Việt Thường thì rõ ràng là bạn đã tự mâu thuẫn với bản thẩn vì trong cái danh sách 15 bộ mà người đời sau gán cho thời Hùng vương (theo như tôi đã nói ở trên) thì Văn Lang và Việt Thường là 2 bộ riêng biệt. Nếu bạn có điều kiện tra cứu thêm, bạn sẽ thấy danh sách 15 bộ trên không thống nhất và sẽ nảy sinh vấn đề 15 bộ đó được đặt tên dựa trên nguyên tắc nào.
    Thư tịch TQ đã cho biết đến thời CHiến Quốc, tại vùng Giang Nam và Bắc VN, nơi có các tộc người vốn bị người Hán gọi là Man, Di đã hình thành các "nước" gọi chung là Bách Việt như Đông Việt ở Triết Giang (chứ không phải Âu/U Việt), Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc VN, chưa kể có cả Dạ Lang ở Kiến Vi và Thương Ngô nữa ...(nước mà phía bắc giáp Động đình hồ ...)
    Bạn càng nói thì càng để hổng những lỗ hổng lớn về lí luận và kiến thức. Như chúng ta đã thống nhất với nhau thì vùng nam sông Dương Tử được coi là vùng của cư dân Bách Việt, chuyện các thư tịch của TQ nhầm giữ nước Việt này vơinứớc Việt kia là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra nhưng nếu như theo những thời điểm bạn nêu ra thì Viêt Câu tiễn lại càng không thể là 1 Hùng vương và tổ tiên ông ta lại càng không phải là Hùng vương được vì trong lúc mà Việt Câu Tiễn lo đánh nhau với các nước chư hầu khác thì Hùng vương đã "cha truyền con nối" ở bộ Văn Lang thuộc địa bàn Phong Châu - Vĩnh Phú rồi.
    Còn có ai không bảo Việt vương Câu Tiễn không phải người Việt đâu? Nhưng mà ông ta là người Việt nào đấy chứ không phải là người Việt trong nước Văn Lang do Hùng Vương đứng đầu. Lý do: xin đọc lại đoạn cuối bài trên.
  2. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Không có chuyện dân Bách Việt là người Hán thưa bác lonesome ạh. Điều này đã được khẳng định bởi các nhà học giả cả ta lẫn tây lẫn tàu. Mới đây nhất là trong quyển " Heaven in the East " của GS. Oppenheimer đã đưa ra các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Các dân tộc Nam Trường Giang ở đây chính là Việt tộc của nước ÂU Việt tại vùng Cối Kê. Nếu các bác đã đọc phần chứng minh nguồn gốc văn minh lúa nước là từ người Bách Việt hay người Nam Á các bác sẽ kiểm chứng được những gì tôi đã nói ở trên.
    Được Redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 01:32 ngày 13/03/2005
  3. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Không có chuyện dân Bách Việt là người Hán thưa bác lonesome ạh. Điều này đã được khẳng định bởi các nhà học giả cả ta lẫn tây lẫn tàu. Mới đây nhất là trong quyển " Heaven in the East " của GS. Oppenheimer đã đưa ra các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Các dân tộc Nam Trường Giang ở đây chính là Việt tộc của nước ÂU Việt tại vùng Cối Kê. Nếu các bác đã đọc phần chứng minh nguồn gốc văn minh lúa nước là từ người Bách Việt hay người Nam Á các bác sẽ kiểm chứng được những gì tôi đã nói ở trên.
    Được Redcrystalheart sửa chữa / chuyển vào 01:32 ngày 13/03/2005
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Việt Thường Thị: tên nước thời cổ ở phía Nam Trung Quốc có quan hệ với nhà Chu (hiến chim trĩ cho Thành Vương), lần đầu tiên được ghi trong sách Thượng Thư Đại Truyện. Có nhiều giải thích khác nhau, có thuyết nói rằng Việt Thường Thị ở miền quận Cửu Đức, tức miền Hà Tĩnh (Thủy Kinh Chú, Cựu Đường Thư); có thuyết nói Việt Thường thị ở vị trí nước Lâm Ấp đời sau (Văn Hiến thông khảo, Minh Sử, Minh nhất thống chí).
    Thượng thư đại truyện - sách có ghi vụ năm 1109 TrCN, đời vua Thành Vương nhà Chu có nước Việt Thường ở phía Nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim Bạch trĩ sang cống...trải qua 3 lần thông ngôn mới hiểu được nhau, sau đó vua nhà Chu phải tạo ra cái xe chỉ Nam để sứ giả về được nước nhà - là do học trò Phục Thắng soạn ra vào đời Hán, không đáng tin cậy lắm vì trong "Chu Thư" không thấy ghi việc này. Cần chú ý "Việt Thường" không chỉ có ở Giao Chỉ mà còn có ở Dự Châu. Ghi chép chính xác đầu tiên vê Việt Thường cống 1 trĩ trắng và 2 trĩ đen là vào năm thứ 1 đầu Công nguyên. Việt Thường là tên 1 huyện ở Giao Châu chỉ ra đời vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên
    Đó là do bạn đọc không ddến nơi, suy nghĩ không đến chốn. Nếu quả thực bạn có ý định nghiên cứu nghiêm túc về thời kì này, tôi mong bạn hãy đọc qua các cuốn như "Hùng Vương Dựng nước (4 tập)", "Thời kì Hùng vương" (1 tập" để hiểu rõ tại sao các sử gia phong kiến có nhầm lẫn này. Như tôi đã nói ở bài trên, việc các sử gia phong kiến vì những lí do chủ quan cũng như khách quan đã "chép nhầm" ranh giới của nước Dạ Lang vào cương vực nước Văn Lang đã khiến cho trong cùng 1 tài liệu lại có 2 cương vực khác nhau. Cho đến nay, bằng nhiều phương pháp khác nhau (nghiên cứu thư tịch, khảo cổ học địa danh, khảo cổ học, dân tộc học, ngữ ngôn học, nhân chủng học ..), các nhà khoa học đã thống nhất cương vực của nước Văn Lang chỉ bao gọn trong các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cộng thêm 1 phần vùng Lưỡng Quảng của TQ.
    Bởi vì bạn thiếu quá nhiều nguồn tư liệu nên tôi cảm thấy việc tranh luận với bạn thật là khó khăn. Bạn chỉ căn cứ vào 1 số ít tài liệu có trong tay và suy luận hết sức duy ý chí nên thwường có những suy luận thật là chủ quan và phi thực tế, chẳng hạn như những cái tên của 15 bộ lập thành nước Văn Lang, mối quan hệ của các bộ trong liên minh đó ... bây giờ thì bạn lậi lô cái ông Aurousso ra. Vậy thì thưa bạn, bạn có biết rằng cũng chính những học giả người Pháp cũng đã không thống nhất với nhau về nhận định về tổ tiên của dân Viêt không? Ngoài ý kiến của Aurousso cho rằng người Việt cổ có gốc từ người Việt ở Thiệu Hưng (Triết Giang TQ) mà bạn gọi là Âu/U Việt của Câu Tiễn (Xem: Cuộc xâm lăng lần thứ nhất của người Trung Hoa vào đất An Nam, chữ Pháp, Tập san trường Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội 1923, tập XXIII) ra thì còn có ý kiến của Cl. Madron cho rằng người Việt cổ là người Học Lão, Phúc Kiến, Trung Quốc (xem Bắc kì xưa, chữ Pháp, Tập san trường Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội 1937, tập VXXVII), Từ Tùng Thạch cho rằng người Việt cũng là người CHoang phân bố khắp vùng nam Trung Quốc mà người Choang thì cũng chính là người Hán (xem Lịch sử cư dân ở lưu vực sông Việt, chữ Hán, Bắc Kinh, 1939).
    Tôi chỉ liệt kê sơ 1 số ý như thế, chi tiết sẽ bổ sung sau. Chỉ moing bjan nhớ trả lời các câu hỏi của tôi chứ đừng đánh trống lảng nhé.
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Việt Thường Thị: tên nước thời cổ ở phía Nam Trung Quốc có quan hệ với nhà Chu (hiến chim trĩ cho Thành Vương), lần đầu tiên được ghi trong sách Thượng Thư Đại Truyện. Có nhiều giải thích khác nhau, có thuyết nói rằng Việt Thường Thị ở miền quận Cửu Đức, tức miền Hà Tĩnh (Thủy Kinh Chú, Cựu Đường Thư); có thuyết nói Việt Thường thị ở vị trí nước Lâm Ấp đời sau (Văn Hiến thông khảo, Minh Sử, Minh nhất thống chí).
    Thượng thư đại truyện - sách có ghi vụ năm 1109 TrCN, đời vua Thành Vương nhà Chu có nước Việt Thường ở phía Nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim Bạch trĩ sang cống...trải qua 3 lần thông ngôn mới hiểu được nhau, sau đó vua nhà Chu phải tạo ra cái xe chỉ Nam để sứ giả về được nước nhà - là do học trò Phục Thắng soạn ra vào đời Hán, không đáng tin cậy lắm vì trong "Chu Thư" không thấy ghi việc này. Cần chú ý "Việt Thường" không chỉ có ở Giao Chỉ mà còn có ở Dự Châu. Ghi chép chính xác đầu tiên vê Việt Thường cống 1 trĩ trắng và 2 trĩ đen là vào năm thứ 1 đầu Công nguyên. Việt Thường là tên 1 huyện ở Giao Châu chỉ ra đời vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên
    Đó là do bạn đọc không ddến nơi, suy nghĩ không đến chốn. Nếu quả thực bạn có ý định nghiên cứu nghiêm túc về thời kì này, tôi mong bạn hãy đọc qua các cuốn như "Hùng Vương Dựng nước (4 tập)", "Thời kì Hùng vương" (1 tập" để hiểu rõ tại sao các sử gia phong kiến có nhầm lẫn này. Như tôi đã nói ở bài trên, việc các sử gia phong kiến vì những lí do chủ quan cũng như khách quan đã "chép nhầm" ranh giới của nước Dạ Lang vào cương vực nước Văn Lang đã khiến cho trong cùng 1 tài liệu lại có 2 cương vực khác nhau. Cho đến nay, bằng nhiều phương pháp khác nhau (nghiên cứu thư tịch, khảo cổ học địa danh, khảo cổ học, dân tộc học, ngữ ngôn học, nhân chủng học ..), các nhà khoa học đã thống nhất cương vực của nước Văn Lang chỉ bao gọn trong các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cộng thêm 1 phần vùng Lưỡng Quảng của TQ.
    Bởi vì bạn thiếu quá nhiều nguồn tư liệu nên tôi cảm thấy việc tranh luận với bạn thật là khó khăn. Bạn chỉ căn cứ vào 1 số ít tài liệu có trong tay và suy luận hết sức duy ý chí nên thwường có những suy luận thật là chủ quan và phi thực tế, chẳng hạn như những cái tên của 15 bộ lập thành nước Văn Lang, mối quan hệ của các bộ trong liên minh đó ... bây giờ thì bạn lậi lô cái ông Aurousso ra. Vậy thì thưa bạn, bạn có biết rằng cũng chính những học giả người Pháp cũng đã không thống nhất với nhau về nhận định về tổ tiên của dân Viêt không? Ngoài ý kiến của Aurousso cho rằng người Việt cổ có gốc từ người Việt ở Thiệu Hưng (Triết Giang TQ) mà bạn gọi là Âu/U Việt của Câu Tiễn (Xem: Cuộc xâm lăng lần thứ nhất của người Trung Hoa vào đất An Nam, chữ Pháp, Tập san trường Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội 1923, tập XXIII) ra thì còn có ý kiến của Cl. Madron cho rằng người Việt cổ là người Học Lão, Phúc Kiến, Trung Quốc (xem Bắc kì xưa, chữ Pháp, Tập san trường Viễn Đông Bác Cổ, Hà Nội 1937, tập VXXVII), Từ Tùng Thạch cho rằng người Việt cũng là người CHoang phân bố khắp vùng nam Trung Quốc mà người Choang thì cũng chính là người Hán (xem Lịch sử cư dân ở lưu vực sông Việt, chữ Hán, Bắc Kinh, 1939).
    Tôi chỉ liệt kê sơ 1 số ý như thế, chi tiết sẽ bổ sung sau. Chỉ moing bjan nhớ trả lời các câu hỏi của tôi chứ đừng đánh trống lảng nhé.
  6. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Bác lonesome lại hiểu nhầm tôi về việc này rồi!Tôi không hề nói bộ lạc Văn Lang là bộ lạc Việt Thường mà là nước Văn Lang sau này đổi tên thành nước Việt Thường. Ý của tôi là về mặt lãnh thổ thì nước Văn Lang chính là nước Việt Thường. Chỉ có sự thay đổi về quốc hiệu!!
    Quốc hiệu Việt Thường có được nhắc đến trong chính sử hay không thì các bác xem Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trang 5 sẽ rõ
    Mời bạn xem tập Việt Sử Toàn Thư của học giả Phạm Văn Sơn, trong đó có giải thích rõ nguyên nhân dẫn đến giả thuyết này.
    Tuy nhiên, ngay tôi cũng không nghĩ rằng Câu Tiễn là một trong những Hùng Vương, chỉ post lên cho các bác hay và xem thử phản ứng của các bác như thế nào thôi!!
    Âu Việt/ U Việt có tồn tại hay ko thì bác đọc cuốn " Heaven in the East " sẽ rõ, tôi không tranh luận thêm về vấn đề này.
    Thế đấy, vậy mà tôi cứ đi chứng minh Câu Tiễn là người Việt cho bác.
  7. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Bác lonesome lại hiểu nhầm tôi về việc này rồi!Tôi không hề nói bộ lạc Văn Lang là bộ lạc Việt Thường mà là nước Văn Lang sau này đổi tên thành nước Việt Thường. Ý của tôi là về mặt lãnh thổ thì nước Văn Lang chính là nước Việt Thường. Chỉ có sự thay đổi về quốc hiệu!!
    Quốc hiệu Việt Thường có được nhắc đến trong chính sử hay không thì các bác xem Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trang 5 sẽ rõ
    Mời bạn xem tập Việt Sử Toàn Thư của học giả Phạm Văn Sơn, trong đó có giải thích rõ nguyên nhân dẫn đến giả thuyết này.
    Tuy nhiên, ngay tôi cũng không nghĩ rằng Câu Tiễn là một trong những Hùng Vương, chỉ post lên cho các bác hay và xem thử phản ứng của các bác như thế nào thôi!!
    Âu Việt/ U Việt có tồn tại hay ko thì bác đọc cuốn " Heaven in the East " sẽ rõ, tôi không tranh luận thêm về vấn đề này.
    Thế đấy, vậy mà tôi cứ đi chứng minh Câu Tiễn là người Việt cho bác.
  8. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Kinh đô Văn Lang có bị di dời hay không thì chẳng còn sách nào ghi lại được.Trong thư tịch cổ của ta lẫn tàu đều không nói đến một thời tồn tại của nước Việt Thường ( trên đất Văn Lang xưa ) thì làm sao biết được có chuyện dời đô hay không?! Kinh đô của nước Âu Lạc dời đến vùng Phong Khê, An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở đây, tức thuộc bộ Việt Thường ( Đại Việt Sử Ký, trang 6 ). Nhưng việc đóng đô ở đâu thì chẳng liên quan gì đến vấn đề này cả, cái đấy là phụ thuộc vào các yếu tố thuận lợi theo tiêu chuẩn của người xưa trong việc chọn nơi đóng đô.
    Dân Việt Thường hay dân Văn Lang thì đều là người Việt tộc như anh em trong nhà vậy. Thiết nghĩ việc người anh hay người em trong gia đình có quyền lực nhiều hơn thì có gì đáng bàn nếu không xảy ra những biến cố lớn ảnh hưởng trực tiếp đời sống của nhân dân hay sự an nguy của quốc gia. Người dân vẫn sống trong hoà thuận, yên ổn sinh sống và suốt thời kì trị vì của một ông vua mới nếu chẳng có gì khác trước thì chẳng có gì để viết nên một truyền thuyết cả. Hoặc nếu có đi chăng nữa thì nó có được lưu truyền đến bây giờ hay không? Các truyền thuyết của dân tộc ta trong 18 đời vua Hùng ( 2622 năm ) đến ngày nay còn lưu truyền được bao nhiêu??
    Không phải tôi muốn nói chống chế cho qua chuyện mà thực tế nó là như vậy đấy.
  9. Redcrystalheart

    Redcrystalheart Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2004
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Kinh đô Văn Lang có bị di dời hay không thì chẳng còn sách nào ghi lại được.Trong thư tịch cổ của ta lẫn tàu đều không nói đến một thời tồn tại của nước Việt Thường ( trên đất Văn Lang xưa ) thì làm sao biết được có chuyện dời đô hay không?! Kinh đô của nước Âu Lạc dời đến vùng Phong Khê, An Dương Vương xây thành Cổ Loa ở đây, tức thuộc bộ Việt Thường ( Đại Việt Sử Ký, trang 6 ). Nhưng việc đóng đô ở đâu thì chẳng liên quan gì đến vấn đề này cả, cái đấy là phụ thuộc vào các yếu tố thuận lợi theo tiêu chuẩn của người xưa trong việc chọn nơi đóng đô.
    Dân Việt Thường hay dân Văn Lang thì đều là người Việt tộc như anh em trong nhà vậy. Thiết nghĩ việc người anh hay người em trong gia đình có quyền lực nhiều hơn thì có gì đáng bàn nếu không xảy ra những biến cố lớn ảnh hưởng trực tiếp đời sống của nhân dân hay sự an nguy của quốc gia. Người dân vẫn sống trong hoà thuận, yên ổn sinh sống và suốt thời kì trị vì của một ông vua mới nếu chẳng có gì khác trước thì chẳng có gì để viết nên một truyền thuyết cả. Hoặc nếu có đi chăng nữa thì nó có được lưu truyền đến bây giờ hay không? Các truyền thuyết của dân tộc ta trong 18 đời vua Hùng ( 2622 năm ) đến ngày nay còn lưu truyền được bao nhiêu??
    Không phải tôi muốn nói chống chế cho qua chuyện mà thực tế nó là như vậy đấy.
  10. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Trích Kỷ yếu của Hội nghị nghiên cứu thời Kỳ Hùng Vương
    Nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương, chúng ta gặp nhiều vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề nguồn gốc tổ tiên ta và quan hệ của họ với cư dân miền nam Trung Quốc thời tiền sử. Nhà sử học Pháp Ô-ru-xô, người theo thuyết thiên di, đã căn cứ vào 1 câu trong Sử ký của Tư Mã hiên để đưa ra giả thuyết tổ tiên người Việt nam ngày nay là con cháu người Việt nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân Thu bị thế lực phương Bắc đẩy dần xuống phương Nam.
    Thực ra, các sử gia phong kiến cổ đại Trung Quốc từ trước, nhất là khoảng thế kỷ thứ 6 đến TK thứ 10, cũng đã hết sức quan tâm đến vấn đề này. Họ đã lần lượt đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau. Có người cho Việt là phiên âm của 1 tiếng địa phương thời ấy, nguyên là Ư Việt. Có người cho là Việt là cùng họ với Sở. Có người cho Việt là chỉ nói đến nhóm người ở xa trung tâm dân tộc Hán, không nằm trong vòng ?olễ nghĩa? của nhà Chu. Những nha nghiên cứu dân tộc Choang ngày nay cũng tranh luận sôi nổi xung quanh vấn đề tổ tiên người Choang là người Việt hay Bộc, là tây Âu hay Lạc Việt.
    Thiết tưởng muốn giải quyết vấn đề này cần phải tìm hiểu 2 vấn đề. Thứ nhất, là thời gian xuất hiện của từ Việt, sự phát triển của nó và ý nghĩa thật của nó. Thứ 2, là nghiên cứu nhận thức dân tộc học của những nhà viết sử phong kiến cổ đại Trung Quốc.
    Nhà sử học đời Đường Tư Mã Trinh nói rất rõ : Trước thời Xuân Thu thì người Chu chưa biết đến Việt. Như thế nghĩa là Việt lần đầu tiên xuất hiện cùng với ?oquốc gia? Việt thời Xuân Thu. Người ta biết quốc gia này ra đời vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên và lần đầu tiên được ghi chép vào bộ Tả truyện Xuân Thu Việt tuyệt thư, 2 tác phẩm thời Chiến Quốc mà người Hán đã sửa chữa thêm bớt khá nhiều. Như vậy, ta thấy từ Việt lần đầu tiên xuất hiện là để chỉ 1 nước vừa nổi lên vào thời gian chiến tranh Sở - Ngô ?" Việt. Đó là 1 danh từ riêng.
    Thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc, người trí thức phong kiến phương Bắc chỉ giới hạn sự hiểu biết của mình đến nước Việt ở phương Nam. Đương thời, họ quan niệm lưu vực Hoàng Hà là trung tâm văn minh, va xung quanh đều là lạc hậu mà họ gọi là ?otứ di?.
    ?oTứ di? gồm có động di, tây nhung, bắc địch và nam man. Đặc biệt là họ đã dùng chữ ?oman? để chỉ nhóm người ở phương Nam. Thời Tây Hán chữ ?oman? có nghĩa là hỗn độn không rõ. Ngày nay có người giải thích ?oman? có nghĩa là người biết nuôi tằm. Đó là giải thích theo kiểu chiết tự Hán ngữ hiện đại. Điều đó không đúng.
    Người Xuân Thu ?" Chiến Quốc hiểu về khu vực phía đông, phía tây và phía bắc khá nhiều, nhưng phía nam họ không hiểu mấy. Phương Nam đối với họ vẫn là 1 khối hỗn độn không phân biệt được. Thượng thư đại truyện, Lễ ký, Tiết dụng thiên, Lã thị Xuân Thu? có ghi vua Nghiêu trị đến Giao Chỉ. Đó là ghi sai do người Hán căn cứ vào 2 chữ ?onam giao? có nghĩa là ?ophương nam? trong Thượng thư ?" 1 tác phẩm thời Chiến Quốc để suy ra là Giao Chỉ.
    Đương thời, thế lực chính trị của phương Bắc chưa vượt qua được Trường Giang, và từ Giao Chỉ cũng chỉ mới ra đời vào thời Hán Vũ Đến. Nam man thời Chiến Quốc gồm cả Sở, Ngô, Việt là những nước đã từng xưng bá cả quốc gia Đông Chu.
    Tóm lại nam man là 1 từ mà người Xuân Thu dùng để chỉ cả khu vực hỗn độn, họ không hiểu biết mấy ở phía nam Trường Giang. Còn từ Việt là họ dùng để chỉ nước Việt của Câu tiễn nằm trong khối nam man.
    Tư Mã Thiên là người đầu tiên đã thu thập các tài liệu từ Xuân Thu đến Chiến Quốc và 1 ít tài liệu thời sơ kỳ Tây Hán để viết về người Việt đầy đủ nhất, phong phú nhất và cũng phức tạp nhất. Trong số 130 thiên của Sử ký, ông đã dành cho người Việt 5 thiên, chưa kể đến nhiều thiên khác đều có nói đến người Việt.
    Phân tích tỉ mỉ tất cả các tài liệu có chữ Việt trong Sử ký, ta có thể chia ra 4 nhóm tài liệu :
    - Nhóm thứ nhất nói về những sự việc có quan hệ rõ ràng với nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân Thu và các nước Đông Âu, Mân Việt trước thời Tần Hán.
    - Nhóm thứ 2 nói về những sự việc có quan hệ rõ ràng đến nước Nam Việt vừa mới hình thành vào thời Tần ?" Hán.
    - Nhóm thứ 3 nói đến Điền Việt và người Việt ở khu vực sông Phần.
    - Nhóm thứ tư nói chung cho nhiều nước ở Lĩnh Nam. 1 loại từ để chỉ khu vực cư trú, như Đông Việt chỉ người Việt ở phía đông bao gồm cả Mân Việt lẫn Đông Âu và cả khu vực Cối Kê nữa, Dương Việt để chỉ người Việt ở khu vực Dương Châu. Một loại từ để chỉ chung tất cả các nhóm về mặt dân tộc học khác nhau như bách Việt, Việt, Việt nhân, di Việt là để so sánh sự khác với Hồ và Hán ở phương Bắc.
    Qua đây ta thấy Tư Mã Thiên đã biến từ Việt, từ chỗ là 1 danh từ riêng ra đời thời Xuân Thu để chỉ nước Việt của Câu Tiễn, thành 1danh từ chung chỉ tất cả những nười ở khu vực nam man xưa.
    Khái niệm đó mãi về sau vẫn được giữ ổn định, cho nên đến khi phong kiến phương Bắc tiếp xúc với Lâm Ấp và các nước ở phía nam Lâm Ấp, họ cũng không bao giờ gộp cư dân ở khu vực đó vào khái niệm Việt cả. Trong khái niệm Việt của ông, Tư Mã Thiên đã gạt ra ngoài 3 khu vực : Sở, Ngô và Lạc Việt. Điều đó dễ hiểu. Sở và Ngô đã bị đồng hóa, mất hẳn tính chất độc lập vào cuối thời Chiến Quốc rồi. Còn Lạc Việt thì Tư Mã Thiên chưa có tài liệu đầy đủ. Theo 1 số ý kiến thì ông hoàn thành Sử ký vào năm 91 trước Công nguyên và phải dùng 20 năm mới viết xong. Do đó ta thấy ông viết Sử ký vào lúc quân Hán Vũ Đế vừa xâm chiếm khu vực Giao Chỉ, cho nên trong tác phẩm nổi tiếng ấy ông nói rất ít về Giao Chỉ. Phải chờ đến ban Cố, hơn 150 năm sau mới có những ghi ché`p về Lạc Việt và về Giao Chỉ rõ nét hơn.

Chia sẻ trang này