1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Lang, Việt Thường và nước Việt Câu Tiễn........

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Redcrystalheart, 11/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Trích Kỷ yếu của Hội nghị nghiên cứu thời Kỳ Hùng Vương
    Nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương, chúng ta gặp nhiều vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề nguồn gốc tổ tiên ta và quan hệ của họ với cư dân miền nam Trung Quốc thời tiền sử. Nhà sử học Pháp Ô-ru-xô, người theo thuyết thiên di, đã căn cứ vào 1 câu trong Sử ký của Tư Mã hiên để đưa ra giả thuyết tổ tiên người Việt nam ngày nay là con cháu người Việt nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân Thu bị thế lực phương Bắc đẩy dần xuống phương Nam.
    Thực ra, các sử gia phong kiến cổ đại Trung Quốc từ trước, nhất là khoảng thế kỷ thứ 6 đến TK thứ 10, cũng đã hết sức quan tâm đến vấn đề này. Họ đã lần lượt đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau. Có người cho Việt là phiên âm của 1 tiếng địa phương thời ấy, nguyên là Ư Việt. Có người cho là Việt là cùng họ với Sở. Có người cho Việt là chỉ nói đến nhóm người ở xa trung tâm dân tộc Hán, không nằm trong vòng ?olễ nghĩa? của nhà Chu. Những nha nghiên cứu dân tộc Choang ngày nay cũng tranh luận sôi nổi xung quanh vấn đề tổ tiên người Choang là người Việt hay Bộc, là tây Âu hay Lạc Việt.
    Thiết tưởng muốn giải quyết vấn đề này cần phải tìm hiểu 2 vấn đề. Thứ nhất, là thời gian xuất hiện của từ Việt, sự phát triển của nó và ý nghĩa thật của nó. Thứ 2, là nghiên cứu nhận thức dân tộc học của những nhà viết sử phong kiến cổ đại Trung Quốc.
    Nhà sử học đời Đường Tư Mã Trinh nói rất rõ : Trước thời Xuân Thu thì người Chu chưa biết đến Việt. Như thế nghĩa là Việt lần đầu tiên xuất hiện cùng với ?oquốc gia? Việt thời Xuân Thu. Người ta biết quốc gia này ra đời vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên và lần đầu tiên được ghi chép vào bộ Tả truyện Xuân Thu Việt tuyệt thư, 2 tác phẩm thời Chiến Quốc mà người Hán đã sửa chữa thêm bớt khá nhiều. Như vậy, ta thấy từ Việt lần đầu tiên xuất hiện là để chỉ 1 nước vừa nổi lên vào thời gian chiến tranh Sở - Ngô ?" Việt. Đó là 1 danh từ riêng.
    Thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc, người trí thức phong kiến phương Bắc chỉ giới hạn sự hiểu biết của mình đến nước Việt ở phương Nam. Đương thời, họ quan niệm lưu vực Hoàng Hà là trung tâm văn minh, va xung quanh đều là lạc hậu mà họ gọi là ?otứ di?.
    ?oTứ di? gồm có động di, tây nhung, bắc địch và nam man. Đặc biệt là họ đã dùng chữ ?oman? để chỉ nhóm người ở phương Nam. Thời Tây Hán chữ ?oman? có nghĩa là hỗn độn không rõ. Ngày nay có người giải thích ?oman? có nghĩa là người biết nuôi tằm. Đó là giải thích theo kiểu chiết tự Hán ngữ hiện đại. Điều đó không đúng.
    Người Xuân Thu ?" Chiến Quốc hiểu về khu vực phía đông, phía tây và phía bắc khá nhiều, nhưng phía nam họ không hiểu mấy. Phương Nam đối với họ vẫn là 1 khối hỗn độn không phân biệt được. Thượng thư đại truyện, Lễ ký, Tiết dụng thiên, Lã thị Xuân Thu? có ghi vua Nghiêu trị đến Giao Chỉ. Đó là ghi sai do người Hán căn cứ vào 2 chữ ?onam giao? có nghĩa là ?ophương nam? trong Thượng thư ?" 1 tác phẩm thời Chiến Quốc để suy ra là Giao Chỉ.
    Đương thời, thế lực chính trị của phương Bắc chưa vượt qua được Trường Giang, và từ Giao Chỉ cũng chỉ mới ra đời vào thời Hán Vũ Đến. Nam man thời Chiến Quốc gồm cả Sở, Ngô, Việt là những nước đã từng xưng bá cả quốc gia Đông Chu.
    Tóm lại nam man là 1 từ mà người Xuân Thu dùng để chỉ cả khu vực hỗn độn, họ không hiểu biết mấy ở phía nam Trường Giang. Còn từ Việt là họ dùng để chỉ nước Việt của Câu tiễn nằm trong khối nam man.
    Tư Mã Thiên là người đầu tiên đã thu thập các tài liệu từ Xuân Thu đến Chiến Quốc và 1 ít tài liệu thời sơ kỳ Tây Hán để viết về người Việt đầy đủ nhất, phong phú nhất và cũng phức tạp nhất. Trong số 130 thiên của Sử ký, ông đã dành cho người Việt 5 thiên, chưa kể đến nhiều thiên khác đều có nói đến người Việt.
    Phân tích tỉ mỉ tất cả các tài liệu có chữ Việt trong Sử ký, ta có thể chia ra 4 nhóm tài liệu :
    - Nhóm thứ nhất nói về những sự việc có quan hệ rõ ràng với nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân Thu và các nước Đông Âu, Mân Việt trước thời Tần Hán.
    - Nhóm thứ 2 nói về những sự việc có quan hệ rõ ràng đến nước Nam Việt vừa mới hình thành vào thời Tần ?" Hán.
    - Nhóm thứ 3 nói đến Điền Việt và người Việt ở khu vực sông Phần.
    - Nhóm thứ tư nói chung cho nhiều nước ở Lĩnh Nam. 1 loại từ để chỉ khu vực cư trú, như Đông Việt chỉ người Việt ở phía đông bao gồm cả Mân Việt lẫn Đông Âu và cả khu vực Cối Kê nữa, Dương Việt để chỉ người Việt ở khu vực Dương Châu. Một loại từ để chỉ chung tất cả các nhóm về mặt dân tộc học khác nhau như bách Việt, Việt, Việt nhân, di Việt là để so sánh sự khác với Hồ và Hán ở phương Bắc.
    Qua đây ta thấy Tư Mã Thiên đã biến từ Việt, từ chỗ là 1 danh từ riêng ra đời thời Xuân Thu để chỉ nước Việt của Câu Tiễn, thành 1danh từ chung chỉ tất cả những nười ở khu vực nam man xưa.
    Khái niệm đó mãi về sau vẫn được giữ ổn định, cho nên đến khi phong kiến phương Bắc tiếp xúc với Lâm Ấp và các nước ở phía nam Lâm Ấp, họ cũng không bao giờ gộp cư dân ở khu vực đó vào khái niệm Việt cả. Trong khái niệm Việt của ông, Tư Mã Thiên đã gạt ra ngoài 3 khu vực : Sở, Ngô và Lạc Việt. Điều đó dễ hiểu. Sở và Ngô đã bị đồng hóa, mất hẳn tính chất độc lập vào cuối thời Chiến Quốc rồi. Còn Lạc Việt thì Tư Mã Thiên chưa có tài liệu đầy đủ. Theo 1 số ý kiến thì ông hoàn thành Sử ký vào năm 91 trước Công nguyên và phải dùng 20 năm mới viết xong. Do đó ta thấy ông viết Sử ký vào lúc quân Hán Vũ Đế vừa xâm chiếm khu vực Giao Chỉ, cho nên trong tác phẩm nổi tiếng ấy ông nói rất ít về Giao Chỉ. Phải chờ đến ban Cố, hơn 150 năm sau mới có những ghi ché`p về Lạc Việt và về Giao Chỉ rõ nét hơn.

  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tư Mã Thiên đã dựa vào hiểu biết của người Xuân Thu ?" Chiến Quốc về nam man để đi đến phát hiện ra những nét giống nhau trong khối người này. Những nét giống nhau đó phù hợp với những đặc điểm của người Việt nước Việt của câu Tiễn, do đó Tư Mã Thiên đã đưa ra khái niệm người Việt thay cho nam man. Đúng như Lưu Hy thời hán đã giải thích, ?oViệt? chỉ có nghĩa là ngoài ?ovòng lễ nghĩa? của nhà Chu mà thôi. Cách giải thích đó phù hợp vớicách phân chia khu vực ảnh hưởng của nhà Chu, phù hợp với ý kiến của Tư Mã Trinh đời Đường cho rằng, thời trước Xuân Thu người Chu chưa biết đến Việt. các đặc điểm người Việt được nêu lên là : cắt tóc, vẽ mình, xăm cánh tay, ngồi xổm, bói ga, giỏi dùng thuyền, trồng lúa. Sau này Chu Khứ Phi còn cho biết thêm đặc điểm khác ?" răng đen ?" có liên quan đến tập quán ăn trầu và dùng trầu cau để tiếp khách, là đặc điểm phổ biến cho cả vùng người Việt chứ không phải chỉ là đặc điểm riêng của người Ngô như Tư Mã Thiên mô tả.
    Các công trình nghiên cứu về nhân chủng học ngày nay cũng đã phát hiện ra những đặc điểm chung quan trọng của giống người cổ đại ở khu vực này, và người ta đã gọi chúng là tiểu chủng Mông-gô-lô-ít phương Nam.
    Về mặt ngôn ngữ học cổ, thành tựu nghiên cứu cũng đã góp phần làm sáng tỏ những nét chung trong ngữ âm và ngữ pháp cũng như từ của nhiều nhóm dân tộc học ở khu vực này khác biệt với ngôn ngữ Hán
    Về mặt khảo cổ học, người ta cũng thấy hậu kỳ thời đại đá mới và sơ kỳ thời đại đồng thau từ lưu vực Trường Giang đến lưu vực sông Hồng ngày nay cũng có những nét giống nhau về các công cụ bằng đá, nhất là rìu mài, mũi tên, dọi xe chỉ, hoa văn trang trí hình học?
    Tất cả những điều trên đây cho thấy mối quan hệ tộc thuộc nguyên thủy của nhóm cư dân này khác hẳn với những nét văn hóa cơ bản của người Hán, người Hồ ở phương Bắc. Người tần hán đã dùng khái niệm người Việt để diễn tả mối quan hệ tộc thuộc đó của những cư dân nguyên thủy ở vùng này. Và từ Bách Việt là để chỉ chung cho tất cả tổ chức người Việt đó. Bách có nghĩa là nhiều, nhưng chữ ?obách? đó có liên quan với truyền thuyết trăm trứng. Truyền thuyết này ở nước ta rất đầy đủ, mạch lạc và có 1loạt truyền thuyết khác bổ xung làm cho nó phong phú thêm. Cố nhiên cần phải gạt bỏ những yếu tố, tư tưởng đời sau, tên người, tên đất đời sau đã được góp phần vào để cấu thành truyền thuyết trong 1 quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp. nếu căn cứ vào các tên người, tên đất đó mà suy diễn, chúng ta sẽ phạm sai lầm của một số nhà nghiên cứu giai thích người Việt sống ở sống Lạc của Lạc Dương xuống, hay gố ở châu Kinh xuống? Ý nghĩa của truyền thuyết này về mặt lịch sử là : bách Việt vốn có chung nguồn gốc, sau đó từ 1 trung tâm nào đó mà phát triển theo 2 hướng : lên núi và xuống biển.
    Trong quá trình lịch sử, các nhóm khác nhau đó phát triển không đồng đều, di chuyển theo nhiều hướng, thích nghi với nhiều môi trường thiênh nhiên cũng như tiếp xúc với nhiều nhóm Việt khác nhau, cho nên dần dà các nhóm Bách Việt biến dị và hình thành nhiều hình thái kinh tế - xã hội, nhóm dân tộc khác nhau. Tuy vậy vẫn còn giữ 1 số nét cộng đồng ban đầu, cho nên bây giờ chúng ta thấy các nhóm dân tộc học ở khu vựcHoa Nam và bắc Bộ Việt Nam có nhiều quan hệ xa xôi với nhau. Vùng này càng phức tạp về mặt dân tộc học cho sự di cư của 1 số dân tộc như Mèo chẳng hạn từ phía bắc xuống. Sự chênh lệnh về trình độ phát triển của các nhóm Bách Việt khá sâu sắc. Có khi nhóm này còn ở thời đại đá mà nhóm khác đã qua thời đại kim khí, có nhóm còn ở thời kỳ xã hội không có giai cấp, có nhóm đã bắt đầu chuyển sang xã hội có giai cấp, và có nhóm đã hoàn toàn là xã hội có giai cấp.
    Nhìn chung đến hậu kỳ thời đại đá mới, và sơ kỳ thời đại đồng thau, chúng ta đã thấy xuất hiện ở các nước Sở, Ngô, Việt, và sau đó là Đông Âu và Mân Việt. Sử sách Trung Quốc cổ đại đã ghi chú nước đó vào thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc. Đến thời Tần ?" Hán thì trong sử sách lại xuất hiện thêm Tây Âu, Nam Việt và Lạc Việt. Lạc Việt xuất hiện chậm trong sử sách Trung Quốc như đã trình bày ở trên, chứ không phải là đến tần ?" hán mới có Lạc Việt. Ngày nay, sơ bộ người ta đã nêu ra những văn hóa khác nhau, trong Sư Ký Tư Mã Thiên cũng đã ghi lại những nét khác biệt văn hóa đó. Người Việt ở Cối Kê thời Câu Tiễn thì cắt tóc, vẽ mình, nhưng người Việt ở Nam Hải thời Triệu Đà thì búi tóc hình cái dùi và không thấy nói đến vẽ mình. Người Việt ở tây Âu thời tần hán thì còn ở trần. Người Việt ở Điền thời tây Hán cưỡi voi chứ không dùng thuyền. Người Việt ở khu vực châu Kinh thì cắt tóc vẽ mình. Còn các sử gia sau này thì mô tả người Lạc Việt trước thời Tần Hán đã giỏi nghề trồng lúa nước.
    Ảnh hưởng của văn hóa Hán càng xuống phía namcàng nhạt và sắc thái độc lập của người Việt được thể hiện liên tục, đầy đủ, rực rỡ trong văn hóa hậu kỳ thời đại đá mới và thời đại đồng thau của người Lạc Việt cho đến thời Tây Hán.
    Trong toàn bộ địa bàn người Việt thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc, chỉ có nhóm Lạc Việt là phát triển độc lập với trình độ cao nhất. Đỉnh cao đó thể hiện ở những trống đồng đẹp đẽ và cổ kính nhất, những lưỡi cày đồng thích ứng với đất phù sa mỗi năm một đổi mới của sông Hồng phì nhiêu thậun lợi cho nghề trồng lúa nước phát triển. Người Lạc Việt ở lưu vực sông Hồng đã tỏ ra là 1 cộng đồng ổn định vững vàng, có 1 nền văn hóa lâu đời, có 1 sức sống mãnh liệt. Ngay từ buổi đầu Tây Hán, vai trò của nhóm Lạc Việt đã chiếm vị trí chủ đạo của Lĩnh Nam, Giao Chỉ, đã là hạt nhân của châu Giao cả về mọi mặt. tên châu lấy từ tên quân Giao, thủ phủ của châu đầu tiên cũng đặt ở châu Giao. Hộ khẩu của quận Giao Chỉ đông gấp 8 lần so với quân Nam Hải là địa bàn của nước Nam Việt, gấp rưỡi so với quận Đan Dương là địa bàn cũ của Đông Âu ?" Mân Việt gộp lại, gấp 3 lần so với Trường sa Quốc là 1 bộ phận quan trọng của nước Sở cũ, gấp rưỡi so với quận Ích Châu, địa bàn cũ của nước Điền. Đến thời Ngô, phong kiến phương Bắc bắt buộc phải cắt Giao Chỉ, Cưu Chân ?" khu vực chủ yếu của người Lạc Việt ?" ra khỏi khu vực của Nam Việt và Tây Âu cũ, thành lập Giao Châu và Quảng Châu riêng lẻ. Quảng Châu bị đồng hóa ngày càng mạnh. Còn Giao Châu đến đời Đường thì phong kiến phương Bắc bắt buộc phải lập An Nam đô hộ phủ, mặc nhiên thừa nhận khu vực này là 1 cộng đồng khác biệt với đế quốc Đường?
    Tóm lại trên cơ sở thư tịch, khảo cổ học, nhân chủng học, d6n tộc học (và cả truyền thuyết), chúng ta có thể thấy mối liên quan tộc thuộc giữa các nhóm Việt khác nhau ở thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc. Đồng thời có thể nhìn thấy sự khác biệt của những nhòm ấy từ thời Xuân Thu cho đến tây Hán do hoàn cảnh thiên nhiên, do trình độ phát triển xã hội, do mức độ tiếp xúc với văn hóa phương Bắc
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tư Mã Thiên đã dựa vào hiểu biết của người Xuân Thu ?" Chiến Quốc về nam man để đi đến phát hiện ra những nét giống nhau trong khối người này. Những nét giống nhau đó phù hợp với những đặc điểm của người Việt nước Việt của câu Tiễn, do đó Tư Mã Thiên đã đưa ra khái niệm người Việt thay cho nam man. Đúng như Lưu Hy thời hán đã giải thích, ?oViệt? chỉ có nghĩa là ngoài ?ovòng lễ nghĩa? của nhà Chu mà thôi. Cách giải thích đó phù hợp vớicách phân chia khu vực ảnh hưởng của nhà Chu, phù hợp với ý kiến của Tư Mã Trinh đời Đường cho rằng, thời trước Xuân Thu người Chu chưa biết đến Việt. các đặc điểm người Việt được nêu lên là : cắt tóc, vẽ mình, xăm cánh tay, ngồi xổm, bói ga, giỏi dùng thuyền, trồng lúa. Sau này Chu Khứ Phi còn cho biết thêm đặc điểm khác ?" răng đen ?" có liên quan đến tập quán ăn trầu và dùng trầu cau để tiếp khách, là đặc điểm phổ biến cho cả vùng người Việt chứ không phải chỉ là đặc điểm riêng của người Ngô như Tư Mã Thiên mô tả.
    Các công trình nghiên cứu về nhân chủng học ngày nay cũng đã phát hiện ra những đặc điểm chung quan trọng của giống người cổ đại ở khu vực này, và người ta đã gọi chúng là tiểu chủng Mông-gô-lô-ít phương Nam.
    Về mặt ngôn ngữ học cổ, thành tựu nghiên cứu cũng đã góp phần làm sáng tỏ những nét chung trong ngữ âm và ngữ pháp cũng như từ của nhiều nhóm dân tộc học ở khu vực này khác biệt với ngôn ngữ Hán
    Về mặt khảo cổ học, người ta cũng thấy hậu kỳ thời đại đá mới và sơ kỳ thời đại đồng thau từ lưu vực Trường Giang đến lưu vực sông Hồng ngày nay cũng có những nét giống nhau về các công cụ bằng đá, nhất là rìu mài, mũi tên, dọi xe chỉ, hoa văn trang trí hình học?
    Tất cả những điều trên đây cho thấy mối quan hệ tộc thuộc nguyên thủy của nhóm cư dân này khác hẳn với những nét văn hóa cơ bản của người Hán, người Hồ ở phương Bắc. Người tần hán đã dùng khái niệm người Việt để diễn tả mối quan hệ tộc thuộc đó của những cư dân nguyên thủy ở vùng này. Và từ Bách Việt là để chỉ chung cho tất cả tổ chức người Việt đó. Bách có nghĩa là nhiều, nhưng chữ ?obách? đó có liên quan với truyền thuyết trăm trứng. Truyền thuyết này ở nước ta rất đầy đủ, mạch lạc và có 1loạt truyền thuyết khác bổ xung làm cho nó phong phú thêm. Cố nhiên cần phải gạt bỏ những yếu tố, tư tưởng đời sau, tên người, tên đất đời sau đã được góp phần vào để cấu thành truyền thuyết trong 1 quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp. nếu căn cứ vào các tên người, tên đất đó mà suy diễn, chúng ta sẽ phạm sai lầm của một số nhà nghiên cứu giai thích người Việt sống ở sống Lạc của Lạc Dương xuống, hay gố ở châu Kinh xuống? Ý nghĩa của truyền thuyết này về mặt lịch sử là : bách Việt vốn có chung nguồn gốc, sau đó từ 1 trung tâm nào đó mà phát triển theo 2 hướng : lên núi và xuống biển.
    Trong quá trình lịch sử, các nhóm khác nhau đó phát triển không đồng đều, di chuyển theo nhiều hướng, thích nghi với nhiều môi trường thiênh nhiên cũng như tiếp xúc với nhiều nhóm Việt khác nhau, cho nên dần dà các nhóm Bách Việt biến dị và hình thành nhiều hình thái kinh tế - xã hội, nhóm dân tộc khác nhau. Tuy vậy vẫn còn giữ 1 số nét cộng đồng ban đầu, cho nên bây giờ chúng ta thấy các nhóm dân tộc học ở khu vựcHoa Nam và bắc Bộ Việt Nam có nhiều quan hệ xa xôi với nhau. Vùng này càng phức tạp về mặt dân tộc học cho sự di cư của 1 số dân tộc như Mèo chẳng hạn từ phía bắc xuống. Sự chênh lệnh về trình độ phát triển của các nhóm Bách Việt khá sâu sắc. Có khi nhóm này còn ở thời đại đá mà nhóm khác đã qua thời đại kim khí, có nhóm còn ở thời kỳ xã hội không có giai cấp, có nhóm đã bắt đầu chuyển sang xã hội có giai cấp, và có nhóm đã hoàn toàn là xã hội có giai cấp.
    Nhìn chung đến hậu kỳ thời đại đá mới, và sơ kỳ thời đại đồng thau, chúng ta đã thấy xuất hiện ở các nước Sở, Ngô, Việt, và sau đó là Đông Âu và Mân Việt. Sử sách Trung Quốc cổ đại đã ghi chú nước đó vào thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc. Đến thời Tần ?" Hán thì trong sử sách lại xuất hiện thêm Tây Âu, Nam Việt và Lạc Việt. Lạc Việt xuất hiện chậm trong sử sách Trung Quốc như đã trình bày ở trên, chứ không phải là đến tần ?" hán mới có Lạc Việt. Ngày nay, sơ bộ người ta đã nêu ra những văn hóa khác nhau, trong Sư Ký Tư Mã Thiên cũng đã ghi lại những nét khác biệt văn hóa đó. Người Việt ở Cối Kê thời Câu Tiễn thì cắt tóc, vẽ mình, nhưng người Việt ở Nam Hải thời Triệu Đà thì búi tóc hình cái dùi và không thấy nói đến vẽ mình. Người Việt ở tây Âu thời tần hán thì còn ở trần. Người Việt ở Điền thời tây Hán cưỡi voi chứ không dùng thuyền. Người Việt ở khu vực châu Kinh thì cắt tóc vẽ mình. Còn các sử gia sau này thì mô tả người Lạc Việt trước thời Tần Hán đã giỏi nghề trồng lúa nước.
    Ảnh hưởng của văn hóa Hán càng xuống phía namcàng nhạt và sắc thái độc lập của người Việt được thể hiện liên tục, đầy đủ, rực rỡ trong văn hóa hậu kỳ thời đại đá mới và thời đại đồng thau của người Lạc Việt cho đến thời Tây Hán.
    Trong toàn bộ địa bàn người Việt thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc, chỉ có nhóm Lạc Việt là phát triển độc lập với trình độ cao nhất. Đỉnh cao đó thể hiện ở những trống đồng đẹp đẽ và cổ kính nhất, những lưỡi cày đồng thích ứng với đất phù sa mỗi năm một đổi mới của sông Hồng phì nhiêu thậun lợi cho nghề trồng lúa nước phát triển. Người Lạc Việt ở lưu vực sông Hồng đã tỏ ra là 1 cộng đồng ổn định vững vàng, có 1 nền văn hóa lâu đời, có 1 sức sống mãnh liệt. Ngay từ buổi đầu Tây Hán, vai trò của nhóm Lạc Việt đã chiếm vị trí chủ đạo của Lĩnh Nam, Giao Chỉ, đã là hạt nhân của châu Giao cả về mọi mặt. tên châu lấy từ tên quân Giao, thủ phủ của châu đầu tiên cũng đặt ở châu Giao. Hộ khẩu của quận Giao Chỉ đông gấp 8 lần so với quân Nam Hải là địa bàn của nước Nam Việt, gấp rưỡi so với quận Đan Dương là địa bàn cũ của Đông Âu ?" Mân Việt gộp lại, gấp 3 lần so với Trường sa Quốc là 1 bộ phận quan trọng của nước Sở cũ, gấp rưỡi so với quận Ích Châu, địa bàn cũ của nước Điền. Đến thời Ngô, phong kiến phương Bắc bắt buộc phải cắt Giao Chỉ, Cưu Chân ?" khu vực chủ yếu của người Lạc Việt ?" ra khỏi khu vực của Nam Việt và Tây Âu cũ, thành lập Giao Châu và Quảng Châu riêng lẻ. Quảng Châu bị đồng hóa ngày càng mạnh. Còn Giao Châu đến đời Đường thì phong kiến phương Bắc bắt buộc phải lập An Nam đô hộ phủ, mặc nhiên thừa nhận khu vực này là 1 cộng đồng khác biệt với đế quốc Đường?
    Tóm lại trên cơ sở thư tịch, khảo cổ học, nhân chủng học, d6n tộc học (và cả truyền thuyết), chúng ta có thể thấy mối liên quan tộc thuộc giữa các nhóm Việt khác nhau ở thời Xuân Thu ?" Chiến Quốc. Đồng thời có thể nhìn thấy sự khác biệt của những nhòm ấy từ thời Xuân Thu cho đến tây Hán do hoàn cảnh thiên nhiên, do trình độ phát triển xã hội, do mức độ tiếp xúc với văn hóa phương Bắc
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Xin cám ơn bác TLV đã cất công gõ lại bài của Nguyễn Duy Hinh "Một vài suy nghĩ ban đầu về người Việt" trích trong Kỷ yếu Hội thảo về thời kỳ Hùng Vương. Để tiếp tục tranh luận với bạn R. , tôi xin chỉ ra những chỗ bạn tự mâu thuẫn để mọi người cùng theo dõi
    Sao ở đây bạn lại nói "Nước VL chính là nước Việt Thường" trong khi ở bài trên, bạn lại nói:
    Xin bạn chỉ ra xem chữ Việt Thường được coi là quốc hiệu từ khi nào vậy? Trong [topic]134213[/topic] thì chỉ nhắc tới "Việt Thường Thị" và có chú giải cẩn thận như sau

    1/Việt Sử Lược chép nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, trong đó có 10 bộ lạc giống tên như Toàn thư ghi trên đây (Giao Chỉ, Vũ Ninh, Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang), và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia Ninh, Thang Tuyền, Tân Xương, Nhật Nam). Lĩnh Nam Chích Quái cũng chép đủ tên 15 bộ, nhưng trong các bản hiện còn, tên các bộ ấy có nhiều sai khác chênh lệch. Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép đúng tên các bộ như Toàn Thư đã ghi trên đây, nhưng không có tên bộ Văn Lang.
    ....
    2/ Kinh Thư chép vua Nghiêu sai Hy Thúc đến ở Nam Giao (Hy Thúc trạch Nam Giao). Khổng An Quốc thời Tây Hán chú giải Kinh Thư, chỉ cho Nam Giao là phương Nam. Mãi đến thời Đường, Tư Mã Trinh mới giải thích Nam Giao là Giao Chỉ ở phương Nam.
    3/ Theo thiên Vũ Cống trong Kinh Thư, chín châu là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương Ung.
    4/ Bách Việt: là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc người khác Hán sống ở miền nam Trung Quốc thời xưa. Từ này lần đầu tiên thấy chép trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện của Tư Mã Thiên.
    5/ Việt Thường Thị: tên nước thời cổ ở phía Nam Trung Quốc có quan hệ với nhà Chu (hiến chim trĩ cho Thành Vương), lần đầu tiên được ghi trong sách Thượng Thư Đại Truyện. Có nhiều giải thích khác nhau, có thuyết nói rằng Việt Thường Thị ở miền quận Cửu Đức, tức miền Hà Tĩnh (Thủy Kinh Chú, Cựu Đường Thư); có thuyết nói Việt Thường thị ở vị trí nước Lâm Ấp đời sau (Văn Hiến thông khảo, Minh Sử, Minh nhất thống chí)
    Như vậy, ngay cả cái tài liệu mà bác căn cứ vào đó để cho rằng Việt Thường từng là quốc hiệu của VN ta cũng cho thấy 2 điểm chính yếu sau:
    - Việt Thường là 1 trong số 15 bộ lạc lập thành nước Văn Lang chứ chưa bao giờ được nhắc tới như quốc hiệu. KHông thể có chuyện tên nước được chính sử ghi nhận là Văn Lang mà Quốc hiệu lại là Việt Thường được.
    - Các khái niệm Việt Thường, Bách Việt, Nam Giao đều không thống nhất, chỉ là các khái niệm chung chung và thiếu sự chính xác cụ thể nên không nói lên được điều gì.
    Thật nực cười cho cái kiểu cãi cùn của bạn. Lúc đầu thì bạn cố sống cố chết nói rằng Việt Câu Tiễn có quan hệ với Hùng vương và dân Lạc Việt, thậm chí vcòn cho rằng đó là HV thứ 13; nay thì bạn lại nói khác 180 độ. bạn đang nghiên cứu nghiêm túc hay đùa cợt đấy?
    Về tác giả Phạm Văn Sơn, không biết có phải bạn muốn nhắc tới tác phẩm Việt sử Tân biên hay không? Nếu phải thì bạn nên biết tác giả này vốn đã dùng tài liệu của Henri Maspero (hình như là ông này: http://www.efeo.fr/biographies/notices/maspero.htm) cho rằng "chữ Hùng và chữ Lạc dễ nhầm lẫn, chính trong ĐVSKTT các sử thần của ta cũng biết là nhầm nên đã bàn rằng: Lạc tướng hậu ngoa vi Hùng tướng..." (trang 79). Tuy nhiên, ông Phạm Văn Sơn lại nêu lên nghi vấn ".. còn bảo có sự nhầm lẫn giữa chữ Hùng và chữ Lạc thì trước biệt hiệu của các vua thuộc họ Hồng Bàng: Hùng Dịch, Hùng Nghị, Hùng Đán..., chúng ta nghĩ sao" (trang 79 sđd). Rồii để giải thích gốc tích của Hùng vương, ông Sơn lại viết:
    "Năm 581 trước Công nguyên, con cháu của Chấp Ti (con thứ 3 của Hùng Cừ, cháu của Hùng Dịch) xưng là Hùng Vương thứ 1 và người Việt lúc bấy giờ sống dọc bờ Nam Hải và nam ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình. Việt Câu Tiễn là Hùng vương thứ 6 ... và cha truyền con nối cho đến HV thứ 18"
    Như vậy, ông PVS đã lấy các vua nước Sở của thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu để làm gốc tích cho Hùng vương của Lạc Việt, 1 xứ cách nước Sở không gần lắm. Tuy nhiên, sau đó ông lại có 1 đề nghị khiến ý kiến của ông trở nên lẫn lộn, tự mâu thuẫn và không có luận cứ khoa học khiến rất nhiều người trong giới sử học miền Nam không tán đồng nổi. Ý kiến đó là: Thiết tưởng về phần các nhà viết sử hay dân chúng thì nên dùng chữ Lạc Vương để gọi các vua nhà Hồng Bàng(các vua "Hùng" mà ông ấy nhắc ở trên)
    Thiết tưởng không cần phân tích, các bác cũng thấy chỗ phi logic, phi khoa học trong các ý kiến của ông Trần văn Sơn rồi chứ ạ? Hy vọng là bạn Red. thoả mãn với phân tích của tôi về nguồn tư liệu của bạn
    Âu Việt/ U Việt có tồn tại hay ko thì bác đọc cuốn " Heaven in the East " sẽ rõ, tôi không tranh luận thêm về vấn đề này.
    Lạ nhỉ? Chính bạn cũng đã nói Âu/U Việt là quốc gia của Việt Vương Câu Tiễn rồi mà, tại sao bạn lại phải đi chứng minh 1 điều không sai? Hay là nước Việt của Câu Tiễn lại không phảoi là Âu/U việt? Hoá ra bạn lại tự mâu thuẫn à?
    Bạn đọc bài của bác TLV post để lấy thêm tư liệu nhé. Cuốn "Địa đàng phương Đông", tôi sẽ đọc thật kỹ để xem bạn muốn tôi hiểu điều gì.
    Bạn có vấn đề gì về khả năng đọc hiểu không ạ? Chúng ta vẫn gọi Câu Tiễn là Việt Vương Câu Tiễn chứ có gọi là Hùng Vương Câu Tiễn đâu? Chẳng lẽ bạn lại đang tự đặt ra cái giả thuyết quốc gia của Câu Tiễn không phải là "Việt" và sau đó cố gắng chứng minh điều ngược lại: Câu Tiễn là người Việt?
    Nhân tiện, giới thiệu luôn 1 ông Tây nữa cũng từng có nhiều nghiên cứu (đúng sai hậu xét) về LSVN: http://www.efeo.fr/biographies/notices/aurousseau.htm và link download "Địa đang Phương Đông": http://evan.com.vn/Functions/WorkContent/?WorkID=1164&CatID=11&TypeID=54
    Thân
  5. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Xin cám ơn bác TLV đã cất công gõ lại bài của Nguyễn Duy Hinh "Một vài suy nghĩ ban đầu về người Việt" trích trong Kỷ yếu Hội thảo về thời kỳ Hùng Vương. Để tiếp tục tranh luận với bạn R. , tôi xin chỉ ra những chỗ bạn tự mâu thuẫn để mọi người cùng theo dõi
    Sao ở đây bạn lại nói "Nước VL chính là nước Việt Thường" trong khi ở bài trên, bạn lại nói:
    Xin bạn chỉ ra xem chữ Việt Thường được coi là quốc hiệu từ khi nào vậy? Trong [topic]134213[/topic] thì chỉ nhắc tới "Việt Thường Thị" và có chú giải cẩn thận như sau

    1/Việt Sử Lược chép nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, trong đó có 10 bộ lạc giống tên như Toàn thư ghi trên đây (Giao Chỉ, Vũ Ninh, Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang), và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia Ninh, Thang Tuyền, Tân Xương, Nhật Nam). Lĩnh Nam Chích Quái cũng chép đủ tên 15 bộ, nhưng trong các bản hiện còn, tên các bộ ấy có nhiều sai khác chênh lệch. Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép đúng tên các bộ như Toàn Thư đã ghi trên đây, nhưng không có tên bộ Văn Lang.
    ....
    2/ Kinh Thư chép vua Nghiêu sai Hy Thúc đến ở Nam Giao (Hy Thúc trạch Nam Giao). Khổng An Quốc thời Tây Hán chú giải Kinh Thư, chỉ cho Nam Giao là phương Nam. Mãi đến thời Đường, Tư Mã Trinh mới giải thích Nam Giao là Giao Chỉ ở phương Nam.
    3/ Theo thiên Vũ Cống trong Kinh Thư, chín châu là Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương Ung.
    4/ Bách Việt: là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc người khác Hán sống ở miền nam Trung Quốc thời xưa. Từ này lần đầu tiên thấy chép trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện của Tư Mã Thiên.
    5/ Việt Thường Thị: tên nước thời cổ ở phía Nam Trung Quốc có quan hệ với nhà Chu (hiến chim trĩ cho Thành Vương), lần đầu tiên được ghi trong sách Thượng Thư Đại Truyện. Có nhiều giải thích khác nhau, có thuyết nói rằng Việt Thường Thị ở miền quận Cửu Đức, tức miền Hà Tĩnh (Thủy Kinh Chú, Cựu Đường Thư); có thuyết nói Việt Thường thị ở vị trí nước Lâm Ấp đời sau (Văn Hiến thông khảo, Minh Sử, Minh nhất thống chí)
    Như vậy, ngay cả cái tài liệu mà bác căn cứ vào đó để cho rằng Việt Thường từng là quốc hiệu của VN ta cũng cho thấy 2 điểm chính yếu sau:
    - Việt Thường là 1 trong số 15 bộ lạc lập thành nước Văn Lang chứ chưa bao giờ được nhắc tới như quốc hiệu. KHông thể có chuyện tên nước được chính sử ghi nhận là Văn Lang mà Quốc hiệu lại là Việt Thường được.
    - Các khái niệm Việt Thường, Bách Việt, Nam Giao đều không thống nhất, chỉ là các khái niệm chung chung và thiếu sự chính xác cụ thể nên không nói lên được điều gì.
    Thật nực cười cho cái kiểu cãi cùn của bạn. Lúc đầu thì bạn cố sống cố chết nói rằng Việt Câu Tiễn có quan hệ với Hùng vương và dân Lạc Việt, thậm chí vcòn cho rằng đó là HV thứ 13; nay thì bạn lại nói khác 180 độ. bạn đang nghiên cứu nghiêm túc hay đùa cợt đấy?
    Về tác giả Phạm Văn Sơn, không biết có phải bạn muốn nhắc tới tác phẩm Việt sử Tân biên hay không? Nếu phải thì bạn nên biết tác giả này vốn đã dùng tài liệu của Henri Maspero (hình như là ông này: http://www.efeo.fr/biographies/notices/maspero.htm) cho rằng "chữ Hùng và chữ Lạc dễ nhầm lẫn, chính trong ĐVSKTT các sử thần của ta cũng biết là nhầm nên đã bàn rằng: Lạc tướng hậu ngoa vi Hùng tướng..." (trang 79). Tuy nhiên, ông Phạm Văn Sơn lại nêu lên nghi vấn ".. còn bảo có sự nhầm lẫn giữa chữ Hùng và chữ Lạc thì trước biệt hiệu của các vua thuộc họ Hồng Bàng: Hùng Dịch, Hùng Nghị, Hùng Đán..., chúng ta nghĩ sao" (trang 79 sđd). Rồii để giải thích gốc tích của Hùng vương, ông Sơn lại viết:
    "Năm 581 trước Công nguyên, con cháu của Chấp Ti (con thứ 3 của Hùng Cừ, cháu của Hùng Dịch) xưng là Hùng Vương thứ 1 và người Việt lúc bấy giờ sống dọc bờ Nam Hải và nam ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình. Việt Câu Tiễn là Hùng vương thứ 6 ... và cha truyền con nối cho đến HV thứ 18"
    Như vậy, ông PVS đã lấy các vua nước Sở của thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu để làm gốc tích cho Hùng vương của Lạc Việt, 1 xứ cách nước Sở không gần lắm. Tuy nhiên, sau đó ông lại có 1 đề nghị khiến ý kiến của ông trở nên lẫn lộn, tự mâu thuẫn và không có luận cứ khoa học khiến rất nhiều người trong giới sử học miền Nam không tán đồng nổi. Ý kiến đó là: Thiết tưởng về phần các nhà viết sử hay dân chúng thì nên dùng chữ Lạc Vương để gọi các vua nhà Hồng Bàng(các vua "Hùng" mà ông ấy nhắc ở trên)
    Thiết tưởng không cần phân tích, các bác cũng thấy chỗ phi logic, phi khoa học trong các ý kiến của ông Trần văn Sơn rồi chứ ạ? Hy vọng là bạn Red. thoả mãn với phân tích của tôi về nguồn tư liệu của bạn
    Âu Việt/ U Việt có tồn tại hay ko thì bác đọc cuốn " Heaven in the East " sẽ rõ, tôi không tranh luận thêm về vấn đề này.
    Lạ nhỉ? Chính bạn cũng đã nói Âu/U Việt là quốc gia của Việt Vương Câu Tiễn rồi mà, tại sao bạn lại phải đi chứng minh 1 điều không sai? Hay là nước Việt của Câu Tiễn lại không phảoi là Âu/U việt? Hoá ra bạn lại tự mâu thuẫn à?
    Bạn đọc bài của bác TLV post để lấy thêm tư liệu nhé. Cuốn "Địa đàng phương Đông", tôi sẽ đọc thật kỹ để xem bạn muốn tôi hiểu điều gì.
    Bạn có vấn đề gì về khả năng đọc hiểu không ạ? Chúng ta vẫn gọi Câu Tiễn là Việt Vương Câu Tiễn chứ có gọi là Hùng Vương Câu Tiễn đâu? Chẳng lẽ bạn lại đang tự đặt ra cái giả thuyết quốc gia của Câu Tiễn không phải là "Việt" và sau đó cố gắng chứng minh điều ngược lại: Câu Tiễn là người Việt?
    Nhân tiện, giới thiệu luôn 1 ông Tây nữa cũng từng có nhiều nghiên cứu (đúng sai hậu xét) về LSVN: http://www.efeo.fr/biographies/notices/aurousseau.htm và link download "Địa đang Phương Đông": http://evan.com.vn/Functions/WorkContent/?WorkID=1164&CatID=11&TypeID=54
    Thân
  6. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thưa bạn, trong cuốn "Địa đàng Phương Đông" thì lại có ý kiến KHÔNG cho rằng "văn hoá Hoà Bình đã được các nhà khoa học công nhận là một trong những cái nôi của các nền văn hoá ở Đông Nam Á. " như bạn tuyên bố. xin bạn xem đoạn sau
    2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?).
    Văn hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián tiếp, như môi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh từ "Hoà Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex (phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit **** tại Thái Lan, người ta nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi mà đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hoà Bình" là những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tôi nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà Bình khó lòng vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tôi, chữ "người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghiã là người ở Hoà Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa.

    Về văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần nói thêm. Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá Hoà Bình, văn hoá hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn.

    Vậy đấy.
  7. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Thưa bạn, trong cuốn "Địa đàng Phương Đông" thì lại có ý kiến KHÔNG cho rằng "văn hoá Hoà Bình đã được các nhà khoa học công nhận là một trong những cái nôi của các nền văn hoá ở Đông Nam Á. " như bạn tuyên bố. xin bạn xem đoạn sau
    2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?).
    Văn hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián tiếp, như môi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh từ "Hoà Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex (phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit **** tại Thái Lan, người ta nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi mà đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hoà Bình" là những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tôi nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà Bình khó lòng vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tôi, chữ "người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghiã là người ở Hoà Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa.

    Về văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần nói thêm. Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá Hoà Bình, văn hoá hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn.

    Vậy đấy.
  8. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Requote: Văn hoá Âu Lạc là văn hoá Việt hay văn hoá Văn Lang, Hoà Bình.
    Now, nếu anh chịu khó một tí nữa để phân biệt khái niệm ''văn hoá'' trong cụm từ ''văn hoá Hoà bình'' và ''văn hoá Âu Lạc, Việt,...''. Dùng tiếng tây có lẽ dễ hơn.
    Thanks Lonesome, rất rõ ràng nhưng không có dấu ấn của sự chủ quan như tác giả trên.
  9. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Requote: Văn hoá Âu Lạc là văn hoá Việt hay văn hoá Văn Lang, Hoà Bình.
    Now, nếu anh chịu khó một tí nữa để phân biệt khái niệm ''văn hoá'' trong cụm từ ''văn hoá Hoà bình'' và ''văn hoá Âu Lạc, Việt,...''. Dùng tiếng tây có lẽ dễ hơn.
    Thanks Lonesome, rất rõ ràng nhưng không có dấu ấn của sự chủ quan như tác giả trên.
  10. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    Nếu tôi cũng cùn như bác thì tôi có thể nói rằng nói đến tập quán sống của con người bây giờ hay con người 5000 năm trước thì cũng chẳng có gì khác cả, cũng là nhắc đến tập quán sống của vượn người mà thôi.
    Một câu mạn phép với bác.

Chia sẻ trang này