1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn minh Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 05/07/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Văn minh Việt Nam

    Giới thiệu với các bác quyển "Văn minh Việt Nam" của cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên.

    Môi trường địa lý

    Ở Đông Nam châu Á, trải dài giữa biển Đông và vịnh Thái lan là một loạt đồng bằng mà hai đầu có hai châu thổ lớn, một do sông Hồng tạo nên, còn châu thổ kia do sông Mê Kông hình thành. Những đồng bằng này nối với lục địa bằng một khối vùng cao thường dày đặc và nhiều rừng cây.

    Lãnh thổ này, hiện giờ tạo thành ba trong năm trùng xứ Đông Dương. tức là Bắc Kỳ, Trung Kỳ đà Nam Kỳ, có diện tích khoảng 327.500 km2. Dân cư đại đa số là người Việt lãnh thổ đó do Hoàng đế Gia Long, người sáng nghiệp của triều Nguyễn hiện nay, giành được toàn bộ và thống nhất lại vào đầu thế kỷ XIX. Biên giới biển của nó vạch thành một chữ S lớn (dài trên 2.000 km ven bờ. Nằm giữa 23,22 và 8,33 vĩ độ bắc, nó dài 1.650 km từ bắc đến nam, từ cửa Nam Quan đến mũi Cà Mau.

    A.Địa hình
    Khi xem xét bản đồ, dù sơ sài: ta cũng thấy nước Việt Nam gồm hai miền lớn rất trái ngược nhau: vùng cao mà chủ yếu là núi non và cao nguyên, và vùng thấp do các đồng bằng có độ cao không dáng kể tạo thành, ở ven một bờ biển nhiều hình vẻ.

    I.Vùng cao
    Khối núi non tạo thành khu vực nội địa Việt Nam, và nằm ven khu vực đó ở phía bắc và phía tây, chiếm một diện tích lớn: trên 4/5 lãnh thổ. Chủ yếu tại vùng trung tâm, nó được tạo nên bởi một vùng đất sơ khai thuộc địa cổ sinh, hình cái bàn bắt rễ sâu tới tận trung tâm châu Á, ở phía trong, còn ở phía ngoài thì qua biển Đông đến những vùng núi của quần đảo Inđônêxia. Những đất này được phủ một tầng cát kết rất dày. Cát kết đó rải thành những lớp sâu, dày tới 1.000m, làm thành một tầng gần như nằm ngang, chứng tỏ nó đã lắng xuống trên một miền đang lún từ từ.

    Sau đấy, cái bàn rộng lớn này chỉ phải chịu những chuyển động theo chiều thẳng dửng, dẫn tới sự hình thành một loạt thềm hay vòm rộng, gọi là những cao nguyên Tây Nguyên, chịu tác động của các thớ nút thường gặp mà sông ngòi chảy qua dưới dạng những ghềnh thác đẹp mắt. Phun tràn qua các nếp gãy này là dung nham, nhất là bazan. phân rã thành đất đỏ màu mỡ của các cao nguyên phía nam Trung Kỳ đà Nam Kỳ như: Bôlôven, Hạ Kon Tum, Đắc Lắc, Di Linh, miền đông Nam Kỳ...

    Nhưng, địa hình bị cắt vụn nhất ở nội địa miền Bắc. Thí dụ, ở tả ngạn sông Hồng, sự trẻ lại của địa hình đã cho phép sự xói mòn hoạt động, sau kỳ thứ ba, trong đám đá đa dạng này, và sinh ra một cảnh quan rất sâu nét và thường rất đẹp mắt. Đặc biệt trong đám đá vôi rộng lớn đã dựng lên những vách đá dốc đứng, đào nên những hẻm vực sâu thẳm, hình thành những mỏm và những vết xói mòn, tạo cho thượng du Bắc Kỳ những dáng vẻ kỳ vĩ và lạ lùng.

    Ta có thể nhận thấy tại đấy, tại khu vực đông bắc, giữa sông Lô và vịnh Bắc Bộ, một loạt vòng cung hướng về đông. Ở trước vùng phía bắc gồm những vòng cung, rặng núi, bị gián đoạn bởi những hẻm vực hay đồng bằng đất bồi, là một trung du nối nó với châu thổ Bắc Kỳ. Trung du này gồm thung lũng giữa của sông Hồng, sông Lô, sông Cầu sông Thương và sông Lục Nam. Đấy là vùng những đồi và thung lũng rộng, nổi bật là cái khối vạm vỡ của rặng núi Tam Đảo, nhìn thấy rất rõ từ Hà Nội, và là nơi chỉ còn tồn tại những mảnh rừng nhỏ.

    PS: Có 1 bài về Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Trần Văn Huyên
    http://www2.ttvnol.com/f_533/628259/trang-2.ttvn
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    II.Vùng thấp
    Ta có thể thấy trên lãnh thổ Việt Nam ba loại đồng bằng. Ở miền Bắc, giữa các đồi núi tỉnh Đông Triều và Đèo Ngang có ba đồng bằng hình tam giác mở rộng ra biển cả, tại miền Trung là một cái diềm những đồng bằng nhỏ ven biển cách nhau bằng những mỏm núi có sườn dốc và thường có nhiều rừng cây của dãy Trường Sơn; ở miền Nam là đồng bằng Nam Kỳ mênh mông do phù sa sông Mê Kông, sông Đồng Nai cùng các chi lưu của chúng tạo nên.
    1.Các đồng bằng miền Bắc
    Trong ba đồng bằng phía bắc, châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình, châu thổ sông Mã và châu thổ sông Cả, thì đồng bằng thứ nhất lớn hơn cả. Nó là phần chủ yếu của Bắc Kỳ về phương diện tài nguyên đất đai, mặc dầu diện tích nó nhỏ bé. Thật vậy, diện tích của nó chỉ khoảng 15.000 km2 trong khi diện tích của xứ Bắc Kỳ là 116.000 km2.
    Về đại thể, châu thổ Bắc Kỳ hình tam giác mà đỉnh là Việt Trì, tại điểm hợp lưu sông Lô và sông Hồng. Nói do hai hệ thống sông ngòi tạo thành: sông Thái Bình ở đông bắc và sông Hiồng tại tây nam. Tầm quan trọng của hai sông này rất không đều nhau: sông Thái Bình ít nước, tương đối lặng và ít vẩn đục; sông Hồng chảy mạnh, nguy hiểm, nhiều bùn.
    Phía nam Ninh Bình, các đồng bằng Thanh Hoá và Nghệ Tĩnh do sông Mã và sông Cả tạo nên.
    2.Các đồng bằng miền Trung
    Một vùng mới bắt đầu tại phía nam mỏm núi đá kết tinh làm thành Đèo Ngang. Từ chỗ đó, núi xích gần bờ biển. Các sông, chảy từ những sườn dốc và xói mòn thành khe của dãy Trường Sơn, đều ngắn và ít phù sa. Các châu thổ của những con sông đó vẫn hẹp và nhỏ, bị cắt ngang bởi những dãy Hoành Sơn do những mỏm núi có sườn dốc đứng và thường có nhiều rừng cây tạo thành (đèo Hải Vân, núi Chúa ở phía nam Quảng Nam, đèo Cù Mông ở phía nam Quy Nhơn...) kéo dài đến tận bờ biển cảnh hoang vu của nội địa.
    Giữa Đèo Ngang và đèo Hải Vân, núi để lại một khoảng từ 20 đến 30km cho những đồng lúa khá đẹp.
    Ở phía nam khối núi đèo Hải Vân là những đồng bằng tính chất khác hẳn, rộng hơn và sâu hơn nhiều: các đồng bằng Quảng Nam. Quảng Ngãi, Bình Định.
    Ở phía nam Trung Kỳ, có các đồng bằng Sông Cầu, Tuy An, Tuy Hoà, Ninh Hoà, Nha Trang và Phan Rang rất nhỏ. Lớn nhất là đồng bằng Tuy Hoà do sông Đà Rằng tạo thành.
    Đằng sau mũi Dinh (Padaran) là cánh đồng Bình Thuận toả rộng kéo dài đến tận Nam Kỳ chẳng gặp chướng ngại gì.
    3.Các đồng bằng miền Nam
    Nam Kỳ là một châu thổ rộng khoảng 22.000km2, sinh thành từ một vịnh bị vùi lấp ở kỷ thứ tư. Vịnh này nằm giữa các nếp gấp thuộc đại cổ sinh và các đất đai thuộc đại trung sinh của Campuchia ở phía tây và phía bắc, và khối núi đá kế tinh phía nam Trung Kỳ ở phía đông. Những phù sa này do sông Đồng Nai, và chủ yếu do sông Mê Kông mang tới. Đất bồi này được một vùng nhô lên từ biển hỗ trợ. Nam Kỳ vẫn tiếp tục hình thành dưới mắt chúng ta.
    III.Bờ biển
    Nước Việt Nam có rất nhiều bờ biển, dài tới trên 2.000 km. Vùng duyên hải này nằm bên bờ phần phía nam biển Đông, một biển ven bờ của Thái Bình Dương. Biển này rất sâu ở phía đông bắc; độ sâu đó đạt tới trên 5.000m: những chỗ đáy sâu hơn 1.000m nằm cách bờ miền trung Trung Kỳ 3 dặm, các đáy sâu 3.000m cách bờ giữa mũi Đinh và mũi Mai (Varella) 300km. Nhưng ở tất cả các nơi khác, nước Việt Nam nằm bên một biển không sâu lắm, xung quanh là một thềm biển sâu dưới 50m.
    Về đại thể, duyên hải Việt Nam ít bị cắt rời. Sự phát triển các cồn cát ven bờ và bùn do sông ngòi mang đến, làm cho nó thành đều đặn. Điểm nổi bật là các bãi đất bồi nối liền với nhau những mũi đất lởm chởm đá đã chịu sự gia công mạnh mẽ của thiên nhiên.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 08:41 ngày 05/07/2006
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    B.Khí hậu
    Chịu ảnh hưởng của gió mùa, nước Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới của Bắc bán cầu, khí hậu nói chung nóng và ẩm, thay đổi từ kiểu đồng dạng ở các vùng biển và các đồng bằng châu thổ, đến kiểu biến đổi của các vùng nội địa được những khối núi che khỏi ảnh hưởng của biển.
    Ngoài ra, biên giới Bắc Kỳ và bờ biển Nam Kỳ cách nhau hơn 1.650km, vì thế nước Việt Nam không có cùng một khí hậu ở khắp nơi. Trong khi ở Bắc Kỳ và phía bắc Trung Kỳ, giá rét giáp Tết (tháng Giêng và tháng Hai dương lịch) buộc mọi người mặc đồ len, thì tại phía nam Đèo Ngang, mùa đông ít khắc nghiệt hơn, và ở Sài Gòn thì cùng thời gian đó, người ta bị mặt trời chói chang giày vò, và mệt lử vì nóng bức giữa những thửa ruộng nứt nẻ. Những điểm khác biệt đáng kể cũng có thề được thấy về mưa: vào tháng Mười một, chẳng hạn, ở Huế mưa trung bình 729mm, trong khi ở Hà Nội, người ta chỉ ghi được mức cao 48mm.
    Mặt khác: giữa Đồng Hới và Đà Nãng là miền mưa nhiều nhất: Đồng Hới mưa 1.982mm, Quáng Trị 2.543mm, Huế 2.903mm. Qua khỏi mũi Dinh cho đến tận châu thổ Nam Kỳ, miền duyên hải, trái lại, mưa ít hơn. Phía bắc Phan Thiết, nhiều trạm thuỷ văn chỉ ghi được một mức cao 600mm hằng năm.
    Những điểm khác nhau đó được giải thích bằng nhiệt độ và gió mùa chúng ta sẽ xem xét riêng biệt.
    I.Nhiệt độ
    Sự khác nhau giữa miền Bắc và miền Nam xuất hiện rõ rệt về nhiệt độ. Sài Gòn nằm ở 14,47 vĩ độ bắc, có nhiệt độ trung bình hàng năm là 27,6. Nhiệt độ của Hà Nội, nằm ở 21,02 vĩ độ bắc, chỉ lên đến 23,9. Như vậy khoáng cách là 3,7.
    Mặt khác, nhiệt độ ít biến đổi tại Sàn Gòn trong năm, trong khi sự biến đổi hằng năm ở Hà Nội mạnh hơn nhiều. Biên độ hằng năm đối với hai nơi này là 3,7 tại Sài Gòn, là 12,1 ở Hà Nội.
    Ở miền trung Trung Kỳ, biên độ này tăng lên khi ta đi từ Nam ra Bắc. Nhiệt độ trung bình miền nam Trung Kỳ thay đổi từ 23, (tháng Giêng) đến 30, (tháng Bảy), tức là cách nhau tối đa 7, ở miền bắc Trung Kỳ, sự biến đổi đó là 16,. Tại miền trung Trung Kỳ, ta thấy một khoảng cách trung gian là 10,.
    Càng đi về phía bắc, nhiệt độ càng dịu, và nhất là mùa đông trở nên mát hơn. Ở Nam Kỳ, nhiệt độ biến đổi không nhiều: giữa tháng Tư, nhiệt độ trung bình lên cao nhất, và tháng Chạp, nhiệt độ trung bình xuống thấp nhất, sự khác nhau chỉ là 3,7, trong khi ở Hà Nội, sự khác nhau đó là 12,1. Khí hậu Nam Kỳ thường xuyên nóng nực, với nhiệt độ trung bình khoảng 20, và 30,. Nhiệt độ trung bình của tháng rét nhất thấp xuống nhiều từ Nam ra Bắc: 26, tại Sài Gòn, 24,2 ở Nha Trang, 20,5 tại Huế, 18,5 ở Vinh, và chỉ 17,2 tại Hà Nội. Ở Bắc Kỳ có một mùa lạnh thật sự, trong mùa đó ở các châu thổ, do độ cao không đáng kể, nhiệt độ thường xuống đến 10, và thậm chí 6,.
    II.Gió và mưa
    Do vị trí của nó ở cực Đông Nam châu Á, giữa khối lục địa châu Á và khối biển của Thái Bình Dương, nước Việt Nam chịu chế độ gió mùa. Về mùa đông, châu Á có nhiệt độ rất thấp, và là trung tâm một xoáy nghịch mạnh. Trái lại, về mùa hạ, nó có nhiệt độ rất cao, và là trung tâm một xoáy tụ lớn. Như vậy, năm chia thành hai mùa lớn, một mùa chủ yếu có những cơn gió hè, thổi từ đại dương và những trận mưa lớn nhất, mùa kia chủ yếu là gió đông của lục địa, tương đối khô ráo. Ở khắp nước, ta thấy trong năm có một mùa khô với gió mùa mùa đông và một mùa mưa với gió thùa mùa hè. Cơ chế những cơn gió mùa này khá đơn giản.
    1.Gió mùa mùa đông
    Về nguyên lý, gió đó ngự trị từ tháng Mười đến tháng Ba. Một xoáy nghịch xuất hiện tại Trung Quốc với áp suất đôi khi lên tới 780mm ở trung tâm. Gió lạnh và khô thổi từ Trung Á đến Việt Nam, là nơi đẳng áp 768mm đi qua Hà Nội và đẳng áp 760mm qua Sài Gòn. Tình hình khí quyển này thường được báo trước bằng những trận bão bất chợt. Giống như ở khu vực phía tây Nhật Bản, bờ biển Việt Nam có sóng mạnh đến nỗi sự đi lại bằng đường biển trở thành nguy hiểm. Tại châu thổ Bắc Kỳ, giá rét được cảm thấy vào tháng Mười một-Mười hai, ngay khi gió mùa hình thành. Người ta đã mặc quần áo len; và các tia nắng trở thành tốt lành ở đất nước mà vào đầu tháng Mười, người ta còn mặc sơ-mi trần đi dạo chơi.
    Chế độ gió mùa mùa đông cũng là chế độ mưa hiếm: mưa ít nhất vào mùa đông.
    Tại Bắc Kỳ, mưa rơi vào mùa này rất nhỏ hạt, gọi là mưa phùn, lâu hàng tuần.
    2.Gió mùa mùa hè
    Về nguyên lý, gió mùa mùa hè ngự trị từ tháng Tư đến tháng Chín. Một phạm vi áp suất cao xuất hiện tại Thái Bình Dương, một phạm vi nữa tại Ấn Độ Dương và châu Úc. Lục địa châu Á bị hâm nóng nằm hầu như hoàn toàn bên trong đẳng áp 757mm. Từ đó nảy ra một sự hút gió từ đại dương về lục địa: đây là gió mùa hè. Khi đã thổi, gió đó mang đi khắp nơi những cơn mưa rất to, thành những trận mưa rào dữ dội và ở hầu như khắp nơi, gió mùa mùa hè ra lượng mưa hằng năm nhiều nhất. Việt Nam nằm ngay trước mặt luồng gió này.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lịch sử
    Tổ tiên người Việt ngày nay chẳng phái là cư dân đầu tiên của vùng đất hiện tạo thành quốc gia mà chúng ta gọi là nước Việt Nam. Ngay tên gọi của lãnh thổ cũng đã thay đổi nhiều lần. Ở hai thiên niên kỷ cuối cùng trước Công lịch, nước này tên là Văn Lang. Khoảng thế kỷ III trước Công lịch, được Thục An Dương Vương đặt tên là Âu Lạc. Người Trung Hoa thời nhà Tần (221-206) gọi là Tượng Quận. Nhà Hán, sau khi chiếm nước ta (năm 111 trước Công lịch), chia thành ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Sau đấy, Giao Chỉ được gọi là Giao Châu. Dưới thời nhà Đường của Trung Hoa (620-906), đất nước được tổ chức thành An Nam Đô Hộ Phủ.
    Người sáng lập nhà Đinh (968-980), sau khi giành lại độc lập cho nước Việt Nam, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Vua Thánh Tôn nhà Lý (1054-1072) đổi lên nước thành Đại Việt Năm 1164. Hoàng đế nhà Tống của Trung Hoa thừa nhận nước ta là An Nam Quốc. Sau đấy, vua Gia Long, người sáng lập triều Nguyễn, sau khi thống nhất đất nước, đặt tên nước là Việt Nam (1802). Người kế vị ông là Minh Mạng đổi tên nước là Đại Nam.
    Nam Kỳ và phía nam Trung Kỳ là những vùng đất mới. Người Việt mới định cư tại đấy từ hai hay ba thế kỷ nay, và thậm chí đôi khi còn chưa lâu đến thế. Những đất này xưa kia là nơi cư trú của người Chăm, hay của những dân tộc có dân số ít hơn như người Khơme.
    I.Thời kỳ tiền sử
    Nhưng ngay cả ở các vùng phía Bắc, như Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ, nơi người Việt định cư rất lâu, từ thời kỳ có sử các cuộc khai quật cho thấy những lớp cư dân rất cổ, ngày nay hoàn toàn vắng bóng trên đất Việt Nam. Những cư dân đó lập nơi cư trú của họ tại đấy ở thời tiền sử. Các công trình nghiên cứu bền bỉ của các nhà tiền sử học như các ông Mansuy, Palte và cô Colani, cho thấy cư dân đã gồm những thành phần rất khác nhau trên vùng đất của nước Việt Nam hiện nay.
    Tại Bắc Kỳ, công cụ đá tìm được ở các cuộc khai quật cho thấy những cư dân có quan hệ với người Anhđônêdiêng và người Mêlanêdiêng ở kề nhau tại thời tiền sử.
    Ở phía bắc Trung Kỳ, ở Thanh Hoá và Nghệ An, cũng có những ngôi mộ, những đống vỏ sò, chứa một số lớn công cụ bằng xương, có lẽ thuộc một nền văn minh mà ta thấy dấu vết từ Giava đến Nhật Bản. Ở Xuân Lộc, tại Nam Kỳ, người ta khai quật năm 1928 một mộ đá cổ đẹp.
    Dù sao, ở nước Việt Nam thời kỳ đá mới cũng kéo dài đến một thời kỳ muộn và "chính ảnh hưởng khai hoá của các vùng lân cận phát triển hơn là Ấn Độ và Trung Hoa đã tác động đến các cư dân vừa ra khỏi giai đoạn này, và chỉ mới bắt đầu sử dụng đồ đồng".
    Và có lẽ người Việt đầu ngắn đã đến định cư vào lúc bình minh của thời có sử, trên cái nền đó của cư dân Anhđônêdiêng và Mêlanêdiêng đầu dài, da đen hoặc da sáng. Nhưng nguồn gốc dân tộc Việt vẫn cực kỳ mờ mịt. Ông Coedès đã viết một cách sáng suốt rằng: "Người ta đã đề ra ý kiến rằng họ tới từ miền đông Trung Hoa ở thời kỳ tương đối gần đây, bằng một cuộc thiên di mà người ta cho rằng có thể tìm lại tiếng vang trong các sách Trung Hoa. Thuyết này đã bị phản đối kịch liệt, theo tôi nghĩ, tin vào thuyết đó sẽ là thiếu thận trọng. Điều hợp lý hơn là thú nhận sự thiếu hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc xa xôi của người Việt những người chắc chắn là sản phẩm của nhiều sự tạp giao, và công nhận rằng tổ tiên họ cư trú tại miền trung đồng bằng Bắc Kỳ từ một thời kỳ rất xa. Có quan hệ thân thuộc với ngữ tộc Thái, là bà con rất gần với người Mường ở Hoà Bình và Thanh Hoá, người Việt hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã Hán hoá và chắc là lai giống nhiều?.
    II.Thời kỳ sơ sử
    Các nhà viết sử biên niên Việt Nam đã tô điểm tác phẩm lịch sử của họ bằng những truyền thuyết. Đất nước chúng ta, mà người Trung Hoa gọi là Giao Chỉ, có vua đầu tiên là chắt của Thần Nông, được coi là thần nghề nông ở Trung Hoa. Ông vua này kết hôn với Động Đình Quân, con gái nòi rồng và sinh một con trai nối ngôi với tên gọi Lạc Long Quân. Vị này kết hôn với Âu Cơ. Bà đẻ liền một lần một trăm quả trứng, nở thành trăm con trai.
    Con trai trưởng của Lạc Long Quân trị vì với danh hiệu Hùng Vương. Đây là vương triều Hồng Bàng liên tiếp cung cấp mười tám đời vua cho nước Nam, lúc đó gọi là Văn Lang.
    Vào giữa thế kỷ III trước Công lịch, vua Thục chiếm vương quốc của Hùng Vương và trị vì với danh hiệu An Dương Vương. Nước lấy tên là Âu Lạc, kinh đô ở Loa Thành, ngày nay là Cổ Loa. nằm ở huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Ta còn thấy dấu vết thành đó không xa con đường từ Hà Nội đi Phúc Yên. Năm 208 trước Công lịch, một tướng Trung Hoa tên gọi Triệu Đà chiếm Âu Lạc và xưng làm vua. Ông đóng đô tại Phiên Nguỵ gần thành phố Quảng Châu hiện thời. Như vậy ông lập ra một nước mới gọi là Nam Việt gồm Giao Chỉ, tức đồng bằng Bắc Kỳ và Cửu Chân, do các tỉnh phía bắc Trung Kỳ (Thanh Hoá và Nghệ Tĩnh) tạo thành.
    III.Thời kỳ bắc thuộc
    Năm 111 trước Công lịch, vua Vũ Đế nhà Hán chiếm Nam Việt. Ông giữ lại ở đấy hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, rồi thêm vào đó quận Nhật Nam kéo dài lừ Đèo Ngang đến quãng Huế hay là Đà Nẵng.
    Sự thống trị này của người Trung Hoa kéo dài hơn mười thế kỷ, từ năm 111 trước Công lịch đến năm 968 sau Công lịch. Các quan cai trị Trung Hoa chẳng phải bao giờ cũng là những tấm gương thanh liêm; họ kiếm lợi cho riêng mình hơn là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Xấu xa nhiều tham vọng và bủn xỉn, họ chỉ tìm cách thoả mãn quyền lợi cá nhân trong thời gian cầm quyền, tìm cách làm giàu trên lưng dân chúng. Lịch sử còn ghi lại những sự sách nhiễu, bất công và tàn ác của họ. Vì thế, trong thời kỳ dài này, nước Việt Nam thời xưa đã nhiều lần nổi dậy dữ dội chống nền Bắc thuộc.
    Dù thế nào, thì ngoài những cuộc nổi dậy bên trong và những cuộc chiến phòng thủ ở biên thuỳ, chính quyền đô hộ, trong thiên niên kỷ này, cũng đã giữ yên được xứ sở và Hán hoá nó rất mạnh. Thành ra ở thế kỷ X, khi nhà Đinh lợi dụng sự hỗn loạn tại Trung Hoa sau lúc nhà Đường sụp đổ đánh đuổi được người Hán khỏi bờ cõi và giành lại độc lập dân tộc, thì nước Việt Nam, trong số các quốc gia vùng Đông Nam A, trở thành một Nhà nước hùng cường, có một tổ chức xã hội và hành chính vững vàng, tạo cho nó một khả năng phát triển và trở nên một dân tộc lớn.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    IV.Thời kỳ cận đại
    Cuộc vận động giành lại độc lập bắt đầu với Ngô Quyền, người đã đánh tan được quân Trung Hoa và sáng lập nhà Ngô năm 939, rồi đóng đô tại Cổ Loa. Lúc nhà vua qua đời, những cuộc đấu tranh nội bộ diễn ra ở triều đình, và đất nước lại rơi vào sự hỗn loạn. Các thủ lĩnh địa phương tìm cách bành trướng, lấn chiếm lẫn nhau. Đây là thời kỳ Mười hai sứ quân, thời kỳ rối loạn, đấu tranh liên miên mãi đến năm 968 mới chấm dút nhờ một trong số các sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh, quê ở Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, người đã dẹp yên đất nước và cai trị cả vùng Bắc Kỳ và phía bắc Trung Kỳ.
    Lúc ông mất, sự kình địch nhau lại bắt đấu, và năm 980, một đại thần là Lê Hoàn chiếm ngôi và lấy hiệu là Lê Đại Hành.
    Sau khi Đại Hành từ trần (1005), những cuộc đấu tranh mới lại nhuộm máu triều đình. Vua kế nghiệp Lê Ngoạ Triều, kẻ đã chết trong sự bất bình của tất cả mọi người, chỉ là một đứa trẻ còn thơ dại. Đình thần bèn tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, như vậy ông là người sáng lập nhà Lý, vương triều cai trị đất nước trong hơn 200 năm, từ năm 1010 đến năm 1225.
    Nhà Lý là vương triều lớn đầu tiên của Việt Nam. Vương triều đó đóng đô tại Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Triều đình bắt đầu tổ chức đất nước ngay từ đó. Vương quốc được chia thành 24 bộ và 2 trại. Thứ bậc quan chức được quy định. Quân đội được tổ chức lại, gồm một đạo quân bộ và một đạo thủy quân. Triều đình định sổ thuế và lập trong các làng bản danh sách dùng làm cơ sở cho thuế thân, lao dịch và mộ binh. Một chương trình bảo vệ ruộng đồng chống lũ lụt được thi hành. Con đê đầu tiên, đê Cơ Xá (cảng Hà Nội hiện giờ), được đắp năm 1109. Việc học chữ Hán được khuyến khích: Văn Miếu ở Hà Nội, ngôi đền văn học đầu liên, được xây dựng năm 1070. Năm 1076, Học viện quốc gia Quốc Tử Giám được thành lập. Khoa thi đầu tiên được mở năm 1075.
    Nhưng các chiến công lớn về quân sự mới là nét nổi bật của lịch sử vương triều này. Quả vậy, chính là từ thời kỳ này đã mở đầu cuộc mở mang đất đai to lớn là bền bỉ của người Việt xuống phía Nam.
    Sự thiếu đất trồng lúa, hẳn là đã bắt đầu được cảm thấy ở các đồng bằng Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ, đã thúc đẩy người Việt tranh chấp với người Chàm những mảnh đồng bằng phía Nam. Nhưng chính Việt Nam cũng đã bị Champa khiêu khích, khi nước này muốn lợi dụng lúc người Trung Hoa rút đi để cướp phá cái quốc gia vừa mới được giải phóng và đang bị những vụ tranh chấp nội bộ tàn phá. Năm l044, khi người Chàm tiếp tục đánh phá biên thuỳ nước Nam thì vua Thái Tôn nhà Lý xâm lấn Champa, đánh bại một đạo quân lớn, bắt 5.000 tù binh, 30 voi. Nhà vua tiến binh vào kinh đô Vijaya rồi chiếm thành đó. Ông thu được một số lớn chiến lợi phẩm và đưa tù binh đến lập làng mạc tại Nghệ An và Hưng Hoá.
    Năm 1069, những cuộc tiến công mới của người Chàm bị trừng phạt nghiêm khắc. Vua Thánh Tôn thắng lợi lớn thiêu cháy Vijaya và cầm tù vua Rudyavarman III của Chàm. Để được tha, ông vua này phải nộp cho Việt Nam ba châu phía bắc: Đại Lý, Bố Chính và Ma Linh, hiện nay là Quảng Bình là bắc Quảng Trị. Vua Thánh Tôn cho đưa đến những nơi đó nhiều người Việt di thực.
    Đầu thế kỷ XIII, ở triều nước Nam có một cuộc khủng hoảng vương triều. Vua Huệ Tôn, sau 14 năm trì vì, nhường ngôi cho con gái lên làm vua gọi là Chiêu Hoàng và lui về tu ở một ngôi chùa. Một triều thần tìm cách gả được cháu trai là Trần Cảnh cho nữ hoàng trẻ tuổi. Trần Cảnh lên ngôi và như vậy lập nên vương triều mới nhà Trần, tồn tại từ năm 1225 đến năm 1414.
    Vương triều này tiếp tục sự nghiệp tổ chức đất nước mà nhà Lý đã bắt đầu. Những cuộc đấu tranh được duy trì chống Trung Hoa và Champa. Nước Champa lại bị vua Thái Tôn tiến đánh năm 1252. Vua Chàm bị bắt làm tù binh. Hoà bình được lập lại giữa hai nước. Ít lâu sau, Toa Đô một tướng của vương triều mới của người Mông Cổ là nhà Nguyên, tiến đánh Champa bằng đường biển. Vua Chàm bị đánh bại nhiều lần và chạy trốn. Nhưng rút cuộc, Toa Đô không chiếm được nước này; y phải chạy về Trung Hoa. Năm 1284, một đạo quân lớn của Mông Cổ được phái sang Việt Nam. Quân Việt Nam dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn, được các tướng Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão giúp đỡ, đánh lui được quân Nguyên sau những trận chiến đấu gay go. Mãi đến năm 1288, hoà bình mới được lập lại
    Năm 1293, sau một thời gian trị vì vinh quang, vua nước Nam là Nhân Tôn nhường ngôi cho con trai là Anh Tôn. Trong một chuyến đi thăm Champa năm 1306, mà ở đó nhà vua được tiếp đón rất trọng thể, vua ngỏ ý gả cho vua Chế Mân, vị chủ nhà, một công chúa Việt Nam. Vua Champa lấy làm cảm động bèn vội vàng gửi sang triều đình Việt Nam nhiều phẩm vật triều cống quý giá. Đến ngày cưới, ông lại dâng cho Anh Tôn hai châu Ô và Rí làm tặng vật. Hai châu đó hiện giờ là phía nam tỉnh Quảng Trị tỉnh Thừa Thiên và một phần Quảng Nam. Vua Việt Nam bèn lập hai châu Thuận và Hoá, và cử Đoàn Nhữ Hải đến cai quản hai châu này.
    Nhưng từ giữa thế kỷ XIV, lộn xộn xảy ra ở Việt Nam. Đói kém và nổi dậy diễn ra năm 1342, ngay lúc Dụ Tôn lên ngôi, nhưng nhà vua. trong thời gian trị vì, đã chẳng làm gì để khôi phục đất nước. Năm 1367, một đạo quân Việt Nam bị người Chàm đánh bại. Vua kế vị ông là Duệ Tôn tập hợp một đạo quân hùng mạnh và nhất quyết thân chinh đi chinh phạt. Bị nhử vào một trận địa mai phục, quân Việt Nam bại trận; và Duệ Tôn chết trong trận, anh ruột vua bị bắt cầm tù (1376). Người thắng trận là Chế Bồng Nga, một trong những vua lớn nhất của Chmapa, đã biết tổ chức lại hoàn toàn đất nước. Sau khi chiến thắng, ông tiến quân đến tận Hà Nội lần đầu tiên năm 1377, rồi sau đó vào những năm 1378, 1380, 1383, 1389. Tất cả phía bắc trung Kỳ, đến tận Thanh Hóa, trong thời kỳ này nằm dưới quyền người Chàm. Năm 1390, ông đem chiến thuyền tiến đánh kinh đô nước Việt. Nhưng trong lúc ông đang tìm cách thám sát vị trí địch quân thì bị một loạt súng bắn chết trên thuyền. Quân Chàm tháo chạy. Một thủ lĩnh Chàm chiếm lấy ngôi vua, nhưng không giữ được các vùng đất mà Chế Bồng Nga giành được. Thế là cái chết của Chế Bồng Nga kết thúc những mưu toan xâm phạm của Champa trong nhiều năm.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong thời gian những trận chiến đấu này, một viên quan nhà Trần là Hồ Quý Ly, thông gia của hoàng tộc, thâu tóm được nhiều thế lực. Năm 1400, ông buộc vua Trần còn trẻ dại phải nhường ngôi cho mình.
    Trong khi đó, nhà Minh ở Trung Hoa đã đánh đuổi người Mông Cổ từ cách đấy năm mươi năm, vẫn chăm chú theo dõi sự suy yếu của Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Champa cũng như sự lục đục nội bộ ở nước này. Cuối cùng, được sự thỉnh cầu của Champa lúc đó đang lo sợ một cuộc tiên công mới từ Việt Nam, cũng như của con cháu họ Trần cùng những người ủng hộ dòng họ này giành lại ngôi vua, triều đình nhà Minh đưa quân sang xâm lược Việt Nam, lần đầu tiên vào năm 1405, rồi tiếp theo vào năm 1407. Các vua nhà Hồ, Quý Ly cùng con trai là Hán Thương, bị bắt đem về Trung Hoa và chết tại đấy. Họ Trần lấy lại được quyền hành, mặc dầu tướng tá Trung Hoa không muốn rút về nữa. Rồi chẳng bao lâu, những lục đục mới trong nội bộ khiến triều đình nước Nam suy yếu. Sau nhiều năm chiến tranh, người Trung Hoa lập nền đô hộ mới của họ ở đất nước này.
    Nhà Trần, mặc dầu trải qua nhiều cuộc binh đao như thế, đã thực hiện được một công cuộc tổ chức bên trong đất nước bền vững trong gần hai trăm năm. Nước Nam chia thành 12 lộ, các lộ lại chia thành châu. huyện, xã. Nhà nước tổ chức lại thuế khoá; phân ruộng đất làm nhiều loại, căn cứ vào số mẫu của mỗi người mà định thuế điền, thu bằng hiện vật; đặt thuế muối, thuế quan đánh vào sản vật nước ngoài; làm lại sổ đinh; đặt ra thuế thân chỉ đánh vào địa chủ. Đường sá, cầu cống được tăng cường; đắp đê dọc sông Hồng tới tận biển; phát triển buôn bán bằng đường biển, tổ chức thi cử. Năm 1232, tổ chức khoa thi Thái học sinh, đến năm 1374 đổi thành thi Tiến sĩ. Cũng năm đó, tổ chức thi Hương, người trúng tuyển gọi là Cử nhân. Năm 1253, mở Quốc học viện và Giảng võ đường. Do việc học phát triển như vậy, dưới triều Trần đã xuất hiện bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, sách An Narn chí lược của Lê Tắc, sách Bình giải kinh điển của Chu Văn An, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, v.v... ,
    Ngay từ năm 1418, một nông dân quê ở Thanh Hoá, tên là Lê Lợi đã đứng lên cầm đầu cuộc kháng chiến, xưng là Bình Định Vương và bắt đầu một cuộc chiến đấu kéo dài mười năm chống người Trung Hoa. Năm 1428, đất nước lại được độc lập: Lê Lợi lập ra nhà Lê trị vì ở Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XVIII.
    Dưới triều Lê, nạn binh đao không còn nặng nề như ở thời kỳ trước đây. Công việc tổ chức hành chính và xã hội chiếm hàng đầu. Đất nước chia làm 13 xứ hoặc tỉnh: xứ và tỉnh lại chia thành 52 phủ, 178 huyện và 6.851. Đứng đầu mỗi xứ là ba viên quan trông nom về hành chính: tư pháp và quân đội. Quan lại được chọn lọc cẩn thận trong số những người đỗ đạt. Một ban thanh tra được lập ra để kiểm soát việc cai trị các tỉnh. Sáu bộ, là các bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công, được thiết lập phỏng theo triều đình Trung Hoa. Nhà nước cố gắng thu thuế để chỉnh đốn tình hình tài chính của đất nước đã bị cuộc chiến tranh lâu dài giành độc lập làm cho cạn kiệt.
    Nghề nông và thương mại được một loạt biện pháp bảo trợ: đào mương, đắp đê, khuyến khích nuôi gia súc và tằm, trồng dâu, cấp những ruộng đất còn để hoang hoặc bị chủ ruộng bỏ.
    Về cứu trợ xã hội, lập những nhà cứu tế cho người ốm đau và tàn tật. Một bộ luật mang tên thời kỳ đó ra đời, tức là bộ luật Hồng Đức được ông vua anh minh Lê Thánh Tôn ban hành. Luật đó định rõ các mức hình phạt căn cứ ở tính chất tội nhẹ hay nặng. Bộ luật này của nhà Lê đến nay vẫn là một trong những hình ảnh sinh động nhất của nước Việt Nam thời xưa.
    Ngoài ra, triều đình còn lập Quốc Tử Giám ở Văn Miếu, Hà Nội. Các kỳ thi Hương và thi Hội được tổ chức lại. Theo lệnh Lê Thánh Tông, bộ Đại Việt sử ký toán thư được Ngô Sĩ Liên biên soạn. Nhà vua lập một Viện Hàn lâm khoa học, Tao đàn, mà chính ông đứng đầu. Nhiều công trình văn học lớn còn truyền lại cho chúng ta từ thời Lê, như các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Vũ Quỳnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn...
    Việc bang giao với Champa là hữu nghị dưới thời Lê Lợi. Nhưng người Chàm chẳng bao lâu lại tiếp tục những cuộc đột nhập liên miên của họ. Năm 1444, vua Champa xâm nhập lần thứ nhất Hoá Châu (khu vực Huê) và bị một đội quân đánh đuổi. Nhưng chỉ ít lâu sau, ông ta lại xuất hiện (1445) và cho đến 1446, là một loạt vụ đột nhập vào cái tỉnh khốn khổ này. Triều đình Việt Nam bèn quyết tiến hành một cuộc chinh phạt quyết định. Kinh đô Champa bị cướp phá, vua nước đó bị bắt làm tù bình.
    Nhưng năm 1470, dưới thời Lê Thánh Tôn, người Chàm lại cướp phá châu Hoá. Thánh Tôn cầm đầu một đạo quân lớn đánh chiếm Vijaya. thành này bị cướp phá. Vua Chàm bị bắt và chết trong khi bị giam giữ. Thánh Tôn thôn tính khu vực phía bắc vương quốc Chàm và đổi thành tỉnh Quảng Nam. Rồi nhà vua chia miền Nam nước này thành ba phần và giao cho ba hoàng tử Chàm từ nay trở thành chư hầu nước Nam.
    Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVII, sau khi nguỵ triều Mạc, những kẻ đã chiếm được đất Bắc Kỳ ở thế kỷ XV, không còn nữa, thì hai họ kình địch nhau là Trịnh và Nguyễn chiếm đoạt quyền vua Lê. Nhà vua chỉ còn trị vì về danh nghĩa. Hai họ này lập nên hai lãnh địa độc lập với nhau, một ở miền Bắc, một ở miền Nam.
    Sự kình địch này làm cho đất nước lâm vào cảnh đổ máu từ năm 1627. Thế là trong gần hai thế kỷ cho tới năm 1775, Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng, lấy ranh giới là sông Gianh chảy qua phía bắc tỉnh Quảng Bình ngày nay.
    Sự ngẫu nhiên đó của lịch sử, rất tai hại cho sự tiến hoá của dân tộc, đã cho phép Việt Nam phát triển xuống phương Nam, tiếp tục chính sách bành trướng vốn là mối lo loan thường xuyên của tất cả các vương triều trị vì: Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê.
    Năm 1611, người Việt thôn tính vùng Phú Yên; năm 1653 lấy đất Khánh Hoà và năm 1697 chiếm phần còn lại của phía nam Trung Kỳ hiện thời. Rồi trong nửa đầu thế kỷ XVIII, họ chiếm được một phần đất đai màu mỡ ở phía Nam, lập nên Nam Kỳ ngày nay.
    Tuy vậy, ở phần ba cuối cùng của thế kỷ XVIII, hai lãnh địa miền Bắc và miền Nam suy tàn. Vì thế, anh em họ Nguyễn Tây Sơn đã có thể đánh đổ được họ Nguyễn và họ Trịnh. Một người trong ba anh em họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Huệ, sau khi chiếm Thăng Long, đã buộc ông vua cuối cùng triều Lê phải bỏ chạy, và tự xưng là hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung (1788). Ông qua đời năm 1792. Ngôi vua của ông đã không tồn tại được lâu sau khi ông mất.
    Bởi vì, ở miền Nam, Nguyễn Ánh, người kế nghiệp của chúa Nguyễn, sau một thời gian tị nạn ở đất Xiêm, đã lừ đó trở về đánh chiếm lại được Gia Định (Nam Kỳ hiện nay). Với sự giúp đỡ của giám mục Bá Đa Lộc cùng các sĩ quan Pháp, ông đánh bại được Tây Sơn. Ông chiếm Trung Kỳ năm 1801 là xưng là hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long. Ông tiến vào Hà Nội tháng Bảy năm 1802, đặt tên cho đất nước thống nhất là Việt Nam và đóng đô tại Phú Xuân (Huế).
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    V.Thời kỳ hiện đại-Triều Nguyễn
    Sự chiếm đóng của Pháp

    Gia Long, sau khi làm chủ đất nước, nỗ lực cải tổ xứ sở đã bị bấy nhiêu cuộc chiến tranh gây chết chóc tàn hại. Sự nghiệp ban hành luật pháp, tổ chức chính trị, xã hội và kinh tế của ông được những người kế nghiệp ông như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục. Nhưng các nét chính là do ông vạch ra.
    Vùng đất Gia Định được kiểm kê lại và khai khẩn một cách có hệ thống. Nhà nước chú ý mở mang mạng lưới giao thông để tạo điều kiện cho sự trao đổi giữa miền Bắc và miền Nam. Những công trình lớn được thực hiện, trước hết là Bắc Kỳ, để tu sửa đê điều. Kho công quỹ được xây dựng tại tất cả các tỉnh để chứa thóc gạo dự trữ đề phòng những thời kỳ đói kém.
    Nhà nước quan tâm tuyển dụng viên chức bằng cách tổ chức lại chế độ thi cử, và khuyến khích việc học tại các tỉnh bằng cách đặt ra chức đốc học. Hệ thống quan lại được đặt vào quy chế.
    Chế độ thuế được cải tổ. Thuế được đánh vào các tàu bè nước ngoài ra vào các cảng trong nước. Một hệ thống tiền tệ được thiết lập: dùng vàng nén, bạc thỏi, đồng tiền kẽm. Một bộ luật mô phỏng luật nhà Thanh bên Trung Hoa được ban hành năm thứ 11 đời Gia Long. Quân đội cũng được cải tổ. Nước chia làm 24 trấn (tỉnh lớn), 4 doanh (tỉnh nhỏ) và 2 đạo vùng biên giới), đứng đầu là các trấn thủ, hiệp trấn, rồi đến tổng đốc, tuần phủ và quản đạo, có các bố chính giúp việc ngạch hành chính và án sát trong ngạch tư pháp.
    Về đối ngoại, bang giao với Trung Hoa yên ổn và bình thường. Nhưng quan hệ giữa Việt Nam với các nước châu Âu ngày càng rắc rối.
    Nước Việt Nam, cho đến bấy giờ vẫn nằm dưới ảnh hưởng văn hoá trực tiếp của nước Trung Hoa cổ, gần như hoàn toàn đóng cửa đối với những sự trao đổi với phương Tây. Tâm địa và các đòi hỏi của châu Âu đều không được biết đến. Người ta không ngờ đến sức mạnh to lớn của châu Âu. Người da trắng bị coi là "kẻ man di? hoặc ?oquỷ". Người ta vừa coi khinh họ vừa sợ quan hệ với họ.
    Thế nhưng, ngay từ cuối thế kỷ XV, người Bồ Đào Nha đã đến buôn bán tại Hội An ở tỉnh Quảng Nam, nơi có người Trung Hoa, Nhật Bản và Hà Lan sinh sống với nhau. Người Bồ Đào Nha còn lui tới bờ biển Bắc Kỳ. Năm 1637, người Hà Lan tới cư trú tại Phố Hiến (Hưng Yên hiện giờ).
    Nhưng ở thế kỷ XVIII, người Bồ Đào Nha ưa thích xứ Nam Kỳ hơn, còn người Hà Lan thì lại thích xứ Bắc Kỳ. Bởi thế họ Nguyễn và họ Trịnh muốn sử dụng những người này để chuyên chở quân lính và mua súng đạn. Nhưng người Bồ Đào Nha và Hà Lan là những thương nhân, và không hề muốn can thiệp vào cuộc xung đội. Các chúa hai bên đều bất mãn và tìm cách gây khó khăn cho họ. Cuối cùng, người Hà Lan chán nản từ bỏ việc buôn bán ở Bắc Kỳ.
    Ở thời kỳ này, một vài người Anh và người Pháp cũng đến bờ biển Việt Nam. Năm 1672, một tàu Anh thả neo ở vùng biển Bắc Kỳ để xin đặt kho hàng. Các chúa Trịnh cho phép họ đến cư ngụ tại Phố Hiến. Sau đấy vì việc buôn bán suy sụp, người Anh rời khỏi nước này (1697).
    Người Pháp đến buôn bán ở Phố hiến năm 1680. Chiếc tàu Pháp Saint-joseph từ Xiêm tới năm 1682, mang tặng vật biếu các chúa Trịnh. Từ 1625 đến 1630, rồi từ 1640 đến 1645, linh mục Alexandre de Rhodes tới giảng đạo ở Việt Nam, cả ở Phú Xuân (Huế) và Thăng Long (Hà Nội). Ông được chính quyền địa phương đón tiếp nồng hậu tại những nơi này. Sự nghiệp của ông được các vị khâm mạng toà thánh thuộc Hội Truyền giáo nước ngoài như Francois Palla và Lambert de la Motte kế tục.
    Ở thế kỷ XVIII, có những thương nhân Pháp ngày càng hoạt động tích cực đến Việt Nam: Công ty Ấn Độ đã nhòm ngó đảo Orléans (quần đảo Côn Lôn). Nhiều lần Duplex dự định mở một thương điếm tại Đông Dương. Năm 1748. Công ty Ấn Độ giao một sứ mệnh chính thức cho Pierre Poivre. Ông này tới Huế và, năm 1749, được những lợi thế về thương mại. Ông trở về Pháp mang theo một bức thư thân thiện của chúa Nguyễn Võ Vương gửi vua Louis XV, kèm nhiều tặng vật.
    Ở nửa sau thế kỷ XVIII, theo lời của M.Taboulet, các kế hoạch chiếm cứ Nam Kỳ tăng gấp bội. Năm 1753, một nhà truyền giáo cũ, tu sĩ Saint Phalla: trình bày với Tổng kiểm soát viên Silhouette, một báo cáo về Bắc Kỳ. Năm 1775, một thương gia vùng Surate, tên là Protais Leroux, kiến nghị lập một trạm buôn bán và chiến lược lại Côn Đảo. Choiseul lập một uỷ ban để xem xét cách tìm cho nước Pháp, ở một vùng nào đó của châu Á, những cơ sở có thể đối trọng với các lợi thế mà người Anh vừa giành được ở Ấn Độ. Năm 1775, Vergennes và Sartines yêu cầu thương gia De Rothé vạch một kế hoạch trang bị "cho một ngành thương mại mới? ở Đông Dương. Năm 1778, kẻ đứng đầu thương điếm Chandernagor, tên là Chevalier, đề nghị thống đốc Pondichéry can thiệp vũ trang giúp chúa Nam Kỳ bị bọn tiếm quyền phế truất. Những bản tường trình của các nhà truyền giáo, những truyện kể của người du lịch bắt đầu làm cho. nước Pháp nhận thấy xứ Đông Dương. Sự giúp đỡ của giám mục Bá Đa Lộc (d''adran) cùng các võ quan trẻ tuổi người Pháp, như Chaigneau, Vannier, anh em Dayol, cho Gia Long, đã tăng cường thêm ảnh hưởng chi phối của tư duy Pháp tại Việt Nam?.
    Nhưng sau đấy, người kế vị Gia Long là Minh Mạng (1820-1840), không tiếp các chiến hạm và thương nhân Pháp, dưới thời Phục hưng ở Pháp, tìm cách thiết lập quan hệ lãnh sự và buôn bán với Nam Kỳ". Tin rằng sự truyền bá đạo Cơ đốc trong nước "là một nguy cơ nghiêm trọng về cả phương diện chính trị và tinh thần", ông đàn áp dữ dội các nhà truyền giáo. Trong số những nhà truyền giáo đó, nhiều người bị gán cho tội dính líu vào những âm mưu do người ta tưởng lượng ra, đã bị tử hình...
    Tuy có từng lúc được giảm bớt chút ít, cuộc đàn áp vẫn tiếp diễn dưới triều vua Triệu Trị (1841-1847). Các tàu chiến Pháp, tăng thêm các chuyến tuần tiễu ở bờ biển Việt Nam, cứu được nhiều giáo sĩ thoát chết. Bị đe doạ, những tàu đó đã có lần tiêu diệt cả một đội thuỷ quân Việt Nam (tháng Giêng 1847).
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sự chú ý của chính phủ ngày càng hướng về biển Đông, nơi người Anh vừa thiết lập cơ sở sau cuộc chiến tranh nha phiến. Tán thành chính sách "điểm tựa", Guizot cho rằng nước Pháp không nên vắng mặt ở một khu vực lớn như vậy của thế giới, nhưng ông nghĩ rằng đối với khu vực đó của thế giới, những khái niệm mà người ta nắm được chưa đủ rộng và đủ chính xác để quyết định đâu là điểm cần chiếm lĩnh.
    Vì vậy người kế nghiệp Triệu Trị là Tự Đức (1847-1883), có một nhiệm vụ cực kỳ nặng nề. Ông đồng thời là một người có con hiếu, một nhà vua nhân từ, chăm chỉ và có học vấn. Tuy nhiên, trong đám quần thần giúp ông không có người giỏi. Đúng là ông có bên mình những quan thượng thư thanh liêm và tận tuỵ, với lòng mến yêu sâu sắc nhà vua và đất nước, như Trương Đăng Quế, Vũ Trọng Hình, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... nhưng tất cả đều là những nhà nho cũ có học vấn đã lỗi thời, chẳng biết gì về thực trạng của một thế giới mới.
    Ai cũng chỉ nhìn thấy những hình thức cổ truyền, và ưa sống trong một thế giới mà họ coi là ưu việt.
    Một vài người Việt Nam như Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điền, đã từng ra nước ngoài, nhìn thấy rõ hơn. Nguyễn Trường Tộ thậm chí còn dâng sớ lên nhà vua, trình bày tình thế đất nước, những tiến bộ mà các quốc gia khác đạt được, để xin nhà vua lập tức ban hành những cuộc cải cách, nếu không thì sẽ mất nước. Nhà vua chuyển tờ sớ cho đình thần xem xét. Xem xong, họ trịnh trọng tuyên bố rằng các gợi ý của Nguyễn Trường Tộ là vô căn cứ.
    Một người dân Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền đệ trình vua một chương trình lớn khai thác đất nước: khẩn hoang những đất chưa trồng trọt. khai thác mỏ, xây dựng đường sắt, mở rộng cửa của đất nước cho người nước ngoài vào buôn bán, huấn luyện quân sự cho dân chúng... Kế hoạch của ông cúng bị triều đình bác bỏ.
    Vả lại phải nói thêm rằng, tất cả đều thúc đẩy dồn dập các biến cố: nền văn minh vật chất của Việt Nam quá lạc hậu; nhân dân Việt Nam bản chất vốn yêu chuộng hoà bình đã chán nản, kiệt quệ vì nhiều năm nội chiến, hạn hán và lụt lội; cuộc chạy đua của châu Âu sang Viễn Đông sắp kết thúc. Sớm muộn phải có một giải pháp ổn định.
    Một hoà ước được ký ngày 6 tháng Sáu năm 1862, theo đó, triều đình nước Nam nhường cho Pháp ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Năm 1867, ba tỉnh khác của miền tây Nam Kỳ cũng bị chiếm đóng.
    Nhưng mục tiêu lớn của chính phủ Pháp là vươn đến miền nam Trung Hoa, được coi là một thị trường lớn của châu Âu. Ngay từ năm 1866, một phái bộ, dưới sự chỉ huy của Doudart de Lagrée, được Francis Gamier trợ giúp, được giao nhiệm vụ thăm dò dòng sông Mê Kông. Sau hai năm đi vất vả, phái bộ này phải kết luận rằng "sông Mê Kông có nhiều ghềnh thác, không thể trở thành mạch máu buôn bán lớn mà người ta đã từng mơ tưởng". Song phái bộ đó trái lại, phát hiện ở sông Hồng một con đường thuận tiện vào Hoa Nam. Mọi con mắt bèn hướng về Bắc Kỳ. Một nhà buôn Pháp, Jean Dupuis, bị chính phủ Việt Nam gây khó khăn ở đấy. Chính phủ Nam Kỳ được kêu gọi can thiệp. Họ phái Francis Gamier đến đấy với hai trăm binh lính. Đội quân này đánh chiếm Hà Nội năm 1873 cùng nhiều nơi khác tại Bắc Kỳ. Cái chết của Francis Gamier cuối năm đó khiến chính phủ Pháp, trong tình hình quốc tế rắc rối, quyết định rút khỏi Bắc Kỳ.
    Nhưng các cuộc hành quân lại tiếp tục năm 1882 nhân một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng tại triều đình Huế. Tự Đức qua đời năm 1883. Quyền hành rơi vào tay hai quan thượng thư có thế lực là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết Hai người này lạm dụng quyền lực. Quân đội Pháp tiếp tục việc đánh chiếm đất nước. Và thế là qua hoà ước năm 1884, triều đình Huế thừa nhận nền bảo hộ Pháp ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.
    Từ đấy, vận mệnh nước Nam từ Bắc đến Nam được giao cho nước Pháp. Tuy có những khó khăn rất nghiêm trọng do cuộc kháng cự lâu dài của các văn thân Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ, do đất nước rộng lớn, cũng như do tính đa dạng của các nhu cầu của dân chúng, chính quyền Pháp bằng sự linh hoạt và khiêm tốn, đã thực hiện được một công cuộc tết đẹp.
    Nước Việt Nam ngày nay có khoảng 18.900.000 dân, trong đó có 15.000.000 người Việt.
    Bắc Kỳ là bộ phận đông dân nhất, với 8.700.000 người. Xứ Trung Kỳ có chừng 5.600.000 dân. Nam Kỳ 4.600.000 người. Cư dân này phân bố không đều: nếu như mật độ trung bình nói chung của cả nước là 50 người một kilômét vuông, thì lại có những tỉnh với mật độ từ bốn đến năm trăm người mỗi kilômét vuông, và lắm chỗ, còn lên đến từ 1.000 đến 1.500. Đó là vì hầu như toàn bộ 15.000.000 người Việt đều cư trú trên diện tích nhỏ hẹp của các đồng bằng ven biển. Châu thổ Bắc Kỳ diện tích khoảng 15.000km2 chứa một số dân 7.000.000 người. Các đồng bằng ven biển Trung Kỳ, chỉ rộng 25.000km2, chứa hơn 4.500.000 người. Ở đồng bằng Nam Kỳ chỉ rộng 24.000km2, hiện có hơn 3.000.000 người sinh sống. Tức là, hơn 15.000.000 dân thuộc nòi giống Việt sinh sống trên lãnh thổ không ruộng tới 60.000km2. Ở phần đất còn lại, tức là hơn 250.000km2, ta đếm được dưới hai triệu người gồm những dân tộc khác nhau.
    Tại Bắc Kỳ có 229.000 người Tày, 162.000 người Nùng, 92.000 người Thái, 95.000 người Mông, 67.000 người Dao và 60.000 người Mông. Ta phải kể thêm vào đám cư dân hỗn hợp này 35.000 người Hoa hiện thời sống ở đồng bằng.
    Ở Trung Kỳ, ta đếm được 11.000 người Hoa rải rác khắp nơi tại các trung tâm buôn bán, 20.000 người Chăm ở các tỉnh phía Nam và trên sườn dãy Trường Sơn. Tại vùng cao nguyên, còn có 300.000 người Thượng, cư dân gốc Anhđônêdiêng.
    Tại Nam Kỳ, ta còn thấy 352.000 người Khơme, 100.000 người Thượng và 170.000 người Hoa (Nguyên bản viết: Tày: Thổ, Dao: Mán, Mông: Mèo, Thượng: Mọi..., nay viết lại theo cách gọi hiện nay ( B.T)).
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương một-Chủng tộc Việt
    I.Loại hình cơ thể
    Ta quen phân biệt các chủng tộc người bằng cách xem xét hình dạng của đầu. Hình dạng này có thể được quyết định bởi chỉ số đầu, tức là tỷ lệ giữa bề rộng và bề dài của sọ. Căn cứ ở tỷ lệ này, ta có ba loại người: người đầu dài, người đầu ngắn và người đầu trung bình.
    Sọ người Việt tròn. Sọ đó thuộc loại đầu ngắn. Trong khoảng 500 sọ người ở Bắc Kỳ mà ông Đỗ Xuân Hợp quan sái ta có thể kết luận rằng người Việt Nam đầu ngắn trong 54,36% trường hợp; đầu trung bình trong 30,8% trường hợp. Đầu dài chỉ chiếm 3,22% trường hợp. Mặt khác, nói chung, đầu đàn bà nhỏ hơn đầu đàn ông.
    Về bộ não người Việt, thì theo lời Broca, trọng lượng là 1.233gr. Bác sĩ Bigot nói rằng, trọng lượng trung bình là 1.314gr với những biến thiên từ 1.145gr đến 1.450gr. Bác sĩ Huard đã cân 25 bộ não người lớn trên bàn mổ xác, cho trọng lượng trung bình là 1.409gr với các số cao nhất và thấp nhất là 1.600gr và 1.250gr.
    Người Việt vóc nhỏ bé. Vóc người đàn ông trung bình là 1.595m và đàn bà là l,53m. Bác sĩ Bigot, khi xem xét 322 người Bắc Kỳ lấy trong số lính khố xanh, kết luận rằng: 107, tức là 33,2%, vóc người nhỏ (1,50m đến 1,59m); 202, tức là 62,7% , tầm vóc trung bình (1,60m đến 1,69m); và 13 , tức là chỉ 4% có vóc cao lớn (1,70m đến 1,79m). Thật ra, theo ông, nếu ta chấp nhận tầm vóc trung bình là 1,65m, thì ta thấy rằng 261 người, tức là 82,1% dưới trung bình. Đại đa số tức là 208 (64,4%) nằm trong khoảng giữa 1,56m và 1,63m.
    Ở Trung Kỳ, trong số 240 lính khố xanh được đo, ta thấy 35,4% vóc người nhỏ, 59,4% vóc trung bình, và 5,4% vóc cao lớn, 78,8% vóc người dưới 1,65m và con số hay gặp nhất là từ 1,60m đến 1,63m (34,1 % số người). Những vóc nhỏ nhất và lớn nhất là 1,495m và 1,73m.
    Những thầy thuốc đo ở nhiều vùng khác nhau tại Nam Kỳ cho biết, những số trung bình từ 1,542 (Tây Ninh) đến 1,64m (Sài Gòn), qua 1,602m (Thủ Dầu Một), 1,609m (Mỹ Tho và Vũng Tàu). Tại Sài Gòn, các cuộc điều tra của bác sĩ Guérin cho thấy số đo trung bình là 1,663m nhưng đấy là những tân binh tuyển chọn ở các tỉnh khác nhau.
    Do đấy, người Nam Kỳ phải được xếp vào loại vóc nhỏ bé, chứ không phải vóc trung bình. Một cuộc điều tra khác cho thấy đàn bà Nam Kỳ có tầm vóc trung bình là 1,592m với 68% vóc nhỏ bé và 27,2% rất nhỏ. Mondière thấy ở 349 đàn bà số trung bình là 1,512m, cao nhất là 1,554m.
    Nói chung, cấu trúc thân thể người Việt gây một ấn lượng về sự yếu ớt. Nhưng nếu ta xem xét kỹ những người được nuôi dưỡng thích đáng, thì đã thấy rằng họ có thân hình đẹp và bắp thịt nở nang. Tuy nhiên, về đại thể, khung xương nằm sát dưới da. Bác sĩ Bigot cho rằng, trọng lượng thân thể trung bình của người Việt là 45kg. Ở đồng bằng Bắc Kỳ, các số trung bình có lẽ cao hơn. Trong một nhóm lính khố xanh 202 người ở Bắc Kỳ, ông thấy 177 người, tức là 54,9%, nặng từ 50 đến 55kg; 78 người, tức 24,1%, nặng dưới 50kg, và 17 người hay 5,4%, nặng trên 60kg. Tóm lại, trọng lượng trung bình một người Bắc Kỳ, trong 79,2% trường hợp, không quá 55kg.
    Ở Trung Kỳ, trọng lượng các tân binh trẻ cũng trên dưới 50kg.
    Ở Nam Kỳ, trong nhóm Sài Gòn có tầm vóc trung bình là 1,63m mà ta nói ở trên, trọng lượng trung bình đạt tới con số cao là 58,44kg (46,2% nặng từ 56 đến 60kg; hơn một phần ba, 38,8% nặng 60kg và hơn). Trong thực tế, những trọng lượng lớn này phải được coi là ngoại lệ. Ví dụ ở tỉnh Tây Ninh, trọng lượng thân thể từ 40kg đến đến 54kg. Người ta thấy tại đây 64,9% cân nặng từ 43 đến 52kg, và chỉ 2,7% nặng từ 60kg trở lên. Ở Mỹ Tho, đối với một tầm vóc trung bình 1,592m, có 50 người đàn ông cân được 48,700kg.
    Trọng lượng đàn bà Nam Kỳ nói chung dưới 50kg. Tại Mỹ Tho, trọng lượng trung bình của phụ nữ là 41,700kg. Ở Tây Ninh, một phụ nữ 28 tuổi cân được 26kg với tầm người 1,05m.
    Khuôn mặt có hình trái xoan. Gò má rất cao, trán nở, cao và rộng. Bác sĩ Huard và các học trò của ông, bằng những cuộc nghiên cứu kiên nhẫn, ở Viện Giải phẫu Hà Nội, đã chỉ cho thấy rằng người ta có thể đoán được trước khi phân biệt được rõ các cơ da bề mặt của mặt và cổ người Việt. Nhiều đường nổi cho thấy gốc của từng cơ trong đám cơ da cổ và mặt nguyên sơ. Dù sao, ở người Việt những cơ này còn xa mới đạt đến mức phân biệt rõ, là đặc trưng của các cơ cổ và mặt ở chủng tộc người da trắng. Ở người Bắc Kỳ, sự biểu lộ xúc cảm có lẽ ăn khớp một cách quan trọng với bộ cơ mặt thể hiện nó. "Thực vậy, người ta đã chẳng từng hay nói rằng bộ mặt người Việt không diễn cảm lắm và hình như bất động hoặc không có tuổi. Người ta không thấy những nếp nhăn, những chỗ phẳng và những chỗ hõm tạo cho một số khuôn mặt người âu hay người Ơrôpôit một cá tính đôi khi mạnh mẽ, một vẻ tương phản, một ấn tượng đáng chú ý như toát ra từ một bức chạm nổi, một tuổi tác để xác định. Bộ mặt trơn nhẵn, thản nhiên, thậm chí không thể hiểu nổi của người Việt, sự mở rộng bộ xương mặt, và một sự tái hiện nhất định nào đó các đặc trưng tinh thần của tổ tiên truyền lại có thể cắt nghĩa phần nào điều đó. Một nền giáo dục rất đặc biệt từ bao thế kỷ đã góp phần tạo thành bộ mặt này".
    Nhưng ta cũng gặp trong xã hội Việt Nam những bộ mặt cời mở, dí dỏm, những khuôn mặt không thiếu nếp nhăn hóm hỉnh và giễu cợt, Và ở những người đã trên năm mươi tuổi, một diện mạo không thiếu cá tính và uy lực.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Dù thế nào đi nữa, những đặc điểm khác của mặt vẫn phân biệt người Việt với các kiểu người Âu. Đôi mắt họ hơi xếch về phía ngoài, mở to, đẹp, rất đen, rất hiền và rất diễn cảm nói chung. Nhưng cần phải nói ngay rằng, mặt người Việt, cả về hình dạng lẫn màu sắc, đều có thể khác nhau. Người Việt thuộc loại hình Mông Cổ. Da họ có thể là nâu hay màu hạt dẻ.
    Môi người Việt rất mọng, nhưng không dày lắm.
    Nói chung, hàm người Việt rất phát triển. Hàm răng rất đẹp, nhưng người nông dân lại thường thường nhuộm đen.
    Tục "nhuộm" răng bằng một thứ thuốc nhuộm đen làm bằng một hỗn hợp fero-tanic, sau khi bôi một loại thuốc hãm màu chế bằng một chất nhuộm đỏ lấy từ cánh kiến, ngày xưa phổ biến cả ở đàn ông và đàn bà người Việt
    Từ mấy năm nay, do ảnh hưởng phong tục phương Tây, thanh niên các đô thị từ bỏ tục này, và nhiều người thậm chí còn cạo lớp thuốc nhuộm đi. Ngày xưa, phụ nữ Việt Nam làm đẹp bằng cách nhuộm răng từ lúc 14 hay 15 tuổi. Phụ nữ ngày nay coi tập tục đó là làm xấu đi. Hiện thời, răng trắng chẳng những trở thành một thị hiếu, mà còn là một thói quen bình thường ở các đô thị và trong xã hội thượng lưu. Nếu như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đa số người nông thôn còn giữ tục lệ này, thì việc nhuộm răng lại trở thành rất hiếm tại Nam Kỳ hiện nay.
    Râu chỉ mọc vào tuổi từ 25 đến 30, và vẫn thưa. Râu đen, cứng, thẳng và chỉ mọc ở cằm và phía trên môi. Tuy vậy ta vẫn thấy ở một vài người râu mọc ở dưới tai và hai bên má.
    Tóc thì đen tuyền, rậm, rất dài và hơi cứng. Ta biết rằng tóc là sản phẩm chất sừng hệ trọng nhất của da, về phương diện phân biệt các giống người. Giống như người Trung Hoa, người Việt Nam phải được xếp vào các chủng tộc tóc thẳng và mượt. Nếu nói chung họ có tóc thô và cứng, thì ta cũng có thể thấy những người tóc thanh và mịn. Một vài người thậm chí có tóc làn sóng và quăn. Dù sao, tóc này bạc tương đối muộn, chỉ vào quãng năm mươi tuổi mới bạc. Lông mọc thưa.
    Người Việt, lúc còn là trẻ con, có những nét rất thanh tú và quả là duyên dáng như ta thường nói. Lúc đứng tuổi, sự biểu hiện của diện mạo ít dễ chịu hơn; một số người thậm chí xấu xí ở thời kỳ này. Trái lại, những khuôn mặt có chòm râu nhỏ và tóc bạc và cứng thì lại đẹp và không thiếu một vẻ oai vệ thật sự.
    Vai rộng, thân mình gầy gò và dài so với hai chân. Ngực nhô ra đằng trước, khung chậu ít phát triển. Chân tay dài, cơ khớp mềm mại, làm cho họ nhanh nhẹn. Người Việt có khả năng dùng chân nhặt những vật nhỏ, điều khiển thuyền bằng các ngón chân. Bàn tay thon nhỏ và thanh, đốt ngón tay có mấu. Xưa kia, các nhà nho Việt Nam quen để móng tay thanh mảnh của họ thật dài.
    Về đại thể, người Việt rất mềm mại, và có khiếu về vận động thân thể. Họ trèo cây rất nhanh nhẹn, thân người tách khỏi thân cây, bàn tay và bàn chân cử động giống như những chiếc móc sắt. Về trò phóng giáo và đánh vật, ngày nay vẫn còn thịnh hành trong các hội làng, họ tỏ ra nhanh và dẻo như giống mèo. Ta ngạc nhiên khi thấy tấm thân kia, lúc thường thì bơi trong mớ áo quần rộng lùng thùng, trở nên mềm mại và nhanh nhẹn để tránh các đòn của đối thủ, và nhanh như chớp tung ra những cú đánh sấm sét.
    Người Việt nói chung không béo phị. Phụ nữ rất cân đối. Họ có những nét đẹp, bàn chân và bàn tay rất nhỏ, cổ chân, cổ tay rất xinh xắn.
    Đôi lúc ta còn thấy, ở Bắc Kỳ, những người Việt có hai ngón chân cái tách ít nhiều khỏi những ngón khác, để hướng về nhau, dường như muốn giao nhau. Một số kẻ gọi những người này là Giao Chỉ. Những kẻ khác coi họ là những đại biểu cuối cùng của một dân tộc phía nam Trung Hoa, tổ tiên xa xôi của người Việt hiện thời. Ngày nay, những người này cực kỳ hiếm thấy.
    Dù sao, người Việt nói chung có dáng đi không duyên dáng; họ đi chân chữ bát. Nhưng dáng đi đó mạnh bạo và quả quyết lanh lẹn và chủ động. Tuy nhiên, có những người có dáng đi không thiếu mềm mại. Nhất là phụ nữ có dáng đi yểu điệu. Đôi chân rất vòng kiềng do các bà mẹ có thói quen xấu ẵm con bên hông.
    Sức mạnh cơ bắp của người Việt Nam không đáng kể. Nhưng nói chung, họ rất dẻo dai. Những người kéo xe hằng ngày chạy từ 50 đến 60km với tốc độ 12km mỗi giờ, với cả trọng tải. Người chèo thuyền chèo liên tục nhiều giờ dọc sông, ban ngày chỉ nghỉ vài lần ngắn ngủi để ăn cơm. Đàn bà và đàn ông làm việc phần lớn thân mình ngâm trong bùn lầy nước đọng, dưới ánh mặt trời chói chang, chịu ánh phản chiếu gay gắt và mùi xú khí gây cho người ta phát sốt xông lên từ đất ẩm mùa hè, và về mùa đông thì bị mưa phùn xứ Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ táp vào mặt. Họ nhẫn nhục và can đảm chịu đựng những thiếu thốn và nghèo nàn vật chất.
    Da, do nhiễm sắc tố, là đặc tính hình thái đầu tiên làm cho người quan sát chú ý. Và sự phân loại đơn giản nhất các chủng tộc là dựa trên những khác biệt của da. Người Việt thuộc nòi giống da vàng. Nhưng nước da họ thẫm hơn người Trung Hoa.
    Thật ra, ta thấy họ có nhiều sắc độ khác nhau. Tùy theo giai tầng xã hội của con người, nước da họ có thể biến đổi từ màu sáng của thuốc lá đến màu trắng xỉn. Màu da hay gặp nhất là vàng nhợt: màu đất, hay màu da bò. Ở người thôn quê ta thường thấy một màu vàng thẫm hơn, có thể thẫm đến như màu vàng nâu của dân Mã Lai. Trong các gia đình giàu có hay quyền quý, ta thấy những thanh niên, và chủ yếu các thiếu nữ, có nước da trắng khả dĩ so sánh được với màu trắng của những kiểu da được ưa chuộng của phương Tây. Trong khi đó thì ở phụ nữ nông thôn hằng ngày làm lụng ngoài trời, nước da có màu rám nắng, đẹp, rất được người Việt ưa chuộng. Họ gọi màu da đó là đen giòn.
    Người Việt cả nam lẫn nữ đều phát triển chậm. Thường thường, một thanh niên 20 tuổi chỉ có vẻ 15 tuổi, còn các thiếu nữ thì, trong một thời gian dài, vân trông như những em bé gái. Tuổi dậy thì khá muộn ở Việt Nam. Tuổi trung bình để kết hôn là từ 14 đến 15. Phụ nữ rất mắn đẻ và ta thường thấy những gia đình từ bốn đến sáu con. Người ta ước lượng có đến trên 4% gia đình có hơn một chục con. Con số chửa đẻ trung bình được ước tính là bốn.
    Ngược lại, người Việt già đi nhanh chóng, bắt đầu từ tuổi bốn mươi. Một người đàn ông 50 tuổi đã già lụ khụ. Tuy nhiên, tuổi thọ không thua kém ở châu Âu. Nhiều người sống đến 70 tuổi. Người 80 tuổi chẳng hiếm. Và thậm chí đôi khi ta còn gặp một số cụ thọ 100 tuổi.
    Số tử vong ở trẻ sơ sinh khá lớn, nhất là trong các giai tầng nghèo và ở thôn quê. Trẻ con bú mẹ rất lâu, hầu như bao giờ cũng đến tận lúc 3 tuổi. Nhưng đồng thời, ngay từ lúc thơ ấu, từ tháng thứ 3, thậm chí đôi khi sớm hơn, người ta thêm vào sữa mẹ nước cháo đặc, và sau tháng thứ 6, cơm nhai.
    Răng mọc muộn. Khoảng cuối năm thứ ba thì tất cả hai mươi răng mới mọc đủ. Và chỉ từ năm thứ 12 trở đi, những răng đó mới bị thay bằng răng mọc lần thứ hai, nói chung rất chắc. Răng khôn mọc rất chậm.
    Một số người Việt xăm mình, nhất là ở cánh tay, bằng kim và một thứ thuốc nhuộm xanh. Ông Veyre tiến hành về vấn đề này một cuộc khảo sát quan trọng, công bố ở tập Compte-rendus des séances de linstitut Indochinois pour l?TInstiute de l?THomme (Báo cáo về những cuộc họp của Viện Đông Dương nghiên cứu Con người) (năm 1938 ). Trong các hình xăm, ngoài chữ Hán có ý nghĩa chúc tụng, ta thấy hình những vật bất động như mỏ neo, binh khí, cờ, bánh lái ô tô, hoặc hình cây cỏ (hoa đào, hoa hồng, hoa sen), hình động vật (rùa, ngựa, công, hổ, vịt...) ít nhiều có giá trị biểu tượng.
    Trong sử biên niên Việt Nam, ta thấy ngày xưa dân chài lưới người Việt xăm lên mình những hình thuỷ quái để tránh tai nạn lúc họ phải lặn dưới nước. Ở thời cổ đại, tục xăm mình này chắc là có một giá trị tôn giáo. Tục lệ đó còn tồn tại đến tận thế kỷ XIII, lúc vua Trần Anh Tôn (1293-1314) không chịu cho vẽ lên hai chân mình hình rồng, biểu tượng của sức mạnh và can đảm, và lôi kéo cả nước bắt chước. Ngày nay, chỉ một số người thuộc các giai tầng dưới trong xã hội Việt Nam còn giữ tục đó.
    Đàn bà, và chủ yếu trẻ con, vẫn còn thói quen, ở nông thôn ngày 5 tháng Năm, nhuộm móng tay, móng chân màu đỏ trừ ngón tay trỏ, bằng lá cây móng (lausanis inermis) băm nhỏ, hy vọng xua đuổi được ma quỷ.

Chia sẻ trang này