1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn minh Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 05/07/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Có lẽ bài viết này đã lỗi thời, nên tư liệu thiếu sót, và cách viết
    không chặt chẽ, phiến diện . Chúng ta không nên dựa vào
    bài viết này để làm tài liệu nghiên cứu về ViệtNam, mà chỉ coi
    nó là nguồn tham khảo để truy lùng những tài liệu gốc.
    Đoạn sau đây là một thí dụ :
    Thật ra, nước Nam Việt cúa Triệu Đà rất to lớn, phần chính là
    hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay, và
    vài phần của các tỉnh bên cạnh, và các tỉnh phía bắc ViệtNam
    ngày nay, kể từ Nghệ An trở lên. Thủ đô cúa nước Nam Việt ấy
    là thành Phiên Ngung, bây giờ là Quảng Châu, Trung Hoa.
  2. tuanvu145

    tuanvu145 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/05/2002
    Bài viết:
    477
    Đã được thích:
    0
    Chịu các bác,,.. Triệu Đà mà các bác cũng coi là một ông vua của nước ta à???
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đoạn viết của ông Huyên tôi trích, và lời của tôi, không có chỗ
    nào nói Triệu Đà là vua ViệtNam cả.
    Bạn nên đọc kỹ, nước Nam Việt là của Triệu Đà, phần lớn là
    đất Trung quốc, còn một phần nhỏ là miền Bắc của ViệtNam
    bây giờ, nhưng lúc đó là cả ViệtNam, mới có dân, mà chưa có
    nước. Nước của vua Hùng và các vua Hùng chỉ là truyền thuyết.
    Khi đọc bạn nên để riêng ý nghĩ của mình ra một bên, đừng nên
    cho rằng đó là ý của người viết. Tôi chỉ nêu ra một thí dụ trong
    bài viết của ông Huyên, vì nhiều chỗ khác không đáng kể ra.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    II.Loại hình tinh thần
    Như vậy là bức chân dung thể chất của người Việt Nam cho chúng ta thấy rằng chủng tộc này vóc người nhỏ và có trọng lượng không vượt quá số trung bình là 45 hay 50kg. Sống dưới một khí hậu nóng ẩm, ở một dải đồng bằng nhỏ không đủ nuôi một cư dân sinh sản nhiều, người Việt Nam thường ăn uống quá kham khổ. Người nào ăn đều đặn đủ suất cơm, thịt hoặc cá của mình thì có tầm vóc vượt xa 1,60m và nặng gần 60kg.
    Ở một vài bộ phận thân thể, cơ bắp bị sức nóng gay gắt của mặt trời làm khô đi từ lúc còn nhỏ tuổi-và tình trạng này tồn tại từ rất nhiều thế hệ-đã teo lại. Ở dân Thái Bình và Nam Định sống trên mặt nước, đôi chân không phát triển được.
    Đã thế, môi trường vật chất độc hại và làm sa sút sức khoẻ này cũng tác động chẳng kém đến tính chất người Việt Nam. Tác động trực tiếp nhất và cũng bền bỉ nhất của sức nóng thường xuyên, đó là thần kinh uể oải làm cho con người buồn ngủ và lười nhác. Người ta hay nhận xét, và chẳng phải không có lý, rằng nhược điểm lớn nhất của người Việt Nam là lười biếng, hay ít nhất cũng dễ có khuynh hướng buông trôi.
    Sự khó khăn nhất định trong việc cung cấp việc làm có lợi cho tất thảy mọi người trong một xứ sở quá đông dân: cũng góp phần khiến người Việt Nam sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút ít tiền bạc, hoặc có đủ ruộng, thì sống hoàn toàn ăn không ngồi rồi. Cũng nhiều người chăm chỉ lao động trong một số ngày để sau đó có gì sống một thời gian nhất định mà không cần phải làm gì cả. Nhiều thanh niên có xu hướng sống ăn bám, tìm cách sống qua ngày bằng cách dựa vào họ mạc ít nhiều gần gũi, dựa vào bạn bè tương đối dễ tính. Nếu chẳng ai phản ứng, thì những kẻ ăn bám này cứ sống hết đời như vậy.
    Xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm về phương diện tinh thần do một nền giáo dục truyền thống chưa bao giờ có phương pháp. Nếu như xưa kia ở Việt Nam có một kỷ luật tinh thần, thì lại chưa hề có một nền giáo dục liên tục, một sự phát triển liên tục việc trau dồi trí tuệ. Người ta đưa quá nhiều vào trí nhớ của trẻ em, điều đó làm thui chội một số năng lực não bộ của người Việt, óc suy diễn, rất cần thiết cho nghiên cứu khoa học, chưa bao giờ được phát triển một cách có hệ thống.
    Thành ra ở người Việt có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Nhà nho xưa kia, ra làm quan sau khi học nhiều kinh sách chất đầy trí nhớ, phần lớn chẳng còn nghĩ đến sự trau dồi trí luệ nữa. Họ già trước buổi. Hoặc là, họ can đảm chịu nhẫn nhục để khỏi bị một ai đó ganh tị mà kiếm chuyện lôi thôi. Hoặc là họ sa đà vào một thú chơi ngông, đôi khi cũng tinh tế đấy nhưng dễ làm cạn kiệt đi ở nòi giống cái năng lực phát minh hoặc thậm chí năng lực lập luận khoa học.
    Cái tính ngông này khiến người Việt thù ghét mọi sự gò bó và mọi quy tắc quá chặt chẽ, ngoại trừ cái vốn lễ nghi lưu truyền lại từ nhiều thế kỷ. Chẳng hạn, nếu xem xét nền văn học Việt Nam thời hậu chiến, người ta ngạc nhiên thấy cả một khối tác phẩm bộc lộ quá rõ khuynh hướng mơ mộng vốn là một đặc tính lai giống từ tổ tiên của chủng tộc này.
    Nhưng từ một số năm trở về đây, nhờ sự đổi mới giáo dục, nhờ ứng dụng các phương pháp của phương Tây, ta đã thấy hình thành những đầu óc trẻ bộc lộ một khả năng lớn nghiên cứu khoa học, cả trong lĩnh vực toán học lẫn trong các khoa học xã hội.
    Dù sao, nói chung, người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Họ nhạy cảm hơn là có lý tính. Họ yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mong ước nghề làm quan là con đường đã vạch sẵn, không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển nhất.
    Ta cũng nên tránh khái quát hoá quá mức. Tất cả ở đây phản ánh cái tính chất ít khoan dung, khiến cho một cái vốn chẳng ra gì chẳng mấy chốc bị phóng lên thành một cái to vô tận. Chẳng khuyết điểm nào, chẳng ưu điểm nào, nói tóm lại, chẳng có mặt nào của tính cách người
    Việt lại không có mặt bù lại, và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đã nói về tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy và những người lao động bằng lòng nhận ít ỏi như vậy để làm những công việc nặng nhọc đến như vậy.
    Chúng ta cũng đã nói về tính phóng túng, bông lông và mơ mộng của người Việt, thế mà chúng ta lại khám phá dễ dàng ở nước này một đầu óc thực tế có khi đến lạ lùng, quyết định chiều hướng tâm hồn của người nông dân, và tạo cho họ cái tính kiên nhẫn là vũ khí lợi hại đến như vậy trong tay người thợ mỹ nghệ, thợ thêu, thợ khắc, thợ kim hoàn... Nếu ta thấy người Việt tính hay thay đổi là đặc trưng cho cuộc sống của họ, thì ta cũng phải ngạc nhiên khi thấy một số kẻ trong bọn họ đã tỏ ra là những tay xin xỏ bám riết và dai dẳng biết bao nhiêu, những kẻ sinh kiện tụng hầu như không có ai địch nổi, những học sinh và sinh viên quyết chí theo đuổi những bằng cấp từ thấp đến cao của bậc thang đại học.
    Có những nhà quan sát nước ngoài thấy người Việt hay trộm cắp và dối trá. Cả ở điểm này nữa, ta cũng không nên suy rộng ra cho tất cả mọi người Việt Nam. Trong một thời gian dài, nhân dân nước này đã bị cai trị kém. Họ bị gạt ra không được tham gia công việc hành chính. Một chính sách ngu dân thật sự đã thấm sâu vào đời sống Nhà nước.
    Đương nhiên là đã có những thời kỳ huy hoàng, những đấng minh quân, những vị quan dũng cảm và nhạy bén với các nỗi đau và nhu cầu của nhân dân. Nhưng thông thường thì cá nhân con người, luôn luôn bị săn đuổi, buộc phải tự bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong cuộc đấu tranh với Nhà nước, đã giữ được qua nhiều thế kỷ thái độ nếu không độc lập thì ít nhất cũng ương bướng đối với tất cả cái gì xuất phát từ chính quyền Trung ương.
    Mặt khác, thời kỳ rực rỡ nhất của lịch sử nước Việt Nam, tức là thời nhà Lê, lúc có một sức bành trướng và tổ chức thật sự, thời kỳ ấy lại đã bị các cuộc nội chiến liên miên và tàn hại phá phách. Ở các thời kỳ khác, có những cuộc ngoại xâm, hay những viên quan cai trị đầu óc thủ cựu và kém năng lực.
    Nếu kinh tế tiến bộ và thuần phong mỹ tục được đưa vào trong hoạt động của bộ máy cai trị, thì dân tộc này sẽ ít sản sinh những con người hèn kém hơn.
    Nhưng không nên nói rằng người Việt có một sự thích thú nào đó đối với sự trộm cắp hay nói dối, vì có một điều chắc chắn là người Việt rất hay tự ái. Họ ít chịu thú thật nỗi cực nhọc của họ, ít khi họ kêu ca nỗi đau đớn của mình. Họ thiết tha với tinh thần hiếu khách và hào hiệp. Họ có thể đãi bạn bè bữa cơm cực kỳ thịnh soạn, dù phải sống rất đạm bạc trong nhiều ngày với vợ con.
    Nhưng tính tự ái thường đi đói với tính khoe khoang. Người Việt rất kiêu căng. Ở nông thôn, vấn đề "thể diện" có một tầm quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân Việt rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác, và thích nên danh nên giá. Họ chẳng lùi bước trước một điều gì để thoả mãn tính hiếu danh của mình, để chiếm một chỗ đứng tốt giữa các người đồng hương. Họ chịu nhịn thịt và các món ăn ngon lành trong gần cả năm, hay mặc những quần áo vá chằng vá đụp, nhưng họ khao rất linh đình các bằng sắc họ được phong.
    Dưới vẻ ngoài ngây thơ chất phác, người Việt rất khôn. Tính cách họ nhẹ nhàng, linh hoạt, thích giễu cợt, họ đặc biệt giỏi phát hiện các khía cạnh tức cười của những kẻ giao dịch với họ. Họ rất có tài bắt chước. Những người ít bị lễ nghi kiềm chế thì làm quen nhanh chóng với các tập tục hiện đại của phương Tây.
    Người Việt hiền lành thích yên ổn và dễ bảo, rất dễ phục thiện, ít khi họ bộc lộ sự nôn nóng, và thường lên án sự giận dữ. Sự kích động thần kinh chậm xảy đến với họ. Họ không dễ dàng buông trôi theo các hành động hung bạo đột ngột. Nhưng lúc họ nổi giận, thì cơn giận của họ cũng khó kìm giữ chẳng kém gì cơn giận của người phương Tây.
    Dưới bề ngoài lạnh lùng và thản nhiên, người Việt coi sự tự sát là lối thoát bình thường khỏi một số tình thế nan giải, và họ hy sinh rất dũng cảm cho những sự nghiệp lớn.
    Người Việt không thiếu dũng cảm. Họ ghét chiến tranh và khinh bỉ các biểu hiện của bạo lực. Nhưng họ có khả năng kháng cự lâu dài, trong những điều kiện thiếu thốn tệ hại nhất, chống lại những lực lượng mạnh hơn họ về số lượng và chất lượng. Dân tộc này đã chẳng đương đầu trong nhiều thế kỷ với một nước Trung Hoa mạnh hơn họ rất nhiều đó sao? Vả lại, người nông dân Việt Nam có thể trở thành người lính dũng cảm và bền bỉ, có sức xông lên mạnh mẽ nếu họ được chỉ huy tốt và được ý thức về nghĩa vụ động viên.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương hai-Nhà
    Gia đình người Việt Nam thuộc loại hình gia trưởng, tất cả uy quyền đều tập trung trong tay người cha, người đứng đầu gia đình.
    Từ nhiều thế kỷ, cơ sở của tổ chức gia đình không biến đổi nhiều. Bộ luật nhà Lê, do ông vua lập pháp Hồng Đức ban hành, phần lớn vẫn có giá trị cho đến cuối thế kỷ XVIII. Năm thứ 11 thời Gia Long, một bộ luật khác, phỏng theo luật nhà Lê và luật nhà Thanh, được áp dụng.
    Tại Bắc Kỳ, một bộ dân luật mới đã được áp dụng từ ngày 1 tháng Bảy năm 1931. Như ta có thể đọc trong báo cáo của Uỷ ban phụ trách thảo bộ luật năm 1931 đã chủ trì công việc pháp điển hoá này, tinh thần chung là không vi phạm mảy may các thể chế cơ bản của xã hội Việt Nam, đồng thời thích nghi những thể chế đó với sự tiến hoá của phong tục và hiện trạng xã hội của người dân. Các thể chế đó bị chi phối bởi những điều quy định đã tồn tại hàng nghìn năm của luật Trung Hoa thường khác rất xa luật rất cổ của người Việt, và trước hết bởi những tập quán lưu truyền qua các thời đại, với những sửa đổi và sai lạc do thời gian đưa lại.
    Như vậy, pháp luật hiện thời về gia đình người Việt bắt nguồn từ một loạt kinh nghiệm lâu đời. Các phong tục tập quán cũ phần lớn còn được giữ lại trong đó. Dân luật của Pháp chỉ gợi ý rất ít cho công việc làm luật năm 1931.
    Năm 1936, triều đình nước Nam cũng ban bố quyển I của bộ dân luật áp dụng tại Trung Kỳ. Bộ luật này phần lớn sao chép bộ luật Bắc Kỳ.
    Gia đình người Việt hiện thời, trong các nền tảng sâu kín nhất của nó, vẫn là gia đình thời cổ.
    1.Họ và gia đình
    Cơ sở chế độ xã hội là tộc hay họ, gồm một số gia đình, gia hay nhà, chi hay phái. Chi là một nhánh của họ. Chi có thể chia nhỏ thành phái. Gia hay nhà gồm những người thân thuộc gần gũi sống cùng một nhà và, về nguyên lý gồm chồng, vợ và con cái. Họ gồm tất cả những người xuất thân cùng một gốc: đồng tông, có một thuỷ tổ chung. Vị thuỷ tổ này có lẽ đã bị quên mất hoặc mơ hồ không rõ. Nói chung, tộc chỉ gồm chín đời, cửu tộc. Tộc lên đến ngũ đại và xuống đến hàng chút chít. Từ đời thứ 5 trở đi, bài vị các tổ tiên được đem khỏi bàn thờ tổ, và các vị đó không còn được thờ riêng theo tên từng người, mà được thờ chung. Nhưng trong gia phả do gia đình giữ thì có ghi tên tất cả các tổ tiên, với tiểu sử khá dài, ngày giỗ và chỗ đặt mộ các vị đó.
    Như vậy, ở trên mỗi người có cha mẹ hay phụ mẫu, rồi đến ông bà hay tổ phụ mẫu, cụ hay tằng tổ phụ mẫu, ky hay cao tổ phụ mẫu. Dưới kẻ đó có các con hay tử, các cháu hay tôn, chắt hay tằng tôn, chút hay huyền tôn. Như vậy tạo thành cửu tộc, từ cao tổ đến huyền tôn.
    Mỗi người có hai họ: họ cha tức họ nội, họ bên trong, và họ mẹ tức họ ngoại, họ bên ngoài. Họ ngoại cũng được tôn trọng như họ nội. Luật nhà Lê trừng trị những đứa cháu chống lại ông ngoại hay bà ngoại của mình.
    Khi lấy vợ, người đó còn có hai họ nhà vợ.
    Trong họ nội, mỗi người có anh em, chi em ruột, hay là huynh đệ tỷ muội, bác trai, bác gái, chú thím, cô chú, anh chị em họ thúc bá, con cô, con bác. Họ ngoại gồm ông bà ngoại, bác trai bác gái, cậu mợ, dì, con bác, con cậu, con dì.
    Luật Gia Long quy định rất cẩn thận thời gian để tang mà mỗi người phải tuân theo, cũng như áo quần mỗi người phải mặc khi có một người chết trong họ, đối với cả cửu tộc.
    Mỗi họ có một tính hay tên họ. Vì các "họ" gốc Việt chắc là rất ít, nên các tính không quá con số ba trăm. Nhiều "họ" chẳng có quan hệ thân thuộc nào, dù là xa xôi, cũng mang cùng một tính. Thường thường để phân biệt với nhau, người ta thêm cho mỗi họ hay mỗi gia đình, hay thậm chí cho mỗi người, một chữ đệm giữa họ và tên.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Theo một cuộc điều tra của ông Piene Gourou, thì có khoảng 202 họ ở châu thổ Bắc Kỳ. Riêng trong tỉnh Bắc Ninh, hình như là tỉnh cổ nhất trong nước có cư dân Việt, trong số dân 150.000 người phân bố thành 76.700 gia đình, 54% gia đình mang họ Nguyễn. Mười hai họ: Nguyễn, Trần, Đào, Đỗ, Lê, Đặng, Phạm, Vũ, Ngô, Hoàng, Dương, Đinh, thì có 65.200 gia đình, tức 85% tổng số các gia đình cư trú ở tỉnh Bắc Ninh. Những họ khác như Phù, Như, Hứa, Cung... thì mỗi họ chỉ có chưa đến 10 gia đình; các họ Hoa, Kim, Mạnh, mỗi họ có 1 gia đình.
    Ở một số làng chỉ có một họ Nguyễn. Đấy không phải là những làng lớn: thường có từ 300 đến 500 dân. Tuy vậy, một vài làng khá lớn và có đến trên 200 gia đình. Tình hình này có lẽ là vết tích một quan niệm xã hội và kinh tế xưa: gia đình là một cộng đồng nông nghiệp; nó cùng nhau khai thác đất đai. Có bao nhiêu đàn ông đã lấy vợ thì đất đai chia làm từng ấy phần. Luật Gia Long chẳng đã từng ghi: "Các gia đình của châu và huyện chia nhau ruộng đất, lập sổ thuế, và tất cả cùng nhau cai quản việc công sở tại". Thành ra họ đã phát triển theo thời gian cho đến lúc chiếm cả từng làng và, đôi khi, ở các đô thị, cả từng phố.
    Họ có một tài sản chung là từ đường (nhà thờ). Đấy thường thường là nhà ở của trưởng tộc. Người này là cụ (hay kỵ), xung quanh quây quần tất cả các chi "họ". Có thể người đó còn rất trẻ, nếu là trưởng nam của người trưởng tộc vừa chết. Cháu trai thuộc chi trưởng là trưởng tộc, dù người cháu này có các chú và ông chú. Dù sao, người đó vẫn là trưởng của dòng dõi, người thừa kế việc thờ cúng tổ tiên, kê hậu sinh cao tuổi nhất của trực hệ chi trưởng. Nếu người này còn là vị thành niên, thì anh ta được giúp đỡ trong phận sự bởi người đàn ông cao tuổi nhất trong họ, người đáng kính nhất, có thế lực nhất và nhiều kinh nghiệm nhất, đấy là người tôn trưởng.
    Tộc trưởng là người kế tục việc thờ cúng ông tổ chung. Vai trò người đó thuần tuý chỉ là thờ cúng. Với danh nghĩa đó, người này giữ và quản lý hương hoả.
    Ở từ đường, có để gia phả của "họ?. Gia phả ghi lịch sử của "họ", gốc gác của họ từ đâu và hoạt động của các tổ tiên. Gia phả ghi ngày sinh, ngày mất của tất cả các cụ tổ, cũng như nơi chôn cất họ. Trong gia phả liệt kê những tài sản liên quan đến việc thờ cúng tổ tiên của "họ".
    Trên bàn thờ của từ đường, người ta để bài vị tổ tiên đến đời thứ 5, vì không thờ các vị tổ xa hơn nữa.
    Mồ mả tổ tiên cũng là tài sản chung của "họ". Không ai trong họ được phép di chuyển mộ tổ hay sửa sang những mộ đó nếu không được "họ" đồng ý, vì theo tín ngưỡng dân gian, bất cứ sự xâm phạm nào đến mộ một vị tổ cũng gây cho mỗi con cháu một rủi ro quan trọng.
    Ngoài ra, "họ" còn có của cải chung ngoài những thứ dành cho thờ cúng, thí dụ của cải dành cho việc học hành của những người thuộc các chi đông con cháu hoặc nghèo, dành cho việc khuyến khích đi thi, làm phần thưởng cho những con cháu xứng đáng, giúp đỡ vật chất cho những người túng thiếu.
    Gia phả còn ghi những quy tắc đạo đức, và xác định các trường hợp một người con cháu bị coi là không xứng đáng hay bị loại khỏi "họ".
    Trong việc cai quản ?ohọ", trưởng tộc chẳng có vai trò chỉ đạo nào đối với gia tộc, trừ phi ông ta đồng thời là tôn trưởng.
    Ở Bắc Kỳ, tôn trưởng không được chỉ định rõ ràng. Việc chọn tôn trưởng thường do thoả thuận ngầm giữa các người cùng họ. Tính cách tôn trưởng không cố định như tính cách tộc trưởng. Ở một số "họ", người ta trọng tuổi tác hơn địa vị xã hội; ở các họ khác, địa vị xã hội được trọng hơn tuổi tác. Nói chung, người ta chú trọng đến cả tuổi, địa vị xã hội, thứ bậc trong họ, sự quý chuộng và lòng tin của gia tộc đối với tôn trưởng. Chính ông ta là người triệu tập và chủ trì cuộc họp họ. Ông la được hỏi ý kiến về các vấn đề hệ trọng liên quan đến họ, như cưới xin, chúc thư, chia tài sản, chôn cất, bốc mộ... ông trông nom những trẻ vị thành niên mồ côi, giúp đỡ và khuyên bảo các quả phụ, thay mặt những người chưa thành niên trước pháp luật, tiến hành những vụ kiện tụng chống lại những người cha, người mẹ trong họ, điều mà con cái không làm được. Rõ ràng ông ta có vai trò giống như thường tộc tại Nam Kỳ. Vai trò này phụ thuộc nhiều ở nhân cách, phẩm giá và uy tín mà ông được người trong họ thừa nhận.
    Ở Trung Kỳ, trưởng tộc có quyền dự tất cả các hội đồng gia lộc, phân xử, giải quyết các vụ tranh chấp giữa những người trong họ, quyết định những việc liên quan đến cưới xin, ma chay hay về tất cả các công việc khác ít nhiều hệ trọng. Khi trưởng tộc quá trẻ, thì được thay thế bằng chú ruột (hay thúc phụ).
    Tại Nam Kỳ, trưởng tộc là người cao tuổi nhất của thế hệ gần gũi nhất ông tổ chung của các chi họ. Đấy là nhân vật đáng kể nhất của "họ". Ông ta đứng cao nhất trong thứ bậc gia tộc, và là người thủ lĩnh dân sự của họ. Sự can thiệp của ông ta là bắt buộc trong một số hành vi của các thành viên mỗi gia đình, hay khi cần giải quyết những xung đột nảy sinh hoặc những bất đồng sắp bùng nổ giữa những người thuộc các gia đình khác nhau. Nhưng nếu như luật lệ tạo cho ông ta những quyền cực kỳ rộng rãi, thì sự có mặt của ông ta khắp nơi lại bị cản trở trong thực tế bởi một thể chế không kém mạnh mẽ mà các quyết định bao giờ cũng thắng thế: Hội đồng gia tộc. Hội đồng này gồm có người chánh tổng hay một kỳ mục, người trưởng tộc cùng ba người thân thích của họ nội, hay nếu không có, thì là những kỳ mục hoặc bạn hữu của gia đình.
    Đứng đầu mỗi chi, mỗi gia đình, có một ngôi nhà riêng, là những trách nhiệm riêng, là người chủ gia đình, người gia trưởng. Người Cha và người ông có ảnh hưởng tinh thần đối với các gia đình con trai và cháu trai. Những người này lại là gia trưởng của gia đình của riêng họ. Như vậy chế độ gia trưởng hoạt động bên trong mỗi gia dình, nhà cũng như bên trong mỗi một họ. Tóm lại, ta có thể nói rằng, bên trên các gia trưởng của tất cả các nhà, có một gia trưởng đứng đầu họ. Người này là cha hoặc ông của tất cả các gia trưởng khác. Ông này đồng thời đóng vai trò tộc trưởng. Khi ông chết, con trai cả của ông, hoặc nếu không có thì cháu trai trưởng của ông sẽ chiếm ngôi nhà ông, đồng thời là nhà thờ tổ. Người kế tục ông sẽ chỉ còn là tộc trưởng mà quyền hành sẽ hẹp hơn quyền của ông nhiều.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    2.Uy quyền người cha
    Ngày xưa, lúc ban đầu, quyền cha là tuyệt đối. Gia trưởng toàn quyền quản lý tài sản của gia đình mình. Vợ và các con phải làm việc để làm giàu thêm tài sản của gia đình, chứ không có của cải riêng. Cha có quyền tuyệt đối với con người của tất cả các cá nhân trong nhà mình. Ông ta có thể đem bán con cái, cho con đi làm thuê, gán cho chủ nợ để làm tin. Ông ta cũng có quyền làm như thế với vợ mình.
    Người cha có quyền tuyệt đối về hôn nhân của con cái ông thậm chí có quyền sinh quyền sát với các con. Tóm lại, người cha thật sự là một vị vua chuyên chế tuyệt đối trong nhà mình. Khi ông qua đời, tất cả những người con của ông ta đã có vợ lại có thể thực hiện những quyền giống như cha họ đối với gia đình nhỏ của mình.
    Ngày nay, quyền của gia trưởng bị tập quán và pháp luật hạn chế. Thí dụ, luật Gia Long phạt 100 trượng người cha nào đánh chết con. Người nào bán hay cho thuê vợ thì phạt 80 trượng.
    Nhưng gia trưởng vẫn là người phân xử tất nhiên tất cả các cuộc tranh chấp giữa con cháu. Ngoài ra, ông ta còn giữ vị trí người cha hay người ông của mỗi gia đình nhỏ khi gia đình này mất người đứng đầu. Với tư cách đó, ông trông coi việc chia gia sản, quyền lợi của trẻ vị thành niên, và nếu cần, chỉ định người giám hộ những trẻ này.
    Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Dân luật Trung kỳ năm 1936 đã xác định khá cẩn thận quyền của người cha. Con và cháu sống với bố mẹ hay ông bà nội phải hoàn toàn phụ thuộc người chủ gia đình. Ở tuổi nào cũng vậy, con phải vâng lời, kính trọng cha mẹ và ông bà. Con phải gánh bổn phận nuôi nấng bố mẹ và ông bà.
    Đạo hiếu không cho phép con cháu được thưa kiện cha mẹ hoặc ông bà. Con không được đi khỏi nhà bố nếu không được bố cho phép. Con ở dưới quyền cha chừng nào cha mẹ còn sống và, theo nguyên tắc, không được có gì riêng, trừ phi lúc trưởng thành, con được bố mẹ cho phép ra ở riêng hoặc, khi đã được giải phóng, được cha mẹ cho phép tự xây dựng cơ ngơi riêng. Ở cả hai trường hợp này, suy đoán pháp định đều cho rằng của cải họ có là do sức lao động của họ làm ra và bỏ tiền của mình ra mua được, và họ là chủ sở hữu hợp pháp những thứ đó.
    Cha mẹ tuyệt đối không được phép cho thuê con cái mình, hay gán con để trả nợ. Mọi giao kèo thuộc loại này đều bị coi là có nguyên nhân phi đạo đức và đều vô hiệu về luật pháp. Cha mẹ bao giờ cũng có thể cho con cái vị thành niên chưa giải phóng đi làm thuê trong một thời gian nhất định.
    Ngoài ra, bố mẹ phải nuôi dưỡng, dạy dỗ đứa con chưa đến tuổi trưởng thành, điều khiển việc học hành của nó, giám sát hạnh kiểm nó, khuyên bảo nó những điều tốt.
    Nếu có thể, bố mẹ còn có bổn phận dạy con học hay cho nó đi học tùy khả năng của mình.
    Quyền cha mẹ trừng phạt con cái, tuy vậy, chỉ có thể được thực hiện trong những giới hạn cần thiết để duy trì uy quyền của người bố.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    3.Hôn nhân
    Mục đích hôn nhân là lưu truyền gia đình. Vì thế nó là cơ sở chủ yếu và thiêng liêng của gia đình. Cùng với cái chết, lấy vợ, lấy chồng là hành vi trọng thể nhất.
    Từ xưa hôn nhân bao giờ cũng được coi là một công việc của gia đình chứ không phải là một hành vi cá nhân chỉ liên quan đến cô dâu, chú rể. Cha mẹ quyết định, con cái chỉ có nghe theo. Tình yêu giữa cô dâu và chú rể chẳng quan trọng. Nếu người con không bằng lòng người chồng hay vợ mà bố mẹ tìm cho, thì chỉ có một cách hành động, đó là bỏ nhà đi. Lúc đó người con bị xem là một đứa con trai bội bạc và cha mẹ có thể truất quyền thừa kế của anh ta.
    Nhưng trong thực tế, người ta hiếm khi thấy cha mẹ dùng quyền tối cao này. Thường thường, cha mẹ dùng cách thuyết phục khéo léo để làm cho con cái quyết định làm theo lời bảo ban sáng suốt của mình.
    Ở Bắc Kỳ, để sửa lại tập tục này, Dân luật đã quy định, trong điều 89, rằng "hôn nhân không tồn tại nếu không có sự ưng thuận của đôi vợ chồng hay của một trong hai người?. Như vậy điều đó xác nhận các quy định của điều 76, nói rằng sự ưng thuận của đôi vợ chồng là cần thiết để hình thành hôn nhân.
    Mục đích chính của hôn nhân là để có con cái cho dòng dõi tiếp tục tồn tại và duy trì việc thờ cúng. Một cặp vợ chồng càng nhiều con bao nhiêu thì càng được coi là hạnh phúc bấy nhiêu. Vì thế, câu chúc tụng đầu tiên mà người ta quen nói với vợ chồng mới cưới là có đông con cái. Lời chúc này được coi trọng hơn lời chúc giàu sang.
    Để có cháu càng sớm càng tết, các bậc cha mẹ thường cho con lấy vợ, lấy chồng khi chúng còn rất trẻ. Chủ ý này khiến cho ở một số gia đình có bố hay mẹ qua đời, người ta gấp rút cho con cưới, và hoãn báo tang để các con không phải đợi ba năm mới được lấy nhau. Tục này gọi là ?ochạy tang".
    Cuộc sống độc thân của con trai bao giờ cũng bị chê trách. Sống độc thân vẫn bị coi là hành động bất hiếu. Ở một số làng, những người độc thân không được tham dự hội làng. Đôi khi họ bị mất chỗ ngồi chiếu trên. Trong cuộc sống thường ngày, họ là đối tượng khinh rẻ là chế giễu của các gia đình. Cuộc sống độc thân của một số cô gái, trái lại. rất được coi trọng. Ấy là trường hợp người con gái không lấy chồng để trông nom cha mẹ già hay để nuôi dưỡng em trai và em gái.
    Tập quán không ấn định tuổi con trai lấy vợ cũng như tuổi con gái lấy chồng. Một số cha mẹ cho con lấy vợ lấy chồng khi chúng còn nhỏ tuổi. Những cuộc tảo hôn này trước hết có động cơ là quan hệ giữa hai gia đình. Những cuộc hôn nhân đó cũng nhằm mục đích làm cho người vợ trẻ thích nghi với các thói quen của gia đình nhà chồng.
    Cho đến lúc cô ta đến tuổi ăn nằm với chồng, mẹ chồng đối xử với cô như con gái hơn là như con dâu. Cha mẹ thường ít khi cho con cái lấy vợ, lấy chồng trước khi chúng đến tuổi dậy thì, tức là 15 tuổi đối với con trai và 12 hoặc 13 tuổi đối với con gái. Tuổi 18 đối với con trai, và 16 đối với con gái phần nhiều được công nhận là tuổi kết hôn bình thường...
    Theo truyền thống, hôn nhân là do người làm mối hay mai nhân sắp đặt. Ông mối nếu là đàn ông, và bà mối nếu là đàn bà. Ngày nay, phần nhiều người ta chọn một người đàn bà có tuổi và khéo léo để làm việc này. "Trong các gia đình có địa vị xã hội cao, bao giờ cũng là một người đàn ông đứng tuổi, đáng kính và có học vấn, khéo xử sự và rất tế nhị, và về nguyên tắc vẫn còn có vợ cả và đông con cháu. Đó thường là một người bà con tương đối xa, một viên chức cao cấp đã hưu trí hay một vị thân hào đang tại chức có một uy tín nhất định".
    Khi cha mẹ tìm được một cô gái xứng với con trai mình hay, nói đúng hơn, xứng với gia đình mình, thì họ phái người mối đến nhà bố mẹ cô gái để thăm dò. Người mối tới nhà bố mẹ cô gái, biếu họ trầu cau và trình bày mục đích mình đến thăm. Bố mẹ cô gái chỉ trả lời lấp lửng, để có thời gian hỏi ý con gái và, trước hết, để hỏi dò tình hình gia đình kẻ cầu hôn cũng như, từ mấy năm nay, địa vị xã hội anh chàng đó. Ít lâu sau là cuộc viếng thăm thứ hai của người mối.
    Nếu lời dạm hỏi được chấp thuận, gia đình chàng trai lại nhờ người mối đến xin ngày, giờ, tháng, năm sinh của cô gái và trao ngày, giờ, tháng. năm sinh của chàng trai.
    Đấy là lễ gọi là trao đổi tám chữ, bát tự.
    Người ta đưa "bát tự" ra bói tử vi. Việc này được giao cho một ông đồ nho hay, phổ biến hơn giao cho một thầy bói. Xưa kia, nếu bói thấy không tốt, nhất là khi các năm sinh xung khắc, vì có sự thiếu hài hoà giữa ngũ hành, thì người ta từ bỏ cuộc hôn phối.
    Tục lệ này đã mất thiêng đi nhiều. Người ta bằng lòng trao đổi bát tự, rồi sau đấy tiến hành lễ nghi.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hiện giờ, ba lễ chủ yếu được làm trong cưới xin. Đấy là:
    1.Dạm vợ (chạm mặt);
    2.Ăn hỏi (vấn danh);
    3.Lễ cưới (nghênh hôn).
    Lúc chạm mặt, bố mẹ chú rể mang trầu cau đến nhà cô dâu. Những lễ vật này do những người đầy tớ, đi trước bố mẹ chú rể và người mối, khiêng. Số trầu cau không được ấn định. Sau khi trao những đồ biếu đó, hai bên định ngày ăn hỏi và số trầu cau và chè mà nhà trai phải nộp trong ngoài ăn hỏi cho bố mẹ cô dâu để chia cho các thân thích, bạn bè và người quen của nhà gái coi như báo tin.
    Đôi khi người ta còn đòi nộp lợn quay và, trong một vài đám cưới xin hiện đại, người ta đòi những hộp bánh quy hay cả một số chai sâm-banh.
    Ngày ăn hỏi, chú rể đi cùng vài người thân thích và bạn bè (cùng với người trưởng tộc, tại Nam Kỳ) tới nhà gái, mang theo những lễ vật ấn định.
    Về phía nhà gái, người ta mời cả trưởng tộc, cùng mấy người họ hàng và bạn hữu. Người ta thắp hương và bày lễ vật lên bàn thờ tổ tiên. Trong lễ này, hai họ ấn định ngày cưới và những lễ vật mà nhà trai phải mang đến cho cô dâu.
    Đồ sính lễ trước hết gồm một số tiền tương ứng với hoàn cảnh chú rể, rồi đến đồ trang sức, quần áo... Vì thường cha mẹ cô dâu dành món tiền này cho cặp vợ chồng mới để giúp họ làm ăn sinh sống, nên tìm cách đòi càng nhiều càng tốt. Quyết định lúc đầu của cha mẹ cô dâu về tính chất và giá trị đồ sính lễ không phải bất di bất dịch; có thể mặc cả, và đồ lễ được giảm.
    Luật Hồngt Đức quy định sính lễ cho mỗi giai tầng trong dân chúng. Thí dụ, đôi với các vương, hầu và quan nhất phẩm: 10 tấm đoạn, 10 tấm lụa lót, 10 lạng vàng, 10 lạng bạc, 50 quan tiền, một đôi xuyến vàng, một đôi khuyên tai vàng kiểu ?ohoa súng", lược gương đầy đủ, 1 chiếc hộp bạc, 1 hộp bằng sừng tê, 1 hộp nước hoa, 10 dê, 10 lợn, 10 vò rượu, 30 mâm xôi, 20 mâm cau, 20 mâm trầu, một tấm đoạn để mở hàng khi trình các mâm lễ vật. Đối với thường dân nhà giàu: 2 tấm lụa, 10 quan tiền, 1 đôi xuyến bạc, 1 hộp sơn mài, lược gương đầy đủ, 1 hộp nước hoa, 3 lợn, 10 vò rượu, 6 mâm cau, 6 mâm trầu. Đối với những gia đình bình thường: 1 tấm lụa màu, 5 quan tiền (hoặc 3), 1 đôi xuyên bạc, 1 hộp bằng sơn mài, gương lược đầy đủ, 2 lợn, 8 vò rượu, 4 mâm cau, 4 mâm trầu.
    Sau lễ ăn hỏi, cha mẹ cô gái chia đồ sính lễ cho họ hàng, bạn hữu và người quen để báo tin đính hôn, và thường lại quả một phần cho nhà trai để gia đình này cũng đem chia như vậy. Từ lúc này trở đi, cuộc đính ước là chính thức.
    Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, có thể là một thời gian khá dài, đôi khi nhiều năm. Trong quãng thời gian này, nhà trai phải mang đồ biếu, gồm những vật phẩm theo mùa, vải, chim cu, cốm, gạo mới, hồng, mứt... đến nhà gái trong dịp các ngày lễ hằng năm (Tết, mồng 5 tháng Năm, tháng Tám, tháng Mười). Nếu ngừng đem biếu thì coi như huỷ bỏ đính hôn.
    Trước ngày cưới, thường thường các nhà giàu làm cỗ to mời họ hàng, bạn hữu và người quen. Đôi lúc, khi những người này đông và bận những công việc khác nhau, thì cỗ được chia làm nhiều ngày. Lời mời được gửi bằng thư trước ba, bốn ngày, cùng với mấy miếng trầu biếu.
    Những bữa cỗ cưới này được hai gia đình làm riêng. Rất hay có trường hợp là, một trong hai nhà làm cỗ, còn nhà kia không sung túc bằng, thì không.
    Khách mời bao giờ cũng gửi đồ mừng, trong những dịp này. Đối với chú rể, đồ mừng gồm những câu đối được thêu trên đoạn, chè, pháo, cau tươi, giấy bút, còn đối với cô dâu thì có chè, cau, bánh kẹo, đồ dùng nữ công, đồ trang điểm... Những gia đình không sung túc, hay tiết kiệm hơn, thì làm cỗ cưới và hôn lễ cùng một ngày.
    Hôm cưới, bà mẹ chú rể đến nhà gái trước, mang theo một hộp đựng những miếng trầu truyền thống và cần thiết cho việc "xin dâu? để báo giờ nghênh hôn. Sau đấy bà ra về.
    Đến giờ tốt, đám cưới gồm chú rể, bố chú rể, anh em chú rể, họ hàng và các bạn trai, bạn gái lên đường đi đón dâu. Người ta cẩn thận chọn đi kèm chú rể một chàng trai tầm vóc gần như thế và ăn mặc giống hệt, để cho chú rể bớt thẹn bằng cách đánh lừa sự tò mò tinh nghịch của người qua đường.
    Trong số khách mời có những người thông hiểu chữ nghĩa hoặc khéo nói, chịu trách nhiệm đáp lại những câu chúc tụng hoặc tất cả các câu hỏi mà nhà gái có thể đặt ra cho những người trong đoàn rước dâu. Ngoài ra, đi trước đoàn rước dâu là hai cụ già mang lư hương, vẫn còn các cụ bà và, nếu có thể, đông con cháu. Các cụ mặc áo thụng xanh và bước thận trịnh trọng, mỗi cụ có một lọng che.
    Đàn ông và đàn bà bước thành hai toán riêng, cách nhau một quãng ngắn. Ngày xưa, ở các đô thị, rước dâu gồm một hàng dài xe kéo hoặc xe song mã. Hiện nay, các nhà giàu thuê ô tô. Nhưng người ta vẫn để đàn ông và đàn bà đi cách nhau, lúc đi cũng như lúc rước dâu về.
    Ngay khi đám rước dâu đến, người ta đốt nhiều pháo. Nhà gái cứ đứng ở cửa, những người cầm hộp trầu đưa mời từng vị trong đám nhà trai, để chào mừng. Khi mọi người đều được mời trầu, thì đám rước dâu vào nhà.
    Nhà cô dâu thường đóng cửa. Thường có tục cho các đầy tớ tiền để họ mở cửa.
    Khi đã vào nhà, hai cụ già đặt lư hương lên bàn thờ tổ, và mọi người ngồi xuống. Trà được đưa mời.
    Một lát sau, bố chú rể yêu cầu bố cô dâu hay, nếu không có, một người họ hàng cô dâu thay mặt ông bố, vui lòng khấn tổ tiên cho phép chú rể quỳ lễ theo lệ. Việc khấn khứa này đơn giản, chỉ có thắp hương và lầm rầm trước bàn thờ thưa trình tổ tiên rằng chú rể đã đến đón cô dâu, và chú rể sắp quỳ lễ. Sau lời khấn này, chú rể lạy ba lạy trước bài vị tổ tiên nhà cô dâu, sau đấy cô dâu cũng lạy ba lạy. Tiếp theo, cha mẹ cô dâu được mời ngồi để nhận lạy của con rể và con gái. Chính đây là lúc cha mẹ cô dâu chọn để trao cho cặp vợ chồng lrẻ, trước mặt mọi người, tiền bạc hoặc hiện vật để giúp họ nên nhà nên cửa. Bố mẹ cũng
    chúc cô dâu, chú rể những câu thường lệ, nhất là chúc sống trăm tuổi và sinh con trai thật sớm.
    Khi nhà thờ tổ không phải là nhà cô dâu, vì gia đình này là chi thứ, thì người ta phải bảo cô dâu, chú rể đi một quãng ngắn đến nhà trưởng tộc. Cặp vợ chồng mới cưới đến đấy cùng với hai, ba người. Trong lúc đó, hai gia đình vẫn đợi. Mọi người trò chuyện. Chính trong những cuộc trò chuyện này, hai bên trổ tài ăn nói, và các mối quan hệ được thiết lập.
    Sau đấy, nếu nhà gái đãi cỗ, thì mọi người vào mâm. Nếu không có ăn uống, thì mọi người vui lòng uống mấy chén trà rồi một người xin đón dâu về.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhập với đoàn nhà trai là đoàn nhà gái, gồm cả họ hàng, bè bạn cùng người quen. Bố mẹ cô dâu không bao giờ đưa con gái sề nhà chồng. Cả đàn ông và đàn bà của hai nhà nhập với nhau để lại tách thành hai nhóm như trước.
    Hai cụ già vẫn đi đầu đám rước dâu, đem các lư hương trở về.
    Đi trước họ là những hòm đựng quần áo, đồ trang sức và của hồi môn của cô dâu, do các người phu khuân.
    Khi đám rước dâu vừa đến, mẹ chú rể vội ra khỏi nhà và trốn ở một nhà hàng xóm. Sau khi con dâu bước qua ngưỡng cửa, mẹ chồng mời trở về nhà. Con dâu thường rất sợ mẹ chồng. Có lẽ cốt tránh cho cô dâu khỏi ấn tượng mà họ cảm thấy khi nhìn thấy những người mà họ sợ hãi ngay khi bước vào nhà chồng, một ấn tượng có thể là một điềm xấu cho nên các bà mẹ chồng thận trọng lánh đi, để mọi điều đều đẹp ý cô dâu vào ngày cô lấy chồng.
    Đầy tớ hoặc bạn bè đứng trước cửa để đưa trầu cau chào mừng mọi người trong đám rước dâu.
    Ngoài ra, một lò than hồng được đặt ở ngưỡng cửa. Cô dâu phải bước qua lò than lúc vào nhà. Ở trong nhà, một phòng được đặc biệt sửa soạn để cô dâu nghỉ. Căn phòng này phải do một người sẽ đem lại hạnh phúc nhờ tuổi tác, gia đình đông đúc, giàu có và tốt tính chuẩn bị.
    Khi mọi người đã vào nhà và yên vị thì người ta đưa trà mời. Rồi bố chú rể khấn vong hồn tổ tiên để báo tin về những việc diễn ra, và mời tổ tiên nhận lạy của cô dâu, chú rể.
    Lạy xong, cặp vợ chồng trẻ làm lễ lớn gọi là lễ tơ hồng, tạ ông Nguyệt lão là vị mà, theo tín ngưỡng, chủ trì việc xe duyên cho con người.
    Khi lễ tơ hồng xong, hai người đến lạy bố mẹ chú rể. Nếu bố mẹ chồng có ý định cho đôi vợ chồng trẻ tiền của, thì cho vào lúc này. Dù thế nào đi nữa, cũng không thiếu lời chúc mừng và những tặng vật nhỏ. Hôm sau ngày cưới, đôi vợ chồng còn phải làm lễ nhị hỷ. Lễ này được làm ở nhà gái. Chú rể hoặc bố mẹ chú rể đã gửi đến đó trước những đồ cúng, xôi gấc, lợn quay... để cúng bàn thờ tổ. Những người ít sung túc cúng những gì họ có thể lo được, điều cốt yếu là có làm lễ. Vào giờ tốt, bố mẹ vợ phái một người đến để mời chú rể tới nhà, và cử hai, ba người đàn bà đến để đi kèm cô dâu. Trong tiếng Việt, lễ này gọi hai ngày lại mặt. Mục đích của lễ đó là báo cho bố mẹ cô dâu biết hôn lễ đã làm trọn vẹn. Trong những ngày sau đó, đôi vợ chồng mới cưới đi thăm bà con và bạn hữu.
    Mấy ngày sau hôn lễ (hay đôi khi mấy ngày trước), chú rể hoặc gia đình chú rể nộp tiền cheo, hoặc còn gọi là tiền lan giai.
    Cheo là liền nộp cưới mà làng cô dâu đòi, theo tục lệ. Số tiền rất ít khi chú rể cưới con gái làng mình, và nhiều hơn khi cô dâu là người làng khác.
    Ngày xưa, người ta căng một sợi chỉ ngang đường đám cưới đi qua. Người ta hỏi nhà trai xem có gì trở ngại cho đám cưới không. Vài quan tiền được phân phát đây đó làm cho mọi khó khăn không còn nữa, thế là cuối cùng đám cưới thoát được những kẻ nài xin. Nếu không thì người ta cắt sợi chỉ như thế nghĩa là cuộc hôn phối sẽ không bền lâu. Nhưng tập quán hay này thường chỉ là một cái cớ để vòi tiền, nên có trường hợp sau những sự đòi hỏi của những kẻ giả danh đại diện cho đạo đức công cộng, những vụ ẩu đả xảy ra khiến đám cưới rối loạn. Chính để trừ bỏ những sự bất tiện này mà tục lệ đó bị cấm và được thay bằng tiền cheo nộp cho làng.
    Tính chất của cheo cũng thay đổi. Có những cheo chủ yếu bằng hiện vật, thí dụ một đôi chiếu, hai chiếc mâm đồng, bốn mâm son, một gà luộc, một mâm xôi, vài quả cam, mấy lá trầu, một chai rượu, một số gạch lát... Nhưng thường thường cheo là một khoản tiền.
    Việc nộp cheo là để bảo đảm cho cuộc hôn nhân tính chính thức mà nó nên có qua sự công bố, bởi lẽ kèm theo tiền là một số mạng trầu chia cho các kỳ mục, và dĩ nhiên người mang trầu sẽ báo tin cho các kỳ mục biết về đám cưới. Ngoài ra, lý trưởng còn cấp một giấy biên lai hợp lệ về số tiền ông ta nhận, có ghi lý do nhận tiền. Con dấu của lý trưởng được đóng lên tờ biên nhận, trở thành giấy giá thú thật sự. Tiền cheo được giữ và sử dụng làm công quỹ. Vả lại làng chỉ thừa nhận đám cưới là hợp thức sau khi tiền cheo được nộp. Một tục ngữ dân gian đã từng nói, rằng "nếu anh không nộp tiền cheo lúc cưới xin, thì anh có giết mười lợn cũng bằng không". Khi đám cưới được cử hành ở thành phố, thì tiền cheo vẫn phải nộp cho quê người vợ coi như để báo tin.

Chia sẻ trang này