1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn minh Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 05/07/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    4.Hiệu quả của hôn nhân
    Vai trò của người vợ
    Người đàn bà Việt chịu khuất phục quyền gia trưởng, ông chủ của cuộc hôn phối. Ngày xưa, chồng có uy quyền tuyệt đối với vợ. Thậm chí chồng có quyền cho thuê hoặc bán vợ cho kẻ khác.
    Theo luân lý, người đàn bà bao giờ cũng ở tình trạng phụ thuộc. Người ấy phải chịu ba sự phục tùng, phải ba theo, tức là tam tòng: ở nhà phải theo bố: lấy chồng thì theo chồng, khi goá bụa thì theo con trai. Như vậy, người phụ nữ suốt đời là vị thành niên.
    Chồng có quyền bỏ vợ trong bảy trường hợp:
    1.Vô sinh: không có con là bất hiếu với cha mẹ. Vì thế, người ta có thể bỏ người vợ không có con...
    2.Ba hoa, hay nói xấu và ghen tuông quá đáng.
    3.Mắc bệnh khủng khiếp: bệnh hủi, bệnh đó có thể làm ô uế các lễ vật cúng thần linh.
    4.Phẩm hạnh xấu.
    5.Trộm cắp của chồng hay bố mẹ chồng.
    6.Thất lễ với bố mẹ chồng.
    7.Hành hung chồng.
    Nhưng luật Gia Long, cũng như luật nhà Lê, ghi ba trường hợp không được bỏ vợ:
    1.Khi người vợ không còn cha mẹ để tiếp nhận cô ta;
    2.Khi người vợ đã chịu tang bố hay mẹ chồng;
    3.Khi người chồng còn nghèo khổ lúc lấy nhau, và sau đấy trở nên giàu có.
    Ngày nay, việc chồng bỏ vợ đã bị cấm. Việc ly dị chỉ được tuyên bố bằng uy quyền của luật pháp và vì những nguyên nhân do luật xác định.
    Như vậy, địa vị phụ nữ Việt ngày nay cao hơn trước đây nhiều. Cách đây chưa bao lâu, phụ nữ Việt còn phải khuất phục quyền uy độc đoán của mẹ chồng. Nhưng hiện nay, với sự tiến hoá của phong tục, người mẹ chồng ít ghê gớm hơn nhiều. Và ở các thành thị Việt Nam, vợ chồng trẻ ngày càng quen xin cha mẹ cho phép ra ở riêng.
    Phong tục tập quán cũng như luật lệ của các triều đại trị vì đã góp phần tạo cho người vợ những quyền khá rộng, thậm chí làm cho vợ bình đẳng với chồng.
    Tuy nhiên, phải phân biệt ở đây hai loại vợ: thê hay vợ cả và thiệp hay vợ lẽ. Ta còn phải thấy rằng, có một loại vợ không cưới, cũng là thành viên của gia đình: đó là những người đầy tớ hay nàng hầu, mà người chồng mua chứ không phải kết hôn. Họ có thể trở thành vợ lẽ bằng một đám cưới hợp thức. Những người vợ này chỉ còn thấy trong các gia đình rất sung túc, chủ yếu ở các nhà quan to.
    Chế độ đa thê tồn tại hợp pháp ở Việt Nam. Nó đáp ứng trước hết lý tưởng về hạnh phúc là có nhiều con. Mục đích của nó là tiếp nối dòng dõi. Khi người vợ vô sinh thì người chồng lấy vợ hai để có con. Thường thường chính người vợ vô sinh giục chồng lấy vợ lẽ. Thứ hai là, chế độ đa thê đáp ứng một ý thực dụng về kinh tế, trước hết tại nông thôn. Vợ lẽ là những trợ thủ chắc chắn và thuận tiện của người chồng. Một số điền chủ có bao nhiêu nông trại cần khai khẩn thì có bấy nhiêu vợ lẽ. Thứ ba, chế độ đa thê thoả mãn tính thích sĩ diện khoe khoang: quan lại, kỳ mục tự hào có nhiều vợ góp phần làm tăng uy thế của mình, còn bà vợ cả đã già của họ thì cũng tự hào vì mình là người đứng đầu tất cả các bà vợ khác.
    Chế độ đa thê vẫn luôn luôn được thực hiện ở nông thôn, nhưng những ý kiến chống lại, từ thành phố truyền về ngày càng thắng thế.
    Ở thành phố, trong các giai tầng trên và trung lưu, và cả trong đám bình dân, tục đa thê bị một đòn rất nặng do ảnh hưởng của các tư tưởng phương Tây, của đạo Cơ đốc, của giáo dục, của các nhu cầu kinh tế, các quan niệm mới về địa vị của người phụ nữ. Việc đọc tiểu thuyết và xem phim ảnh cũng đóng góp nhiều vào việc làm đổi thay tình cảm và ý nghĩ của các cặp vợ chồng về hôn nhân, và có xu hướng tạo cho hôn nhân tính cách một cuộc hôn phối có tính chất cá nhân hơn là gia đình. Sự tiến hoá này rất sâu sắc và rất nhanh chóng.
    Dù thế nào đi nữa, chỉ người vợ cả là đáng kể trong gia đình. Vợ cả bình đẳng với chồng (thê), còn vợ lẽ thì, xét theo từ nguyên, là kẻ được người ta thêm thắt vào cho gia đình (thiếp giá). Khi cúng lễ, vợ đứng ngang hàng với chồng trước bàn thờ, chồng bên trái (chỗ danh dự), vợ bên phải, hoặc là vợ quỳ vái ngay sau chồng và ở cùng chỗ với chồng.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong tang lễ, giỗ chạp, các lễ của gia đình, vợ đứng cùng hàng với chồng, vợ là người chỉ huy trưởng việc nhà, người ta gọi vợ là ?onội tướng" (người chủ bên trong). Hầu như bao giờ vợ cũng giữ tiền bạc quản lý của cải, giải quyết các khoản chi tiêu thu lợi tức, bỏ hòm tiền cho thuê nhà; tóm lại, thực hiện mọi hành động quản trị. Cùng với chồng, vợ có những quyền nói chung về giáo dục con cái. Trong trường hợp bất đồng giữa vợ chồng về vấn đề giáo dục này, thì ý muốn của chồng chiếm ưu thế.
    Vì vậy sẽ là phạm sai lầm nghiêm trọng nếu tin rằng người vợ bị biến thành nô lệ, khi so sánh địa vị của người vợ với thân phận của một người đầy tớ gái dễ sai khiến, bị buộc chặt vào những công việc cực nhọc nhất và thường bị bạc đãi. Người vợ Việt Nam được chồng yêu mến và trân trọng, được con cái yêu quý là kính nể, chiếm một chỗ đứng cao trong gia đình, và chiếm chỗ đó rất xứng đáng. Do tinh thần tiết kiệm cùng các đức tính lớn của người nội trợ, người vợ gây dựng cơ nghiệp cho nhiều gia đình và là người cộng tác cần thiết của người đàn ông ở xứ này, vốn chểnh mảng coi thường một số nhiệm vụ chăm sóc gia đình.
    Chỉ có thể có một vợ chính thất. Trái lại, số vợ lẽ thì không có hạn định. Trong các ngày tết, lễ của gia đình, vợ lẽ bị xếp vào hàng con cái. Do đấy, mọi con cái, thậm chí con của chính họ, đều gọi họ là "chị? hay "dì". Vợ chính thất được coi là mẹ của mọi con cái. Chúng gọi bà là ?omẹ già? hay đích mẫu (mẹ thật). Các vợ lẽ gọi vợ chính thất là bà cả. Họ gọi nhau bằng số thứ tự: chi hai, chi ba. Họ lệ thuộc vợ cả. Trong khi vợ cả ngồi cùng mâm với chồng, thì vợ lẽ không được ngồi vào đấy.
    Xưa kia, chồng có quyền chọn theo ý mình người nào hợp với mình để làm vợ hai. Ngày nay, pháp luật đòi hỏi rõ ràng phải có sự ưng thuận của người vợ chính thất. Nhưng trước đây, cũng ít khi vợ chính thất không được hỏi ý kiến. Và trong thực tế, để trong nhà hoà thuận, hầu như bao giờ chồng cũng để vợ chọn thiếp cho mình.
    Qua hôn nhân, vợ chính thất cùng các vợ lẽ ra khỏi gia đình của họ và nhập vào gia đình của chồng.
    Vợ chồng phải cưu mang giúp đỡ nhau. Chồng phải che chở vợ cả cũng như các vợ lẽ. Vợ cả, vợ lẽ phải trung thành và nghe lời chồng.
    Khi chồng qua đời, vai trò trọng yếu của vợ trở thành rõ rệt hơn. Theo nguyên tắc, lúc chồng chết, người quả phụ phải ở lại với con và phụ thuộc con trai trưởng. Theo luân lý người vợ goá không được tái giá. Nếu không, người ta không coi họ là người đàn bà tiết hạnh, mà là người đàn bà thất tiết. Triều đình nước Nam ban sắc phong cho các quả phụ tiết hạnh.
    Trong thực tiễn, người vợ goá thay thế người chồng đã khuất, nuôi nấng chỉ bảo con cái, định đoạt gia sản. Nếu người con trai trưởng, đồng thời là tộc trưởng, còn nhỏ tuổi bà ta có thể thay người con đó thờ cúng tổ tiên. Nhưng lúc làm lễ, bà ta được người em trai chồng giúp đỡ.
    Như vậy, thật ra, vai trò người vợ từ íâu đã quan trọng hơn vai trò mà tập quán dành cho họ. Tuy nhiên, nếu người quả phụ tái giá, thì sẽ tự động mất mọi quyền với con cái. Trong trường hợp này, con cái do một người họ hàng gần nuôi nấng.
    Pháp luật ngày nay thừa nhận tập tục này bằng cách quy định rằng trong trường hợp chồng chết, cộng đồng vẫn được kéo dài chừng nào người vợ goá chưa tái giá. Cộng đồng được quản lý và đại diện bởi người vợ goá thay thế chồng đã mất.
    Đạo luật Bắc Kỳ nói rõ là người vợ goá có tất cả mọi quyền lực làm cha của người chồng đã quá cố đối với các con chưa thành niên cũng như đối với các vợ lẽ.
    Như vậy, ngày nay, như ta thấy, người vợ có địa vị pháp lý và xã hội cao. Ta cần nói thêm rằng, theo một điều trong luật của nhà Lê, thì con gái có đủ mọi quyền và mọi trách nhiệm trước pháp luật và tôn giáo như con trai trưởng. Ngày nay, tại Trung Kỳ, khi người bố mất mà không có con trai thừa kế, thì tập quán cho người con gái trưởng được quyền giữ hương hoả để thờ cúng tổ tiên. Tục ngữ ?ovô nam dụng nữ"-không có con trai thì dùng con gái là một bằng chứng rõ ràng của tục lệ này. Về hương hoả, một điều trong luật Hồng đức nói rằng, "khi không có con trai trưởng thì sẽ dùng con gái trưởng để thừa tự".
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lâu rồi em mới có ít thời gian, hôm nay mùng 1 tết, kéo chủ đề này lên hầu các bác .
    5.Con cái và hương hoả
    Các con và các cháu sống với ông bà nội phải phụ thuộc hoàn toàn người gia trưởng. Họ phải nộp tiền kiếm được cho bố mẹ, nhưng thực ra, bố mẹ thường để lại cho họ một phần. Cả người đã trưởng thành lẫn người chưa đến tuổi thành niên đều chịu khuất phục uy quyền bố mẹ. Họ không có quyền riêng, trừ phi họ lập gia đình và được bố mẹ cho phép ra ở riêng, tuy vẫn cùng sống trong một nhà.
    Bố mẹ và ông bà không chịu trách nhiệm về những cam kết của con và cháu không được bố mẹ, ông bà cho phép.
    Về quyền sở hữu, thì theo nguyên tắc, người chưa trưởng thành chẳng có gì riêng. Người trưởng thành nhưng chưa kết hôn, sống với bố mẹ, có quyền sở hữu những của cải mà bố mẹ cho phép có. Những người trưởng thành, có cơ ngơi tách khỏi cơ ngơi bố mẹ, thì có quyền sở hữu riêng đối với của cải họ có, không dính dáng đến di sản gia đình. Họ có đầy đủ năng lực pháp lý.
    Tập quán không ấn định chính xác tuổi trưởng thành. Khi ta nói rằng, lúc 20 tuổi, thì chàng trai chít khăn người lớn và cô gái đến 16 tuổi thì cài trâm lên tóc, như thế nghĩa là họ đã trở thành những thiếu niên hoàn chỉnh. Song những tuổi này không phải là tuổi trưởng thành của đàn ông và phụ nữ về phương diện quyền công dân. Trong thực tế đến 18 tuổi, chàng trai mới bắt có các quyền và nghĩa vụ trong làng.
    Ở tuổi này, anh ta tham gia sinh hoạt làng xã và đóng thuế thân. Các kỳ mục chẳng để cho họ đến tuổi này mà không bắt họ gánh vác trách nhiệm của làng xã: canh gác, lao dịch... Trái lại, con trai 18 tuổi có những cái lợi như: ăn cỗ có chỗ ngồi có đánh dấu sẵn trên chiếu đình, có phần chia ruộng công.
    Luật hiện nay ấn định tuổi trưởng thành là 21 cho cả nam và nữ.
    Con cái phải kính trọng và vâng lời cha mẹ. Luật nhà Lê trừng phạt những con cháu phản kháng lại ông bà, cha mẹ cũng như những người vợ phạm những hành động như vậy đối với cha mẹ chồng.
    Con cháu phải nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ. Lòng hiếu thảo không cho phép con cháu thưa kiện ông bà, cha mẹ. Luật Gia Long định rằng con phải che giấu các lỗi lầm của bố mẹ, trừ những tội liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy vậy họ có quyền kính cẩn trình bày với cha mẹ khi lệnh của cha mẹ quá đáng hoặc có tính chất lạm dụng.
    Con trai không được xa cha mẹ, dù tạm thời hay mãi mãi, nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ. Khi đi xa cũng vậy, họ phải báo cho cha mẹ biết mình đi đâu.
    Khi cha mẹ qua đời, bổn phận hiếu thảo lại biểu hiện lớn hơn và cấp thiết hơn. Cha còn sống, con trai tuân theo ý cha: cha mất, con trai noi theo gương cha. Trong ba năm để tang, theo luân lý thì người con trai có hiếu không được thay đổi con đường cha đã vạch. Mặt khác, luật Gia Long cấm chia tài sản và giải thể gia đình lớn trong thời gian này. Ngoài ra, anh em phải sống hoà thuận, anh phải yêu mến em và em phải kính nể anh.
    Người ta còn cấm kết hôn trong thời kỳ có tang.
    Các con phải thờ cúng tổ tiên.
    Và theo tục lệ, họ phải có con trai để duy trì dòng dõi. Tội bất hiếu lớn nhất là không có con cái. Từ đấy nảy ra bổn phận tinh thần là phải lập gia đình.
    Nhưng không phải con gái bị coi nhẹ. Người ta muốn có con trai để có người nối dõi thờ cúng tổ tiên. Thật là quá đáng khi nói rằng người Việt Nam chỉ coi trọng con trai. Trai gái đều bình đẳng về quyền, bổn phận, tình thương yêu. Người ta chỉ nêu lên những sự phân biệt do những thể chế đặc biệt mà trong thực tế đã được giảm nhẹ rất nhiều trong nhiều gia đình.
    Các em trai và em gái phải kính trọng và vâng lời các anh. Khi đã gây dựng gia đình riêng, họ độc lập đối với nhau. Những ngày giỗ bà con gần họ có tục lệ đem đồ cúng đến nhà người anh cả, là người giữ bàn thờ tổ tiên, để đóng góp vào lễ cúng. Anh chị em đã trưởng thành không có bổn phận nuôi nhau. Anh trai cả đã trưởng thành, hoặc nếu không có anh trai trưởng thành thì chị cả đã trưởng thành, phải nuôi dưỡng các em trai và em gái chưa thành niên.
    Có tục nhận con nuôi, được pháp luật cho phép. Trong việc nhận con nuôi để lo việc thờ cúng, những người không con mà muốn tạo cho mình có con nối dõi thì có thể nuôi một đứa trẻ thuộc một gia đình đồng tông với mình. Tục lệ thừa nhận một cách nhận con nuôi khác, do từ thiện, hoặc do lợi ích, hay do mê tín. Một gia đình sung túc nhận nuôi một trẻ nhỏ bằng cách trả một khoản tiền cho bố mẹ đứa bé đang túng thiếu. Người chủ nợ nhận nuôi con của con nợ đã đến tuổi lao động, và quy định trong giao kèo rằng khoản tiền cho vay sẽ không tính lãi, vì sự phục dịch của đứa trẻ thay cho lãi. Những đứa con nuôi này có thể là những đứa trẻ bị bỏ rơi mà người ta nhặt vì thương hại. Chúng có thể là con những người bạn mà người ta nuôi để tăng cường quan hệ bạn hữu. Do mê tín, khi giàu có người ta nhận nuôi một đứa trẻ của một gia đình đông con để được hưởng một phần phúc của gia đình này. Đôi khi, người ta nhận một đứa trẻ vì thầy bói cho rằng điều đó có thể làm cho chính con đẻ của mình khoẻ mạnh, hoặc có thể khiến gia đình sinh con trai. Trong các làng có nhiều ruộng đất phân chia, một số gia đình nhận nuôi nhiều con để có những phần đất nhiều hơn.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Con gái có thể được nhận nuôi như con trai.
    Con nuôi được gọi là nghĩa tử.
    Người nuôi phải nuôi dưỡng con nuôi. Người đó phải đối xử với con nuôi như con đẻ của mình.
    Người cha có quyền định đoạt gia sản bằng chúc thư theo ý muốn tự do của mình, với điều kiện phải tôn trọng các quyền của người vợ, và, nếu người cha đó là người thừa kế thờ cúng, thì phải truyền cho kẻ thừa kế thờ cúng những của hương hoả dùng để duy trì việc thờ cúng tổ tiên.
    Phần hương hoả này xưa nay vẫn tồn tại và bao giờ cũng được tôn trọng ở Việt Nam. Hương hoả được định nghĩa trong pháp luật hiện hành là phần động sản hay bất động sản của di sản dùng để cung ứng cho việc thờ cúng vợ chồng một người, cũng như để thờ cúng tổ liên bên nội của người đó. Nó gồm mọi của cải có khả năng sinh lợi một khoản thu nhập dành cho việc duy trì thờ cúng, dù người đã khuất theo tôn giáo nào đi nữa: ruộng, ao, đất, nhà...
    Phong tục thường rất hay phân biệt của hương hoả với nhà thờ, tức là từ đường, mà người thừa kế thờ cúng coi giữ. Trong các gia tộc nghèo, không có nhà thờ, thì chính người thừa kế thờ cúng, hưởng phần hương hoả, bảo đảm việc thờ cúng ở nhà riêng mình. Cái cần thiết cho việc thờ cúng tổ tiên là bàn thờ. Ở các nhà nghèo, bàn thờ đó thường chỉ có ít thứ: một cái bàn, một lư hương, một bài vị và những cây đèn. Khi ngay dù người bố không để lại của hương hoả và nhà thờ, thì người thừa kế thờ cúng vẫn phải lập bàn thờ này, lấy trong những nguồn thu nhập của mình các khoản tiền đủ để mua hương đèn và các đồ vật mà việc lễ bái cần đến.
    Người ta phân biệt hai loại thừa kế thờ cúng người thừa kế tự nhiên và kẻ thừa kế được lập nên. Kẻ thừa kế là con trai của người đã khuất, đích tử, hay nếu không có đích tử, thì lấy cháu trai người chết, đích tôn. Khi có nhiều con trai do nhiều vợ sinh ra, thì đích tử là con trai của người vợ chính thất, dù đứa con trai đó bao nhiêu tuổi. Nếu vợ chính thất không có con trai, thì danh từ đích tử nói chung được dùng để chỉ đứa con trai lớn nhất của các vợ lẽ.
    Người thừa kế cũng có quyền thu hoa lợi và lợi tức của hương hoả. Người đó thu những kết quả tự nhiên hay kết quả dân sự mà hương hoả sinh ra, và phải hưởng của hương hoả với ý thức đầy đủ về nghĩa vụ của mình. Thí dụ, người thừa kế thờ cúng phải làm những công việc sửa chữa để bảo dưỡng, và thậm chí cả những sửa chữa lớn trong phạm vi thu nhập của hương hoả. Người đó có bổn phận làm sinh lợi những tài sản ruộng đất hương hoả này.
    Của hương hoả không thể đem chuyển nhượng mà không thể mất thời hiệu. Tuy nhiên, của hương hoả do các tổ tiên từ sáu đời trở lên đặt ra có thể chuyển nhượng và mất thời hiệu vì theo truyền thống Việt Nam, người ta không thờ cúng các tổ tiên ấy nữa. Trong trường hợp bị trưng thu vì công ích, thì hội nghị gia tộc chọn một ngôi nhà khác để thay ngôi nhà bị trưng thu.
    Ngoài ra, hội nghị gia tộc có thể cho phép bán hay đổi một phần của hương hoả trong trường hợp nhà thờ hay bàn thờ tổ cũ nát mà họ hàng không đủ tiền trả công tu sửa. Nếu muốn xây lăng cho cha mẹ hay tổ tiên thì cũng vậy. Hội nghị gia tộc cũng có thể cho phép bán hay đổi những của cải này khi việc bán hoặc đổi đó có lợi ích cho hương hoả.
    Ngoài hương hoả, còn có một thứ của cải để thờ cúng khác gọi là kỵ điền. Đó là một phần bất động sản của một di sản được lập nên để cúng giỗ bản thân người lập ra kỵ điền này, hay một thành viên trong gia tộc người đó. Người lập có thể tùy ý giao kỵ điền cho cả họ, hoặc một chi, hay chỉ một người.
    Trong truyền thống gia tộc Việt Nam, còn phải thấy rằng việc lập hậu duệ bằng cách nhận con nuôi cũng không phải là điều cần thiết không thể thiếu để bảo đảm sự yên nghỉ cho vong hồn ở thế giới bên kia bằng cúng lễ đều đặn. Chính vì vậy, những người giàu không con, mà không thể giao cho con nuôi việc thờ cúng sau khi mình chết, đôi khi thích chọn cách cúng hiến vật hay tiền bạc để bảo đảm cho mình được cúng giỗ ở đình hay ở chùa. Tùy trường hợp, tục lệ này gọi là mua hậu đình hoặc mua hậu chùa.
    Mua hậu đình chủ yếu là vĩnh viễn tặng cho làng một khoản tiền lớn hay một số mẫu ruộng. Làng xã đảm nhận số tiền hoặc ruộng đó. Đổi lại, người tặng, lúc sinh thời, được biếu xén vào các dịp Tết Nguyên đán. Sau khi người đó mất, người ta lập trong đình làng một bàn thờ trên đó đặt một bia đá ghi tên, số tiền hay ruộng đã cúng, và ngày giỗ của người này. Vào ngày giỗ đó và vào một thời kỳ nhất định, dân làng phải cúng vong hồn người đó dưới những hình thức mà lễ nghi ấn định.
    Mua hậu chùa là tặng hiện vật hay tiền cho một ngôi chùa. Vì việc cúng lễ ở chùa rất giản dị, nên mua hậu chùa rẻ hơn mua hậu đình nhiều: chỉ cần một trăm đồng hay vài sào ruộng là đủ.
    Còn có thể mua hậu ở một tổ chức tôn giáo hay một hội tôn giáo khác, hay ở một thôn, một xóm, hoặc một giáp.
    Cách bảo đảm cho mình được thờ cúng sau khi chết đã phổ biến ở thời nhà Lê. Ngày nay, tục đó được Dân luật chấp nhận.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    6.Thờ cúng tổ tiên
    Yếu tố vững chắc nhất gắn bó các thành viên của đại gia tộc là việc thờ cúng tổ tiên. Ngay trong lúc sinh thời, ông bà, cha mẹ, người con trai hiếu thảo đã thật sự tôn thờ các vị đó rồi. Giống như người Trung Hoa láng giềng, anh con trai không dám dùng chiếc ghế dành cho bố: "Con không động đến quần áo, chăn chiếu, gối của bố, cũng như không động vào cái ghế đẩu của bố dựa. Con tôn trọng đặc biệt chiếc gậy và giày dép của bố mà không tự tiện đến quá gần những cái dó: con không dám mạo muội dùng cái bát to, cái cốc bình nước của bố..., tránh ho, ngáp..., đứng một chân..., choàng áo khoác mặc dù trời lạnh..., có ngứa cũng không được gãi..., không để lộ lần lót của quần áo của mình...".
    Trong hai mươi bốn điều hiếu (nhị thập tứ hiếu) dạy con trẻ Việt Nam từ thời xa xưa, ta thấy tấm gương người con trai chôn sống mình để dành chút gạo ngon của mình cho bà mẹ; gương người ngâm thân mình nóng siết trong nước sông lạnh giá, hy vọng bắt được thứ cá mà cha mẹ thích ăn; gương người mình trần nằm ngủ buổi tối để thu hút muỗi, với ý nghĩ tạo cho bố giấc ngủ yên, v.v...
    Sau khi qua đời, tổ tiên được con cháu thờ cúng một cách hiếu thảo. Mọi người Việt Nam đều tuân theo tục thờ cúng này, không hề miễn cưỡng, dù họ thuộc thứ bậc nào trong xã hội. Tội bất hiếu nặng nhất mà con trai phạm phải là không cúng ông bà, cha mẹ. Người Việt Nam kính trọng bố mẹ đã qua đời như bố mẹ còn sống. Sau khi bố mẹ mất, con cái vẫn tiếp tục kính trọng và yêu quý bố mẹ.
    Thờ cúng tổ tiên không giống như đạo thờ các thần linh. Thờ cúng tổ tiên chỉ căn cứ ở lòng biết ơn và kính trọng những người đã sinh thành ra mình, nuôi nấng, dạy dỗ mình. Nguyên tắc đạo đức chi phối quan hệ giữa những người đang sống trong gia tộc vẫn tiếp tục, không thay đổi, sau khi từ biệt. Người ta coi cái chết đơn giản chỉ là buộc phải đi theo tổ tiên đã khuất của đại gia đình, sau một cuộc đời trần thế tương đối dài. Ông Trần Văn Chương viết: "Việc thờ cúng này có mục đích nhắc cho người sống nhớ kỷ niệm về người chết. Thờ cúng nảy ra từ đạo đức buộc phải trung thành với kỷ niệm và từ việc đặt ra những lễ nghi ở Trung Hoa để phục vụ đạo đức đó...". Ta còn đọc được những dòng sau đây của ông Hồ Đắc Điềm: "Thờ cúng có nguồn gốc ở lòng hiếu thảo. Người con hiếu thảo phải luôn luôn nhớ, để không bị cám dỗ phạm những điều đáng chê cười làm nhơ nhuốc chữ hiếu.
    Nhưng nền tảng đạo lý này, làm cơ sở cho việc thờ cúng tổ tiên, thường chìm trong các ý nghĩ mê tín, nhất là trong dân chúng... Việc thờ cúng đó còn giữ được sự tinh khiết ban đầu của nó trong các giai tầng trên ở Việt Nam nhưng trong dân chúng, nó trở thành một tôn giáo thật sự với đủ thứ mê tín và những niềm tin vào các thần thánh mà người ta xin phù hộ".
    Dù thế nào, mỗi ngôi nhà đều là một ngôi đền thật sự thờ vong hồn những vị tổ tiên thuộc gia đình. Từ kẻ giàu đến người nghèo, dân Việt Nam đều đành trong nhà mình một phòng đặc biệt, đặt ở chỗ tốt nhất, ở đó có bàn thờ tổ. Trong các gia đình bề thế nơi thờ đó chiếm cả một toà nhà giữa, trang hoàng và bày biện phong phú. Cuối sâu trong gian phòng trung tâm có một chiếc ngai chạm trổ, sơn son thếp đàng, trên đó đặt các bài vị ghi tên, chức tước của người chết, cũng như thứ bậc của người đó trong gia đình. Trước ngai này là những đồ thờ: lư hương, cây nến, bình hoa và ống hương... Trong các nhà nghèo, một chiếc bàn nho, kê sát vách trong, chiếm khoảng trung tâm gian phòng độc nhất của ngôi nhà tranh. Một bát tro dùng làm lư hương, là tượng trưng của tổ tiên đã khuất.
    Những nghi lễ thờ cúng tổ tiên bắt đầu ngay sau khi qua đờí và thưa dần, trở thành những lễ hằng năm sau khi đoạn tang, chỉ được thực hiện vào ngày giỗ.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau khi chết, được xác nhận bằng lõi sợi bấc không động đậy đặt trước lỗ mũi, người ta phủ mặt người chết bằng ba tờ giấy chồng lên nhau và một vuông vải hay lụa đỏ. Một hình nhân được bện bằng ruột mớ lụa trắng hay, nếu không có, thì mớ vải bông trắng. Hình nhân được coi như thay cho thân thể của người chết. Hình nhân được đặt lên ngực người hấp hối. Một người trong gia đình trèo lên mái nhà và gọi to ba lần tên họ người chết. Hồn người chết được coi như đã nhập vào hình nhân lụa, gọi là hồn bạch.
    Tiếp theo là lễ cúng lễ vật đầu tiên, lễ phạn hàm người ta chuẩn bị một nắm gạo trắng và ba đồng tiền được đánh bóng. Người giàu có thể dùng những đồng tiền bằng bạc hay dùng kim loại quý. Người thừa kế thờ cúng cạy miệng người chết và bỏ vào đấy gạo và tiền. Động tác này tượng trưng cho bữa ăn cuối cùng của người chết do con cháu mời.
    Sau đấy, thi hài được tắm rửa bằng một chiếc khăn tay trắng tẩm nước thơm. Rồi người ta mặc cho thi hài những áo quần dẹp nhất, trong khi cẩn thận tháo ra những khuy đồng hay khuy vàng có thể đâm vào thịt, đều bị coi như một nguyên nhân bất hạnh. Móng tay, móng chân người chết được cắt cũng với mục đích như thế. Mọi người quấn xung quanh đầu thi hài một tấm khăn đen hoặc đỏ. Khăn trắng chỉ được quấn cho người chết khi bố mẹ người đó còn sống, để người đó chịu tang trước ở dưới mồ đối với bố mẹ.
    Thi hài, sau khi đã liệm, được nhập quan vào một giờ tốt lành để khỏi gây rủi ro cho con cháu người chết. Tiếp sau đấy, quan tài được kê lên hai chiếc mễ trong gian phòng giữa của ngôi nhà. Một chiếc bàn được đặt phía trước, với một lư hương, hai cây nến, hoa, nước, trầu cau và ở đằng sau, là hồn bạch. ở chính giữa trên quan tài đặt một bát cơm với một quả trứng luộc.
    Sau đấy là lễ phát tang, người ta làm lễ trước quan tài, và quần áo tang được phân phát cho mọi người trong nhà.
    Thời gian để tang cũng như cách để tang đều được luật Gia Long quy định cẩn thận. Quần áo tang của mỗi người đều biểu hiện mức quan hệ thân thích và mức độ đau buồn đối với người chết.
    Thí dụ, con của người chết mặc áo dài không viền trong ba năm (thật ra là 27 tháng), áo họ may bằng vải gai mộc rất thô, mép hai bên áo và mép dưới không viền. Mép trên khâu lộn ngược, đường khâu ở bên ngoài. Trên lưng có một mảnh gọi là ?omảnh gánh nặng", để nói lên rằng người có tang mang gánh nặng đau buồn và thương tiếc. Đằng trước, chỗ trái tim, có một mảnh được gọi, giống như tấm áo, là thôi, để cho thấy rằng những người con có hiếu có trái tim trĩu nặng vì đau buồn. Quần cũng không viền mép và may bằng vải thô. Trên đầu là một vòng rơm có quai buộc dưới cằm. Thắt lưng làm bằng một dây gồm hai sợi tết vào nhau, hai đầu dây được buộc, gỡ tơi ra và lủng lẳng. Dép đi chân đan bằng một thứ cỏ thân rỗng. Về việc ?ochống gậy?o, nếu là tang cha, thì dùng một thanh tre, lấy các mấu ngoài làm biểu tượng: cha là "trời của con trai? (người sinh thành), thanh tre tròn như bầu trời; tre không thay đổi lượng cả bốn mùa, nỗi đau đớn của con trai khóc cha cũng phải trải qua nóng và lạnh mà không bị ảnh hưởng. Về tang mẹ, dùng gỗ cây đồng (tiếng thông tục gọi là cây vông). Để mở rộng ý, người ta cho chữ đồng, tên cây có nghĩa chữ đồng là cùng nhau; như thế nghĩa là tấm lòng của người con trai đặt mẹ ngang với bố. Bên ngoài thanh gỗ này không có mấu. Các mấu ở bên trong được coi như biểu tượng sự giữ gìn kỷ niệm trong lòng. Nửa gậy được vót tròn, theo hình bầu trời, nửa dưới vót vuông, theo hình mặt đất. Gậy gỗ cũng như gậy tre, gốc hay rễ phải ở đầu dưới của gậy. Gậy phải cao tới ngang trái tim. Những tiếng khóc của người con trai là không thể đếm được, thân hình anh ta đau yếu, chiếc gậy là vật trợ lực của người đau yếu, sự đau yếu của anh ta xuất từ trái tim, vì thế, chiều dài của gậy phải bằng chiều cao đến tim.
    Những người khác trong gia đình, anh em trai, chị em gái và các cháu gọi bằng ông, bà... mặc quần áo có tiền mép. Thời gian để tang là từ một năm đến ba tháng tùy từng người.
    Như vậy, cái chết của một người trong họ khẳng định các mối liên hệ ràng buộc mọi người trong gia tộc đến tất cả bảy đời. Việc mặc quần áo tang được tiến hành trọng thể trong một lễ gọi là lễ thành phục.
    Từ lúc này trở đi, bà con, bè bạn kéo đến với đồ phúng gồm tiền, nến, rượu, gạo, lợn, bò, v.v... Người ta phúng cả những bức trướng bằng lụa trắng, vàng hay xanh, trên ghi những lời ca tụng người chết bằng chữ Hán. Tang gia ghi lại các đồ phúng nhận trong dịp đó để có thể trả lại sau này mỗi khi có dịp: nếu gia đình không theo đúng tục lệ này, thì sẽ là sự xúc phạm lớn đối với vong linh người chết.
    Cho đến lúc chôn cất, cứ mỗi ngày hai lần, người ta thay bát cơm, quả trứng trên quan tài. Các gia đình giàu có thì cúng hằng ngày. Và người ta quàn thi hài trong nhà càng lâu càng tốt để cho con cháu có thể khẳng định lòng thương tiếc của mình càng nhiều càng hay.
    Để chứng tỏ hơn sự tiếc thương đó, hôm mai táng, các con gái, con dâu cùng các bà vợ của người đã khuất nằm lăn ra đất, ngang con đường quan tài đi qua.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Xe tang là một thứ tán. được che kín bằng những bức trướng rực rỡ bằng lụa thêu. Đòn kiệu được làm thành hình rồng. Tại Bắc Kỳ, để che linh cữu đặt trên kiệu, người ta thường thay cái tán bằng một nhà táng giấy được trang hoàng rực rỡ mà người ta sẽ đốt đi sau khi mai táng để dùng cho người chết. ở Nam Kỳ. những hiệu xe đòn đám ma cho thuê trong dịp này những chiếc ô tô rất lớn, lộng lẫy. Người Việt Nam thấy ở dịp đó cách cuối cùng để biểu lộ lòng hiếu thảo. Vì thế người ta bỏ ra nhiều tiền của và công sức. Đôi khi đấy là cớ để lãng phí lớn thời giờ và liền của gia đình.
    Trong khi mai táng, một ông đồ nho có tên tuổi dùng bút lông viết nhanh những nét cuối cùng lên chiếc bài vị ghi tên tuổi, chức tước của người chết, như một sự xác nhận công khai. Từ đấy trở đi, bài vị này đại diện cho người chết. Và cuối cùng là lấp đất lên huyệt.
    Bài vị được đặt lên linh xa, cho đến lúc đó chỉ chở chiếc hồn bạch. Và sau khi cúng thành phần (chôn cất xong) và cúng phần khóc (khóc lúc trở về), mọi người theo hàng lối trở về nhà. Chiếc bài vị, và phía sau là hồn bạch, được đặt lên bàn thờ kê cạnh bàn thờ tổ tiên. Nếu người chết thuộc chi thứ và chưa có bàn thờ, thì chiếc bàn cúng này được kê giữa nhà.
    Thôi, thế là đối với con cái, thi hài của người chết đã trở về với đất, mà hồn thì không rõ đi đâu, họ rất đau đớn và bối rối nhớ đến người đã khuất. Bây giờ họ làm lễ cầu sự an tâm, lễ tế ngu (từ một đến ba lần cúng), sau đấy hồn bạch được đem chôn ở chân mộ hay ở một chỗ thích hợp.
    Từ ngày ấy trở đi, người đứng đầu gia đình hằng ngày thắp hương lên bàn thờ. Một ngọn đèn được đốt ở đấy thường xuyên. Ngày nào người ta cũng cúng một bữa cơm, trong 21 ngày, các nhà giàu thì cúng trong 49 ngày. Cứ bảy ngày một lần, lại có một lễ. Ngày thứ 50, một lễ được làm ở chùa để giúp hồn người chết qua âm phủ. Ngày thứ 100 lại cúng một lễ, sau đấy bà con xa hết tang.
    Ngày giỗ đầu có lễ tiểu tường, sau lễ đó, một phần quần áo tang được đốt. Giỗ lần thứ hai, gọi là đại tường, chấm dứt thời kỳ để tang. Bài vị người chết bây giờ được đặt vào bàn thờ tổ tiên. Tuy vậy, con cái vẫn chít khăn trăng ba tháng nữa. Như vậy đại tang kéo dài 27 tháng.
    Từ năm thứ ba trở đi, hằng năm một lễ được làm trước bàn thờ tổ tiên. Lễ đó gồm một bữa cỗ lớn, bày trên bàn thờ. Vào dịp này, người ta đốt vàng mã tượng trưng cho những nén vàng, nén bạc. Ngày nay, người ta còn đốt cả tiền bằng giấy và những đồng giả tiền giấy của người dương thế. Lễ này được cử hành trong hai ngày, tất cả các bà con và bạn bè đều ở được mời.
    Ngoài ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được làm vào các ngày tết đầu năm. Đúng lúc giao thừa, giữa tiếng pháo, mọi người cúng ở bàn thờ gia đình. Hương được thắp giữa những cây nến đốt để rước ông bà vải trở về nhà. Và trong cả dịp lết này, ngày nào cũng cúng cơm tổ tiên. Ngày mồng 3 hay mồng 7, ở một vài nhà thì ngày rằm, có lễ gọi là "lễ tiễn ông bà ông vải".
    Trong năm, có những dịp khác, đôi khi cũng chẳng ít, có thể là những dịp cúng những người đã khuất. Ngày sinh và nhất là ngày kết hôn của một người trong nhà, các ngày lễ thọ, được cử hành khi một người thân thích đến tuổi 70, đều cúng lễ long trọng để cáo với tổ tiên.
    Tổ tiên cũng được cúng lễ khi có người vừa đỗ đạt cao hay vừa được phong quan chức. Như vậy, mỗi khi có dịp mừng vui, người ta lại hướng về tổ tiên để tỏ lòng biết ơn.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng biểu hiện cảm động nhất của lòng hiếu thảo này là lễ phần hoàng (hay huỳnh) hoặc lễ đốt sắc phong của vua, viết trên giãy màu vàng, ban cho cha mẹ đã mất của một ông quan. Ông Lê Quang Phước đã viết về vấn đề đó như sau trong tờ Tập san của những người bạn xứ Huế cổ (1930): "Khi người con trai được phong chức đường quan (từ tứ phẩm trở lên đối với quan văn, và từ tam phẩm đối với quan võ), thì cha mẹ còn sống của người đó được vua đặc ân ban cho một chức quan danh dự, văn hoặc võ, thấp hơn chức con trai hai bậc.
    Nếu cha mẹ còn sống, thì ta làm lễ sanh phong, cũng long trọng nhưng chẳng có nghi lễ nào khác ngoài nghi lễ thường thấy ở mọi buổi lễ được tổ chức để đón nhận và đọc chiếu chỉ của nhà vua.
    Trái lại, lễ phần huỳnh mang tính cách một ngày lễ tôn giáo cảm động, trong đó vong linh cha mẹ được khấn cầu một cách thành kính về nghe đọc sắc phong của nhà vua và nhận quan tước. Tôi đã dự nhiều lễ phần huỳnh và ở tất cả mọi nơi, trong mỗi gia đình, tôi đều cảm thấy cùng những tiếng tim đập, cùng một sự thống nhất về tình cảm và ý nghĩ, cùng một bầu không khí tín ngưỡng êm dịu và chân thành mà tâm hồn người Việt vẫn ưa thích.
    "Đấy là sự kiện vui sướng nhất trong gia đình và tất cả bà con, bè bạn và thông gia đến tham dự. Đối với con cái, nhất là đối với người con có phẩm hàm, mở đường cho cha mẹ được phong quan tước thì đấy là phút giây êm ái nhất khi nghĩ rằng việc phong quan bán chính thức đó, vong linh cha mẹ sẽ tự hào và hài lòng vì họ. Đấy là cơ hội hiếm hoi để cả gia tộc sum họp đông đủ trong nhà thờ, tuôn những giọt nước mắt mừng vui, nhớ lại và kể cho nhau nghe những chuyện đã qua, tràn ngập trong ký ức về các vị tổ tiên thân yêu của mình. Lễ này là sự bày tỏ đẹp nhất lòng biết ơn và hiếu thảo mà một người con trai có thể dâng lên hương hồn cha mẹ. Đó đồng thời là niềm vui duy nhất, vinh dự nhất mà một người có thể đem lại cho gia đình mình. Chính người đó cũng là niềm vui, là vinh dự, là ?ođứa con yêu dấu, quý tử" của gia đình.
    Như vậy, tổ tiên vẫn luôn luôn gắn bó mật thiết với gia đình đang sống. Tuy nhiên, theo lời nhận xét chí lý của linh mục Cadière, thì ở giới bình dân hơn ở giới thượng lưu sự có mặt của tổ tiên trong nhà không phải là một trạng thái hoàn toàn thụ động. Những người quá cố tác động. "Thông thường họ làm điều tốt cho những người đang sống của gia đình: đó là khi những người này thực hiện đúng các bổn phận mà đạo hiếu quy định. Vào những ngày tết, lễ, các lổ tiên được cung ứng những thứ mình cần, cảm thấy sung sướng là yên ổn, bèn chứng tỏ sự có mặt của mình bằng cách ban phát mọi sự tốt lành cho con cháu. Nhưng nếu con cháu chọn phải một chỗ đất xấu để cất mộ, nếu họ quên cúng lễ như bổn phận bắt họ phải làm hoặc cúng lễ dè sẻn quá, thì tổ tiên báo thù, hay đúng hơn, tổ tiên trừng phạt những kẻ có tội. Thế là, theo lời chỉ dẫn của thầy địa lý hay thầy cúng, phải di chuyển hài cốt, làm lễ tạ tội với những vị tổ tiên bất bình".
    Nhưng không nên hiểu quá chi li những "nhu cầu? này của tổ tiên là, do đấy, cho rằng ta phải cúng tổ tiên các món ăn quý, là phải đốt thật nhiều vàng bạc. Đúng hơn, thật ra là cách làm những lễ được yêu cầu trong việc thờ cúng tổ tiên chính là sự thực hiện động tác này một cách thành tâm nhất. Mặt khác, như ta thấy, khi người chết có một chút của cải, thì họ bao giờ cũng để lại một phần của cải riêng, là hương hoả dành cho việc trông nom sự cúng lễ mình.
    Dù thế nào, các bậc cha mẹ vẫn thường nhắc, khi còn sống, với con cái rằng, ở thế giới bên kia, họ chỉ cần một bát nước trong và một miếng trầu. Những đồ cúng ít ỏi này bao giờ cũng phải có, và giá trị của nó phải được tăng lên do tấm lòng trong trắng của những người cúng. Nói cách khác, con cái phải xử sự như những đứa con hiếu thảo. Và trong quan niệm của người Việt Nam thì, người con trai hiếu thảo không phải là ké cúng thật nhiều về vật chất cho cha mẹ, mà là kẻ cư xử trung thực, một người dân tốt, một học trò tốt( người chồng tốt, người cha tốt, người bạn tốt. Cái mà tổ tiên cần không phải là cái vật chất để nuôi thể xác của người sống, mà là làm sao cho tên tuổi, linh hồn của họ không bị bôi nhọ bởi thái độ không xứng đáng của những con cháu gần hay xa.
    Dù sao đi nữa sự có mặt của tổ tiên giữa những người sống được quan niệm là có thật. Và thực tế này được tất cả mọi người công nhận chẳng cần bàn cãi gì. Ông viết: ?oNgười Việt chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán cho là điều tự nhiên khi tin rằng người chết vẫn sống vô hình bên cạnh người sống. Ở họ, tín ngưỡng này không xuất phát từ một lời nguyện tin, từ nhu cầu hy vọng hay nhu cầu cắt nghĩa sự bí ẩn của sự sống. Đấy chẳng phải chỉ là một niềm tin đơn giản phi lý, nảy ra từ trái tim và khối óc. Đấy là một điều xác thực thật sự mà họ phải chấp nhận trước chứng cứ rành rành của những thực tế có thể nhìn thấy và sờ mó được. Những người cha, người mẹ mà họ đã mất, họ gặp lại trong mộng. Thậm chí có thể họ đã thấy những hồn ma hiển hiện, họ biết những chuyện hồn nhập xác... Những cảnh tượng đó thường thấy ở Việt Nam: niềm tin ở sự sống ở thế giới bên kia không phải là được áp đặt như đối tượng của đức tin, nó được công nhận là kết quả có thể nhìn thấy được là kiểm tra được của một tri thức thực nghiệm: vậy nó chẳng có gì là siêu tự nhiên, chẳng có gì là huyền bí: người ta tin rằng những kẻ đã khuất bóng vẫn sống gần những người sống, như người ta tin ở ánh sáng mặt trời hay sức nặng của quả giọi...".
    Việc thờ tổ tiên, được hiểu như vậy, là một sợi dây vững chắc ràng buộc mọi người trong gia đình, còn sống hay đã chết, với nhau. Ngày qua đời, sợi dây này biểu hiện bằng việc để tang, được quy định tỷ mỷ để làm cho khớp nhau các dấu hiệu tang phục và những nỗi đau đớn ít hay nhiều của mỗi người trong họ.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các ngày giỗ cũng như các ngày tết lễ, người của tất cả các chi tập hợp tại nhà thờ. Nếu là họ lớn, khi mỗi chi của họ, tức là mỗi nhà, vốn đã hình thành một gia đình quan trọng với các con cái đã lấy vợ, lấy chồng và ở riêng, bản thân gia đình cũng có bàn thờ tổ, thì đây là những dịp duy nhất cho đại gia tộc gặp lại nhau trước một hình ảnh chung hay những tước hiệu chung. Chính trong những buổi họp khép kín này, như được dòng máu truyền cho sinh khí, những tình cảm thương mến tự nhiên được hồi phục hay được tăng cường. Vì thế, nên nghiên cứu tục thờ cúng tổ tiên trong khuôn khổ gia đình. Nó tạo thành một chất gắn kết tự nhiên của gia đình. Bởi vậy, không được coi thờ cúng tổ tiên như một tôn giáo theo nghĩa hẹp của từ này, và phân tích nó đồng thời với đạo Phật.
    Cần phải gắn việc thờ cúng mồ mả với việc thờ cúng tổ tiên. Mồ mả được giữ gìn một cách thành kính cho đến khi gia tộc tuyệt diệt. Mồ mả là tài sản của gia tộc: không người nào trong họ có quyền di chuyển mồ mả hay chỉ động chạm đến mồ mả nếu không được tất cả mọi người ưng thuận. Mồ mả được sửa sang mỗi năm hai lần: các tổ chuột hay tổ lươn được kiểm tra là bịt lại. Cỏ trên mộ được trồng lại. Nếu có những chỗ hư hại lớn, phải lập tức báo cho cả họ. Thế là vào mùa xuân hay mùa đông tới, người ta long trọng sửa sang.
    Ba hay bốn năm sau khi mai táng, người ta đào mộ để rửa hài cốt người chết và gom lại trong một cái tiểu rồi chôn ở chỗ khác. Đồng thời với việc thu hẹp bớt 2/3 chỗ đất của mỗi ngôi mộ, hài cốt vị tổ tiên đã khuất cũng sạch sẽ hơn.
    Việc bảo vệ mồ mả được pháp luật bảo đảm. Ở Việt Nam, mồ mả là những tài sản thiêng liêng. Mồ mả được tôn trọng một cách sâu sắc. Theo một cách nói của người Việt Nam, thì việc giữ gìn mồ mả tổ tiên được thực hiện chẳng những gắt gao, mà còn cẩn thận hơn đối với bất cứ những vật quý nào. Ngoài ra, theo tục lệ thì người bán thửa đất có mộ chôn các thân nhân đã chết của mình. vẫn được quyền đến đấy để trông nôm mồ mả. Mặt khác, ở Việt Nam, không bao giờ người ta từ chối một góc ruộng để chôn thi hài kẻ khác, ngay khi người xin góc ruộng không là người cùng làng hay cùng tỉnh. Và gia đình người chết cũng chẳng bị đòi hỏi gì, trừ một khoản tiền rất nhỏ đóng góp cho quỹ xã nếu họ không phải là người làng.
    Gia đình là cơ sở của xã hội Việt Nam. Sức mạnh của gia đình là ở chữ hiếu.
    Bất hiếu bị coi là một trong sáu tội nặng ghê gớm. Bất hiếu tức là thưa kiện hay chửi bới ông, bà, cha hay mẹ, hoặc ông bà, cha mẹ chồng, là không tuân theo những lời chỉ bảo hay lệnh của cha hoặc mẹ, là không cung ứng thích đáng các nhu cầu của cha mẹ, là lấy vợ, lấy chồng trong khi có tang cha hay mẹ, là vui thú, không mặc quần áo tang và chơi bời, là biết tin ông, bà, cha hay mẹ chết mà che giấu tin đó không để tang, hay nói dối rằng mình đang có tang ông, bà, cha hoặc mẹ.
    Chữ hiếu là một chất gắn kết ràng buộc chặt chẽ mọi người trong họ.
    Theo tục lệ, người đứng đầu gia đình chịu trách nhiệm về mọi hành động của những người thuộc gia đình mình. Anh phải trông nom em. Trước đây, cha mẹ và anh lớn mà không răn bảo con em có tội thì bị pháp luật trừng phạt. Khi người đứng đầu gia đình phạm một trọng tội, thì các con bị bán làm tôi đòi. Kẻ nào phạm tội phản quốc hay khi quân thì cả nhà đều bị trừng phạt. Đôi khi cả gia đình nhà vợ và nhà mẹ cũng bị kết tội.
    Nhưng, trái lại, pháp luật ngày xưa cũng bảo vệ gia đình. Thí dụ, một người bị tử hình, mà cha mẹ đã già trên 70 tuổi nhưng không có con cái nào khác, thì được đặc xá để có thể nuôi cha mẹ. Khi một người bị đày biệt xứ, thì pháp luật buộc vợ cả cùng các vợ lẽ phải đi theo để không phá vỡ gia đình. Cha mẹ cùng con cái người bị tội muốn đi theo hay không tuỳ ý.
    Để bảo vệ uy tín của gia đình và của người đứng đầu gia đình, pháp luật quy định những luật lệ cực kỳ nghiêm khắc. Thí dụ, kẻ nào đánh đập, chửi rủa, hay tìm cách giết cha mẹ và ông bà, người phụ nữ nào đánh đập, chửi rủa, hay tìm cách giết cha mẹ, ông bà mình hoặc cha mẹ ông bà chồng, thì phải tội chết.
    Pháp luật phạt nhẹ lỗi của người bố mà trừng trị nghiêm khắc lỗi của con trai. Tội giết cha bị phạt lăng trì, và nếu chỉ dự tính giết cha thì bị chém đầu. Trong trường hợp bố giết con, nếu cái chết là kết quả của một sự trừng phạt xứng đáng, thì bị phạt đánh 100 trượng, và nếu đứa con bị giết không có nguyên cớ chính đáng, thì người bố bị phạt thêm một năm khổ sai. Khi đấy là trường hợp đặc biệt một đứa con đã quen thói không phục tùng thì người bố được pháp luật tha tội, không bị kết án.
    Những kẻ được phần di sản khi cha mẹ còn sống mà không nuôi dưỡng cha mẹ già, những kẻ lập gia đình và sống trụy lạc đang lúc có đại tang, đều bị coi là phạm tội bất hiếu.
    Cũng nhờ sự che chở nghiêm ngặt của pháp luật và sự can thiệp mạnh mẽ của phong tục, gia đình đóng một vai trò cực kỳ hệ trọng lượng xã hội. Cá nhân chẳng là gì hết. Cá nhân chỉ là một bộ phận bé nhỏ của gia đình, và dễ bị thu hút vào trong gia đình. Trong tình thế này, cá nhân không biểu lộ nổi các phẩm chất và tình cảm của riêng mình. Người ta bị chìm ngập hoàn toàn trong gia đình.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng từ ít lâu nay, nước Việt Nam, ít nhất là các giới thành thị, đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của châu Âu. Về phương diện kinh tế, với sự phát triển của công nghiệp, nhiều nhà máy được xây dựng tại các thành phố và thu hút vào đấy nhiều người lao động từ trước tới nay chỉ làm việc trong gia đình. Những đàn bà và thiếu nữ trước đây chỉ biết công việc nội trợ và đồng ruộng, bây giờ phải rời bỏ phòng the, bếp núc và làng mạc để đi làm công ăn lương ở các thành thị. Nhiều kẻ đi kiếm cơm tại các vùng mỏ xa xôi trong nội địa hay thậm chí tại Lào. Những kẻ khác di cư vào tận miền Nam để khai khẩn vài mảnh đất, hay đi làm phu trong các đồn điền vùng cao nguyên. Vì thế, đại gia đình tan rã dần dần, và ngày càng nhiều gia đình nhỏ hình thành, sống rất xa trung tâm quê cha đất tổ và phân tán. Trưởng họ không còn kiểm soát được họ. Trong nhiều gia đình, không còn những buổi hội họp lớn như xưa nhân các ngày giỗ những tổ tiên gần. Tệ hơn nữa, trong nhiều giới, gia phả không còn nữa.
    Đồng thời với việc đời sống trở nên đắt đỏ hơn, và tình cảm trở nên tinh tế về quyền của cá nhân, tục đa thê có xu hướng ngày một hiếm đi. Và chúng tôi đã có dịp nói rằng, trong một vài giới, tục này là đối tượng của những lời giễu cợt chính đáng.
    Tại thôn quê, người ta ngày càng quen gửi con cái vào các trường học ở những trung tâm lớn.
    Anh lớn cũng như em nhỏ rời bỏ môi trường của mình từ lúc còn rất ít tuổi, và điều đó diễn ra trong nhiều năm, chỉ ngắt quãng bởi các tháng nghỉ hè ngắn ngủi. Như vậy, uy quyền người bố phát huy ít mạnh hơn xưa nhiều. Từ mấy chục năm nay, có những con cái thậm chí sang Pháp để tiếp tục học tập. Sau những thời gian vắng mặt dài đến bốn, năm năm, đôi khi đến mười hay mười lăm năm, nhiều kẻ ngần ngại không muốn trở về. Một số người sợ lại rơi vào môi trường của mình, vào gia đình mình mà họ hình dung là rất xa họ. Trong một số trường hợp, uy quyền người bố không phát huy được nữa. Khi người sinh viên trở về với một cô vợ từ châu âu, thì biết bao khó khăn nảy sinh trong ngôi nhà tổ tiên. Một số tình huống thậm chí vẫn là nan giải.
    Hơn nữa, với sự phát triển của giáo dục, luân lý và phong tục dần dần chịu ảnh hưởng của các tập quán châu Âu. Có những thanh niên nam nữ biểu lộ nỗi ngờ vực đối với những thiết chế gia đình cũ.
    Nhiều quan niệm về gia đình cũ, như quan niệm về sự tách biệt nam nữ (nam nữ hữu biệt), sự trọng nam khinh nữ trong một vài giới, sự cần thiết có vợ lẽ trong trường hợp vợ chính thất không sinh nở, việc lập người thừa tự, ngay cả hình thức thờ cúng tổ tiên, dưới ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây và của đạo Thiên chúa đã gây ra ở thanh niên những phản ứng khác với các bậc phụ huynh của họ.
    Ngày nay, nhất là tại các thành thị, chúng ta hay thấy vấn đề gia đình được đặt ra dưới dạng trầm trọng và nguy hiểm là đấu tranh giữa cha mẹ và con cái, là sự ly hôn đã thâm nhập vào tập tục và phần lớn do thái độ của các cặp vợ chồng gây ra, việc thanh niên nam và nữ trốn khỏi nhà, những vụ tự sát của con gái và con trai bị cha mẹ ngược đãi hay những người vợ trẻ bị mẹ chồng hành hạ. Báo chí tường thuật luôn luôn những sự việc này, chứng tỏ sự tiến triển rất nhanh của khái niệm gia đình ở Việt Nam. Trong các tiểu thuyết cùng truyện ngắn được xuất bản mấy năm nay, một số lớn nói về những vấn đề đó. Nhiều nhà văn trẻ còn tuyên bó mình là kẻ bảo vệ gia đình mới. Những cuộc tranh luận đôi khi dữ dội đã diễn ra trong công luận nước này. Khắp nơi, ta cảm thấy vai trò đặc biệt nổi bật, mà nhà trường có thể đóng trong sự tiến hoá của gia đình, rường cột và các thiết chế nước ta.

Chia sẻ trang này