Văn trẻ hôm nay Nếu bạn chưa đọc bài này, thì nên đọc. Nếu bạn đã đọc rồi, đọc lại hy vọng cũng không đến nỗi thừa. Post bài viết này của nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn, người post mong rằng sẽ có một cuộc tranh luận vui vẻ và bổ ích quanh chủ đề văn học Việt Nam đương đại. VĂN TRẻ HÔM NAY Nguyễn Thanh Sơn Viết về văn trẻ hôm nay là một cám dỗ. Cám dỗ của lòng tự kiêu ngấm ngầm: được là một người viết trẻ viết về những người viết trẻ. Cám dỗ của những lời kêu gọi đồng hội đồng thuyền, cám dỗ của niềm vui được viết về những cái mới. Viết về văn trẻ hôm nay là một thử thách. Thử thách khi được yêu cầu phải lựa chọn thái độ: một người viết trẻ phải đứng cạnh những người viết trẻ, phải có đôi mắt xanh để ca ngợi những khám phá mới, khẳng định những con đường mới của họ. Thử thách khi lúng túng tìm định nghĩa: thế nào là văn trẻ? Nếu tính theo tuổi thì đúng rồi. Vi Thuỳ Linh mới hai mươi tuổi. Phan Nhiên Hạo, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh và Phan Huyền Thư cùng độ tuổi ba mươi. Không trẻ được như các nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu so sánh ?omặt bằng? thì quả là trẻ. Có điều Octavio Paz nói ?ocác nhà thơ không có tiểu sử. Tác phẩm của họ là tiểu sử của họ đấy? Nếu vậy, một nhà văn trẻ phải là một nhà văn có tác phẩm ?otrẻ?, hay nói cho chính xác hơn, phải có những tác phẩm ?omới?. Nếu xếp theo tiêu chí này, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh và Ngô Tự Lập sẽ là những nhà văn trẻ, tuy tuổi đời của họ rõ ràng khó có thể xếp chung với các nhà văn của lứa tuổi hai mươi, ba mươi. Và biết xếp nhà thơ "trẻ" Nguyễn Quang Thiều vào đâu khi tuổi anh đã tròm trèm năm mươi? Thực vậy, viết về văn trẻ không phải viết về những nhà văn tuổi đời còn trẻ, mà viết về những nhà văn mới xuất hiện và có những tác phẩm thực sự "trẻ". Viết về văn trẻ hôm nay là một nỗi lo âu. Lo âu khi so sánh họ với hai cây cổ thụ trên văn đa`n mười năm trước: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập cũng là những ?ocây cao bóng cả?, nhưng là những cây cao bóng cả của một thời đã qua, do họ chỉ chìm đắm trong những ám ảnh của quá khứ ?o bởi vì là một nỗi đau nên quá khứ còn sống mãi. Và bởi nỗi đau quá khứ còn sống mãi nên về sau ta mới có một quãng đời êm lặng, một nếp sống bình yên, một tư duy thong thả, một tấm lòng khoan thứ và một cảm giác có hậu cùng con người cùng số phận? . Viết về cái hiện tại bằng một bút pháp hiện đại thành công hơn cả, chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, hai người, buồn thay, hay may thay cho các nhà văn trẻ, những năm gần đây hầu như không tái xuất trên văn đa`n. Viết về văn trẻ hôm nay là một niềm hạnh phúc. Hạnh phúc bởi cảm giác rùng mình sung sướng khi ghé vào với Tầng trệt thiên đường của Bùi Hoằng Vị, khi bắt gặp một Phan Nhiên Hạo hiện đại mà giản dị, một Phan Huyền Thư nhiệt thành, một Ngô Tự Lập bí ẩn mà trong sáng. Hạnh phúc nhìn thấy một thế hệ những người viết trẻ đang sáng tạo va` đập vỡ, đang thành công và thất vọng, đang khao khát học hỏi và cũng đang cười nhạo những cú xoa đầu kẻ cả của những nhà văn lớp trước, những người thường gán cái mác "trẻ" cho những tác giả mới để ngầm khẳng định vị trí thua thiệt của họ trên văn đa`n. 1-Hiện đại hóa trong văn xuôi Trong một bài tiểu luận viết cách đây gần năm năm, tôi có đề cập đến những nhà văn của một thế hệ mà tôi tạm gọi là thế hệ hoài nghi: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Trung Chính, Bảo Ninh.... Đó là một thế hệ biết hoài nghi những giá trị đã được định giá trong xã hội và cố gắng tìm kiếm những gì người ta che dấu sau lớp sơn phết của cái gọi là hiện thực. Lớp người viết trẻ ngày hôm nay thuộc về một thế hệ khác, một thế hệ đã không còn lệ thuộc vào quá khứ vàng son của những nhà văn lớp trước. Họ không hoài nghi, mà thản nhiên gạt bỏ. ở họ có những điểm giống như một số nhà văn ở châu Âu sau thế chiến hai, một thế hệ bỏ đi-"bởi những giá trị khiến chúng tôi có thể chết vì nó đã bị bỏ đi mất rồi". Nhưng loại bỏ đồng nghĩa với mất mát. Mặc dù, gọi thế hệ các nhà văn trẻ này là một thế hệ đánh mất cũng chưa đúng. Các nhà văn thế hệ trước có quá khứ: chiến tranh, niềm tin, một nôi văn hóa quen thuộc va` đã được định giá...Kể cả khi họ sụp đổ va` đánh mất niềm tin thì đó cũng chính là quá khứ. Các nhà văn trẻ hôm nay thuộc một thế hệ từ chối quá khứ đã được định sẵn cho họ và khao khát đi tìm một quá khứ khác. Một nhà phê bình tên tuổi cho rằng, vốn văn hóa của các cây bút trẻ quá mỏng để có thể tạo nên những tác phẩm có giá trị. Sự thực chưa hẳn đã ở chỗ đó. Sự thực là hành trang văn hóa của hai thế hệ đã khác nhau, và do không tìm được tiếng nói chung để dung hòa hai hành trang văn hóa đó, thế hệ đi trước thường cảm thấy thất vọng khi di sản văn hóa mà họ có hình như không tìm tới được với những nhà văn lớp sau. Nếu như trước đây, người ta hay trích dẫn Tolstoi, Dostoievski, thì hiện nay, những người đỡ đầu về tư tưởng cho các tác giả trẻ lại là Henry Miller, Nietzsche, Maria Rilke, Sartre, Kafka hay Borges. Một nhân vật của Nguyễn Hữu Hồng Minh trong truyện ngắn Tháo đáy, cảm thấy đau xót nhất khi phải bán những "Người dưng, Dịch hạch của Albert Camus, LaNausee, Bức tường của Sartre, các sách của KoboAbe, Maria Rilke, Shopenhauer, Faulkner" . Không phải ngẫu nhiên mà các tác giả trên không chỉ là những đại văn hào mà còn là những triết gia vĩ đại. Sự khao khát nắm bắt những vấn đề triết học, tìm ra những câu trả lời có thể quân bình tâm thế đang bất ổn vì thiếu niềm tin đã thu hút các nhà văn trẻ tới với các nhà văn-triết gia đó. Tuy vậy, ảnh hưởng đến muộn của triết học hiện sinh đối với các nhà văn trẻ, tiềm ẩn một cái bẫy và một nguy cơ tụt hậu. Bởi vì, những tác giả nêu trên đã, hoặc thành danh ở thế kỷ trước, hoặc đã được trao giải Nobel cách đây có....bốn năm chục năm gì đó! Ba chục năm trước, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, ở lứa tuổi của các nhà văn trẻ hiện giờ, cũng đã từng "say ma` đến đứng ngồi không yên" triết học hiện sinh. Hiếm có nhà văn trẻ nào hiện nay, từ một triết học hiện sinh lý thuyết lại chuyển hóa được thành một triết lý sống của mình, một tư thế dấn thân, nhập cuộc cho tác phẩm của mình. Càng hiếm hơn những tác giả trẻ theo kịp với dòng chảy của văn học và triết học thế giới đương đại, với những Kundera, Salman Rushdie, Gao Xingjiang, Hajin, S.Hawkin, Richard Dawkin, Brian Goodwin...Nhiều người trong chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện về nha` đạo diễn đã mắng xối xả anh chàng diễn viên triệu phú cứ chốc chốc lại rút bao đựng thuốc bằng vàng ra châm lửa hút: "tôi cho phép anh mang hộp đựng thuốc đó vào trường quay la` để anh đút sâu trong túi và yên tâm về giá trị của mình, chứ không phải để anh lôi ra làm le với mọi người và làm hỏng cảnh quay". Một số nhà văn như Bùi Hoằng Vị, Ngô Tự Lập đã đủ bản lĩnh để có cái nhìn nghi ngờ và hơi diễu cợt với những trào lưu triết học đã cũ kỹ đó, trong khi một số nhà văn trẻ khác như Nguyễn Hữu Hồng Minh hay Nguyễn Việt Hà vẫn khiến chúng ta bực mình khi hay bắt gặp trong câu chuyện của họ những đoạn triết lý ngoại đề rất "hiện sinh" cho sang trọng. Tuyết Ngân, trên tờ Văn nghệ trẻ cho rằng "do lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm sống, một số tác giả trẻ cứ lấy luôn cái tôi ra viết cho dễ...hầu như các nhân vật trong truyện ngắn trẻ không có tính cách riêng biệt.... đây cũng là lý do tại sao các nhà văn trẻ không viết được tiểu thuyết ". Thực ra, đem cái tôi ra để viết không phải do "lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm sống", cũng như không phải viết về cái tôi là không thể viết được tiểu thuyết. Nam Cao đã từng viết những truyện ngắn rất hay về cuộc sống của bản thân, còn "Chí tuyến Nam" của Henry Miller là một cuốn tiểu thuyết- tự sự hay nhất mà tôi từng được đọc. Karl Shapiro, trong lời tựa cho cuốn sách, viết " mỗi một từ ông viết ra là một từ của tự truyện, nhưng chỉ trong cái nghĩa như Lá cỏ cũng là tự truyện. Những kỳ tích yêu đương của ông đôi lúc có thể được đọc như của một chàng Casanova ở Brooklyn hay một nam Fanny Hill, nhưng trong đó không có một từ nào phóng đại hoặc bịa đặt. Độc giả có thể và không thể xây dựng lại cuộc đời của Henry Miller từ những cuốn sách của ông, bởi vì Miller không bao giờ dừng lại ở một chủ đề nào lâu hơn Lawrence từng làm" . Bất cập lớn nhất đối với các cây bút trẻ đang tìm đường không phải ở chỗ các nhân vật của họ không có cá tính riêng biệt, mà ở chỗ họ ý thức được phải khai tử cho cách viết truyền thống lấy nhân vật làm trung tâm, nhưng lại chưa sáng tạo được phong cách truyện ngắn (hay tiểu thuyết) hiện đại. Những truyện ngắn của họ vẫn được viết theo cách cũ kỹ, có chuyện mà không có truyện, nói theo cách nói của một nhà phê bình văn học ở hải ngoại. Những dòng chảy một chiều đó, cộng với những triết lý vụn vặt chưa được tiêu hóa kỹ, thường là nguyên nhân chính cho thất bại của những nhà văn trẻ. Vậy thế nào là truyện ngắn (hay tiểu thuyết) hiện đại? Bốn thử nghiệm tôi cho là thành công nhất của văn xuôi thời kỳ qua, một là tập truyện ngắn Tầng trệt thiên đường của Bùi Hoằng Vị, một tập sách chỉ dày có 61 trang in trên giấy xấu, do nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1995 và hầu như chìm trong quên lãng. Thứ hai, là tập Mộng du của Ngô Tự Lập được nhà xuất bản Văn học in năm 1997, thứ ba, là các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương và thứ tư, đó là các truyện ngắn của Đinh Linh. Với sáu truyện ngắn, Bùi Hoằng Vị đã tạo dựng thành công một chuỗi những văn bản đa chiều, đa nghĩa va` đa hình tượng. Chính vì vậy, rất khó có thể tóm lược hay kể lại các truyện ngắn của anh. Chúng không thể giản lược, không thể tóm gọn, cũng không có "nhân vật đặc trưng". Bùi Hoằng Vị đã thành công trong việc đưa người đọc vào một hiện thực bị ngưng đọng, giống như đã bị con dao của nhà văn cắt ra khỏi cuộc sống thực và treo lên tường như một bức tranh lập thể để suy ngẫm. Hiện thực trong các truyện ngắn của anh đã bị biến dạng và mang một tính ước lệ đặc biệt cao. Một hiện thực bị nhốt trong "Phòng bốn giường", "một dạng tồn tại vô nghĩa kinh khủng" của bốn cá thể: "Con hãy mở mắt ra mà xem, ba cái giường kia kìa, - ba người đang nằm đấy. Họ là những con người, thật như đáng gọi, con hãy nhớ thế,- những vai chính diện hiếm hoi, mà hôm nay thì nằm cả ở chỗ này. Đấy, cái giá người ta phải trả cho một trò hề đấy..." . Rõ ràng, một truyện ngắn- suy tư đã được hình thành từ những hỏi đáp của hai mẹ con, chứ không phải của tác giả. Dù mang tính trừu tượng, nhưng những suy tư của họ lại rất giàu hình tượng và mang giọng điệu rất riêng của nhân vật- điều hiếm thấy ở các tác giả trẻ. Một truyện ngắn khác của anh, Cổ tích từ luyện ngục bà, lại là một thứ phản cổ tích được kể bằng một giọng nói đa âm, một giọng tự sự kể chuyện cổ tích cho bản thân: "Luyện ngục là nơi mà thời gian rẻ mạt nhất cháu ạ. Rồi cháu sẽ thấy, nếu cháu của ba` đủ ngoan (nghĩa là không hư quá, đến nỗi phải sa vào cái nơi tồi tệ hơn cả, là Hoả ngục!) Phải, bà nghĩ, cháu cũng khắc thấy thôi, chính là ở cái Luyện Ngục này đây, chứ chẳng đâu khác, mà thời gian được tìm thấy rẻ mạt nhất (hay bảo, người ta được tìm thấy giàu có thời gian nhất, thì cũng thế!)" . Những suy tư- đôi lúc không khỏi cực đoan- về cuộc sống, về sáng tạo, về thế giới- đã tìm thấy những giọng điệu riêng và một kênh "hiện thực" riêng để truyền tải. Mộng du của Ngô Tự Lập cũng là một thử nghiệm rất đạt. Cả tập truyện ngắn là những câu chuyện lẫn lộn giữa hoang đường và sự thật, những câu chuyện nửa kỳ bí nửa hiện đại, là những ghi chép đứt đoạn của một con người sống trong một thế giới tưởng tượng, một vùng Tùng Quảng nào đó không hề có trên bản đồ hàng hải, với những nhân vật thuộc bộ tộc Ducomi, một bộ tộc chắc hẳn cũng là sản phẩm của đầu óc tưởng tượng của tác giả. Những con người đó không hề xa lạ, họ cư xử như thể họ là những người dân của bất kỳ làng chài nào trên lãnh thổ Việt nam, nhưng cái hư ảo của địa phương, của xuất xứ con người họ cho phép tác giả được thoả sức sáng tạo, trộn lẫn các chiều của thời gian, các truyền thuyết. Là một cái tên chết, bằng ngòi bút của mình, Ngô Tự Lập đã khai sinh ra Tùng Quảng, một vùng đất sống động trong các truyện ngắn của anh. Cũng phá bỏ thời gian và không gian tuyến tính, nhưng độ lớn của tiểu thuyết cho phép Nguyễn Bình Phương khai triển nó trên một bình diện rộng hơn. Trong truyện ngắn của Ngô Tự Lập, nhân vật thường sống trong một góc tam giác của thời gian, và khi anh ta tiệm cận cái góc đó, thời gian có cảm giác như quay ngược lại làm anh ta hoang mang, không hiểu điểm mình tồn tại là ở đâu trong vòng tròn khép kín của thời gian luân chuyển. Trong khi đó, nhân vật của Nguyễn Bình Phương trong Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng thường đối mặt với một thời gian nhiều chiều, khi quá khứ, hiện tại và cả tương lai nữa tồn tại cùng nhau trong một cảm giác luân hồi. Các chiều của thời gian chen chúc nhau trong không gian chật chội của nhân vật, của một vùng đất Linh Nham vô hình của người, linh hồn, hiện tại, lịch sử tồn tại bên ngoài một địa danh Linh Nham có thật. Khác với ba tác giả trên, các truyện ngắn của Đinh Linh không hề cố gắng đi tìm những cách biểu thức hiện mới. Truyện của anh thường rất giản dị, cái giản dị đến từ thế kỷ trước với truyện ngắn của O'Henrry hay Jack London. Sức hấp dẫn trong các truyện ngắn của anh là một con mắt mới khi nhìn những sự kiện thường ngày quanh chúng ta. Nhà văn hải ngoại này không ngớt làm chúng ta ngạc nhiên bởi sự giao thoa trong cái nhìn của một người nước ngoài và một người Việt nam trong các tác phẩm của anh. Đinh Linh đã làm được điều mà rất ít tác giả hải ngoại làm được: không gạt bỏ mặc cảm của quá khứ, mà trong anh không hề có mặc cảm của quá khứ; không mô tả hiện thực, mà mô tả con mắt ngây thơ và trong sáng của một thế nhìn mới đối với hiện thực Việt nam. Như vậy, văn xuôi trẻ hiện đại không từ chối hiện thực, nhưng cũng không coi hiện thực là chất liệu độc tôn cho sáng tạo nghệ thuật. Tình trạng bất ổn của niềm tin, của cảm giác hư vô trong tồn tại và sáng tạo, của thân phận con người- khiến họ không thoả mãn với những câu trả lời của hiện thực và phải đi tìm nó trong những thời gian và không gian khác. Không quá chú trọng vào việc xây dựng "nhân vật đặc trưng", họ sáng tạo ra những không gian và thời gian đặc trưng và dõi xem nhân vật của họ sẽ phản ứng ra sao trong những không-thời gian đặc biệt đó. Những thử nghiệm thành công đã nói ở trên chứng tỏ một điều- và ở đây tôi hoàn toàn đồng ý với Tuyết Ngân trên Văn nghệ trẻ , nhà văn trẻ hiện nay đồng thời cũng phải là một nhà tư tưởng, một người dám có những tư tưởng của riêng mình, và dám sáng tạo ra những giá trị mới. Vay mượn các ý tưởng có thể đủ để biến anh thành một nhà văn thời thượng (cái bẫy mà phần lớn các nhà văn trẻ hiện nay chưa rút chân ra được), nhưng để trở thành một nhà văn đích thực, anh phải không ngừng hoài nghi, so sánh những thang giá trị của riêng anh đối với những ý tưởng đó. Chỉ khi đã hoàn toàn chinh phục được các ý tưởng- những con ngựa bất kham ấy, anh mới nên thắng cương chúng vào cỗ xe- tác phẩm và xem chúng sẽ lướt đi ra sao trên con đường chông gai của sáng tạo. 2-Thơ trẻ- một khao khát thay đổi chưa mấy thành công Khác với trong văn xuôi, nơi mà những cố gắng hiện đại hóa diễn ra một cách âm thầm hơn, và trên một bình diện nào đó, thành công hơn, những nỗ lực đổi mới trong thơ diễn ra một cách ồn ào hơn, nhưng lại chưa mấy thành công. Có thể coi Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quốc Chánh là những người nhiệt thành nhất với những nỗ lực này. Mặc dù vậy, trong thơ, cũng có sẵn những cái bẫy dành cho các nhà thơ trẻ khao khát thay đổi. Một trong những cái bẫy đầu tiên là ảnh hưởng của những sáng tác mở đường của Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Lê Đạt, Hoàng Hưng...những người cũng không mấy may mắn trong khao khát đổi mới thơ. Khi Phan Huyền Thư viết "Chích choè lửa ngửa cổ thơ thơ không lửa đốt giọng thành kẻ khác" (Không thường) "Con dế thất tình vấp phải giọt sương Chiến binh Thạch sùng tặc lưỡi uống đêm" ( Men theo mùa hạ) hay Văn Cầm Hải "gió chiêm bao leo lét mắt tre" (Miền phù thủy) thì những vần liên tiếp của họ "lửa ngửa cổ thơ", "leo lét mắt tre" không xa lạ bao nhiêu với những "Máy kéo gặm xứ đồng tơ ơ cỏ Nghé sắt buồn lưng sáo đá lon xon" hay " bầy em én tin xuân tròn mẩy áo" trong Sông quê của Lê Đạt hoặc " giếng ngọc ễng ương quát đêm tiền sử" hay "Ta con chim cu về gù rặng tre đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng" trong Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm. Nhưng "đổi mới" của các nhà thơ lớp trước, du` đã rất cố gắng, vẫn chỉ là những nỗ lực cải tiến kỹ thuật. Sáng tác của họ nuôi dưỡng một ảo tưởng nguy hiểm đối với các nhà thơ trẻ: đổi mới thơ ca có nghĩa la` đổi mới câu chữ, và làm thơ có nghĩa là làm chữ. Chính vì vậy, họ sáng tác thơ văn xuôi, cố gắng triệt tiêu vần trong thơ, viết không dấu, ******** làm tội các câu thơ bằng những cú hẫng xuống dòng đột ngột, bằng những biểu tượng và liên tưởng thơ hết sức mới lạ: "Trong mắt tôi không điểm danh sự hiện diện của cây của thú của người và của cả đường chân trời hách dịch Trong mắt tôi chỉ những khoảng cách những tầng lệch những góc tối những hộp đen những loèng quèng những ám" (Nguyễn Quốc Chánh- Khí hậu đồ vật-NXB Trẻ- tr.17) Những thử nghiệm như vậy có thể gặp ở bất cứ tập thơ nào của các cây bút thơ trẻ đã nói tới ở trên. Một mặt, chúng ta phải thông cảm và hoan nghênh những "viên đá lát đường", những người đã dám đi tiên phong trong những thử nghiệm không thành công để tạo đa` cho những sáng tạo khác của tương lai. Mặt khác, chúng ta cũng nên nhận thấy những thử nghiệm như vậy nhiều phần đi vào ngõ cụt, mà cái chính, là do thái độ cực đoan đến bảo thủ của họ. Cái bẫy thứ hai đổi với các nhà thơ trẻ, đó là việc khai thác qua đa` ********, khái niệm taboo đối với những nhà văn lớp trước. Sự khai thác thái quá của họ, đôi khi, ẩn chứa ý nghĩa thách thức thế hệ trước. Chính vì mang sắc thái thách thức như vậy, nên họ không tính đến tính hiệu quả của những vú, những trần truồng, những ngực có thực cần thiết trong câu thơ hay không. Những hình ảnh đấy không còn là tiếng nói của cơ thể, của bản năng, mà là tiếng nói của lý trí khoác bộ áo choàng ********. Khi Vi Thùy Linh viết : "Mẹ viết truyện cổ tích cho con khi đang trên dàn lửa hiến tế ham muốn được gần cha Khi đôi môi cha chưa mọc trên mẹ, mẹ vẫn ước có con vào mùa cha gặp mẹ Chỉ có cha và con là thiêng liêng; kiến tạo cuộc đời đàn bà của mẹ (Những mặt trời đang phôi thai - Linh) thì "ham muốn được gần cha" là thật, nhưng "dàn lửa hiến tế " là khoa trương, hay "cha và con là thiêng liêng" thì được (tuy không mới), nhưng "kiến tạo cuộc đời đàn bà của mẹ" thì vừa không mới vừa đại ngôn; hay khi Phan Huyền Thư viết : "Gót chân hồng lanh canh tiếng cười bi ve ôm mặt trời nhồi bông mơ mẹ Bên kia bến ngủ ngượng ngùng giấu con khát vọng mẹ thanh xuân thao thức" (Lập Dzuy) thì hay, nhưng cũng chính chị, viết "Những con ve tâm thần gào xước mặt trưa He` đồng tính lang thang" (Không thường) thì lại là làm chữ. Cái bẫy thứ ba đối với các nhà thơ trẻ, đó là sự hiểu biết chưa toàn diện của họ về chữ hiện đại. Phan Huyền Thư cho rằng, cái bệnh lớn nhất trong những người làm thơ trẻ là "sự tự ti về những tự do giả tạo trong tư tưởng của họ. Họ cứ tự đặt ra một ông thày giáo tự chấm điểm mình, tự đa`o tạo cho mình một kiểu cách tân...để đi thi học sinh giỏi quốc tế". Những cách tân của họ tạo thành những thứ mà Phan Nhiên Hạo gọi là "những lập dị ngây ngô". Trong diễn từ nhận giải Nobel của mình, Octavio Paz đã viết rất hay về chủ nghĩa hiện đại của ông: ?oNhiều lần tôi đánh mất mình và lại tìm thấy mình trong cuộc phiêu du đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện tại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời đại cổ nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, giũ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua của sổ nó biến mất. Thời hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc của các thời đại, của các sự hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại một quá khứ ngàn năm? . Những nỗ lực gạt bỏ một quá khứ bị áp đặt chỉ là một nửa- nửa đầu tiên và dễ dàng nhất của quá trình hiện đại hóa, nửa kia sẽ phụ thuộc vào việc sáng tạo ra những giá trị mới- và một giá trị mới không bao giờ có thể có từ một con số không. Quá trình thanh lọc một quá khứ bị áp đặt thành một quá khứ của mình, trên một bình diện nào đó, cũng là quá trình sáng tạo ra những giá trị hiện đại. Khi nào cái "quá khứ ngàn năm" kết hợp được với một hiện tại tức thời, các nhà thơ trẻ sẽ cho ra đời được những câu thơ hay và trong trẻo: "Tôi chỉ là chim sâu nhỏ nhoi giọng hát giữ dân tộc hay hát tự thuyết minh cho đồng lúa, rừng hoang, người thổ dân vui ca hành trình vượt qua giai đoạn thành kiến nhớ buổi sinh tiền cơn hát gió con số không vô tình thời đại đeo ngón tay áp út níu ngọn nắng xanh hơn khi về với đất cái nhìn nguyên thể gọi miền phủ định bông hoa cỡi trần cánh tặng tôi hương ảo giác đỏ hồng nhũ hoa bầy mưa thôi nôi, âm thanh kêu xé hai hàm răng thanh lịch thời không cần nhạc đệm em vẫn sinh ra trữ tình như không tôi trở thành siêu sao đá mắt trời vào gôn hư vô bắt gặp câu hát lạ vận nâu sồng viếng chùa!" (Giọng hát của gió- Văn Cầm Hải) Thơ trẻ vì vậy, mặc dù quẫy đạp rất mạnh, nhưng hãy còn đang rất bối rối. Những thao tác thuần túy kỹ thuật như xếp các danh từ trái nghĩa sát cạnh nhau, đặt mới các tính từ, câu thơ dài thê thướt...không giúp ích bao nhiêu cho việc đổi mới thơ, cho dù người ta có quảng cáo cho nó bao nhiêu đi nữa. Nhà văn Hồ Anh Thái đã có lần đùa cợt và sáng tác ứng khẩu "tại chỗ" một bài thơ như vậy: "Những người đàn bà song song đi hàng một ra cánh đồng bát ngát hạn hẹp tầm nhìn /Họ là những người trong trắng dâm ô buớc thấp bước cao trên bờ ruộng gập gềnh bằng phẳng / Họ cùng nhau khóc òa cười khanh khách mơ về một mùa bội thu xơ xác lúa trên cánh đồng". Nếu đổi mới thơ chỉ là sắp xếp ngược lại những giá trị cũ thì từ một sự đơn điệu ở cực này, chúng ta lại tiến tới một sự đơn điệu ở cực khác. Cái chính là, một tinh thần mới cho thơ, nhiều nhà thơ trẻ lại chưa có. Một tinh thần mới cho thơ đòi hỏi một cái nhìn mới đối với thực tại. Một nhà thơ trẻ cho rằng, điểm ưu việt hơn cả của các nhà thơ mới là sự tự do trong việc lựa chọn đề tài. Một nhà thơ trẻ, khi cầm bút, chủ yếu diễn dịch những gì có trong họ vào thời khắc đó bằng hình ảnh và ngôn ngữ thơ, chứ họ không có sẵn những đề tài mà họ định khai thác. Chính vì vậy, thơ của họ luôn luôn có những khoảng vượt- vượt khỏi thời gian, vượt khỏi không gian. Do bản chất hàm ngôn và cô đọng của mình, tính đồng hiện trong thơ có thể được dồn nén mạnh hơn trong văn xuôi rất nhiều. Có khi hai câu thơ đứng rất gần nhau nhưng lại gợi nên những khoảng thời gian rất khác biệt. Quay lại với bài thơ đã dẫn của Văn Cầm Hải, bài Giọng hát của gió: "vượt qua giai đoạn thành kiến nhớ buổi sinh tiền cơn hát gió con số không vô tình thời đại đeo ngón tay áp út níu ngọn nắng xanh hơn khi về với đất" thì cái hay của nó chính là nhịp lên của một câu thơ sáu chữ rất "khẩu hiệu" và hiện đại như "vượt qua giai đoạn thành kiến", được đột ngột hạ xuống tương phản với một câu thơ bốn chữ cũ "nhớ buổi sinh tiền", rồi lại hất lên rồi để buông rơi ở một câu thơ chỉ có ba chữ lơ lửng " cơn hát gió"...Hay như khi Phan Nhiên Hạo viết "Khi còn bé tôi đã nhổ nước bọt vào bàn tay ngửa ra của một người mù Bây giờ tôi phải làm gì trong mùa thu? " (Bài mùa thu) thì giữa câu thứ nhất và thứ hai đã khoảng trống của cả một đời người. Từ một thế nhìn mới đối với thực tại., tinh thần mới cho thơ đòi hỏi những hình tượng thơ mới. Cũng Phan Nhiên Hạo, khi viết : "Chúng ta sống trong những chiếc tàu ngầm dị dạng săn đuổi bí mật và sự tăm tối của đại dương cuộc hải hành đến những chân trời bằng nhựa dẻo ... Có lần tôi đã ở chỗ đường xích đạo cố gắng cắt trái đất làm đôi dọc theo đường đánh dấu nhưng có người giữ tay tôi lại và bảo: ?oNếu bạn làm thế, nước sẽ rơi ra ngoài khoảng không, và rồi con tàu của chúng ta, sẽ không còn chỗ nào để lặn.? (Trong những chiếc tầu ngầm) thì không có bất cứ một cách tân nào về mặt ngôn ngữ, nhưng lại tạo thành một tình huống phi lý rất "thơ" và rất dễ khiến người đọc bị rúng động. Tiếc thay, những nhà thơ có được tinh thần mới cho thơ như vậy chưa nhiều. **** Để kết thúc một bài viết về văn trẻ, không gì dễ bằng những khẳng định chung chung, như "họ đang trên con đường định hình và tìm tòi" hay "họ đang khẳng định mình". Trong những tác giả mới hôm nay, có người ngay khi xuất hiện đã xứng đáng được gọi là một nhà văn, có những tác phẩm ngay khi ra đời đã trở thành tác phẩm cổ điển. Có những người còn đang vùng vẫy trong những bất cập của chính họ và thế hệ họ, nhưng những bất cập ấy không phải không thể vượt thoát. Chính vì thế mà họ vẫn gieo vào lòng chúng ta hi vọng về một thế hệ nhà văn không những mới, mà còn khác. Các nhà văn mới hãy còn nhẫn nhịn với cái mác "nhà văn trẻ" mà các nhà văn "chiếu trên" gán cho họ suốt hàng chục năm, nhưng những sáng tác thành công của họ sẽ buộc thế hệ trước phải thay đổi cách nhìn của mình với thế giới, với cuộc sống, với bản thân, ném họ khỏi những giá tựa giáo điều. Và rồi sẽ đến lúc, nói như Eistein, một thế hệ sau nữa lại nhìn thấy những bất cập của thế hệ này, và một lần nữa, thế giới lại biến đổi trong con mắt nhân loại... ?o Này gương kia, ta muốn biết trí tuệ của ta, Thưa cô, cô thông minh hơn nhiều, so với tuổi? Biết viết gì về một tập thơ khi nó đã được xuất bản... Viết rằng nó khá dài, và có vẻ vô cùng thông minh...2 Borges, trong một buổi nói chuyện với các nhà thơ trẻ, có trích dẫn một câu của Oscar Wilde, một câu mà ông nói có tính chất tiên tri- ?onếu không có thơ vần, tất cả chúng ta đều là thiên tài?. Làm rõ thêm một chút ý của ông già nhà văn mù loà xứ Achentina, người nhiệt thành khuyên các nhà thơ trẻ ?otrước khi muốn phá luật thì phải học luật đã?: thơ có vần là phép thử của tài năng. Không có gì dễ bộc lộ sự bất tài bằng một bài thơ đúng niêm luật mà chán ngắt. Bây giờ, hãy thử nhìn nhận ý kiến của Oscar Wilde ở một khía cạnh khác, khía cạnh mà, khác với bản tính thẳng thắn của người châu Mỹ Latinh, Borges đã ý nhị im lặng trong buổi nói chuyện đó: thơ không vần là cái cách dễ nhất che dấu sự bất tài của mình Một bài thơ không vần, dù có chán ngắt, cũng không làm chúng ta bực bội như một bài thơ có vần. Những người núp bóng thể thơ tự do thừa biết ưu thế của họ: con người dễ chấp nhận một bài thơ dài và lủng củng như một đoạn văn xuôi ý nghĩa mù mờ. Và vì thế, chúng ta có thể thờ ơ bỏ qua nó chứ không nhọc công bực bội. Thơ không vần, trong cái cấu trúc tự do mà nó tự đặt ra cho mình, còn là một bộ quần áo của hoàng đế: ai cũng sợ bản chất ngu độn của mình đã bỏ mất cơ may nhìn thấy con kỳ lân3, do vậy, trước một bài thơ không vần, im lặng không phải là đỉnh cao của âm thanh, mà là đỉnh cao của sự thông minh. Linh- tập thơ của Vi Thuỳ Linh, một tác giả mới hai mươi tuổi, đã tự lựa chọn cho mình con đường dễ dàng nhất, và cũng khó khăn nhất của một nhà thơ trẻ: bốn mươi bài thơ tự do, rất mới, rất ?ocách tân?- theo như nhận xét của đông đảo công chúng yêu thơ và các nhà thơ, các nhà phê bình. Vậy viết gì về một tập thơ ?ocâu nào cũng hàm ngôn?4 một tập thơ thông minh như vậy...! Thông minh? Liệu thông minh có là cái đích của một tập thơ? Tại sao tôi cứ mãi băn khoăn, cái gì là cái khác nhau lớn nhất giữa nàh hiền triết và một kẻ tự cho mình thông minh? Câu trả lời có lẽ là: nhà hiền triết bao giờ cũng tin những gì mình đang nói ai cũng biết, bởi vậy, không chỉ có ngôn ngữ của ông ta giản dị dễ hiểu, mà giọng điệu của ông ta bao giờ cũng có một chút hài hước nhẹ nhàng. Kẻ tự cho mình thông minh tin rằng, những điều mình đang nói chỉ duy nhất có một mình biết, vì vậy ngôn ngữ của hắn vừa to tát vừa rối rắm, giọng điệu của hắn vừa cao ngạo vừa trống rỗng. Tập thơ của Linh, mới chỉ đọc mười bài thơ đầu, đã thấy dày đặc những ngôn từ to tát, những huyễn hoặc, kính động, cực đại, khuếch tán, phi thường, hợp nhất, trầm cảm, khủng hoảng, bạo động, tối khẩn, huỷ diệt... Nếu ví nhà thơ như một người thợ gốm, và bài thơ như chiếc bình, Linh- cũng giống như nhiều nhà thơ trẻ tuổi khác, những người luôn muốn mô tả tình cảm trong cái cực đại của nó, và không thể chờ đợi để tìm ra những từ ngữ thích đáng- đã chẳng mấy bận tâm đến việc giữ cho lửa đều, mà chỉ chăm chăm đốt lửa trong lò thật bốc. Và vì thế, không nên ngạc nhiên khi mở những chiếc bao thơi, thay vì chiếc bình với chất men mịn màng, ta lại thấy những mảnh vụn méo mó của những câu thơ quá lửa. Không phải một rừng biểu tượng, trên các bài thơ của Linh là một rừng khẩu hiệu. Thơ của Linh đầy chất cách tân- bà đỡ của nhà trẻ, những nhà thơ quá lứa đang sốt ruột chờ phiên đổi gác nói thế. Đối với tôi, ?ohàng triệu người điên lên theo mãnh lực phần mềm Microsoft. Những tâm hồn đang được mã hoá với nhịp điệu sống lập trình. Ngày đêm, những nơron thần kinh căng cứng cập nhật dữ liệu. Con người không ngây thơ, không nhiều mơ ước và mất dần lãng mạn. Màu dollar sắp nhuộm cả da trời?5 không thể gọi là cách tân. Dù rằng ngôn ngữ có vẻ hiện đại, chất đầy những phần mềm, cập nhật, mã hoá, nhưng không vì thế mà rõ ràng hơn, và nhất là, hay hơn. Có thể cực đoan, nhưng tôi từ chối gọi những dòng trên là thơ. Có người an ủi tôi rằng, đôi khi, do những may mắn tình cờ, những chiếc bình quí nhất thường được những người thợ gốm làm ra trong những mẻ lò không có gì chung với ý niệm người ta thường có về sự tính toán. ?oThơ phải cực đoan?- họ nói vậy. Làm thơ phải trông chờ vào sự may rủi, (poetry is given to the poet- thơ ca được trao cho thi sĩ), và không thể không công nhận, trong sự may rủi, đôi lúc Linh cũng có những câu thơ hay, nhất là khi viết về mình, hay về những suy tư táo bạo của một cô bé đang tưởng tượng mình đang trở thành thiếu phụ: ?oCái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn chân em Làm thế giới hoá lỏng Em như bông lúa chín?6 hoặc ?oAnh hiện diện bên em sau giấc mơ vừa nhấc cánh Cùng mùi thịt da...?7 hay cuồng nhiệt hơn ?oEm vén áo lên để cho anh tràn tinh khôi và mãnh liệt?8 đáng tiếc, ngay sau đó, mẫn cảm phụ nữ tinh tế của cô lại nhường chỗ cho đầu óc thông minh của những luận đề vô nghĩa: ?oHiện thực không thoả thuận với sắp đặt chủ quan Tôi biến mình thành cái motor, một robot, bằng cơ chế điều khiển Vẫn phải làm việc và rời xa mình (Chúng ta ngày càng rời xa mình) Bèn duy trì hứng khởi bằng lãng mạn, tưởng tượng bất ngờ Cả loài người ngộ nhận tham vọng vật chất?9 Mâu thuẫn lớn nhất của Linh và đồng thời cũng là hạn chế lớn nhất của cô, nằm ở cái cách cô tập làm người lớn. Linh ?ogià hơn nhiều , so với tuổi?, nhưng đáng lẽ tin tưởng vào sự già dặn trẻ trung của thơ mình, cô lại không vững tin để đến độ luôn luôn phải khoác cho mình chiếc mặt nạ của một thiếu phụ cô độc, một con người đã biết tất cả, và do vậy, mọi lời nói phải hàm ngôn.? Câu nào cũng hàm ngôn?10...! Hàm ngôn, ai đó sẽ tranh luận, là đặc điểm không thể thiếu được của thơ ca. Không thể tưởng tượng thơ ca nếu thiếu những ý tại ngôn ngoại, những liên tưởng bí ẩn, những mối dây mơ hồ dễ cảm nhận mà lại khó diễn giải. Nhưng mặc cảm chưa trở thành người lớn khiến hàm ngôn của Linh chỉ bao gồm những câu nói cố làm cho tối nghĩa, những từ- gạch- nối bất tận và vô lý như những từ in đậm trong tạp chí Thế giới Phụ nữ, tỷ như: vũ- trụ- sơ- sinh, có- phải- tôi- đấy- không, để- biết- mình- đang- sống, triệt- tiêu- nỗi- khổ...vv. Nếu xếp những câu thơ đó bên cạnh những câu thơ tuổi xanh như: ?oTôi như ổi chín Với đôi mắt ccủa Mecghi đăm đắm nhìn cha Ran?11 (lại cha Ran!), chúng ta sẽ có một món nộm- thơ nhạt nhẽo. Vậy, biết viết gì về một tập thơ của một nhà thơ khi nó đã được xuất bản. Viết rằng cô còn rất trẻ, và có vẻ vô cùng thông minh... Tôi cũng rất mong được nhẹ12, mong rằng mình không phải phi ngựa xéo lên mạ non13 nhưng chính vì nghĩ về Linh như một nhà thơ- không có những tính từ (trẻ, phụ nữ) đi kèm- tính từ, như chúng ta đều biết, luôn giả dối, nó chỉ là cái cách người ta che đậy cho việc không tìm ra một danh từ đắc địa và đúng nghĩa- nên tôi nghĩ, tác giả nên mau chóng vượt qua giai đoạn đại ngôn của tập thơ này, lắng lòng mình lại hơn, chăm chút cho từ ngữ hơn để có thể có được những vần thơ chân thành và có giá trị. Hà nội 15.2.2001 Linh- thơ Vi Thuỳ Linh- NXB Thanh niên 2000. Thằn lằn trắng-tr 16 2 ?oBiết kể gì về một người con gái khi nàng đã chết. Kể rằng nàng đẹp. Và vô cùng thông minh. Nàng yêu Moza, yêu Bach, yêu nhóm Beatles...? ( Câu chuyện tình yêu- Erich Segan) 3 Có một chuyện ngụ ngôn mà Borges rất thích và được ông nhắc tới nhiều lần trong các tiểu luận của mình, đó là câu chuyện của Hàn Dũ ông tìm được trong cuốn Anthologie raisonnée de la litérature chinoise của Margaulies: câu chuyện về con kỳ lân. Ai cũng biết con kỳ lân là con vật thiêng mang điềm lành, nhưng không ai trong chúng ta biết mặt mũi nó thế nào, vì thế, hoàn toàn có khả năng một lúc nào đó chúng ta đã thấy nó lướt qua trước mặt mà hoàn toàn không biết nó là con kỳ lân. 4 Chân dung- tr 6. Linh- đã dẫn 5 Thế giới hiện hữu- Linh- tr. 27- đã dẫn 6 Sinh ngày 4 tháng 4- Linh- tr.14- đã dẫn 7 Một ngày chưa có trong sự thật- Linh- tr.78- đã dẫn 8 Và chúng ta bắt đầu một cuộc sống khác- Linh- trang 77- đã dẫn 9 Một ngày chưa có trong sự thật- Linh- tr79- đã dẫn 10 Chân dung- tr 6. Linh- đã dẫn 11 Mùa đông cuối cùng- tr.44- Linh- đã dẫn 12 Chữ dùng của nhà thơ Thường Quán 13 Chữ của Lỗ Tấn Goldmund
Trongf lúc vội vã post bài cống hiến cho TTVN, người post đã post nhầm cả bài viết cũng của Nguyễn Thanh Sơn về Vi Thuỳ Linh vào phần cuối , đã định sửa nhưng forum báo lỗi không sửa được. Mong các bác lương thứ đọc luôn cả bài này!!! Goldmund
Bài "Văn trẻ" này bác Sơn viết đã từ lâu lắm rồi. Dạo trước không thấy mấy người phỏo biến, sao dạo này tự nhiên đi đâu trên Internet cũng thấy thế các bác nhẩy... Mà bác Sơn chê VTL ghê thé, em thấy đâu có đến nỗi. BE YOUR SELF AS THOSE WHO MATTER DONT CARE AND THOSE WHO CARE DONT MATTER