1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn xuôi của những người nổi tiếng không phải vì văn xuôi

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Julian, 02/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    NGUYỄN ÁI QUỐC
    LỜI THAN VÃN CỦA BÀ TRƯNG TRẮC ( I )
    "Thật là nhục nhã thậm tệ, thật là chán ngán ghê gớm, thật là cay đắng ê chề xiết bao cho các vị, nếu từ những tầng mây, tổ tiên mi phải trông thấy dân tộc mà các vị đã giành được tự do nay chịu phận nô lệ, đất nước đã được các vị giải thoát nay lâm vào cảnh nô dịch, kẻ kế tục ngai vàng của các vị nay sống trong ươn hèn.
    "Mặc dầu lễ nghi không cho phép các vị nguyên thủ nước ta rời khỏi cung cấm, thế nhưng chúng ta vẫn phải đau buồn nhận thấy rằng vẫn có những bậc quân trưởng phải lưu vong.
    "Năm 14071, Tàu (phong kiến) đánh nhau với ta; nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng. Chinh chiến lúc đó thế là lại bắt đầu. Giặc biết rằng không khuất phục được ta bằng uy lực, đã dùng chiến tranh hao mòn. Trần Đế Quỹ2 đã lãnh đạo dân Nam đoạt được thắng lợi, sau thấy dân cùng kiệt, đói khát, máu đổ xương rơi. Ông biết rằng giặc chỉ muốn hại mình ông, và chúng bắt được ông rồi thì dân Nam sẽ được yên ổn. Vì vậy ông ra nộp mình; ông nộp mình để dân ông đỡ hao tổn sinh linh; xương máu. Bị cầm tù giải đi, ông nhảy xuống sông tự tử. Ông thà chết vinh chứ không sống nhục. Ngày nay, mỗi buổi mặt trời mọc lên lặn xuống, muôn nghìn ánh hào quang vàng óng quây trên dòng dông trong nước bạc long lanh, tạo nên đài kỷ niệm vĩnh cửu cho linh hồn bất diệt của con người chiến bại vĩ đại đó.
    --------------------------------------------------------------------------------

    1. Cuộc xâm lược của nhà Minh bắt đầu năm 1406.
    2. Trần Đế Quỹ (tức Trần Quỹ hay Trần Ngỗi) đã cùng Trần Quý Khoáng, cũng là dòng dõi nhà Trần, nối tiếp nhau lãnh đạo kháng chiến chống quân Minh từ năm 1407 đến năm 1414. Cả hai lần lượt bị bắt. Trần Ngỗi đã bị giết và Trần Quý Khoáng đã nhảy xuống sông tự tử.
    Tác giả đã dựa vào tình hình hiểu biết của sử học khoảng nửa thế kỷ trước đây để biểu dương lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc kiên cường của nhân dân ta. Một số điểm gần đây mới được ghi chép chính xác, nhưng về căn bản tác giả đã nêu một tấm gương vận dụng nhuần nhuyễn lịch sử trong giáo dục tư tưởng và đấu tranh chính trị.

    --------------------------------------------------------------------------------

    ...........
    "Tiếp đó là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân - người ở ngôi ngay trước mi. Chính những kẻ xưng xưng là tôn trọng phong tục, luật lệ nước ta đã đày ải ba vị và mai đây sẽ dùng mi làm món đồ rao hàng thuộc địa, cổ động đế quốc. Có thấy không, con! Chẳng thể bao giờ trong niên giám nước mi lại có một vua Nam nào chịu làm tôi tớ đến như mi, lại có một cuộc ngự giá tuần du nào thảm hại đến mức này. Trước đây, mi đã từng phạm tội báng bổ là bệ lên bàn thờ linh thiêng của ông vải hình ảnh ghê tởm của thằng da trắng ngái ngủ và bụng phệ nọ, nó sặc lên mùi tỏi, ớn mùi thây ma. Tại sao, ừ, tại sao mi lại làm thế? Nay mi lại sắp lần xa tôn miếu. Tay mi sẽ không thắp hương vào những tiết đầu xuân, đầu thu nữa. Mi sẽ không tự tay mó hương án dâng hoa quả đầu mùa và cúng cơm mới nữa. Vẫn hay, con ạ! Rằng tất cả những cái ấy chẳng qua đều là nghi lễ cổ hủ; nhưng mi cũng thừa biết rằng chỉ còn độc nghĩa vụ đó là mi còn làm được với tổ tiên và mi cũng chỉ còn độc cái uy tín đó mà thôi trước mắt thần dân.
    "Giờ thì mi lại sắp làm tệ hại hơn nữa. Mi sắp ca ngợi công đức của những đứa bóc lột và hiếp đáp dân mi. Mi sắp phô trương sự thịnh vượng của đất nước mi, cái thịnh vượng được sắp đặt đâu ra đấy trong trí tưởng tượng quá giàu của bọn bóc lột. Mi sắp tâng bốc công ơn vô ngần và tưởng tượng của nền văn minh đã thâm nhập sơn hà xã tắc của mi bằng mũi nhọn của lưỡi lê và bằng họng súng ca nông.
    "Ôi, nhìn, hãy nhìn nào, đứa con thảm thương kia ơi! Hãy nhìn quanh mi! Thấy chăng Trung Hoa đang thức tỉnh, Nhật Bản đang duy tân...? Thấy chăng toàn cầu đang tiến, chỉ có dân mi là, nhờ mi và lũ quan thượng của mi, cứ phải chìm ngập mãi trong vũng lầy dốt nát và tôi đòi khốn nạn?
    "Hãy nhìn Triều Tiên, Ai Cập và ấn Độ, tất cả các nước đó đều đang đứng lên đòi hỏi quyền lợi, công lý và tự do!
    "Chính giữa lúc đó thì mi... Im... Nghe kìa! Nghe thấy chăng... Nghe thấy chăng những tiếng kêu gào...? A! Người ta đến kia kìa, đông quá, tất cả những người dân nước Nam đã bị thiệt mạng cho cuộc chiến tranh ở Châu Âu. Người ta đến đòi những gì mà bọn quan thày mi đã cùng mi hứa hẹn với người ta, anh em người ta. Trả lời người ta đi nào! A! Người ta giận dữ, người ta bỏ đi.
    "Bây giờ thì người ta quay lưng đi rồi, người ta đang đi đến phía đằng kia. Có thấy người ta không? Đằng kia ấy, nơi mặt trời đang mọc huy hoàng khôn xiết, nơi tung bay kiêu hãnh lá cờ Nhân đạo và Lao động. Đấy! chính đấy là nơi yên nghỉ tâm linh những người đã khuất, là tương lai của dân tộc mà mi đã phụng sự chẳng ra gì!
    "Gà sắp gáy sáng. Sao Bắc đẩu tiến ngang trời. Nhạc tiên đang giục giã ta. Thôi, chào!".
    Mồ hôi nhớp nháp đẫm trán vị chúa thượng đang ngủ. Ngài muốn kêu lên. Nhưng không kêu được. Lưỡi ngài líu lại vì sợ.
    Một quan hoạn bước vào, khom khom cái lưng ba lần, rồi the thé cái giọng đàn bà:
    - Ngai Dưới1! Đã có lệnh lên đường của Toà Khâm truyền sang rồi đấy ạ!
    Nguyễn ái Quốc.
    Báo Nhân đạo (L'Humanité) Ngày 24 - 6 - 1922
    --------------------------------------------------------------------------------

    1. Chơi chữ, do dịch sát từng chữ từ Bệ hạ sang tiếng Pháp. Hạ: dưới là "sous", mà "sous" thì lại cũng có nghĩa là xu. Vậy ở đây có thể hiểu Ngai Dưới, cũng có thể hiểu Ngai Xu... Chỉ chuyển được phần nào ý đùa và châm chọc nhiều mặt sang bản dịch tiếng Việt.

    Lovetolive[/size=18]
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    CON NGƯỜI BIẾT MÙI HUN KHÓI
    NGUYỄN ÁI QUỐC
    Xin tặng Na-hông1, người đã bị quân phiệt thực dân ám hại, bài ký này.
    "Chính cuộc chinh phục hệ thống thuộc địa đã rèn luyện tài năng chiến đấu của số đông những nhà chỉ huy quân sự lớn của ta, những con người đã đưa ta đến chiến thắng, đã được dư luận Pháp ca ngợi vinh quang và chiến công ngay khi mang lá cờ nước ta đến dưới những bầu trời Phi - á".
    An-be xa-rô
    Thượng thư Thuộc địa
    Ha-u-xa2, tháng giêng năm 1998.
    Thành phố Ha-u-xa cờ xí tưng bừng. Tưởng đâu như một vị chúa xuân đã gõ cây đũa thần lên gỗ ván khô khốc ở các bao lơn và các cửa sổ, làm mọc ra muôn vàn tấm lá đỏ phấp phới yêu kiều trước gió. Đây là lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Cộng hoà liên hiệp Phi. Chưa bao giờ dân chúng lại tham gia với mức độ ấy những hội hè loại này. Từ sáng sớm, các đường phố, các quảng trường y như một dòng sông người. Từng đoàn học sinh, giương cờ đi đầu, vừa diễu qua các phố vừa hát Quốc tế ca, được dân chúng vỗ tay hoan nghênh. Trên quảng trường Xô Viết, một cụ già hô hào đám đông. Đó là cố Ki-men-gô, mệnh danh là Con người biết mùi hun khói.
    --------------------------------------------------------------------------------

    1. Na-hông là một người lính thuộc địa bị một tên quan ba Pháp giết hại năm 1922 ở miền đông Ma-rốc. Tác giả đã tố cáo sự việc này trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp.
    2. Ha-u-xa là tên một tộc người ở Tây Phi. ở đây, tác giả lấy tên đó đặt cho tên một thành phố tưởng tượng của châu Phi độc lập và thống nhất tương lai.

    --------------------------------------------------------------------------------

    Cụ Ki-men-gô, tuổi đã chín mươi, là một cựu chiến sĩ của quân đội cách mạng, một trong những người sáng lập Cộng hoà da đen. Được phú bẩm một trí thông minh đặc biệt sắc sảo, lại am hiểu tường tận mọi sự kiện chính trị và xã hội của thời đại, cụ Ki-men-gô không những đã ra sức thức tỉnh anh em cùng màu da ra khỏi giấc ngủ mê say của con người nô lệ, mà còn cố gắng phá tan mọi thành kiến dân tộc và chủng tộc, tập hợp những người bị bóc lột thuộc các màu da trong cuộc đấu tranh chung. Cụ đã thành công. Ki-men-gô là một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi. Mái tóc cụ bạc phơ như tuyết khuôn rực rỡ bộ mặt màu mun. Đôi mắt cụ hiền dịu và nhìn sâu thẳm. Miệng cụ luôn tươi cười, dù trước những nguy nan nghiêm trọng nhất hay trong những giờ phút đen tối nhất. Từ toàn bộ con người cụ toát ra nhân từ và cao quý. Cụ đáng tôn kính và được tôn kính.
    Chúng tôi đến nơi thì cụ đã nói được nửa chừng, và đây là những lời mà chúng tôi nghe được:
    "... Có những từ những ngữ mà người già các bác trước kia thường nghe thường nói, thì nay không còn trong từ ngữ của các cháu nữa. Và như thế là tốt. Bây giờ các bác nói đến toà án, cảnh sát, quân đội, nhà tù, thuế khoá, thì các cháu chẳng mấy người hiểu những cái đó là cái gì.
    "Thời bác thì nước Cộng hoà của chúng ta là thuộc địa Pháp. Trong nước, có người giàu và người nghèo. Người giàu là những kẻ hưởng tất cả, tuy gì cũng chẳng làm. Người nghèo là những kẻ gì cũng làm, mà chẳng được hưởng gì cả. Người nghèo phải chịu chết chóc cho người giàu khi nào bọn này bất hoà với nhau: cái đó gọi là thuế máu. Người nghèo làm ra được cái gì đều phải nộp cho người giàu: cái đó gọi là thuế tiền.
    "Vậy nhé, bọn tư bản da trắng lấy nước ta làm thuộc địa xong, nó bắt các bác phải nộp các thứ thuế, mặc dầu các bác nào có của nả gì đâu. Nộp thì không có gì để nộp; để khỏi bị hành hạ, các bác phải bỏ trốn vào rừng. Chúng nó đem chó và đem súng đuổi theo, các bác đành phải ẩn vào một cái hang, ngày nay gọi là Hang Tuẫn nạn.
    "Bọn bác hơn hai trăm mạng, đàn ông có, đàn bà có, trẻ em có. Cứ tưởng rằng như thế là tạm yên thân, nên mặc dầu phải chịu ẩm, chịu tối, chịu đói, cực lắm, các bác có ý định cứ nán lại đó càng lâu càng hay, vì biết rằng bọn nó vẫn rình ở ngoài hang với súng ống. Hang tối như bưng ngày cũng như đêm, bác chẳng biết đã ở trong đó bao lâu. Chẳng trông thấy gì hết, chẳng nghe thấy gì hết, trừ tiếng chó sủa dữ dội, xa xăm, nhắc nhở rằng tình thế vẫn hiểm nghèo.
    "Một ngày nọ, nói đúng hơn là một đêm nọ, các bác ngửi thấy có cái mùi khét lẹt tràn vào chỗ náu trong lòng đất. Mùi khét nặng lên nhanh và trở thành không thể chịu nổi. Gì thế? Chẳng ai biết... Trẻ nhỏ thì khóc, đàn bà thì la, đàn ông thì chửi. Hoảng loạn! Chạy đi ư? Nhưng chạy đâu chứ? Khủng khiếp quá? Tiếng răng lập cập, tiếng thét xé tai, tiếng nấc, tiếng thân người đổ xuống, tiếng khóc điên rồ, làm cho cái xó tối ám khói đó hệt như là một địa ngục.
    "Bấy giờ bác ở tận cuối hang. Bác theo bản năng nhắm mắt, ngậm miệng, áp mặt vào vách hang. Như thế cảm thấy dễ thở hơn và ngủ đi lúc nào không biết. Tỉnh dậy thì thấy có tia sáng chiếu chếch vào mặt, đấy là một kẽ hở qua đất, nhờ đó mà bác thở được và thoát chết. Bác nhắm đào một lối ra phía đó, nhưng chỉ mệt xác vô ích. Bác bèn quyết định thôi đành liều mạng cứ phía cửa hang mà ra. Quờ quạng và dẫm qua hai trăm xác chết hun mới trở lại được với khoảnh trời tự do.
    "Bác ăn cỏ, ăn rễ cây, đi lang thang hết làng này sang làng nọ; cuối cùng thì được bố của đồng chí người da trắng này đây thu nhận về nuôi như con. Ông đã dạy dỗ bác theo những nguyên tắc của tình hữu ái và của chủ nghĩa cộng sản; ông cũng đã cho bác biết tên thằng da trắng vì muốn thu thuế mà đã hun các bác chết ngạt một cách man rợ như vậy.
    "Thằng hun khói, tên nó là Bơ-ruy-e, là đại diện của nước Pháp và là công sứ ở Ha-u-xa".
    Báo Nhân Đạo (L'Humanité)
    ngày 20 - 7 - 1922
    Lovetolive[/size=18]
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Bính
    Im Lặng Thẹn
    Hôm ấy đến phiên chợ Đơ, Uyển cố tình bắt tôi mua cho nàng một con chim vành khuyên. Chiều nàng, tôi dẫn nàng ra chỗ bán chim, tôi trông thấy đàn chim nhảy nhót ríu rít trong chiếc ***g quang dầu xinh xinh thì vỗ tay reo:
    - Chà, đẹp quá anh nhỉ! Em chỉ yêu có chim thôi!
    Rồi nàng chỉ cho người bán chim bắt một con mà nàng ưng ý nhất, nhưng hễ va thò tay vào ***g là đàn chim sợ hãi bay tán loạn. Uyển âu yếm nhìn chúng nó bảo:
    - Người ta yêu chứ việc gì mà thẹn!
    Nàng nói câu ấy theo ý nghĩa ngây thơ, nông nổi của mình.
    Đoạn, nàng xách ***g chim ra về, cười cười, nói nói, coi bộ sung sướng lắm.
    Tôi với Uyển, năm ấy, cùng học một trường tu tại tỉnh lỵ Hà Đông. Nàng mười bốn, kém tôi ba tuổi, tuy còn bé mà nàng đã xinh lắm, ngực bắt đầu nở, má bắt đầu hồng, món tóc mềm buông xuống ngang lưng, mà miệng cười mới tươi đẹp làm sao!
    Uyển coi tôi như một người anh ruột hợp tính hợp nết, nàng thường nũng nịu và vòi với tôi luôn. Nhưng tôi, những khi gần nàng, tôi cảm thấy có một cái gì như say sưa, như đắm đuối, như hồi hộp ở lòng tôị.. có lẽ tôi yêu nàng như yêu một người tình? Đúng rồi, óc tôi chả thường thì thầm với tôi: "Nàng sẽ là một người yêu vị lai của tôi" là gì. Rồi đây 2,3 năm nữa, nàng đến tuổi biết yêu, hẳn nàng phải nhớ đến người đã mua cho nàng con chim khuyên này, và nhớ đến những cái tát yêu vào má nàng và bảo: "Em đừng lém!" khi nào nàng quá cười đùạ
    "Nàng sẽ là người yêu vị lai của tôi". Tôi tin như thế.
    Sau hôm phiên chợ ấy, nàng cắp sách đến trường, tôi liền hỏi:
    - Con khuyên của Uyển hôm nay có chăm hót không?
    Nàng chạy ngay đến bên tôi, mắt sáng hẳn lên, vừa cười vừa đáp:
    - Con chim của em nó hót hay lắm kia! Hôm nào em mang đến đây cho anh xem nhá?
    - Em yêu nó lắm nhỉ?
    - Vâng, em chỉ yêu có nó thôị
    Nghe nàng trả lời như vậy, tôi có ý không bằng lòng, nghiêm nghị nhìn nàng mà bảo:
    - Từ nay, Uyển đừng nói như thế, anh giận đấy nhé! Còn thầy me Uyển, anh chị Uyển, các em bé Uyển, Uyển phải yêu chứ. Uyển phải yêu hơn con chim của Uyển chứ?
    Uyển không giận, nàng lại vui vẻ nắm lấy tay tôi có vẻ cám ơn.
    - Ừ nhỉ! Em quên đi mất đấy! Giá anh không bảo thì em cứ tưởng em chỉ yêu có chim thôị Phải, em còn phải yêu thầy me, anh chị, các em em nữa chứ!
    Tôi thờ thẫn, kéo nàng sát lại gần, khẽ nói:
    - Và em còn phải yêụ..
    - Yêu ai nữả Sao anh bắt em yêu nhiều thế?
    Tôi toan nói thẳng ngay: "Và em còn phải yêu anh nữa". Tuy rằng nghe câu ấy, chắc nàng cũng chẳng giận tôi, mà có lẽ nàng còn vui thích nữạ Nhưng nàng có hiểu thế nào là yêu đương? Nàng giải nghĩa sao được hai chữ: "Yêu anh"? Nên tôi thấy ngượng miệng, vì càng đứng trước người con gái chưa biết gì là tình càng không nên nói chuyện tình ái, mình sẽ cảm thấy mình có tội, một cái tội của con người dang tay bẻ nụ hoa non. Bởi vậy, tôi đã phải trả lời bằng một câu vô nghĩa:
    - ... Và em còn phải yêu những con chim vành khuyên khác nữạ
    ***
    Xa sông Nhuệ ba năm có lẻ, hôm ấy, tình cờ tôi đến Hà Đông vào một buổi tối mờ giăng. Đứng trên cầu sông Nhuệ hóng gió, nhìn dòng sông linh động, khúc sông vắt véo, bên bờ sông cây cối mịt mờ, tôi cảm thấy hồn tôi man mác nhẹ nhàng, như theo gió bay liệng gần xa đây đó.
    Chợt tôi ngửi thấy một mùi nước hoa thoang thoảng, tôi quay lại, thì trời ơi, Uyển! Uyển bây giờ là một cô gái mười bảy tuổi, một cô gái đẹp hoàn toàn. Uyển chợt nhận ra tôi, nàng thẹn thò như sợ hãi, cúi mặt xuống không dám chàọ Tôi thì cảm động quá, thốt gọi to:
    - Uyển!
    Uyển ngẩng lên:
    - Anh!
    Hai người không biết nói với nhau câu gì nữạ Làn không khí nặng nề bởi e dè, ngượng ngập, bối rối đương bao phủ chung quanh chúng tôị Giây lâụ.. tôi mới dám bạo dạn hỏi nàng một câu, mà sau này tôi cho là ngớ ngẩn hết sức:
    - Con chim khuyên đó, rày nó vẫn chăm hót đấy chứ?
    Uyển lanh lẹ trả lời:
    - Thưa anh, nó vẫn hót, nhưng bây giờ nó đã nhớn rồi!
    Rồị.. bốn mắt nhìn nhaụ.. im lặng! Thẹn.
    ("Tiểu thuyết thứ năm", số 30 ngày 20-10-1938)
    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Quách Tấn
    Má tôi ( I )
    ( trích hồi ký Bóng ngày qua )

    Nhỏ thó, song thân vóc cân đối, thanh bai. Nước da trắng mịn. Tóc đen như huyền và dài chấm gót ; mỗi lần gội phải đứng trên giường chải và hong cho khô. Thầy tôi bảo rằng lúc chải đầu, má tôi giống khóm liễu buông tơ trong bộ chén Mã-liễu của ông nội.
    Má tôi là người có học, lúc nhỏ lại ở cùng bà ngoại tại An Thái là nơi thị tứ, cho nên từ ngôn ngữ, cử chỉ cho đến cách phục sức đều đoan trang thanh lịch. Ðoan trang thanh lịch chớ không kiểu cách xa hoa như phần đông con cái nhà phú trưởng giả chốn thị thành thời bấy giờ. Do đó, từ trong gia đình đến ngoài lân lý, ai nấy cũng thương yêu muốn làm thân. Dì hương Bỗng ở Xuân Hoà, mỗi lần về Trường Ðịnh thì trước hết chạy đi tìm má tôi. Và dì phó tổng Ninh ở Ðại Bình, "đi đâu cũng ghé vào nhà nói chuyện giây lát" 1. Bà Hay, bà Thi, bà Chiểu, bà Trét, bà tùng Dĩnh, bà Yên? ở trong thôn, tối nào cũng đến nhà chơi và làm dùm công việc? Bà Xã Cả (thân sinh cậu chánh Trần Trác, cậu tú Khương và dì hương Bỗng) mỗi lần gặp má tôi, đều cười:
    - Thấy mầy, dù bận công bận việc đến đâu, tao cũng phải ngó.
    Mợ tú Khương thường nói cùng chị em:
    - Cùng một lứa tuổi mà bọn mình đứa nào cũng đã thành "đùm mắm nêm" cả 2. Chỉ có cô thông có bốn năm mặt con rồi mà vẫn còn mướt như mụt măng !
    Mợ chánh Trác nghe mợ tú khen, không thích, nói:
    - Người ta ăn ở không, chân giày chân dép. Còn mình rau heo, cháo chó, phơi lúa giã gạo, đầu tắt mặt tối, mà cũng bì.
    Mợ hương Xuyến thêm vào:
    - Ðược cái mẻ ngoài, chớ thử đi cắt đi cấy như bọn mình coi có theo kịp gót chân mình chăng.
    Mợ hương Xuyến vì ở xa, nên lầm. Má tôi ngoài công việc bánh trái thêu thùa, nấu ăn, may quần áo là những món sở trường, còn biết cấy, biết gặt như mọi chị em khác ở thôn quê.
    Sau khi thầy tôi mất, má tôi lấy lại một số ruộng bấy lâu cho làm rẽ, để làm nhà. Tá điền cày lấy rạ. Má tự coi ngó lấy. Ðôi khi cũng đi cấy, đi tát nước làm vui. Bà tuần Vĩnh ở cạnh nhà thường trầm trồ:
    - Không biết cô thông học cấy lúc nào mà cấy khéo quá !
    *
    * *
    Má tôi lúc nào cũng nghiêm trang, nhưng hoà nhã, vui vẻ. Lời nói ôn tồn song những khi có điều phật ý thì giọng nói trở nên cứng rắn, và những lúc tranh luận cùng thầy tôi, cùng các cậu tôi thì lời nói rất đanh thép. Cậu tú thường mắng yêu mỗi khi cãi không lại:
    - Cái miệng ngó sắt lẽm !
    Cậu cửu Ðoàn Nhuận lại nói:
    - May cổ sanh làm đàn bà, chớ làm đàn ông thì không bày "hiệp tung" cũng xúi "liên hoành", làm rối thiên hạ.
    Nhưng rồi thêm:
    - Tuy vậy mà nói có duyên nên nghe sướng tai.
    Cậu chánh tổng Trác lắm khi nổi xung nói:
    - Ðàn bà mà lão khẩu !
    Còn thầy tôi thì khi thấy má tôi cãi hăng hái, chỉ cười hì hì. Thầy nói cùng các Cậu:
    - Các anh chưa thạo phép đấu kiếm. Ðối phương giở thế sở trường ra thì ta nên né chớ không nên đỡ.
    Ngoài những cuộc tranh luận trong lúc rỗi rảnh cùng người thân yêu để mua vui, tôi chưa hề thấy má tôi cãi cọ với ai lần nào.
    Trong gia đình thì hiếu thuận, ngoài xã hội thì trung thứ.
    Ðối với con thì lấy vẻ nghiêm của ông cha gói lòng từ của bà mẹ. Mỗi khi tôi hoặc em tôi có lỗi thì bắt nằm xuống, lấy chiếc roi mây để lên lưng ; đoạn mới kể rõ tội lỗi. Kể xong trót một roi. Ðoạn đem lời người xưa ra khuyên răn. Răn xong trót một roi nữa, hỏi:
    - Nhớ chưa ?
    Rồi cho đứng dậy, lạy má hai lạy, hứa không dám tái phạm.
    Lỗi nhẹ thì đánh hai roi. Lỗi nặng thì bốn roi. Tái phạm thì gấp đôi. Nếu lỡ phạm đến lần thứ ba thì má hờn không nói đến tên, bỏ đi nằm. Chúng tôi phải quỳ bên giường khóc chịu tội suốt buổi má mới tha.
    Những buổi trưa hè má thường nằm trên chiếc võng cột nơi mái hiên. Anh em chúng tôi kê đòn ngồi bên cạnh vừa nhổ tóc ngứa cho má, vừa nghe má kể những cổ tích thể hiện đạo nghĩa luân thường.
    Hát ru con, má luôn luôn hát những câu thanh tao, những câu có tình có nghĩa, có thể trau dồi được tánh thiện của con em. Những câu hát ấy, một số là ca dao, một số do má tôi đặt ra. Tôi còn nhớ được một ít. Như:
    - Tham vàng bỏ nghĩa mặc ai
    Lòng đây sông giải non mài vẫn nguyên.
    - Dù cho đất đổi trời thay
    Trăm năm giữ một lòng ngay với đời.
    - Những phường bất nghĩa bất nhân
    Lưới trời đâu dễ thoát thân ra ngoài?v.v?
    Ðó là lời khuyên giữ lòng chung thuỷ. Tả lòng hiếu thảo như:
    - Ơn cha núi chất trời Tây
    Láng lai nghĩa mẹ nước đầy biển đông.
    - Ơn cha nghĩa mẹ trìu trìu
    Mưa mai lòng sợ nắng chiều dạ lo. v.v?
    Lòng mẹ đối với con thể hiện trong những câu, như:
    - Trời đông gió lọt song hồ
    Chỗ ướt phần mẹ, chỗ khô con nằm.
    - Ðường xa sức mỏi chân rần
    Chén con kiếm được nhịn phần cho con. v.v?
    Những câu hát ấy có tánh cách phổ thông, các chị em trong xóm trong làng rất ưa thích, nên phần nhiều được lưu truyền và trở thành ca dao địa phương 3.
    *
    * *
    Ở nhà quê thời bấy giờ sách in rất hiếm. Những sách học như Ngũ kinh Tứ thư, Sử ký? mà cũng ít nhà có được trọn bộ. Nhà họ Trần có tủ, song sử thì chỉ có Hán sử và Tống sử là hai bộ sử cần thiết cho học trò đi thi. Má tôi mua được một bộ Nam sử, và mượn của ông nội tôi bộ Tây Sơn dã sử. Khi dạy chúng tôi thường đem sự tích nước nhà ra làm ví dụ. Một hôm nói về tình hình anh em, má trách vua Quang Trung sao nỡ đem quân về vây đánh vua Thái Ðức. Thầy tôi cười:
    - Vua Quang Trung dựng nên sự nghiệp nghìn thu là do hai trận dẹp quân cướp nước là Xiêm La và Trung Quốc. Còn sự nghiệp vua Thái Ðức chỉ có nhất thời. Nếu không có vua Quang Trung đem quân vây Hoàng Ðế thành thì làm gì có được một lời nói bất hủ:
    - Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn.
    Má không đáp, chỉ mượn ý câu "bì oa?" mà ngâm:
    - Lỗi lầm anh vẫn là anh
    Nồi da nấu thịt sao đành hỡi em ?!
    Thầy nghe, cảm động ứa nước mắt.
    Và lời ngâm của má tôi, giọt nước mắt của thầy tôi thấm sâu vào lòng anh em chúng tôi từ lúc nhỏ 4.
    *
    * *
    Má tôi tuy rất thông Hán văn và chữ quốc ngữ không học, chỉ nghe thầy tôi dạy học trò, mà đọc được viết được rành rẽ. Song dạy con chỉ dạy cách làm người, còn chữ nghĩa thì phó thác cho thầy học.
    Gặp trường hợp nào dạy con được là má chụp ngay để dạy.
    Một hôm tôi làm được một chiếc ná cao su rất đẹp, lượm sạn toan đi bắn chim. Má tôi trông thấy hỏi tôi:
    - Khi má đi đâu lâu về con có trông chăng ?
    Tôi không hiểu ý má tôi muốn dạy tôi điều gì, nghe hỏi liền thưa:
    - Hôm trước má lên thăm ông nội, tối không về, chúng con nhớ ngủ không được ; chốc chốc mở cửa ra đứng trông.
    Má cười:
    - Chim con cũng như các con. Chúng thương mẹ chúng lắm. Con bắn chết mẹ chúng, chúng làm sao sống ?
    Chúng tôi cảm động ứa nước mắt. Từ ấy không còn muốn bắn chim và bắt ổ chim nữa.
    Trước nhà thờ trong vườn tôi có mấy cây lựu, chim sâu thường đến lót ổ để đẻ. Nhớ lời má, chúng tôi chẳng những không dám phá, mà còn thay phiên nhau canh không để cho lũ trẻ láng giềng đến bắt trộm.
    Chim sâu đến lót ổ nơi cây lựu nhà thờ đó có ba giống. Một giống rằn ri, một giống xanh lá mạ và một giống lưng xám, ức đỏ ; mỏ và chân vừa dài vừa đen nhánh. Mỗi giống một cặp. Hai cặp trước lót ổ dính sát trên cành như ổ chim thường và lót trên cao. Cặp áo xám lót ổ như ổ dồng dộc treo lòng thòng ngay ở trước cửa nhà thờ, vừa tay với. Thấy anh em tôi tới lui thường mà không có ý phá hại chúng, nên chúng không sợ hãi, tha mồi về đút cho con một cách tự nhiên. Chúng tôi đứng nhìn chúng, trong lòng vui thích lạ thường !
    Chúng tôi sợ mất ổ chim áo xám lắm, nên luôn luôn chạy ra thăm chừng và ngõ luôn luôn khép, nhất là lúc chim sắp đi chuyền.
    Một hôm đi học về, tôi chạy ra nhà thờ thì ổ chim áo xám mất, em tôi lại không có ở nhà, ngõ bỏ trống? Tôi tức giận chạy đi kiếm em về, xẳng giọng hỏi:
    - Ổ chim đâu ?
    Em tôi mặt tái mét, vừa nói vừa mếu máo khóc:
    - Em không biết. Má dặn không nên phá ổ chim. Em không có phá.
    Trước mặt thì em run sợ, trên cành thì đôi chim sâu nhảy qua nhảy lại kêu thảm thiết, lòng giận của tôi đổi thành lòng thương. Tôi bưng mặt khóc. Em tôi cũng khóc theo, rồi lại một bên tôi nói:
    - Em không phá. Anh đừng thưa với má đánh em?
    Tôi lau nước mắt, dắt em tôi vào nhà. Ðôi chim sâu kêu hồi lâu rồi bay đi mất. Từ ấy không trở lại? Nhưng hình ảnh của đôi chim và cảnh tượng khi mất ổ chim vẫn còn mãi trong tâm khảm tôi. Ðã gần năm mươi năm nay rồi mà vẫn còn phảng phất?
    *
    * *
    Má tôi rất ưa thích truyện Tàu. thầy tôi mua được một bộ Ðông châu liệt quốc diễn nghĩa, Tây du diễn nghĩa, Tam quốc diễn nghĩa? Ðêm nào, sau bữa cơm tối, má cũng thắp đèn toạ đăng bảo anh em chúng tôi thay phiên đọc cho má nghe. Tới những đoạn hay, má bảo dừng lại, giảng thêm cho anh em chúng tôi hiểu rõ ý nghĩa câu chuyện.
    Má tôi bảo:
    - Những nhân vật thời Ðông châu, mỗi nhân vật tiêu biểu cho mỗi đặc tánh của mỗi hạng người sống trong một xã hội văn minh đã cực độ mà loạn ly cũng cực độ. Mình không thể bắt chước nổi, và cũng không nên cố gắng bắt chước. Mình nên học ba anh em Lưu, Quan, Trương, Triệu Tử Long và một số nhân vật trong thời Tam quốc. Các nhân vật Tam quốc vừa tầm chúng ta. Chúng ta nên dùng làm gương soi để bắt chước cái tốt và tránh cái xấu.
    Thầy tôi khen lời nói ấy. Má tôi đáp:
    - Trước đây cậu (tức ông nội tôi) thường bảo thế. Ngày nay đọc Ðông châu, Tam quốc, tôi mới thấy rõ. Thằng Tấn, thằng Tạo khi lớn khôn, mong đừng quên lời ấy.
    Một hôm nhân bàn đến đoạn "cuối đường" của Lưu Bị ở thành Bạch Ðế, cậu tú nói:
    - Nếu Lưu Bị đừng cãi lời Khổng Minh thì đâu đến nỗi thân bị hại, nghiệp Hán bị suy vong.
    Má tôi đáp:
    - Ðó là lấy lý mà nói. Còn Lưu Bị lúc ấy hành động theo tình cảm. hai em đã chết cả rồi, còn một mình mình dù được cả thiên hạ cũng chả vui sướng gì. Chi bằng quyết một mất một còn với kẻ thù. Nếu không rửa được hận thì chết theo hai em cho trọn lời thề "không đồng sanh, nhưng đồng tử"5.
    Ðoạn xoay lại dặn anh em chúng tôi:
    - Các con nếu không theo kịp gót Lưu, Quan, Trương thì chớ nên quay đầu lại với Tào-Phi để dùng "dây đậu đun hạt đậu?" đó nhé.
    Cậu Chánh rất ghét Tây du. Cậu cho là chuyện hoang đường bá láp. Thầy tôi bảo:
    - Những nhân vật trong Tây du là những biểu tượng của tâm tánh loài người. Mỗi nhân vật tượng trưng cho mỗi cạnh khía của tâm tánh. Mỗi câu chuyện đại biểu cho mỗi trường hợp do tâm tánh con người gây ra trên cõi đời nầy. Bát Giái tượng trưng cho Tham, tề Thiên tượng trưng cho Sân, Sa Tăng tượng trưng cho Si, Tam Tạng tượng trưng cho Ðạo Từ bi.
    Má nói:
    - Lòng Ðạo thường bị lòng Tham làm lu mờ, nhiều khi phạm vào đường quấy. Cho nên Tam Tạng thường nghe lời Bát Giái, và mặc dù biết Bát Giái hay láo xược, song vẫn cứ binh !
    Cậu Cửu nói:
    - Bệnh sân nguy hiểm nhất, nên Tề Thiên phải đeo kim cô mới trị nổi.
    Những lời bàn trên đây, lúc nhỏ nghe thấy vui vui nên nhớ. Ðến lúc lớn khôn nghĩ lại mới thấy tiền nhân rất thâm thuý, và các ngài đọc sách, nói chuyện không phải chỉ để mua vui, mà còn dùng làm phương tiện để giáo dục con em 6.
    Ông nội tôi thường nói:
    - Một lời nói, một việc làm của ông bà cha mẹ đều gây ảnh huởng đến con cháu, không nhiều thì ít.
    Thật đúng như vậy. Lòng trẻ con là tờ giấy trắng, một khi đã viết chữ gì lên, dù nét có lạt đến đâu, cũng khó mà tẩy cho thật sạch. Thế nào cũng còn dấu, hoặc ẩn hoặc bày?
    Love to live
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Quách Tấn
    Má tôi ( II )
    ( trích hồi ký Bóng ngày qua )
    *
    * *
    Thuở tôi lên mười một, mười hai, một bận tôi đau nặng, miệng đắng thèm cam. Nhưng ở Trường Ðịnh không nhà nào có cam, nên đành nhịn thèm chớ không dám ngỏ ý cùng mẹ. Má tôi đoán biết, cho người lên Thuận Nghĩa, xin bác tôi vài quả. Trong vườn bác tôi chỉ còn có một quả vừa chín tới. Bác hái cho đem về. Nghe mùi hương thơm phưng phức, nhìn thấy hình dáng mơn mởn nửa vàng nửa xanh, tôi thích quá ôm riết quả cam vào lòng. Má âu yếm vuốt mái tóc tôi và nói:
    - Ðể má gọt cho con ăn.
    Nửa muốn ăn, nửa tiếc quả cam đẹp, tôi trao cam cho má với vẻ ngập ngừng. Má hiểu ý, mỉm cười, xẻ quả cam làm đôi, một nửa gọt cho tôi ăn, một nửa úp trên chiếc dĩa con để bên giường tôi nằm. Tôi sung sướng ứa lệ 7?
    Tôi nhận thấy tâm hồn má tôi thanh cao và tế nhị quá !
    Chẳng những đối với cha mẹ, với chồng con mới chí tình, má tôi đối với bà con, láng giềng, người giúp việc trong nhà cũng tận nghĩa.
    Trong nhà luôn luôn có sẵn ký ninh, thuốc cảm, ten-dót, thuốc tím, bông, băng? phòng giúp đỡ người trong lúc cấp bách. Má chịu khó rửa cả những mụt chùm bao hôi thúi, và băng đêm đi cứu thương cho người bị nạn. Ông bà Délignon nghe tiếng, gởi thuốc men nhờ thầy tôi đem về cho má tôi sử dụng? Nhà má tôi có một bận trở thành "trạm cứu thương". Cậu Chánh rầy:
    - Cô làm chuyện không lối, sẽ bị ở tù có khi đó chớ chẳng chơi.
    Cậu Chánh nói không sai.
    Một hôm một người đàn bà ở chòm chợ Suối Bèo đến xin thuốc rét. Má cho hai hoàn ký-ninh. Người đàn bà về được chừng nửa giờ sau thì chạy đến nằm vạ, vừa mửa vừa đập dãy, la làng. Cả nhà lo sợ. Làng nghe tin chạy đến.
    Lý hương làng Trường Ðịnh đối với gia đình tôi rất kính nể, song bị người đàn bà làm hung quá, không biết sao phải làm tờ trình huyện. Huyện sai phái xuống khám. Thầy tôi làm việc ở Phú Phong hay tin, xin phép ông Délignon về. Bà Délignon theo xuống?
    Ban đầu ai cũng tưởng người đàn bà uống lầm thuốc, trúng độc. Nhưng khám nghiệm kỹ thì không thấy một hiện tượng gì chứng tỏ rằng trúng độc cả. Người đàn bà trông thấy có phái huyện lại có đầm tới, có ý sợ hãi. Thầy tôi đoán có điều chi ẩn khuất, bèn tra mánh người đàn bà. Bị hỏi nhiều câu bất ngờ, người đàn bà dấu đầu hở đuôi, sau phải thú thật.
    Thì ra:
    Trong làng có ông thầy thuốc Bắc sợ má tôi "cướp" hết khách, nên mới bày mưu hãm hại. Ông thầy mướn người đàn bà đến xin thuốc. sau khi được hai viên ký-ninh rồi, người đàn bà về trao cho ông thầy. Ông thầy cho người đàn bà ăn một bụng bún rồi cho uống một bát nước rửa thớt và bảo chạy vào nhà chúng tôi, thọc họng mửa ra và hô lên là bị má tôi cho uống thuốc độc !
    Phái huyện cho bắt ông thầy thuốc đến, định giải quan trị tội, song thầy má tôi xin.
    Cậu Chánh nói:
    - Cô thấy chưa ? Lòng người nguy hiểm lắm. Hãy dẹp việc cứu giúp người đi, kẻo rồi ăn năn không kịp.
    Má tôi đáp:
    - Hết lòng giúp người mà rủi gặp hoạ, tôi vẫn không khi nào ăn năn.
    Và má tôi vẫn tiếp tục cho thuốc, song có phần dè dặt hơn xưa.
    *
    * *
    Má tôi coi những người giúp việc trong nhà như bà con cật ruột. Khi đau ốm được má tôi săn sóc ân cần, khi có việc được má tôi giúp đỡ chu đáo. Cho nên ai đến ở cùng gia đình tôi, đều ở rất lâu. Và sau khi hết ở cũng vẫn giữ mối tình thân ái như cũ.
    Có vợ chồng bà Hai là ở lâu nhất. Hai ông bà ở Sông Cạn thuộc thôn Tân Ðức (trước kia về An Nhơn, nay về Bình Khê). Bà Hai ở vú nuôi má tôi. Ông Hai ở trai cho bà cố. Khi má tôi có gia thất và ở riêng thì bà cố cho ông Hai bà Hai theo giúp việc. Công việc trong nhà thì má tôi giao cho bà Hai, công việc ruộng nương, vườn tược thì về phần ông Hai. Có những món ngon vật lạ, má tôi đều để phần cho bà Hai. Bà Hai rất thương chồng, hễ má tôi để cho bã vật gì, bã đều nhịn cho ổng hết.
    Một hôm trên ông nội sai người đem xuống cho má một tiềm ba ba. Má múc để cho bà Hai một chén. Bà Hai nhịn cho ông Hai. Ông Hai không chịu ăn, bảo:
    - Muốn ăn cho sướng thì thịt bò xáo chuối cho ngọt, hoặc thịt heo kho nhừ cho béo. Bằng không thì mắm cua đầu kho đặc, hoặc mắm khô đâm ớt cho cay. Nếu không có thì muối ớt. Ăn như thế mới khoái. Chớ thứ gà hầm, cá ám đã chua miệng còn phá bụng, ăn làm mốc gì.
    Bà Hai ép:
    - Không ăn nhiều thì ăn một miếng thôi.
    Nể lòng vợ, ông Hai hả miệng ra. Bà Hai lấy muổng lớn múc đổ một muổng cả nước lẫn cái. Ông Hai nuốt ực rồi nói:
    - Không mùi vị gì hết mà cứ ép !
    Má tôi tình cờ trông thấy, tức cười quá, nhưng phải gắng nín cười để khỏi làm cụt hứng hai ông mụ. Sau kể chuyện lại cho thầy tôi nghe, thầy cười ngất và nói:
    - Thật trái ngược với những cặp vợ chồng ở bốn phía. Chị Thi thì thỉnh thoảng lôi anh chồng ra chửi một trận tối mày tối mặt. Anh Hay thì ít ra một tháng một lần, rượt đánh chĩ chạy la cùng làng cùng xóm. Vợ chồng ông Trét thì cả ngày lầm bầm lì bì không ai nói với ai một lời mà hễ đốt đèn lên là cười như pháo nổ. Ðối xử với nhau, không có cặp vợ chồng nào giống cặp nào cả. Cảnh già như vợ chồng bà Hai là hạnh phúc.
    Bà Hai ở với má tôi trên bảy mươi tuổi. Khi biết mình sắp chết bà bảo má tôi đưa bã về Sông Cạn, để "được gần ông bà". Má theo lời, võng bã về nhà, ở nuôi được mấy hôm thì bã mất. Má lo chôn cất xong mới về. Má để tang cho bà Hai ba tháng mười ngày, và tuần tự, giỗ quải má đều lo hết.
    Bà Hai mất rồi, ông Hai xin về để gần mộ vợ. Thỉnh thoảng, thiếu hụt mới lên Trường Ðịnh ở chơi năm ba hôm.
    Sau hai vợ chồng bà Hai thì có vợ chồng anh Trữ, tình nghĩa cũng rất thắm bền. Anh Trữ ở trai cho thầy má tôi, từ khi thầy má tôi mới đụng nhau. Còn chị Trữ thì ở vú nuôi con em út của tôi. Hai vợ chồng anh Trữ đã thay vợ chồng bà Hai coi ngó việc nhà cửa ruộng nương giúp má tôi, sau khi thầy tôi mất.
    *
    * *
    Thầy tôi mất rồi, anh em chúng tôi vẫn tiếp tục đi học. Má tôi ở nhà với đứa em út mới ba tuổi và chị vú là chị Trữ. Anh Trữ trước kia cùng người em thứ tám là anh Tám Nam ở giúp việc cho gia đình tôi, nhà cửa giao cho người em thứ chín là anh Chín Nồm. Anh Tám Nam chết, ít lâu anh Chín Nồm cũng chết. Người con trai anh Trữ tuy đã có vợ có con song còn khờ, nên ảnh phải đi đi về về để chỉ bảo công ăn việc làm. Chỉ có ban đêm, anh Trữ mới đến để canh tuần kẻ gian, còn ban ngày, khi nào có việc ảnh mới tới.
    Thành ra cảnh nhà rất quạnh quẽ !
    Ðể khuây khoả, má tôi chú tâm vào công việc đồng áng. Cũng nhổ mạ, tát nước, cũng gặt hái, phơi phang. Trong vườn trong sân, không có một chòm cỏ dại, không có một khoảnh nhỏ đất trống. Cả ngày ở ngoài ruộng, ngoài vườn.
    Thầy mất chưa bao lâu mà má tôi trông già và đen điu tiều tụy nhiều quá. Thương mẹ quá, chúng tôi muốn ở nhà phụng dưỡng. Má tôi nghiêm giọng nói:
    - Má không bì được Mạnh Mẫu, nhưng lòng nguyện noi gương. Các con chắc đã biết tánh má.
    Chúng tôi thất kinh. Từ ấy không dám nghĩ đến việc thôi học. Và để làm vui lòng mẹ, chúng tôi nổ lực học hành. Cuối năm, chúng tôi đều chiếm vị trí cao và đều có phần thưởng hậu. Và khoa thi tiểu học năm 1925, tôi đậu đầu8.
    Khi thầy tôi còn thì chúng tôi ăn cơm tháng đi học, vì lúc ấy lúa có giá. Sau khi thầy tôi mất, ở nhà quê đồng mất mùa lúa lại hạ giá. Còn ở thành thị thì làm ra đồng tiền cũng rất gay go. Chúng tôi không thể ăn cơm tháng nữa. Ðể có thể tiếp tục việc học hành, mỗi tháng gánh gạo xuống Qui Nhơn gửi cho chủ đậu nấu cơm dùm và gửi tiền mua đồ ăn. Mỗi tháng hai anh em phải tốn 120 lon gạo và 3 đồng đồ ăn. Tiền giấy bút và tiêu vặt thêm 2 đồng nữa. Ở nhà quê mà tháng nào cũng chạy cho ra 5 đồng không phải là việc dễ.
    Một công cấy ruộng rộc, thời bấy giờ, giá chỉ có 50 đồng. Nếu chúng tôi ở nhà thì mỗi năm mua được thêm một công cấy. Trái lại, để có tiền gửi đúng kỳ cho anh em chúng tôi, má tôi phải vay của dì phó tổng Ninh ở Ðại Bình (dì phó là em ruột cậu cửu Ðoàn Nhuận). Mỗi tháng mỗi vay, cuối năm không trả được thì viết giấy bán ruộng cho dĩ. Cậu Chánh thấy năm nào má cũng bán ruộng liền rầy:
    - Cô cứ nghe lời con. Không bao lâu nữa thì sạt nghiệp đó.
    Má tôi đáp:
    - Anh nói sai. Con vâng lời mẹ, chớ sao mẹ lại nghe lời con ? Và anh không nhớ câu: " Kim tích mãn sương, bất như giáo tử nhất kinh" ư ?
    Cậu Chánh làm thinh, nhưng chưa lấy làm phải. Mãi đến khi tôi đậu đầu tiểu học, cậu mừng đến nói cùng má:
    - Cô đàn bà mà cao kiến hơn tôi ! Mấy đứa con tôi chỉ học lở dở mấy chữ Hán. Bậy quá !
    Cậu nói thế là vì bằng tiểu học lúc bấy giờ quí lắm. Ở Trường Ðịnh hai anh em ông Mai Cao Lương, Mai Cao Ðống (học trò cũ của thầy tôi) và ở Xuân Hoà, ông Bùi Thúc bảo (trước học thầy tôi, sau học cùng ông Mai Cao Lương) khi thi đậu được làng đem cờ trống rước như rước Cử nhân Tú tài ngày xưa. Và đậu rồi không đầy một năm thì kẻ được bổ trợ giáo, người đi làm thông nhà thương, vừa có danh vừa có tiền ; người ngoài trông vào cho là "vinh hiển chẳng kém thi đỗ làm quan ngày trước".
    Khi tôi đậu, làng cũng xin má tôi cho đi rước. Nhưng má tôi chỉ xin tâm lãnh, vì biết rằng bằng tiểu học trên thực tế không có giá trị bao lăm và nhất là vì không muốn nuôi lòng kiêu căng và lòng thích hư vinh của con cái.
    Tuy vậy khi nghe tin tôi đậu đầu, má tôi mừng đến ứa nước mắt, và khi anh em tôi về nhà, má thưởng cho mỗi đứa một áo xuyến Ðập Ðá thật đẹp, và nói:
    - Năm nay phần con, sang năm đến lượt em con. Hai con cố gắng làm vui hồn thầy và lòng má.
    Vào Ðệ nhất niên Trung học, tôi được học bỗng. Em tôi lên lớp nhất9.
    Lúc bấy giờ trường Qui Nhơn đã có ký túc xá. Mỗi tháng phạn phí 6 đồng. Tôi được học bỗng phải ở nội trú. Em tôi còn nhỏ, ở ngoài một mình bất tiện nên má tôi cũng cho ở nội trú luôn. Tiền mua sách ở trung học lại nhiều gấp bội. Thành thử, mặc dù tôi được học bỗng, phí tổn về việc ăn học của anh em tôi có tăng mà không có giảm. Má phải bán ruộng thêm. Nghĩ đến má, chúng tôi không dám lười. Chúng tôi luôn luôn được bảng danh dự và được giấy khen gửi về nhà cho má tôi. Cuối năm em tôi thi đậu tiểu học, đứng thứ tư.
    Kỳ thi tiểu học đáng lẽ em tôi đậu đầu. Kỳ bút thí, em tôi đứng đầu, điểm trội hơn người đứng thứ nhì thứ ba rất nhiều. Song khi vào khẩu vấn, bị ông Martin truy về sử địa, nên trụt xuống thứ tư.
    Tuy vậy ở lớp, cọng sổ cuối năm, lại đứng nhất, được phần thưởng danh dự nhiều gấp đôi phần thưởng ở lớp Ðệ nhất niên của tôi. Trong số sách thưởng của em tôi, có bộ sách Vingt mille lieues sous les mers của Jules Verne, bìa da đỏ chữ mạ vàng, làm cho má tôi vui thích nhất. Má bắt anh em chúng tôi đọc và giảng nghĩa cho má nghe.
    Thời bấy giờ, người đậu bằng tiểu học đã có một trình độ khá về Pháp văn, nên bộ Vingt mille lieues sous les mers được giải nghĩa thông suốt. Cậu Chánh cũng thường đến nghe. Một hôm cậu thích ý, nói:
    - Thế mà lâu nay tao tưởng chữ Tây là chữ xí xô xí xà không nghĩa lý gì hết.
    Rồi nói cùng má tôi:
    - Thế mà trước kia không bao giờ thầy Thông đem sách tây đọc và giảng cho mình nghe10. Ðọc chữ Tây nghe ríu ríu rít rít như chim kêu, kể cũng vui tai.
    Từ ấy Cậu cho các anh đi học chữ Quốc ngữ và chữ Tây. Ðể "mở đường dẫn lối", cậu yêu cầu má tôi mở lớp hè để anh em chúng tôi dạy con em trong làng.
    Ở Bình Khê lúc bấy giờ có rất ít người theo học bậc trung học, cho nên anh em tôi rất được trọng vọng. Khi nghe chúng tôi mở lớp dạy hè, các phụ huynh xa gần cho con em tới học khá đông. Tôi cao hứng viết câu đối dán trước cửa lớp học:
    Chưa phải thầy, thử làm thầy, dìu dắt anh em đường tiến bộ;
    Ðã ra dạy, gắng công dạy, lần hồi chúng bạn bước văn minh.
    Má tôi chê không được thuần hậu, và sửa lại:
    Chưa đáng thầy, học làm thầy, góp sức vun xây nền đạo nghĩa;
    Ðã ra dạy, gắng công dạy, khuyên lòng dong ruổi bước văn minh.
    Một hôm tôi giảng bài đã khan cổ, mà nhiều trò lập lại vẫn còn sai. Tôi giận quá, sẵn cây thước cầm tay, đánh trên đầu một trò tối dạ. Bãi lớp tôi vào nhà trong: má tôi ngồi trên giường, bên cạnh để chiếc roi mây, trước mặt trải chiếc chiếu chõng dưới đất, em tọi đứng sau lưng, vẻ mặt lo sợ. Vừa thấy tôi, má nghiêm nghị chỉ xuống chiếu. Tôi không hiểu nguyên nhân, song không dám hỏi, cung kính, nằm sấp cuối đầu. Má để roi lên lưng, nhịp thưng thưng, và hỏi:
    - Từ nhỏ đến giờ, đã có khi nào thầy má đánh trên đầu con chưa, mà mới ra dạy học con đã đánh trên đầu người như thế ?
    Tôi sợ run cả người ! Muốn xin lỗi, không mở miệng được, muốn khóc cũng không khóc được. Mồ hôi nhỏ giọt ướt cả chiếu ! Tôi bị má tôi phạt nhiều lần rồi, nhưng chưa lần nào tôi sợ bằng lần đó. Má tôi biết, nên rồi dịu giọng dạy:
    - Thầy đánh học trò là để cho học trò nhớ lỗi mà lo sửa chữa, chớ không phải để trút lòng tức giận của mình cho hả hơi. Làm thầy cho ra ông thầy không phải dễ. Vì con mới "học làm thầy", nên lỡ lần nầy, má tha cho đó11.
    Tôi lạy xin hết lòng lo tu dưỡng. Từ ấy bước vào lớp, tôi sợ má tôi hơn học trò sợ tôi.
    Love to live
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lúc bấy giờ tôi mới 18 tuổi, em tôi 14 tuổi. Nhiều trò lớn tuổi hơn tôi và một số con các ông cậu lại thuộc về vai anh. Song nhờ uy tín của má tôi và sức ủng hộ của các vị phụ huynh, nên đối với anh em chúng tôi không trò nào dám thất lễ. Tôi dạy học trò lớp nhì lên lớp nhất, và lớp ba lên lớp nhì. Còn em tôi chỉ cho các lớp nhỏ. Học phí trong ba tháng thu trên 60 đồng. Cậu Chánh mừng nói với má:
    - Lộc của con đó. Cô khỏi bán thêm ruộng.
    Má cười:
    - Khỏi thế nào được vì mỗi năm phải tốn đến một trăm. Nhưng không hề gì. Ruộng tôi còn đủ cho chúng ăn học đến nơi đến chốn. Dạy cho vui đó thôi.
    Thật vậy. Chúng tôi dạy học, học trò tới lui, cảnh nhà rộn rịp làm cho má tôi khuây khoả bớt niềm nhớ thương thầy. Gương mặt má xinh tươi trở lại.
    Nhưng hết ba tháng hè rồi, cảnh nhà lại trở lại hiu quạnh ! Những ngày chúng tôi sắp sửa đi Qui Nhơn, má tỏ thái độ nghiêm khắc. Cho nên khi ra đi chúng tôi không dám tỏ thái độ bịn rịn và xuống trường phải cố gác niềm nhớ mẹ nhớ em để lòng rảnh rang lo học tập. Có lắm khi nhớ quá không cầm lòng được, anh em ra nơi vắng vẻ ngồi khóc với nhau. Và hễ trường cho nghỉ được vài ba hôm là anh em dắt nhau đi đêm về thăm nhà. Từ Qui Nhơn lên An Thái thì đi xe kéo. Có lúc không tiền phải đi bộ. Tội nghiệp cho em tôi, đi mỏi mà phải ráng đi, vừa đi vừa khóc thút thít !
    Từ Qui Nhơn lên An Thái trên 30 km, xe kéo đi mất 4 tiếng đồng hồ. Hễ trống bãi học rồi, lo xếp đặt quần áo, có khi chưa kịp ăn cơm chiều đã lên xe hối chạy. Về đến An Thái phải đi bộ gần bảy, tám cây số nữa mới tới nhà.
    Một lần mùa đông nước lớn, chúng tôi không dám qua An Chánh, phải lên Kiên Thạnh theo con đường núi Thơm để về Trường Ðịnh. Trời có trăng mờ mờ, song đường có nhiều cây cối nên tối đen. Chúng tôi đương đi bỗng nhiên dừng ngay lại, dường như có người cầm giữ lấy chân. Ðịnh thần nhìn kỹ thì thấy trước mặt có một vùng đen ngòm ngòm cắt đứt con đường. Thoạt một con đom đóm từ dưới sâu từ từ bay lên soi sáng. Thì ra đó là một cái hầm bị nước trên núi chảy xuống xoi lở sâu đến lút đầu ! Chúng tôi hú hồn ! Chỉ bước thêm một bước nữa thì không mất thây cũng gãy cẳng ! Lại nhờ bóng đóm, chúng tôi thấy sát chân núi có một khúc gòn bắt làm cầu. Chúng tôi mừng khỏi phải ngủ đường, liền vịn rễ cây qua cầu.
    Về nhà kể chuyện lại cho má tôi nghe, má tôi "lạnh cả người" và cấm chúng tôi không được về đêm nữa, mặc dù ở nhà trông con từng phút từng giây.
    Lòng mẹ thương con không biết lấy gì đong cho vừa !
    Từ ngày anh em tôi đi xuống Qui Nhơn học, đến kỳ nghỉ tết và nghỉ hè, nhất là kỳ nghỉ hè, luôn luôn má ra ngõ đứng trông, hoặc xuống bờ Thú Hưng đợi. Trong bài Nhớ con, má có câu:
    Nghe con sắp được nghỉ hè
    Thẩn thơ ngõ trúc bờ tre trông chừng 12
    Nhưng kỳ nghỉ hè 1927, chúng tôi về đến Thú Hưng không thấy má ; về đến ngõ chỉ thấy đứa em gái chúng tôi chạy ra mừng. Lòng chúng tôi đã thấy e ngại, vội dắt em chạy vào nhà : Má tôi ngồi trên giường ngó ra, nét mặt gầy và đượm sắc buồn. Anh em tôi vội chạy đến quỳ ôm chân má, bệu bạo:
    - Má sao thế má ?
    Má tôi ứa nước mắt, vuốt tóc chúng tôi đáp:
    - Các con đi thay áo xống rồi ăn cơm kẻo đói bụng. Má chỉ bị cảm sơ sơ.
    Quang cảnh trong nhà thật đìu hiu vắng vẻ. Trừ tiếng cười tiếng nói của con em lên bảy, trước sau không có một tiếng động.
    Lúc bấy giờ má không còn làm ruộng nhà. Tất cả ruộng nương đều cho vợ chồng anh Trữ làm rẽ hết. Chị Trữ đã thôi ở cùng má. Thấy má cô quạnh, dì Bảy (chị em cô cậu với má, goá chồng và không con cái) đến ở với má cho có bạn. Dĩ ít nói, cả ngày lủi thủi làm lụng như một cái bóng. Tuy vậy trong ngoài sạch sẽ, đồ đạt sắp xếp ngay hàng thẳng lồi như nhà có nhiều lao công. Phòng dạy hè cũng đã dọn dẹp tươm tất.
    Cậu Chánh và các vị phụ lão trong xóm nghe tin chúng tôi về, đến thăm và hỏi:
    - Chừng nào mở lớp ?
    Má đáp:
    - Xin cho các cháu nghỉ mười hôm.
    Một vị phụ lão cười:
    - Chắc cậu sáu mắc lo đi coi mắt vợ chớ gì ? Cô đã nhắm được nơi nào chưa ?
    Cậu Chánh nói:
    - Mấy tháng nay tôi thấy cổ đi luôn, mà không biết đã nhắm được đâu chưa, chưa thấy cổ cho biết.
    Má chỉ cười chớ không đáp. Tôi tưởng là cuộc nói đùa cho vui. Nhưng tối đến, cơm nước xong, tôi sắc thuốc bưng vào, thì má bảo:
    - Con để thuốc trên bàn, để nguội má sẽ uống, và ngồi đây má nói chuyện:
    Tôi ngồi bên cạnh má. Má nằm nắm lấy tay tôi, và nói với một giọng cảm động khác hẳn ngày thường:
    - Con phải lo cưới vợ.
    Một hơi lạnh chạy khắp mình tôi, tay tôi hơi run. Má tôi mỉm cười và nhìn tôi với vẻ âu yếm lẫn van lơn. Ðây là lần đầu tiên má tôi tỏ thái độ mềm yếu trước con cái. Tôi xúc động quá, gục đầu vào lòng má tôi. Má tôi vuốt tóc tôi, nói tiếp:
    - Ðây là sự chẳng đừng được. Con hãy bình tĩnh để má nói rõ cho con nghe.
    Rồi má bảo tôi đưa chén thuốc. Và má ngồi dậy thổi uống một nửa:
    - Khuya, con hâm nửa còn lại ; má sẽ uống để ngủ.
    Ðoạn ngồi tựa gối, nói tiếp:
    - Má không còn ở với các con được bao lâu nữa.
    Tôi thất kinh, ôm chầm má tôi, kêu:
    - Má !
    Má tôi vuốt tóc tôi:
    - Con trai con đứa mà sao tâm hồn yếu ớt đến thế ! Má đã chết liền đâu mà con hoảng hốt như vậy !
    - Má !
    - Ngồi yên tĩnh nghe má nói: Từ ngày thầy con tạ thế, mỗi tháng ít ra cũng một lần thầy về thăm má. Thầy con đi về cũng như lúc còn làm sở Délignon. Nhưng ngót nửa năm nay không thấy thầy con về, má rất nhớ trông. Hôm tháng trước thầy con lại về. Má trách. Thầy con nói: " Vợ chồng mình đã đến ngày sum họp vĩnh viễn rồi, tôi phải lo tìm nơi thích nghi, nên không về thăm mình được. Thôi mình hãy lo thu xếp việc nhà cho yên xong, rồi tôi sẽ về đón". Má chưa kịp hỏi thêm gì thì thầy con đã biến mất. Lâu nay những lời nói của thầy con thảy thảy đều ứng nghiệm. Cho nên má biết rằng má sắp xa các con. Thêm nữa sau đêm gặp thầy con má thấy trong mình khó chịu. Bệnh ngó thì không ra sao, song má biết rằng thuốc không chữa được mệnh. Bởi vậy má phải lo gấp việc gia thất cho con.
    - Má !
    - Má thương các con lắm. Má cũng muốn sống nuôi hai em con đến lúc lớn khôn. Song làm sao cưỡng được số trời. Má biết hai con không đến nỗi hư hỏng. Nhưng muốn ăn học cho đến khi nên người thì phải có chỗ nương tựa. Các con không thể nhờ cậy chú bác, cậu dì được. Nên con phải cưới vợ. Má đã lựa được nơi xứng đáng rồi. Ngày mốt đây má sẽ cho người đưa con đến xem mặt đứa con gái. Nếu con ưng thì má sẽ lo liệu.
    Má tôi là người thận trọng. Nói điều gì, làm việc gì cũng đều cân nhắc đắn đo kỹ càng. Cho nên không bao giờ anh em chúng tôi dám cãi mệnh.
    Ngày hôm sau, má tôi tuy sức vẫn yếu, song nét mặt trở vui vẻ hẳn lên. Má nhìn tôi cười. Tôi mắc cỡ đỏ cả mặt. Má cốc nhẹ trên đầu tôi một cái:
    - Hư lắm ! Ðàn ông, con trai không nên đeo tánh nết đàn bà con gái.
    Rồi bảo tôi ngồi bên cạnh và nói tiếp:
    - Người má lựa cho con đó là con gái đầu ông Nguyễn Thái Hoàng ở Phú Phong. Ông Nguyễn Thái Hoàng là một đại phú gia trong huyện Bình Khê.
    Tôi vốn có thành kiến với các nhà trọc phú, nên nghe nói đến chữ "đại phú gia" thì lòng tự nhiên phản ứng: đôi mày tôi khẽ nhíu lại. Má tôi thoáng biết ngay. Má cười:
    - Con tưởng má ham giàu à ? Con khờ quá ! Má đã đi coi nhiều nơi rồi. Má chỉ nhắm được có nơi đó. Bà nội rất phúc đức. Bà mẹ tánh tình ai cũng khen cũng phục. Còn con nhỏ, tuy con nhà giàu, ở gần phố, cha lại có biệt thự tại phố Cây Cốc, mà vẫn ở trong nhà quê với mẹ và bà nội, chăm lo việc gia đình, chớ không đua đòi theo chị em. Mặt mũi sáng sủa ngó dễ thương lắm và bốn phía ai cũng khen rằng có nết na. Vì vậy mà má ưng ý.
    - Thưa má. Họ giàu, mình nghèo, chắc gì họ gả.
    - Ở Bình Khê, nhà nào giàu hơn họ Quách, họ Trần ? Giấy rách vẫn còn lề. Hai ông bà ông Nguyễn Thái Hoàng vốn tay trắng dựng nên cơ nghiệp, má chắc là người thấy xa hiểu rộng, không có ý thức "cân của làm sui". Thôi, cậu hãy "sửa bộ mặt cho sạch sẽ dễ coi" đi, để sáng mai sớm lên Phú Phong.
    Ở Phú Phong tôi có bà cô tên là Năm Lâu, em bạn dì của thầy tôi. Việc tôi lên coi mắt vợ, má tôi đã cho cô tôi biết trước và cậy cô tôi tìm cách cho tôi thấy được rõ ràng? nên cô tôi đã bố trí chu đáo. Song lúc bấy giờ tôi chưa biết muốn vợ, lại thêm tự nghĩ:"má mà đã khen là dễ thương thì nhất định là dễ thương, còn phải coi làm chi cho mất công". Cho nên tôi không lưu tâm đến việc gặp gỡ. Khi về nhà, má hỏi, tôi thưa:
    - Con đồng ý với má.
    Má cười:
    - Sao tiến bộ chóng thế ? Có thấy thật không hay nói láo cho qua chuyện ? Liệu đó, chớ sau nầy đừng « đổ thừa » tại mả đó nhé.
    Thế rồi tôi lo dạy học cùng em tôi. Má lo nhờ mai mối đi nói, rồi đi hỏi. Ðám hỏi lo xong (ngày 11 tháng 6 âm lịch) thì má tôi mệt nặng. Tôi cho học trò nghỉ để lo việc thuốc thang. Những ông lang hốt thuốc cho má lâu nay đều bất lực. Tôi rước thấy Tàu An Thái, rồi đưa má đi nhà thương Kim Châu. Má chìu ý tôi, nhưng nói:
    - Không uống thuốc, không đi nhà thương, sợ các con buồn. Chớ dù có thuốc tiên cũng không chữa được mạng. Nhưng sang năm má mới theo thầy con.
    Thấy má mỗi ngày mỗi yếu thêm, thuốc thang không chút hiệu quả, anh em tôi hết sức buồn lo. Nhưng má tôi vẫn bình tĩnh và thường nói cùng tôi:
    - Người sắp chết thường lo cho con cái không người nuôi nấng thương yêu. Má đã tìm cho con một nơi phước đức rồi. Má yên tâm mà nhắm mắt. Con không nên buồn. Co lo sao cho con và hai em con nên người phải, đó là thương thầy má. Sống lâu không phải ở nơi tuổi tác, mà do nơi con cháu biết làm cho rạng vẻ môn mi. "Hữu sanh thể phách hoàn thiên địa ; bất tử tinh thần tại tử tôn". Má mong sao các con ráng làm cho "tinh thần bất tử". Ðó mới thật là có hiếu.
    Tuy yếu, nhưng ngày nào má cũng bảo chúng tôi đọc truyện cho má nghe. Ngoài những bộ Ðông châu, Tây du, Tam quốc đã có sẵn từ trước, chúng tôi mỗi năm mỗi mua thêm một số nữa như Hán Sở tranh hùng, Thuyết Ðường, Nhạc Phi, Tống Ðịch Thanh, v.v. Má rất lấy làm thích thú.
    Ông gia bà gia tôi nghe tin má tôi uống thuốc thầy Tàu, uống thuốc nhà thương Kim Châu không bớt, liền tìm mua sâm tốt và cho gia y là thầy Lưỡng Xuông xem mạch hốt thuốc. Má tôi khoẻ dần dần và đến cuối tháng 7 âm lịch, hết hạn nghỉ hè, thì má đi ra đi vô được. Chúng tôi yên tâm tựu trường.
    *
    * *
    Khi bằng lòng gả con cho tôi, ông gia tôi có giao hẹn cùng má tôi rằng chỉ cho đi hỏi sớm, còn cưới thì phải đợi năm sau. Má tôi bằng lòng. Nhưng sau khi uống thuốc thầy Lưỡng, khoẻ được mấy tháng thì má tôi yếu trở lại mặc dù thầy hết lòng và thuốc hốt toàn thứ tốt. Biết rằng không còn sống được bao lâu nữa, má tôi yêu cầu ông gia bà gia tôi cho làm lễ cưới trước kỳ hạn. ông gia bà gia tôi hoan hỷ chấp thuận. Lễ cưới cử hành ngày 11 tháng chạp âm và lễ rước vào ngày 26. Vì tất cả đã chuẩn bị trước nên mặc dù má yếu, nghi lễ không thiếu sót và buổi lễ rất long trọng. Hôm đám hỏi, má tôi thân hành đến nhà gái. Nhưng ngày cưới, vì sức yếu quá nên bác tôi đứng chủ hôn.
    Rước vợ tôi về Trường Ðịnh rồi, má tôi cho mời bác tôi, và ông gia tôi đến bàn việc nhà.
    Má tôi thưa cùng bác tôi:
    - Làng Trường Ðịnh không thể ở được nữa. Sau khi tôi qua đời, phải bán hết nhà cửa ruộng đất. Lũ con tôi sau nầy muốn ở Thuận Ngãi, Phú Phong hay nơi nào tuỳ ý.
    Và thưa cùng ông gia tôi:
    - Anh chị vốn có lượng bao dung, đã thương rể tất thương luôn hai đứa em côi của nó. Tôi xin gửi chúng cho anh chị. Ruộng đất của tôi bán hết cũng tạm đủ cho thằng Tạo ăn học đến đậu bằng trung học. Nếu có thiếu hụt, anh chị cho cháu mượn thêm, cháu không dám quên ơn đức. Ðưá con gái út của tôi nó cũng theo chị nó về làm bạn cùng lũ con gái anh chị. Ðược anh chị chu toàn cho, tôi yên tâm mà nhắm mắt.
    Bác tôi và ông gia tôi xin nhận lời.
    Má tôi cho mời Cậu Chánh Trần Trác đến, và thưa:
    - Lũ con tôi còn nhỏ chưa có thể phụng tự ông ngoại và cậu chúng được. Tôi có trích đám Mốc và đám Cổng làm hương hoả. Tôi chết rồi, nhờ anh rước vong linh cậu tôi và em tôi về từ đường thờ. Sau nầy con tôi lớn khôn, chúng sẽ lo đền ơn trả thảo cho ông ngoại.
    Giấy ruộng má đã viết sẵn, bèn lấy giao ngay cho Cậu Chánh.
    Sắp đặt xong mọi việc, má tôi yên vui. Tuy nằm một chỗ mà lễ tết má tôi chỉ vẽ cho nhà tôi sắm sửa chu đáo, trong nhà vui vẻ như mọi năm.
    Má tôi đối với nhà tôi hết sức thương yêu. Má thường nói riêng với tôi:
    - Má rất tiếc không sống được để dạy dỗ vợ con. Nó phúc hậu và sáng ý, lại khéo tay. Nếu được má chỉ vẽ thêm thì con gái huyện nhà chưa chắc đã có người hơn nổi. Má không ngờ phải theo thầy con gấp, nên môn cắt áo đậu bông của ông nội còn truyền cho má và các món bánh Tàu bà cố ngoại con dạy, má không truyền lại cho nó được. Cách pha trà má học được của bà cố ngoại, nhưng lũ bay đều hạng ""ngưu ẩm", có biết cũng không ích gì.
    Má tôi cũng thường khuyên dạy nhà tôi cách xử thế. Lại dặn riêng những "bí quyết" để "trị" tôi. Nhưng dặn nhà tôi giữ kín, nên tôi đành chịu đứng ngoài "vòng bí mật".
    Love to live
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Quách Tấn
    Má tôi ( IV )
    Tết xong, bệnh má tôi nặng thêm. Tôi biết không qua khỏi tháng giêng, định xuống trường xin phép thêm (vì tôi đã được phép nghỉ trước lễ nghỉ tết đến 10 hôm để cưới vợ, theo đơn xin của má tôi) để ở nhà với má. Nhưng đến chiều mồng 6 tháng giêng âm lịch, má gọi anh em tôi vào dặn:
    - Sanh ly tử biệt là cảnh đau lòng nhất trên thế gian. Song thầy các con đã dạy rằng không có gì đáng bi lụy, vì đó chỉ là cảnh thay đổi của ngày đêm. Các con nhớ "chết là đi về" và "sống lâu không ở nơi tuổi" như má đã nói với các con. Ðể má yên vui nơi chín suối, các con nên nhớ những lời má đã dạy bấy lâu nay. Tức là phải ăn ở cho phải Ðạo. Nếu vun thêm nền phúc đức của ông bà để lại không nổi thì ráng giữ đừng cho sụp lở. Và sau khi an táng má xong, các con phải bán nhà bán ruộng, về nương nhờ anh chị bên Phú Phong. Nhất định không nên bịn rịn nơi các con đã sanh trưởng. Quê hương ai lại không thương yêu. Nhưng chỉ bo bo giữ gốc tre làng, sao bằng lo lập nên công nghiệp để làm vẻ vang cho làng nước. Thầy má sẽ luôn luôn ở bên các con để phù hộ cho các con lo tròn nghĩa vụ của kẻ làm con làm dân, nếu các con nhớ lời má dặn.
    Ðoạn kêu nhà tôi bảo lo sửa soạn hành lý để ngày hôm sau chúng tôi tựu trường, vì ngày mồng 7 khai hạ hết hạn nghỉ tết:
    - Con được học bỗng, phải giữ kỷ luật trường chặt chẽ. Con phải có mặt tại trường ngày mở lớp. Má có đi cũng mươi hôm nữa. Má sẽ tin cho các con biết ngày má đi để các con về.
    Sáng hôm sau, má lại gọi nhà tôi bảo lo dọn cơm nưóc cho anh em tôi ăn đi Qui Nhơn. Chúng tôi không dám trái mệnh. Song có cảm giác rằng má tôi không còn ở lại được lâu, nên ăn uống xong, vào chào má rồi mang gói ra cửa trước đi quành ra cửa sau, lén chun vào nhà trên ẩn náu. Má nằm buồng nhà dưới, cửa đóng kín. Chúng tôi nằm lặng im. Nhà tôi lo dọn dẹp dưới nhà bếp. Trong ngoài yên lặng như tờ. Vài giờ đồng hồ sau má tôi gọi nhà tôi hỏi:
    - Sao hai đứa nó chưa đi ?
    Nhà tôi thưa:
    - Dạ đi rồi.
    Má rầy:
    - Chúng nó trốn trên nhà trên, chớ đi gì! Bảo chúng nếu còn bần dùn, má sẽ chết ngay bây giờ.
    Chúng tôi thất kinh, phải gạt lệ ra đi.
    Ðến Qui Nhơn đã tối. Sáng hôm sau chúng tôi mới vào trường. Vừa đến văn phòng thì ông Tổng Giám thị Huỳnh Văn Gi cho hay rằng má tôi đã mất và cho phép chúng tôi về nhà chịu tang 10 ngày.
    Thì ra chúng tôi ra đi được vài giờ đồng hồ thì má tôi mất, vào lối bốn giờ chiều. Nhà tôi liền cho người lên tin cho bác tôi và ông gia bà gia tôi biết. Ông gia tôi một mặt đánh điện tín xuống Qui Nhơn, một mặt cho gia nhân xuống giúp nhà tôi.
    Từ lúc bệnh trở nặng đến lúc nhắm mắt má tôi luôn luôn bình tĩnh và tỉnh táo. Nằm một chỗ mà mọi việc đều sắp đặt chu đáo và quan tài cùng đồ hậu sự cũng đã mua sắm sẵn sàng. Trước khi đi, dặn đi dặn lại người nuôi:
    - Tôi chết rồi thời phải liệm ngay vì hôm nay được ngày. Rồi ngày mai, hai đứa con tôi về lúc nào là đưa tôi đi lúc ấy.
    Cho nên khi anh em tôi về thì ông gia bà gia tôi và bà con bên nội bên ngoại đều đã tề tựu đông đủ. Chúng tôi vào nhìn mặt mẹ lần cuối cùng, rồi nghìn thu vĩnh biệt!
    Thảm quá Má ơi!
    Anh em tôi lúc bấy giờ thân xác rã rời, tâm hồn tê tái. Nhà tôi mới 16 tuổi đầu lại mới về làm dâu chưa đầy nửa tháng! Nhưng nhờ ông gia bà gia tôi bỏ cả việc nhà xuống đôn đốc mọi việc và nhờ sức ủng hộ của bà con cô bác gần xa, nên đám tang rất chu đáo và rất trọng thể.
    Má tôi an nghỉ cạnh thầy tôi theo sở nguyện lúc bình sanh.
    Ðám tang xong rồi, mọi người đều đi về nhà hết. Trong nhà chỉ còn hai vợ chồng tôi và hai em tôi cùng dì Bảy với ông Năm Tân là người lão bộc ông gia bà gia để lại giúp đỡ chúng tôi. Cảnh nhà quạnh vắng đến lạnh lùng. Nhất là ban đêm, cảnh càng thê lương áo não! Trước bàn thờ mẹ, bốn chúng tôi phủ phục mà khóc. Nhìn thấy hai em nhỏ dại, tôi đứt từng đoạn lòng! Không buồn ăn, không buồn ngủ. Lắm lúc tôi cảm thấy nghẹn thở ! Tôi có cảm giác bị nhận chìm dưới biển sâu, và vợ cùng hai em tôi là ba chiếc bong bóng nổi lênh bênh trên biển cả ngay trước mắt tôi nhưng ở tận trên mặt sóng xa cách nghìn trùng. Tôi thấy ngợp và quằn quại từng cơn.
    Ðau đớn quá, em tôi vừa khóc vừa nói cùng chị:
    - Em hết muốn học nữa!
    Nhà tôi nghẹn ngào đáp:
    - Má dặn đi dặn lại tôi chớ để cho chú và nhà tôi bỏ học một ngày. nếu chú và nhà tôi thôi học, tôi phải mang tội cùng má trước nhất.
    Lúc bấy giờ tôi không còn nghĩ đến gì cả. Tôi đã mất hẳn lòng tự chủ mà má tôi đã rèn luyện bấy lâu. Em tôi muốn thôi học, nếu nhà tôi cũng muốn nữa, thì chắc tôi cũng theo. Nhưng nghe nhà tôi nói tôi liền nhớ đến lời ông gia tôi nói với giọng nghiêm nghị, khi ra về:
    - Làm tuần thất nhật rồi, anh em con phải về ngay Phú Phong để đi xuống trường. Còn con Em ở nhà với chị nó. Cô Thông đã căn dặn trước khi mất. Các con không được trái lời.
    Tôi tự nghĩ:
    - Ði hết ai lo bát nước nén hương !
    Nhưng tôi vụt thấy đôi mắt má tôi nhìn tôi nửa thương nửa quở:
    - Thờ cha mẹ nơi tâm chớ đâu phải nơi hương khói. Nhớ thương cha mẹ thì phải lo hoàn thành sở nguyện của cha mẹ buổi bình sanh, chớ đâu phải đắm mình trong nước mắt?(!13)
    Tôi phải cố gắng dồn tất cả nghị lực để chống mọi nỗi buồn thương chán nản. Không phải là dễ ! Nhưng nhờ những lời giáo huấn, lời di huấn của má tôi luôn luôn vang vọng bên tai tôi, khiến cho tâm phải nhượng bộ trí.
    Cho nên làm tuần thất nhật xong, chúng tôi giao nhà cửa cho dì Bảy coi ngó, và nhờ dì lo việc hương khói hằng ngày cho má tôi. Con Em thì giao cho nhà tôi săn sóc. Còn hai anh em tôi lo tiếp tục việc học hành.
    Ở nhà cứ rằm và mồng một mỗi tháng, nhà tôi ở Phú Phong, mua sắm lễ vật thân hành đem xuống Trường Ðịnh cúng má tôi.
    Sau khi làm tuần ba tháng mười ngày cho má tôi xong, chúng tôi rước hương linh thầy má về thờ tại nhà bác tôi ở Thuận Nghĩa (tức Quách Trọng Ðường là từ đường của ông nội tôi, mà bác tôi phụng tự). Cậu Chánh rước ông ngoại tôi về thờ tại từ đường họ Trần. Còn vườn nhà thì bán cho mợ Tú Khương.
    Từ đây chúng tôi bước sang đoạn đời khác, nhưng cảnh buồn không cha mẹ, nỗi buồn thương khi mất mẹ, chẳng những không bao giờ phai lạt, mà mỗi ngày mỗi thêm thấm lịm vào tâm, mỗi thêm cô đọng nơi hồn. Cuộc đời đã bao nhiêu lần biến đổi, sớm tối đã hơn bốn mươi năm qua, mà hễ nghĩ đến mẹ già xưa là không cầm được nước mắt!
    ** *
    Lòng tôi thương yêu thờ kính thầy và má tôi thật không có nặng nhẹ.
    - Cảnh có núi sông nhiều thú lạ
    Ðời không cha mẹ ít khi vui.
    - Tùng trúc cảnh xưa còn thấy đó
    Thung huyên bóng ngã biết về đâu.
    Nhưng đối với thầy tôi, tôi có cảm tưởng là thầy đi du lịch. Cho nên chỉ nhớ như nhớ người đi xa chớ không buồn thương. Còn đối với má tôi, mỗi lần tôi nghĩ đến thì lòng tôi luôn luôn thảm thiết, não nùng ! Nói đến những bà mẹ hiền đức, trông thấy những bà mẹ phúc hậu?, nước mắt tự nhiên rơi !
    - Ðùm bọc nghĩ thương em trẻ dại
    Ấm no thêm nhớ mẹ già xưa !
    ** *
    Còn ngôi nhà ở Trường Ðịnh, tuy bán cho mợ Tú, song mỗi lần chúng tôi về thăm phần mộ thầy má, chúng tôi đều ghé vào thăm cho đến lúc mợ Tú triệt hạ nhà cũ dựng nhà mới và sửa sang lại vườn tược làm mất những dấu tích ngày xưa. Lần cuối cùng tôi về thăm vườn nhà cũ là mùa xuân năm 1932. Áo não bồi hồi, tôi có bài thơ cảm tác:
    Quê người dong ruổi bấy nhiêu lâu
    Vườn cũ về thăm cảnh dãi dầu
    Trống trải ba gian nhà nhện choán
    Ngửa nghiêng bốn mặt dạu bìm leo
    Cội tùng bóng ngã sương rơi lệ
    Ngõ trúc mây che cuốc giục sầu
    Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ
    Giật mình ngỡ đến chốn nào đâu !
    ** *
    Và từ ấy vì đi làm việc xa, nên chỉ vài ba năm một lần, chúng tôi mới về Trường Ðịnh. Mà về cũng chỉ để thăm phần mộ thầy má chúng tôi mà thôi. Vì má tôi mất rồi thì tình bà con bên phía ngoại đối với chúng tôi không còn đằm thắm như trước, nhất là sau khi cậu Chánh qua đời. Chừng ấy tôi mới thấm thía câu nói của má tôi trước khi mất:
    - Làng Trường Ðịnh không thể ở được nữa.
    Tình người tuy có bạc, song tình quê đối với người cũ, nhất là phần mộ của hai thân vẫn giữ chặt lòng tôi vào làng Trường Ðịnh. Tôi mong làm được một cái gì cho làngTrường Ðịnh nơi còn giữ không biết bao nhiêu kỷ niệm về đời thơ ấu của tôi, và nơi thầy má tôi an nghỉ vĩnh viễn.
    ***
    Phần mộ của thầy má tôi bằng đất. Năm 1930 tôi muốn xây mộ vôi, để được yên tâm khi làm việc nơi xa xứ. Nhưng ông tú Võ Kiêm (chồng sau bà ngoại tôi) đến xem cuộc đất, bảo chưa được năm. Ðến năm 1936, tôi lại muốn thực hiện ý muốn một lần nữa. Ông gia tôi nhờ ông thầy địa có tiếng ở Tuy Phước, tục gọi là ông "Ðại Hào mục" đến ngắm đi ngắm lại, rồi bảo rằng "mộ thầy tôi đã kết, làm vôi sợ động không nên". Dượng hương Bỗng tức ông Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hoà cũng nói:
    - Ông nội cháu thường dặn: "Hễ mồ mả cha ông đã yên rồi thì không nên đụng đến". Cho nên mộ ông Thỉ Tổ của cháu vẫn là mộ đất, mặc dù con cháu giàu có đời nọ nối đời kia.
    Vì vậy mỗi lần nảy ý định xây mộ vôi cho thầy má thì lòng lo ngại "đào móng động anh khí kết tụ", nổi lên ngăn lại. Cho nên mãi đến nay vẫn chưa hoàn thành được tâm nguyện. Mấy năm giặc giã liên miên, không về thăm được, mỗi lần nghĩ đến, lòng tôi ngùi ngùi.
    Nha Trang, Trọng Xuân Ðinh Vị
    (Tháng 3 năm 1967)

    QUÁCH TẤN
    --------------------------------------------------------------------------------
    1. Lời xưa của dì phó, khi nhắc nhở đến má tôi, sau nầy.
    2. Ca dao có câu: Trai ba mươi tuổi còn xuân
    Gái ba mươi tuổi như đùm mắm nêm.
    3. Những câu ca dao chép trong quyển Nước Non Bình Ðịnh phần nhiều là của má tôi thường hát ru con, của má đặt có, của người xưa có.
    4. Xem chuyện đối thoại về Tây sơn ở chương "Thầy tôi", trang 73-76.
    5 Những huấn từ của thầy má tôi, tôi ghi sâu vào trí óc lúc nhỏ, lớn lên những khi gặp tôi, dượng hương Bỗng và cậu Ðoàn Phong thường nhắc đến.
    6. Thời kháng chiến (1945-1954) dượng hương Bỗng nhắc lại câu chuyện nầy rồi bảo:"Mãi sau nầy tôi mới nhận thấy lời nói của thầy Thông dì Thông là thâm thuý, là cao minh".
    7. Trong Mộng Ngân Sơn, bài Nhớ mẹ:
    Gò thu: cam chín tới
    Lòng mẹ ngày con đau
    Ngon ngọt đời chưa báo
    Trời hôm thương bóng dâu
    8. Sẽ nói rõ ở quyển hạ.
    9. Sẽ nói rõ ở quyển hạ
    10. Thầy tôi chỉ đọc sách chữ Tây và cắt nghĩa cho ông nội tôi nghe mà thôi.
    11. Vì nhận thấy làm thầy cho phải đạo khó quá, nên khi đậu Trung học rồi tôi không xin đi dạy và năm 1957, Quách Giao (con trai tôi) đậu Tú tài xong muốn vào Trường Sư phạm, tôi không cho.
    12. Bên ngõ có khóm trúc cao rậm (thật ra đó là khóm trảy). Bờ Thú Hưng trồng tre để giữ nước suối Bèo khỏi xói lở lúc lụt lội.
    13. Lời má tôi nói với anh em tôi, khi thầy tôi qua đời.
    Nguồn: www.khuongviet.com
    Love to live
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Lê Đạt​
    Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1929, quê ở Á Lữ, Bắc Giang.
    Ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm vào những năm 50 rồi vắng bóng trên văn đàn suốt 30 năm. Ông trở lại với bạn đọc qua tập thơ Bóng Chữ xôn xao dư luận cả trong lẫn ngoài nước.
    Ông hiện đang cư ngụ tại Hà Nộị
    Đã xuất bản: Bài Thơ Trên Ghế Đá (chung với Vĩnh Mai, 1958), 36 Bài Thơ Tình (chung với Dương Tường, 1990), Thơ Lê Đạt Sao Mai (chung với Sao Mai, 1991), tập thơ Bóng Chữ (1994) và tập truyện ngắn Hèn Đại Nhân (1994).
    Lê Đạt chủ trương dường lối thơ "tạo sinh" -- thơ phải dựa vào "ý tại ngôn ngoại", phải cô đúc, đa tầng, đa nghĩa, và đa ngã (phỏng theo nhà phê bình Thụy Khê). Thơ ông giàu nhạc điệu; nhiều sáng tạo, cách tân; phảng phất nhiều điển cố văn học và lịch sử; chất chứa vô vàn những lối "chơi chữ" tạo hình hóm hỉnh, đòi hỏi ở độc giả một trình độ thưởng thức caọ
    Lầu Hạc Vàng (I)​




    Không tận xanh thơ thở trắng trời
    Nắng xiên khoai mặt người cố tình đánh chìm đời mình trong sóng rượu... làm Thôi Hiệu bừng tỉnh.
    Cơn buổi xế chiều thật não ruột. Chưa bao giờ Thôi Hiệu cảm thấy chiến bại như lúc nàỵ Cuộc đời như con thuyền rời bến Dương Châu hoa khôi hoà khói bỏ rơi kẻ nhỡ đò trên đất la..
    Văn hay chữ tốt mà làm gì...
    Cái bằng tiến sĩ chỉ đem lại cho Thôi Hiệu một chức quan nhỏ với bao nhiêu hệ lụỵ
    Tài hoa làm gì... Nếu tài hoa chỉ để làm những câu thơ đẹp đủ quyến rũ đám nữ nhân chuộng hư danh hay đám nhà thơ dễ tính. Nói chi so sánh với Lý Bạch, Đỗ Phủ, với Lưu Trường Khanh, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu cũng còn xa mới với tớị
    Thôi vẫn nhớ đêm cầm ca mùa trăng ấy, đệ nhất giai nhân Tây Hồ chỉ hát toàn thơ Vương Chí Hoán. Danh sĩ đất Biện Châu bỗng có cái xót xa của một trượng phu thấy người yêu ngoại tình ngay trước mắt mình và chén bồ đào mỹ tửu đêm ấy đột nhiên đắng ngắt như có ai vô tình bỏ vào đó một trái bồ hòn. Người ta đã quên Thôi ngay lúc sinh thờị
    Cái giống nhà thơ kể cũng lạ, nếu không nói là hâm, chập ma.ch. Bao nhiêu đền đài, miếu mạo, lăng tẩm đồ sộ đã bị thời gian xóa sạch, thế mà bọn ngông cuồng không ngoằng vô dụng dám đánh một canh bạc lớn với thời gian, ôm cuồng vọng cầm giữ bất tử trong một kỳ trận chữ.
    Và cũng thật trớ trêu, hình như không ít những giai nhân, những vương triều hùng mạnh, những chiến tích hiển hách thời xưa sở dĩ lưu lại hậu thế cũng là nhờ mấy con chữ gió thổi bay của đám cuồng sĩ kiạ Hay kiếp trước Thôi đã làm gì thất đức.
    Mà nào ai có hiểu được nỗi lòng của Thôị Một người bạn thân đã chỉ vào mặt nhà thơ quát lên khi rượu đã vơi trong bình:
    "Mày là thằng không biết điều... Cả vùng Giang Nam này bao nhiêu người chỉ thèm được một bài thơ như của mày cũng đã cho là tuyệt vời hạnh phúc !"
    Biết nói thế nào với bạn bây giờ ?
    Kể nhiều lúc ngồi múa bút giữa bầy cung văn một chữ thè lưỡi khen hay, hai chữ xuýt xoa khen tuyệt cũng khoái... để lúc tỉnh đồng lại càng dằn vặt, càng xót xa với câu hỏi tàn nhẫn:
    "Trong hàng trăm bài thơ này liệu có câu nào còn lại ?"
    Ôi, trong cuộc chạy đua với thời gian không gì nản hơn sự cầm bằng tất cả những câu thơ của mình sẽ lần lượt bỏ cuộc.
    Thôi nhìn mấy chữ đại tự Hoàng Hạc Lâu nét bút gân guốc mà bay múa tựa nét bút Vương Hi Chị Ánh nắng chiếu vào nền thiếp vàng khiến những chữ lung linh như khởi đô.ng. Thôi Hiệu chua chát: một trăm năm sau công trình tuyệt tác này chỉ còn là gò đống và cỏ lác... Có lẽ cả tên
    Lầu Hạc Vàng cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa...
    Cảnh đẹp như thoát tục. Mây trắng bay cả vào chung rượụ Xa kia là đất Hán Dương, những hàng cây đứng thẳng tắp như đạo quân vào lúc Hàn Tín điểm binh... và bãi Anh Vũ cỏ xanh mơn mởn lông tơ má thì con gáị
    Chẳng lẽ tất cả rồi sẽ bị thời gian tàn phá hết? Biết đâu tất cả sẽ còn sống mãi nhờ mấy dòng chữ của Thôị Nhà thơ đứng tuổi bỗng thấy lòng bồn chồn khó tả. Thành công, chí ít cũng được hưởng cái say của một giấc mộng lớn... Như người xưa, chắp hai cánh vào tay bay lên giữa man mác trời rộng... Và chết cùng mây trắng...
    Thôi bỗng mỉm cười nửa hài hước nửa ngậm ngùị "Có khi làm xong bài thơ này mình sẽ từ trên lầu Hạc Vàng nhảy xuống... lấy cái chết thế mạng cho những con chữ bất đắc".
    Và Thôi cầm bút. Viết gì bây giờ ? Những chữ đầu lòng mới khó làm sao ! Tay ông rùng rùng. Mồ hôi và rượu vã ướt đầm. Thôi cảm thấy người bừng bừng như say rượụ Có lẽ còn say hơn rượụ Ông không nhìn thấy ngọn lầu, không nhìn thấy dòng sông, không nhìn thấy cảnh vật chung quanh... Ông cố trấn tĩnh nhưng không trấn tĩnh được. Hình như có một ai đó nói trong đầu ông. Tiếng quen lắm. Nó nói gì vậy ? À, nó đọc thợ Ông có cảm giác một diễn viên quên lớp nghe tiếng người nhắc vở trong cánh gà. Tay ông cũng tuân theo mệnh lệnh của kẻ khác. Và nó lượn nó múa nó viết gì thế kia, dưới thôi thúc một mãnh lực kỳ bí không cưỡng lại được.
    Bài thơ xong lúc nào Thôi cũng không haỵ Khi đọc lại ông bỗng bàng hoàng. Bài thơ tuyệt vời này có thật của chính ông hay của ai ? Làm sao ông có thể viết nổi những câu thơ trác tuyệt đến thế ! Chúng có thể sánh những câu thơ đẹp nhất từ ngàn xưa không chút xấu hổ. Ai đã gà cho ông ? Hay những chữ bỗng biến hóa, tung hoành, tự tin ở thân phận bất tử của chúng đã nhập vào bất cần ông. Nhà thơ đã tạo ra chúng hay chúng đã tạo ra nhà thơ ? Lòng tràn ngập một niềm hân hoan và tri ân vô hạn. Thôi Hiệu qùy xuống kính cẩn chắp tay lạy những con chữ đang lấp lánh trên tường. Chữ đã dẫn ông gặp bất tử trong khoản khắc kỳ ngô..
    Thời đó chưa có hệ thống phát hành sách cũng như các hệ thống thông tin đại chúng hiện đại như bây giờ nhưng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đã nhanh chóng truyền đi khắp lục địa Trung Hoạ Những ăng-ten cực nhạy là tai của giới yêu thơ đã bắt ngay được tần số của nó và người ta lập tức phát miệng phủ sóng toàn quốc... mở đầu cho cơn dịch Hoàng Hạc Lâụ
    Tên tuổi Thôi Hiệu bỗng sáng chói như một thiên thạch bay trên nền trời, tưởng chừng át cả Lý, Đỗ.
    Ở đâu cũng thấy nói đến "Hạc Vàng đi mất từ xưa... Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay". Vô phúc cho kẻ nào không thuộc lòng bài nàỵ Anh ta lập tức bị xem khinh mười lăm phút và có thể vĩnh viễn bị khai trừ khỏi hàng ngũ tao nhân mặc khách.
    Một hôm Thôi Hiệu đi thăm một người bạn tại một địa phương no.. Gío mùa thu bay lá cuốn theo ngọn tửu kỳ xào xạc của một quán rượu khiến nhà thơ không đành lòng bước quạ Ôi những lá cờ rượu, nó mới đình đám mời đón làm sao ! Hình như chỉ có ở Trung Hoa người ta mới treo cờ trước các cửa hàng rượu ngày nọ sang ngày kia như vậỵ Lá cờ lúc nào cũng bay... cũng saỵ Có phải câu "nam vô tửu như kỳ vô phong" là xuất xứ từ những lá cờ tưng bừng như cờ lễ hội này ?
    Rượu ngon, cá nướng lại tuyệt. Thôi Hiệu mềm môi đánh chén mãi, cho đến lúc tửu nhị đến tính tiền, cho tay vào túi mới biết nó đã rỗng. Mặc dù nhà thơ hết lời nói khó và cam đoan rằng khi gặp người bạn là Vương tri phủ nhậm chức tại đây sẽ cho người đến thanh toán gấp đôi, ông cũng không lay chuyển được lập trường sắt đácủa tên hầu bàn. Cũng chẳng nên trách nó. Đời thiếu gì kẻ ăn quịt mặt mũi còn phương phi, ăn vận còn bảnh bao hơn Thôi Hiệụ
    Lý luận của nó rất đơn giản. "Ngài đã ăn thì phải trả tiền, không có tiền thì gửi khăn áo lại". Và nói đi đôi với làm, nó xấn tới lột khăn áo nhà thợ
    Thấy ồn ào, chủ quán chạy tớị Khi nghe khách nói là bạn Vương tri phủ và nhất là tự xưng danh Thôi Hiệu, chủ quán mừng líu cả lưỡi:
    -- Ngài có phải là Thôi Hiệu... ấy không ?
    Và khi biết khách là Thôi chính hiệu, chủ quán bèn quát tiểu nhị bày thêm rượu và món nhậu thượng hạng ăn mừng thời cơ ngàn năm có một hạnh ngộ đệ nhất sĩ.
    Thôi Hiệu đành nể tình một suất tiệc đúp... và viết tặng chủ quán một bài Hoàng Hạc Lâụ Chủ quán xuýt xoa mãi như được một đặc ân, tất nhiên không dám tính tiền mà còn biếu nhà thơ lớn khoảng bạc vụn làm lộ phí.
    Bài thơ Hoàng Hạc Lâu gần như trở thành một tấm ca.c-tínđụng với taì khoản vô hạn cho phép Thôi chu du qua hầu hết các ca lâu tửu quán loại năm sao khắp miền tổ quốc. Và trung tâm nào không có bài thơ Hoàng Hạc Lâu do chính tay Thôi đề tặng trên vách sau những ngày hành lạc thoải mái và cả khoảng phong bì hậu hĩnh đương nhiên là bị hạ cấp xuống mấy saọ

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 21:59 ngày 30/04/2004
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lê Đạt
    Lầu Hạc Vàng (II)​
    Thôi Hiệu đắt hàng qúa nên lập tức nảy sinh ra nạn Thôi Hiệu dỏm không sao dập tắt được. Bắt chước nét chữ Thôi Hiệu nào có khó khăn gì ! Sử chép thời đó nguyên vùng Giang Nam đã có ngót ngét một vạn Thôi vừa chính vừa giả hiệụ
    Không chỉ có giới chủ khách sạn và cao lâu mê Thôi Hiệu như một phương tiện quảng cáo đặc hiệu, giới trí giả cũng hâm mộ ông không kém. Thôi Hiệu đã trở thành một hiện tươ.ng.
    Ai cũng biết Đường Tư Không là một vị đại quan giàu sang nhất nước, cũng là một nhà nho nghiêm cẩn đến cố chấp. Nhất cử nhất động gia pháp họ Đường đều như diễn tả những lời dạy của cụ Khổng. Nhưng họ Đường lại có tật yêu thợ Ông muốn mời Thôi Hiệu đến chơi lắm. Nhưng tai tiếng của Thôi cũng đồng cân đồng lạng với danh tiếng của nhà thợ Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả đàn bà... Một nhà nho chính danh như Đường không thể tiếp Thôi Hiệu tại nhà mà không ảnh hưởng tiêu cực đến gia pháp. Họ Đường bèn xây dựng riêng một căn hộ thoáng mát với đầy đủ tiện nghi để tiếp một mình nhà thơ bạc ha.nh. Thôi thì hắn ta có bậy bạ gì thì bậy bạ ra đó.
    Để đền đáp mắt xanh của chủ nhân, Thôi lại chép tặng ông... lại... một bài Hoàng Hạc Lâụ
    Dịch Hoàng Hạc Lâu ảnh hưởng không tốt đến giới làm thơ trẻ... những bài Hoàng Hạc Lâu con cháu chút chít sòn sòn đua nhau ra đờị Cũng chẳng sao... Với thời gian, nhà thơ trẻ nào có chân tài sẽ tìm thấy tiếng nói lập nghiệp của mình, như những người con đến tuổi trưởng thành từ biệt bố mẹ ra ở riêng. Điều đáng chú ý là nó ảnh hưởng ngay đến sáng tác của Thôị Từ sau bài Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu cũng viết rất nhiều nhưng bài nào cũng bị bài Hoàng hạc Lâu làm nghẹt thở như bị bóng đè. Bản thân Thôi Hiệu bỗng run... Ra bài này liệu nó có phương hại đến mình không ? Và ông lại xé... lại viết... lại xé... hàng chục năm trời Thôi Hiệu vẫn chỉ chép tặng tri kỷ thập phương một bài... Hoàng Hạc Lâụ
    Vả lại người ta, cũng có đòi bài khác đâu !
    Không ai biết thảng thốt hoặc vào những lúc canh khuya thức giấc Thôi uất ức bài Hoàng Hạc đến mức nàọ Bài thơ hình như đã chiếm đoạt cả cuộc đời làm thơ của ông. Nhưng có thật là ông uất ức nó không ? Thôi Hiệu thở dàị Té ra mình đã về hưu từ buổi Lầu Hạc Vàng.
    Thôi Hiệu cố vùng vẫỵ Nhưng vô hiệu... Chiếc đĩa đã thành rãnh và đầu kim đành chạy theo lối cũ.
    Nói thế thôi chứ Hạc Vàng vẫn còn ăn khách chán. Và Thôi Hiệu có thể sống suốt đời một cách sang trọng nhờ bài thợ Một nhà triệu phú quá hâm mộ còn mở một cuộc thi lớn: "Ai viết nổi một bài vịnh Lầu Hạc Vàng địch được với bài của Thôi Hiệu sẽ được tặng một nghìn cân vàng".
    Hôm chung kết các tao nhân mặc khách đến đông chẳng khác gì một kỳ thi hoa hậụ Nhất là khi mọi nngười được tin cả Lý Bạch cũng tham dư..
    Không ai biết lý do sâu xa gì đã dẫn Lý trích tiên tới đâỵ Theo giới am hiểu thì đó là vì rượụ
    Triệu phú đã tinh quái đánh vào tín hiệu tửu của Lý. Nhà thơ này có thể xem khinh công danh phú quý, thậm chí coi thường cả tính mạng, nhưng ông xót từng giọt rượu quý.
    Mà rượu của triệu phú thì còn trên mức quý, gần như độc nhất vô nhi.. Đó là rượu lồ ô hảo hạn cất từ Tây Vực phải vận chuyển trong mười chiếc túi da bọc ngoài đựng nước mỗi ngày thay một lần và phải mất một trăm con tuấn mã thay nhau đi nhật dạ không nghỉ và khi đến Vũ Xương lập tức phải hạ thủy sâu dưới mười thước nước để nhiệt không làm khê rượụ Chính vì vậy mà người ta còn gọi nó là bách mã tửụ Thứ rượu này tay cao thủ nhất cũng chỉ uống năm sáu chung là say đừ, ngủ một ngày mới tỉnh.
    Quả như triệu phú đã dự đoán, không ai trên tài Thôi Hiệụ Các nhà thơ đã làm đủ trò. Người thì cho đảo mây trắng trên hạc vàng, người thì thay "Hán Dương sông tạnh cây bày" bằng "chiều sông sương mù mịt" và "cỏ xanh Anh Vũ" bằng "thảm cỏ héo tàn mùa thu" đủ kiểu nhưng không bài nào thoát khỏi quỹ đạo bài Hoàng Hạc Lâụ Tất cả dù đẹp đến đâu cũng phảng phất một mùi thức ăn hâm lạị
    Chỉ còn Lý Ba.ch. Mà sao đến giờ này Lý vẫn chưa tới ? Mọi người đều chờ đợi hồi hộp. Cái nhà thơ đánh vỡ chén ngọc trên trời phải đày xuống trần giới, người dám ngang nhiên giữa triều đình đưa chân sai cao lực sĩ cởi giày, bắt Dương Quý Phi mài mực...
    Lý chưa tới nhưng huyền thoại về ông đã lừng lững giữa nhà như bộ phận tiền trạm hùng hậu...
    Cử tọa đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Một ông già tóc râu lông mày trắng xóa như cước khoác một chiếc áo vàng bước vào nhà. Chủ nhân thân chinh ra giếng kéo rượu lên trịnh trọng đem đến trước mặt Lý. Ông mở nút hít một hơi dài, mặt hớn hở như trẻ được mẹ cho kẹọ
    Rượu thơm quá... Và ông rót uống luôn. Một chén rồi hai chén rồi ba chén... Cứ cái đà này thì có khi ông làm hết cả vò rồi lăn ra ngủ chưa biết chừng.
    Thánh hiền bặt dưới cỏ xanh
    Riêng phường bợm rượu nghìn năm để đời
    Người đã xếp rượu trên cả tư tưởng của thánh hiền, người ấy dám làm việc ấy lắm.
    Nhưng chủ nhân tinh ý đã bày giấy mực trước mặt ông. Lý cười: "Làm thơ hả ?". Rồi lại uống tiếp một chén nữạ Chừng như rượu đã thấm, Lý cởi khuy áo, cầm bút lên tay, nhìn mọi ngườị Thôi Hiệu cảm thấy ông hơi nheo mắt nhìn mình một cách tinh nghịch nhưng không biết có đúng thế không.
    Kể cũng lạ, khi Lý uống rượu thì mọi người mãi mê tham quan ông như một kỳ tích thứ tám của thế giớị Nhưng khi ông bắt đầu cầm bút, cử tọa lập tức chia làm hai phe... phe chống Lý Bạch và phe chống Thôi Hiệụ Và người ta bỗng nhìn nhau một cách khác lạ, nếu không phải là quyết liệt. Người ta bắt đầu chuyển chỗ tập hợp lực lươ.ng. Có người đã xắn tay áọ
    -- Phen này Lý tiên sinh nhất định sẽ dạy cho Thôi Hiệu một bài học cho biết thế nào là lễ đô..
    -- Có lẽ lần này ông Lý kềnh cũng nên...
    Còn Thôi thì căng thẳng như thủ quân đội bóng bất ngờ lọt vào chung kết một giải Mondial chờ hiệu còi trọng tài mở đầu cuộc tranh hùng với một đối thủ siêu ha.ng.
    Riêng Lý Bạch vẫn thản nhiên... ông hỏi triệu phú:
    -- Chủ nhân này, mấy chung thì say ? -- Dạ năm chung. -- À, thế thì còn hai nữa...
    Ông nghiêng vò rót luôn hai chung tợp hai hớp như người khát nước và bắt đầu động bút.
    Nét bút sắc như toát ra hơi thép lạnh của một thanh kiếm báu, một số người rùng mình và hơi lùi lạị Người ta chưa kịp đọc xem ông viết gì thì Lý Bạch đã quẳng bút nằm xuống sập ngủ.
    Bài thơ vẻn vẹn có hai câu:
    Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
    Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
    (Trước mắt có cảnh không nói được
    Vì thơ Thôi Hiệu để trên đầu)
    Bảo hơn bài Hoàng Hạc Lâu thì không phảị Bảo kém thì không ai dám.
    Vì nó khác, hoàn toàn khác.
    Hơn một chục năm nay mới có một người làm thơ Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu khác lạ như vậỵ
    Mọi người chưng hửng vi một trận đọ tài đã kết thúc ngoài dự kiến của tất cả. Họ tiếc cho nhiệt huyết, không có đất dụng võ, cho cuộc đấu có thể muôn phần quyết liệt, gay cấn, hào hứng... hứa hẹn những cú sút tuyệt vờị Nhưng hầu như tất cả đều rưng rưng một lòng cảm phục vô hạn.
    Nhún nhường mà khí phách. Dung dị mà kỳ la.. Khiêm cung mà siêu phàm. Vẻn vẹn hai câu mà bao la bài học về thi pháp.
    Thôi sững sờ... tưởng như Lý Bạch không phải nói về ai khác mà về Thôị Chính bài Hoàng hạc Lâu đã để đè trên đầu Thôi Hiệu bao nhiêu năm như một nghiệp ách. Nhà thơ đã bị chính mình cầm tù.
    Ông chợt nghĩ đến câu nói lạ tai của Đại sư Tuệ Giác: "Hãy quẳng mình đi như một cái bị rách".
    Lý Bạch nằm ngủ, mồ hôi toát cùng hơi rượu thơm lừng, hình như cả người ông là một vò rượu quý, râu tóc phơ phất như mây trắng, chân gác lên mâm vàng đẩy những thỏi kim quý rơi xuống đất... Thôi Hiệu lẩm bẩm:
    -- Người xưa cưỡi hạc bay đi... Người xưa đã cưỡi hạc về nằm ngủ đây chăng ?
    Ông bỗng nhắm mắt. Trong phút buông thả nhất, Thôi Hiệu vẫn chưa thoát khỏi bài Hoàng Hạc Lâụ
    (hết)
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ý Nhi ​

    Ý Nhi (Hoàng Thị Ý Nhi) sinh ngày 18-9-1944, tại thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đã xuất bản các tập thơ: "Đến với dòng sông" (1978); "Người đàn bà ngồi đan" (1985); "Ngày thường" (1987); "Gương mặt" (1991); "Vườn" (1998)...
    Ý Nhi cùng lứa với Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Phan Thị Thanh Nhàn, Anh Ngọc... Từ năm 1969, chị đã được giải khuyến khích trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ. Cái giải này, cũng như hai tập thơ in sau đó ("Trái tim - nỗi nhớ", chung với Lâm Thị Mỹ Dạ - 1974; "Đến với dòng sông" - 1978) không nói được gì nhiều. Chỉ đến khi tập "Người đàn bà ngồi đan" xuất hiện (1985) và được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1986), người ta mới phải nói nhiều đến chị như một giọng thơ mới lạ, đương vào độ chín. Trong tập còn nhiều bài viết theo lối cũ, chẳng hạn "Thư mùa đông", "Sông", "Biển", "Quảng Bình", "Cát"... Riêng bài "Người đàn bà ngồi đan" thì khác hẳn. Bài thơ ngắn gọn, không vần, lập tứ rất vững. Cái tứ ấy dựa trên sự đối lập: "Giữa chiều lạnh/ Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ/ Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã/ Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời/ Vội vã như thể đó là lần sau chót"... Sự đối lập này được tác giả tiếp tục triển khai: thở dài - mỉm cười; đau thương - hạnh phúc; niềm tin - ngờ vực; gặp mặt - chia ly; hân hoan - lo âu; chán chường ?"hy vọng. Để rồi dẫn đến cái hình tượng thật đẹp mà cũng thật bất ngờ, tôn cao người phụ nữ - "Giữa chiều lạnh/ Một người đàn bà ngồi đan/ dưới chân chị/ cuộn len như quả cầu xanh/đang lăn những vòng chậm rãi". Ý Nhi đã nhìn thấy, qua một phụ nữ bình thường ngồi đan, cái biểu tượng của cuộc đời mà mỗi chúng ta phải sống, dù hạnh phúc hay bất hạnh. Với bài thơ này, Ý Nhi đã tìm được giọng thơ cho riêng mình. Hãy đọc một đoạn trong bài "Về Thái Nguyên", bút pháp đối lập một lần nữa được sử dụng để bộc bạch nội tâm "Tôi cách xa nơi này hai mươi năm/ thiếu nữ đã là người đàn bà ở tuổi bốn mươi/ cam chịu và cuồng nộ, mong mỏi và buồn nản/ đem cho và nhận về, kiếm tìm và đánh mất/ giản đơn và rối ren, lớn lao và cạn hẹp/ tôi đứng kề bên giới hạn của mình". Đây có lẽ là bài thơ thành thực nhất của tác giả. Thành thực nhất là mấy câu này: "... nhưng giờ đây cho tôi được cám ơn/ vì không có ánh nhìn ái ngại/ không có tiếng cười vui ồn ào". Lúc thất vọng và đau khổ nhất, chị cũng rất biết kiềm chế, tự chủ.
    Ý Nhi tiếp tục hành trình sáng tạo sau "Người đàn bà ngồi đan" một cách tự tin. Tập "Ngày thường" có lẽ là tập thơ đều tay nhất, nhiều bài hay nhất của chị. Chị là người của ngày thường với những vui buồn rất đàn bà, rất nhân thế nhưng luôn khát khao muốn vươn tới cái đẹp. Để tìm chìa khóa đi vào tâm hồn chị, không gì bằng đọc lại bài "Tiểu dẫn" (tập Ngày thường) "Tôi không ưa những đồ trang sức/ kể cả nhẫn, vòng và các chức danh". Một câu nói thật rành rẽ. Từ nhẫn, vòng, tác giả quèo luôn sang "chức danh"! Ý Nhi còn lâu mới thoát tục. Viết thư cho bạn, một chị Nga nào đó, chị cũng không quên "các vị thủ trưởng đương quyền và những vị nguyên là thủ trưởng!" Chị thú nhận "Tôi rất ít bạn" "cũng chẳng gần gũi gì đồng nghiệp". Nhưng chị thực lòng kính trọng những nghệ sĩ, xưa và nay, những người "tử vì đạo". Chỉ bằng vài dòng, tác giả khắc họa hình tượng Nguyên Hồng "trán đẫm mồ hôi/ tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn/.../ với giọt lệ lớn nằm dưới đáy đôi mắt đang nheo cười". Chị đối lập Nguyên Hồng với một kiểu nhà văn khác "chống can và ngậm tẩu/ khủng khỉnh bàn đến các món ăn, rượu ngon và từ ngữ/... chạy nhông trên các diễn đàn/ rao giảng văn chương..."!
    Viết tặng một chị Khánh nào đó, Ý Nhi cũng không quên đay nghiến "cái nơi người ta sống bám vào tên tuổi"! Quá nhạy cảm với cái xấu, e cũng khó mà yêu người gần gũi, người đang sống (?) Ý Nhi tìm đến những ngôi sao sân cỏ, những người hùng trong sách, rồi... Nguyễn Du năm 1813. Đây là một bài thơ hay và độc đáo. Mấy câu này hình dung Nguyễn Du thật đúng "Không ai trói buộc/ Không ai gông cùm/ Không ai đánh đập/ Không ai chửi mắng/ Sao ta sống như trong ***g cũi". Tôi để ý, Ý Nhi hay ghi ngày tháng lên đầu bài thơ. Hải Phòng, tháng 11/1979; Hà Nội, tháng 5/1987... Tác giả có ý thức lưu giữ tâm thế xã hội trong những thời điểm đáng nhớ. Chị tô đậm mặt này mặt khác của cuộc sống, phần tốt đẹp và phần nhếch nhác, đều với sự sắc sảo và thẳng thắn. Trong bài "Hà Nội, tháng 5/1987", chị viết về "Một người làm thơ trẻ/ da tái xanh vì thiếu ăn/ đang viết những câu thơ đầy dự cảm/ thi đàn hôm nay/ chật ních những kẻ bất tài, những kẻ lỗ i thời/ họ giống như người đàn bà không biết mình đã qua thì xuân sắc/ cứ tô vẽ nói cười dở mọi trò ngạo ngược". Xem ra, người thơ nữ nhìn người đồng giới, đồng nghiệp với mình thường cặn kẽ, khắt khe hơn người thơ nam!
    Ý Nhi là một trong số không nhiều những nhà thơ nữ có vị trí khá ổn định trên thi đàn. Chị đã sớm và dứt khoát vứt bỏ lối "làm thơ" ngòn ngọt dễ dãi của một thời, tìm tới một bút pháp mới chắc thực, hiện đại. Rất tự nhiên, Ý Nhi được những người thơ trẻ thích tìm tòi, đổi mới coi là người đồng chí hướng.

    Có Gió Chuông Sẽ Reo (I)​
    Phía bên kia đầu dây có tiếng ho khẽ, rồi là giọng nói của một người phụ nữ:
    - Dạ, anh Liêm phải không ạ? Tôi có mang một món quà nhỏ gửi anh. Tôi muốn biết lúc nào anh có nhà để đem quà đến.
    - Dạ, chị có thể đến sau mười chín giờ hàng ngày. Mà có lẽ chị cho tôi địa chỉ để tôi đến, đỡ phiền chị.
    - Ồ không. - Anh nghe thấy một chút ngập ngừng trong giọng nói. - Tôi đã hứa là sẽ trao quà tận tay. Có lẽ tối mai tôi sẽ lại. Chào anh.
    Liêm nghe thấy có tiếng rột roạt trong đường dây, tiếng đặt máy khô khan. Một giọng nói lạ.
    Liêm vừa xem ti vi vừa lên dây cót chiếc đồng báo thức. Phải nhờ nó để không bỏ lỡ trận cầu lúc một giờ ba mươi phút sáng. Trên màn hình là một đám đông người Xô-ma-li đang xếp hàng đợi nhận suất ăn. Họ gầy guộc, rách rưới, ánh mắt vô hồn. Rồi cảnh mấy con chó nhỏ đang được chữa bệnh ở một bệnh viện thú y châu Âu. Người ta tìm cách đặt hàm giả cho chó... Ôi, con người. Tự nhiên anh thấy lòng như chùng xuống.
    o0o
    Liêm hầu như ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng chuông cửa. Cái chuông của anh bị chập mạch, ọ ẹ như kẻ ngọng. Lần lữa mãi mà chưa tìm được người sửa. Các đồ điện trong nhà anh đều xộc xệch nhưng anh không dám chạm tay tới. Ti vi, tủ lạnh, cassette, nồi cơm, ấm nước, chuông cửa... tất tần tật. Có ai đã ví tình yêu như điện nhỉ. Anh thở dài. Rồi mở cửa. Anh đứng tránh sang bên nhường lối cho khách.
    - Chào chị. Mời chị vào.
    Liêm vừa nói vừa chỉ vào chiếc ghế bành to tướng, bọc vải thô mầu mận chín. Ðó là chiếc ghế bọc đệm duy nhất trong nhà. Ba chiếc còn lại đều bằng gỗ cứng.
    Hơi mỉm cười, người phụ nữ liếc nhìn chiếc ghế rồi ngồi xuống:
    - Ghế nhà anh giống như một chiếc ngai vậy.
    Liêm nhìn chị. Phải, đó là một chiếc ngai. Và, với bộ váy áo mầu vàng nhạt, tay đặt trên thành ghế, trông chị rất giống một bà hoàng. Nhưng anh lại nói, giọng rời rạc:
    - Ðó là món quà của người chủ trước để lại. Tôi mới về đây gần một năm.
    - Thế trước kia anh ở đâu ạ?
    - Ở B.T, một khu chung cư khá lịch sự.
    - Anh về đây cho gần ư? Ý tôi muốn nói là cho gần chỗ làm việc của anh.
    - Không ạ. Chủ yếu ở đây được yên tĩnh.
    - Yên tĩnh.
    Chị hơi nhướng mày. Một đôi chân mày tuyệt đẹp. Tươi tắn thanh thoát.
    - Vâng, yên tĩnh. Cả căn nhà này chỉ có hai chủ. Tầng dưới là của hai vợ chồng một viên chức đã nghỉ hưu. Họ nhẹ nhàng lắm. Chả mấy khi tôi được nghe thấy tiếng của hai cụ.
    - Yên tĩnh, yên tĩnh... - Chị vừa lặp lại mấy lời đó vừa khẽ nhịp ngón tay trên thành ghế. Mấy ngón tay cũng tuyệt đẹp. Mảnh dẻ, dịu dàng. Người ta nói ai có những ngón tay như thế thường là rất tinh tế, mẫn cảm. Anh vừa nghĩ vừa cúi xuống pha trà. Anh đẩy tách trà về phía chị:
    - Mời chị. Nếu chị thấy đậm, ta pha thêm nước.
    - Cảm ơn anh. Tôi là dân Thái Nguyên mà. Ngày bé sao chè, uống trà rồi quen.
    - A! - Anh reo lên khe khẽ - Ở Thái Nguyên có một xứ chè rất nổi tiếng. Vùng Tân Cương ấy trà ngon mà người lại đẹp. Chị là người ở Tân Cương? - Anh nhìn chị, mắt nheo lại, vẻ tự tin.

Chia sẻ trang này