1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vasily Grossman - Nhà văn chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi maseo, 20/05/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mariacallas

    mariacallas Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2007
    Bài viết:
    112
    Đã được thích:
    0
    Sao đang đánh nhau ác liệt Hitler lại lệnh stop Citadel nhỉ ?
    Các bác bảo nếu Model mà đánh tốt như bên cánh Nam thì liệu quân Đức có khép đc vòng vây không ?
  2. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Chúng tôi tới Orel chiều ngày 5/8 theo đường cao tốc Moscow, phóng xe qua Tula tưng bừng và sầm uất, qua Plavsk, Chern. Trên đường chúng tôi đi thấy rõ những vết thương mà bọn Đức đã gây ra trên đất nước ta.
    Ở Mtsensk, cỏ mọc trong những căn nhà đổ, có thể nhìn thấy bầu trời xanh qua những ô cửa sổ trống hoác của những ngôi nhà tốc mái. Hầu như mọi làng mạc nằm giữa Mtsensk và Orel đều bị cháy trụi, những izba đổ nát vẫn còn bốc khói. Người gà và trẻ em đang đào bới những đống gạch vụn để tìm những gì còn sót lại: nồi niêu xoong chảo, những khung giường thép méo mó vì lửa, máy khâu. Cảnh tượng thật đau đớn mà thân thương làm sao!
    1 tấm bảng trắng đẽo sơ sài ghi "Orel" được đóng cạnh chỗ giao cắt đường tàu ... có mùi khét trong ko khí, những làn khói nhẹ bốc lên từ những đám cháy đang tắt dần ...
    1 dàn đồng ca đang hát bài Quốc tế ca trên quảng trường. Poster và biểu ngữ đang được dán trên những bức tường, tờ rơi được phát cho dân chúng. Những cô gái má hồng điều kiển giao thông đứng trên tất cả các ngã tư, vẫy nhanh những lá cờ nhỏ màu xanh và đỏ. 1 rồi 2 ngày đã trôi qua, và Orel đã bắt đầu trở lại với cuộc sống thường nhật, với công việc và học hành ...
    Tôi nhớ tới thành phố Orel mà tôi đã thấy chính xác là 22 tháng trước, trong những ngày tháng 10/1941 khi mà những cỗ xe tăng Đức xông vào thành phố từ phía đường cao tốc Kromsk. tôi nhớ đêm cuối cùng ở Orel, 1 đêm khủng khiếp và ghê rợn, tiếng gầm rú của những cỗ xe chạy loạn, tiếng kêu khóc của những người phụ nữ chạy theo đoàn quân rút lui, gương mặt âu sầu của mọi người như thể đang trách móc tôi với đầy vẻ lo lắng và đau khổ. Tôi nhớ buổi sáng cuối cùng của Orel, cả thành phố kêu khóc và chạy trốn với sự hoảng loạn bao trùm. Thành phố khi đó vẫn còn nguyên vẻ đẹp, chưa có 1 ô cửa sổ nào vỡ nhưng nó tạo ra 1 ấn tượng ghê rợn giống như 1 người đã bị kết án tử ...
    Lắng nghe lời 1 đại tá xe tăng, ông đang đứng trên nóc 1 chiếc xe tăng phủ đầy bụi đất nhìn xác những binh lính và sĩ quan hy sinh trong trận đánh vì Orel, nghe lời vĩnh biệt lắp bắp nhát gừng của ông vang vọng trong những căn nhà cháy, tôi đã hiểu ra. Cuộc gặp gỡ hôm nay và và cuộc chia ly đau đớn buổi sáng tháng 10/1941 đó đã hoà hợp làm 1.
    Chiến sự tại cánh nam vòng cung Kursk đã dẫn tới việc tái chiếm Belgorod và cả Kharkov ngày 28/8. Người Đức gọi trận đánh này là Trận Kharkov lần thứ tư, như thế đủ hiểu chỉ còn rất ít nhà cửa công trình của thành phố còn sót lại. Khi các trận đánh tại cánh bên kia (cánh nam) của vòng cung Kursk đang diễn ra, Grossman viết cho cha hôm 28/7.
    Cha kính yêu, con đã đi qua biết bao nhiêu con đường trong 3 tuần vừa qua, y hệt như 1 người Di gan. Đi vào mùa hè thế này thì tốt hơn đi vào mùa đông nhiều, ko còn phải lo lắng về việc tìm chỗ ngủ, mặt trời rực rỡ, ngay cả mưa cũng vẫn ấm, những đồng cỏ phủ đầy hoa sặc sỡ. Nhưng thường là những đồng cỏ đó ko có mùi thơm của hoa mà là 1 thứ mùi khác, đáng sợ.
    Grossman bắt đầu tin rằng còn có 1 thứ mùi đáng sợ khác nữa đang bao phủ khắp Liên Xô - sự trỗi dạy của chủ nghĩa bài Do Thái. Ilya Ehrenburg với khả năng thính nhạy về các vấn đề Ctrị đã cảm nhận được điều đó trước anh chàng Grossman duy tâm. Từ đầu chiến tranh Ehrenburg đã được biết về phản hồi của Kremlin với Henry Shapiro, lãnh đạo văn phòng đại diện Reuter tại Moscow. Ehrenburg đã biết Shapiro từ trước chiến tranh, nói chuyện với ông ta nhiều lần tại khách sạn Metropol và Moskva để chia sẻ về tình yêu đối với Paris. Shapiro đã cho Ehrenburg biết 1 điều rằng trong khi Stalin sẵn sàng nói chuyện với Henry Cassidy của hãng Associated Press (AP), nhà lãnh đạo này lại ko bao giờ nhận lời với ông. "Với cái tên của anh," Ehrenburg trả lời, "anh sẽ ko bao giờ có được 1 câu trả lời."
    Tháng 11/1941, Ehrenburg đã nghe được giọng điệu bài Do Thái của Mikhail Sholokhov, tác giả cuốn Sông Đông êm đềm. (*) "Các anh đang chiến đấu," Sholokhov nói với Ehrenburg, "nhưng Abram thì đang làm ăn tại Tashkent." Ehrenburg tức điên và gọi Sholokhov là "đồ con buôn tàn sát người Do Thái". Grossman khi nghe được chuyện đó đã viết thư gửi Ehrenburg kể về tất cả những người lính Do Thái ông gặp tại mặt trận.

    Tôi nghĩ về lời vu khống mang tính bài Do Thái của Sholokhov với 1 sự chua xót và khinh bỉ. Nơi đây tại Phương diện quân Đông Nam này có hàng ngàn, hàng vạn người Do Thái. Họ hành quân bộ với súng máy nặng vai dưới bão tuyết, xung phong vào các khu dân cư bọn Đức đang chiếm giữ, ngã xuống trong chiến đấu. Tôi đã nhìn thấy tất cả họ, tôi đã nhìn thấy Kogan, vị chỉ huy lẫy lừng của Sư đoàn 1 Cận vệ, nhìn thấy những sĩ quan xe tăng và những lính trinh sát. Nếu Sholokhov ở Kuibyshev, hãy để anh ta biết rằng các đồng chí tại mặt trận biết những gì anh ta nói, cho anh ta biết thế nào là xấu mặt.
    Nhưng rõ ràng là Grossman chỉ coi là Sholokhov đã có 1 phút lầm lạc khi đó.
    Đầu năm 1943, Ehrenburg phát hiện ra rằng những bài viết của ông liên quan tới các nạn nhân Do Thái đã bị kiểm duyệt. Ông phàn nàn với Aleksandr Shcherbakov, lãnh đạo Tổng Cục Ctrị Hồng quân, nhưng bị Shcherbakov vặn lại: "Binh lính muốn nghe về Suvorov nhưng anh toàn trích dẫn Heine."
    Ehrenburg và Grossman trước đây đã từng bất đồng sâu sắc trong các vấn đề văn học giờ lại thành gần gũi với nhau. "Vasily Semyonovich Grossman về Moscow trong thời gian ngắn," Ehrenburg viết, "và chúng tôi ngồi với nhau đến tận 3h sáng. Cậu ta kể cho tôi về mặt trận, và chúng tôi đồn đoán cuộc sống sẽ ra sao sau chiến thắng. Grossman bảo: "Giờ tôi có rất nhiều nghi ngờ, nhưng tôi ko nghi ngờ gì về chiến thắng, đó chắc chắn là điều quan trọng nhất.""
    Nhờ sự thúc giục của Ehrenburg, Grossman đã gia nhập Uỷ ban Do Thái chống phát xít, 1 trong những thành viên đứng đầu của nó là diễn viên Solomon Mikhoels. (**) Cuối năm 1942, Albert Einstein và 1 số thành viên khác của Uỷ hội các nhà văn, nghệ sĩ và nhà khoa học Do Thái tại Mỹ đã đặt quan hệ với Uỷ ban Do Thái chống phát xít Liên Xô để đề nghị Uỷ ban này lập 1 báo cáo về tội ác của bọn Nazi. Mikhoels đã rất nhiệt tình với đề xuất này và ban đầu nó được nhà cầm quyền Soviet chấp thuận, do đó Ehrenburg bắt đầu tổ chức 1 nhóm nhà văn. Mùa thu năm 1943 ông thu nạp Grossman vào nhóm. Grossman, người đã nhìn thấy những nơi mới giải phóng khỏi ách phát xít nhiều hơn bất kỳ ai khác, đã đóng góp những bằng chứng quan trọng nhất. Cuối năm 1944, Ehrenburg đã cảm nhận rất chính xác rằng nhà cầm quyền Stalinist đang ngăn chặn công việc của mình và tỏ ra thất vọng. Ông bỏ Uỷ ban Do Thái chống phát xít. Grossman, nhân chứng số 1 về các tội ác tại Majdanek và Treblinka, đã từ chối bỏ ngang và vẫn tiếp tục công việc.

    (*) Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (1905 - 1984), giành giải thưởng Stalin năm 1941 và giải Nobel năm 1965. Ông đã bị Solzhenitsyn và 1 số người khác tố cáo là đạo văn của Fyodor Krukov, 1 nhà văn cô dắc chống Bolshevik, tuy nhiên các nghiên cứu sau này đã xác nhận rằng các tác phẩm văn học của Sholokhov đều là do tự ông viết ra.
    (**) Solomon Mikhoels, tên khai sinh là Solomon Vovsi (1890 - 1948), người sáng lập Nhà hát Do Thái Quốc gia Moscow, lãnh đạo Uỷ ban Do Thái chống phát xít, bị KGB ám sát tại Minsk.
  3. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    PHẦN BỐN
    TỪ DNEPR ĐẾN VISTULA
    1944 ​
    Được maseo sửa chữa / chuyển vào 12:50 ngày 28/11/2008
  4. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    HAI MỐT
    VÙNG ĐẤT CHẾT BERDICHEV
    Sau chiến thắng Kursk, Stalin và các nguyên soái của ông mở cuộc tổng tấn công trong suốt nửa cuối mùa hè năm 1943 với hy vọng đẩy người Đức về tuyến sông Dnepr. Hitler mới đầu chấp nhận sự cần thiết phải rút lui và đồng ý sông Dnepr với bờ tây cao hơn hẳn là tuyến phỏng thủ tốt nhất. Bỏ lại sau lưng những vùng đất bị tàn phá trơ trụi, các đơn vị Đức chạy đua với Hồng quân cũng đang kiệt sức và trải rộng quá mức. Smolensk được tái chiếm cuối tháng 9 và Kiev được giải phóng vào ngày 6/11. Trên bước đường tiến công này, Grossman đi theo sở chỉ huy Sư 95 Bộ binh của tướng Gorishny, đơn vị đã từng chiến đấu tại Stalingrad. (*)
    Báo cáo. 1 cô gái thuộc tiểu đoàn quân y tên là Galya Chabannaya đã hi sinh. Cả Gorishny và sư đoàn phó, đại tá Vlasenko, đều khóc rống lên. (**) "Ôi, Chúa ơi," Gorishny nói. "Khi chúng tôi rời Stalingrad sau chiến thắng, chúng tôi đã nhảy ra khỏi toa tàu ở mỗi ga và nhặt tuyết ném nhau. Tôi còn nhớ chúng tôi đã lăn tròn cô bé trên tuyết như thế nào, và cô ấy cười to đến mức cả đoàn tàu đều nghe tiếng. Ko ai trong toàn sư đoàn cười to và thoải mái như cô ấy."
    Tiểu đoàn phó, trung uý Surkov, trở về sở chỉ huy. Anh ta đã ko ngủ 6 đêm liền, râu ria lởm chởm đầy mặt, ai cũng có thể thấy vẻ mệt mỏi của anh nhưng anh vẫn còn rất hăng máu. Độ nửa tiếng nữa anh sẽ lăn ra ngủ gối đầu lên ba lô và sẽ chẳng ai đánh thức anh dậy nổi, nhưng bây giờ mắt anh đang bừng sáng và giọng nói chát chúa đầy kích động. Anh chàng này trước chiến tranh từng là 1 giáo viên dạy sử, nay có vẻ như mang trong mình toàn bộ sức nóng của trận chiến Dnepr. Anh kể cho tôi về những cuộc phản công của bọn Đức, về những cuộc tấn công của quân ta, về tay giao liên mà anh đã phải moi lên khỏi hào 3 lần vốn 1 anh lính cùng quê và từng là học sinh của anh. Surkov từng dạy anh lính này lịch sử, giờ cả 2 đã trở thành 1 phần của sự kiện lịch sử sẽ được các giáo viên dạy cho học sinh hàng trăm năm sau.
    Khi tới bờ sông Dnepr, những người lính ko muốn chờ phà hay những phương tiện vượt sông khác tới. Họ vượt dòng sông rộng chảy siết bằng bè, bằng thuyền câu, bằng phao kết từ thùng phi và gỗ súc. Họ vượt sông dưới làn đạn pháo và súng cối dữ dội của quân thù, dưới những đợt oanh tạc của máy bay ném bom và cường kích địch. Có những trường hợp binh lính chuyển được cả pháo cấp trung đoàn qua sông và những trường hợp cả nhóm lính Hồng quân vượt sông bằng những tấm mảng kết từ lau sậy.
    Giải phóng Ukraina là 1 chặng đường xúc động, đặc biệt là với những người đã từng trải qua nỗi đau mùa hè năm 1941 như Grossman.
    Những cụ già khi nghe thấy những người lính nói tiếng Nga đã lặng lẽ khóc, ko thốt lên nổi 1 lời. 1 bà cụ nông dân nói khẽ trong ngạc nhiên: "Chúng tôi đã nghĩ khi gặp được quân ta chúng tôi sẽ hát và cười, nhưng đã có quá nhiều nỗi đau chất chứa trong tim khiến nước mắt cứ trào ra."
    Khi quân ta tiến vào 1 ngôi làng trong tiếng đại bác chỉ có lũ ngỗng chạy ra, đập cánh bay lên các mái nhà. Người dân sau đó mới ló ra từ những khu rừng, từ các đống cỏ khô, từ trong những đám lau sậy.
    Mỗi người lính, mỗi sỹ quan, mỗi vị tướng Hồng quân đều đã được thấy Ukraina chìm trong máu và lửa, đều đã được nghe những câu chuyện có thật xảy ra tại Ukraina trong 2 năm sống dưới ách phát xít, đều hiểu tận đáy lòng rằng những người dân chỉ có 2 từ thiêng liêng để nói với họ. Từ thứ nhất là "tình yêu" và từ còn lại là "trả thù".
    Tại những ngôi làng này, bọn Đức thường phóng uế ngay trên đồi hoặc trên bậc cửa ra vào, ngay trước những khu vườn hay cửa sổ mà chẳng thèm xấu hổ trước các bà các cô. Khi ăn uống chúng gây ồn ào, cười nói hô hố, thò tay vào đĩa của người khác và xé thịt bằng những ngón tay. Chúng trần truồng mà đi quanh các ngôi nhà, ko hề tỏ ra ngượng ngùng trước mặt những người nông dân, đánh chửi nhau vì đủ thứ vớ vẩn. Chúng phàm ăn, chúng có thể xơi 20 quả trứng 1 lúc, hay cả 1 kg đường, hay cả 1 bát lớn smetana (váng sữa). Chúng trêu trọc và coi khinh những người nông dân ...
    Bọn Đức tụ tập ở cuối làng, chúng mò tìm thức ăn từ sáng đến đêm. Chúng ăn, uống rượu và chơi bài. Theo những gì các tù binh kể lại và những gì được viết trong các bức thư lấy được trên xác bọn Đức, chúng tự coi mình là đại diện của 1 chủng tộc thượng đẳng bị buộc phải sống trong những ngôi làng mọi rợ. Chúng nghĩ rằng mỗi bước đi xa hơn về phía đông là có thể quẳng bớt đi thêm 1 chút văn hoá. "Ôi, đấy mới thật là văn minh chứ," tôi đã nghe nhiều người nói vậy. "Vậy mà chúng tôi đã từng nghĩ người Đức là 1 dân tộc có học thức."
    (*) Sư 95 Bộ binh sau này trở thành Sư 75 Bộ binh Cận vệ.
    (**) Thiếu tướng (sau này là trung tướng) Vasily A. Gorishny (1903 - 1962) và đại tá (sau này là thiếu tướng) Aleksei M. Vlasenko.
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    1 buổi sáng trời u ám và có gió, chúng tôi gặp 1 cậu bé bên rìa làng Tarasevichi, gần sông Dnepr. Chú bé độ 13 - 14 tuổi, cực kỳ gầy, lớp da vàng bủng dính trên gò má, 1 cục u sưng phồng trên đầu, đôi môi khô nẻ tái xám vừa giống người chết vừa giống người vừa bị ngã đập mặt xuống đất. Đôi mắt cậu bé đầy vẻ mệt mỏi, chẳng vui cũng chẳng buồn mà chỉ có vẻ vô cùng sợ sệt. 1 đôi mắt trẻ em đờ đẫn, vô hồn và mệt mỏi.
    "Cha em đâu?"
    "Chết rồi," cậu bé trả lời.
    "Còn mẹ em?"
    "Cũng chết rồi."
    "Em có anh chị em nào ko?"
    "1 chị, bị bắt sang Đức rồi."
    "Em còn người thân thích nào ko?"
    "Ko, họ bị thiêu chết hết cả làng vì theo du kích rồi."
    Rồi cậu bé bước vào 1 ruộng khoai tây, đôi chân trần đen nhẻm vì bùn, dáng liêu xiêu như 1 con bù nhìn khoác chiếc sơmi rách tả tơi.
    Ko lâu sau Grossman còn nghe được những chuyện ghê rợn hơn nhiều mà bọn Đức đã làm tại các vùng tạm chiếm.
    Những người trở về từ Kiev cho tôi biết bọn Đức đã lập 1 vòng lính vây quanh 1 nấm mộ tập thể khổng lồ chôn xác 50.000 người Do Thái bị giết tại Kiev mùa thu năm 1941. Chúng đã đào vội những cái xác lên, chất lên xe tải chở về phía tây. Chúng đã thử đốt 1 số xác ngay tại chỗ.
    Theo lời Grossman, ngay từ trước khi Kiev thất thủ đã bắt đầu xuất hiện 1 số báo cáo về việc tàn sát người Do Thái, 1 Gross - Aktion (việc lớn) được thực hiện bởi SS Sonderkommanko, đơn vị thành lập từ Einsatzgruppe C (Đội đặc nhiệm C, SS có 4 đội như vậy) và 2 tiểu đoàn quân cảnh. Chúng bố trí tại Babi Yar cuối tháng 9/1941. Việc bố ráp người Do Thái tại Kiev được bọn SS tổ chức, lấy người từ các sĩ quan tham mưu và sở chỉ huy Tập đoàn quân 6, sau đó do Thống chế phát xít Von Reichenau chỉ huy.
    Kế hoạch hành động để thực hiện Gross - Aktion này bắt đầu vào ngày 27/9/1941. Quân đồn trú tại các khu dân cư dán poster lệnh cho người Do Thái tại Kiev chuẩn bị "di tản". Đây vốn chỉ được xem là 1 phép thử thận trọng che dấu số phận dành cho người Do Thái. "Bạn hãy mang theo chứng minh thư, tiền và tài sản cũng như quần áo ấm," chúng nói vậy. Những người Do Thái Soviet chưa từng nghe nói đến chủ nghĩa bài Do Thái Nazi, 1 phần cũng do tin vào Hiệp ước Xô Đức, đã tập hợp theo lệnh với ý tưởng rất mù mờ về số phận đang chờ đợi họ. Bọn SS Sonderkommando, vốn tưởng rằng sẽ chỉ có độ 5 - 6.000 người tập trung, đã rất ngạc nhiên khi có tới 33.771 người Do Thái xuất hiện, chiếm hơn phân nửa dân Do Thái Kiev. Đám đông quá lớn khiến chúng phải điều thêm lính của Tập đoàn quân 6 tới giúp đỡ vận chuyển người Do Thái tới hẻm núi Babi Yar, nơi các nhóm sát thủ đang chờ bên miệng vực.
    Người Do Thái Kiev trước hết bị buộc phải giao nộp hết tài sản, sau đó cởi hết quần áo rồi bị bắn. Cuộc tàn sát tại đây kéo dài 2 ngày. Nơi này sau đó còn được dùng cho nhiều cuộc tàn sát khác đối với người Do thái, người Digan, du kích và các Đảng viên CS. Tổng cộng khoảng 100.000 người đã chết tại đây. Các báo cáo phỏng vấn thường dân Soviet đã vượt qua chiến tuyến tháng 10/1943 cho biết bọn Đức đã lập vành đai bao quanh khu vực này để cố phi tang dấu vết của các cuộc thảm sát bằng cách đốt những xác chết đang thối rữa.
    Grossman đi theo sở chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1 của tướng Vatutin và đã được nghe về các báo cáo này. Nỗi lo sợ của ông về số phận người Do Thái Ukraina đã được chứng minh là còn ghê gớm hơn. Mức độ thảm sát khiến ông chết lặng. Mùa thu năm 1943 ông đã viết 1 bài mang tựa đề "Ukraina ko có người Do Thái", bài viết đã bị tờ Krasnaya Zvezda từ chối nhưng được đăng trên tờ Einikeit, tờ báo của Uỷ ban Do Thái chống phát xít.

    Ko còn 1 người Do Thái nào ở Ukraina. Poltava, Kharkov, Kremenchug, Borispol, Yagotin ?" ko 1 nơi nào. Ko ở đâu trong các thành phố đó và hàng trăm đô thị, hàng nghìn làng mạc khác bạn còn nhìn thấy những đôi mắt đen đẫm nước mắt của những cô gái nhỏ; còn nghe thấy tiếng kêu sợ hãi của các bà cụ già; bạn cũng ko còn thấy những gương mặt u ám của những đứa trẻ đang đói. Tất cả chỉ còn là sự im lặng. Mọi thứ vẫn còn đây nhưng tất cả họ đã bị thảm sát 1 cách tàn bạo.
  6. mariacallas

    mariacallas Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2007
    Bài viết:
    112
    Đã được thích:
    0
    Em mê nhất quãng time này của WW2 đấy bác à . Từ sông Dnepr đến biên giới LX là giai đoạn có nhiều trận đánh kinh điển trong ls chiến tranh , nghệ thuật chỉ huy 2 bên đạt tới tầm đỉnh cao nhất . Đây cũng là giai đoạn mà mặt trận miền Nam LX của Đức ít bị Hitler can thiệp vào nhất , chỉ huy Manstein đc toàn quyền phát huy thiên tài quân sự của mình . Bên LX thì lại có những 4 chỉ huy giỏi của 4 PDQ ...
    Sau khi mặt trận thứ 2 đc mở thì quân Đ phải chia ra làm 2 với số lượng xấp xỉ nhau , nhưng em có thắc mắc là k0 hiểu về chất lượng thì có tương đương ko ? Những đơn vị mạnh đc ưu tiên cho mặt trận nào nhiều hơn ? Có phải là bên phía Tây toàn là những đơn vị ốm iếu , thương binh k0 ?
  7. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Vấn đề nằm ở cách bố trí lực lượng từ trước đó. Khi trận Normandy bắt đầu quân Đức tại đây có 17 sư đoàn ốm yếu (understrength) với quân số khoảng 380K, các sư đồn trú trên toàn châu Âu cũng trong tình trạng tương tự, toàn là các đơn vị được cho về dưỡng sức sau khi đã vắt khô máu trên mặt trận Xô - Đức. Trong khi đó trên mặt trận phía Đông con số là 5 mil quân với hầu hết các đơn vị mạnh nhất vì đang phải đánh nhau. Sau khi Đồng minh đổ bộ thành công người Nga cũng mở chiến dịch Bagration đánh 1 lèo từ Nga sang Đông Phổ, xoá sổ lực lượng mạnh nhất của quân Đức là Cụm Tập đoàn quân Trung tâm, quân Đức ko tiếp viện thì thôi chứ làm sao rút bớt quân để ném sang phía Tây được. Kết quả là chỉ có các đơn vị cơ động mạnh thì hết sang bên này lại bên kia tuỳ thời điểm còn thì toàn là các đơn vị hạng 2 hoặc đang trong quá trình tái tổ chức bị ném vào mặt trận phía Tây do họ đang được bố trí tại đó vào thời điểm đó. Ngay cả trong trận Ardennes đánh cho quân ** xất bất xang bang phía Đức cũng chỉ có 200K quân tham chiến với 500 xe tăng và 1.900 pháo các loại, thua xa bất kỳ trận đánh lớn nào trên mặt trận phía Đông. Mặc dù vậy cũng ko nên đánh giá quân Đồng minh là kém vì trên mặt trận phía Tây người Đức đã có nhiều năm rảnh rang để bố trí 1 loạt hệ thống phòng ngự khổng lồ như Bức tường Đại Tây Dương hay Tuyến Siegfried, thiết kế của các hệ thống kiểu này đều là để 1 lực lượng dù là understrength đi nữa cũng đủ sức ngăn chặn 1 cuộc tấn công dù là overstrength đi nữa.
    Chào thân ái và quyết thắng!
  8. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Vấn đề sớm trở nên rõ ràng với Grossman khi những bản báo cáo của ông về nạn thảm sát người Do Thái (sau này được gọi là Holocaust) ko được giới chức Soviet chào đón. Tư tưởng Stalinist ko chấp nhận bất kỳ 1 loại nạn nhân đặc biệt nào, mọi nạn nhân của chủ nghĩa phát xít trên đất Soviet đều chỉ được xem là "công dân Liên Xô" mà ko có sự phân loại. Các báo cáo chính thức về những việc làm tàn bạo này, kể cả các báo cáo mô tả các xác chết đều đeo ngôi sao Do Thái, bị cấm nhắc tới từ "Do Thái". Cuối năm 1943, Grossman tham gia nhóm của Ilya Ehrenburg có nhiệm vụ thu thập các bằng chứng chi tiết về tội ác của quân Đức cho Uỷ ban người Do Thái chống phát xít, 1 tổ chức sau này bị giới chức Stalinist nghi ngờ. Ehrenburg và Grossman dự định xuất bản 1 cuốn "Sách Đen" tập hợp tất cả các chứng cứ thu thập được nhưng nó đã bị tịch thu sau chiến tranh, 1 phần vì quan điểm Stalinist về những nạn nhân Soviet là "Ko được phân biệt những người đã chết" và 1 phần vì sự dính líu của dân Ukraina vào hoạt động tàn sát người Do Thái làm nhà cầm quyền lúng túng. Đề tài về những người hợp tác với địch trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại gần như bị ém nhẹm hoàn toàn cho đến tận sau khi chế độ CS sụp đổ.
    Grossman quyết tâm nêu bật những bi kịch của con người trong tội ác lớn lao này. 1 cách bản năng, ông cảm thấy ghê sợ trước mức độ mất nhân tính và số lượng nạn nhân. Vì vậy ông bao giờ cũng tìm kiếm tên họ và các chi tiết cá nhân để cá biệt hoá vấn đề.

    Ko 1 ai thoát được khỏi Kazary để tố cáo, để nói, để khóc. Sự im lặng bao trùm lên những thân xác chôn vùi dưới những căn nhà cháy giờ đã mọc đầy lau lách. Sự im lặng còn đáng sợ hơn cả nước mắt và những lời nguyền rủa.
    Người già và phụ nữ đều đã chết, kể cả những người có chuyên môn: thợ cạo, thợ giày, thợ nguội, thợ kim hoàn, thợ sơn, thợ rèn, thợ in, công nhân, người giao hàng, thợ mộc, thợ lò, diễn viên hài, người làm đồ mỹ nghệ, người gánh nước, người xay bột, thợ làm bánh và đầu bếp; người chết còn là bác sĩ, thày tế, bác sĩ giải phẫu, bác sĩ phụ khoa, nhà khoa học - vi khuẩn học, sinh hoá học, hiệu trưởng trường đại học y khoa - giáo viên sử học, đại số, lượng giác. Người chết cũng là giáo sư, giảng viên đại học, nhà nghiên cứu khoa học, kỹ sư, kiến trúc sư. Người chết là nhà nông học, công nhân nông trường, kế toán, văn thư, bán hàng, đại lý cung tiêu, thư ký, gác đêm, người chết là giáo viên, người chết là các bà cụ vẫn đan bít tất và làm những chiếc bánh nhân nho ngon lành, nấu canh thịt và làm bánh ngọt bằng táo và hạnh nhân; người chết là những phụ nữ chung thuỷ lẫn đàng điếm, tất cả đều chết, các cô gái xinh đẹp, các cậu sinh viên và các cô bé học sinh vui nhộn, cả các cô gái xấu xí ngu độn và những bà gù cũng chết, người chết là ca sĩ, người chết là kẻ đui mù hay câm điếc, người chết là nghệ sĩ violon hay piano, người chết là những em bé 2 - 3 tuổi, người chết là cụ ông 80 tuổi và cụ bà mắt đã mờ đục, với những ngón tay lạnh giá và mái tóc bạc trắng; người chết là những em bé mới sinh vẫn còn sục tìm vú mẹ cho đến giờ phút cuối cùng.
    Những cái chết trong chiến tranh này khác với những người chết với vũ khí trong tay, những người trước khi chết đã lên đường đi chiến đấu bỏ lại sau lưng nhà cửa, gia đình, ruộng đồng, âm nhạc, phong tục và những câu chuyện kể. Đây là những cái chết do 1 vụ tàn sát chỉ có trong những câu chuyện thời cổ đại, diễn ra cùng lúc với hàng ngàn gia đình từ ông cho tới cháu, 1 vụ tàn sát thiên cổ, tàn sát luôn cả âm nhạc, thi ca, cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự đau khổ, nó là sự phá huỷ con tim và linh hồn, là cái chết của cả 1 dân tộc đã từng tồn tại bên những người Ukraina trong hàng trăm năm ...
    Khristya Chunyak, 1 bà nông dân 40 tuổi sống ở làng Krasilovka, huyện Brovarsky ngoại thành Kiev, kể lại bọn Đức đã điệu ông bác sỹ Do Thái tên là Feldman đi hành quyết như thế nào. Vị bác sĩ này là 1 ông già độc thân đã nhận nuôi 2 đứa trẻ mồ côi, dân địa phương rất yêu quý ông. Cả 1 đám đông phụ nữ nông dân đã tới đồn lính Đức kêu khóc xin cho Feldman được sống. Tên sĩ quan chỉ huy cuối cùng lùi bước trước những lời cầu khẩn của cánh phụ nữ, đó là vào mùa thu năm 1941. Feldman được sống và tiếp tục ở lại chữa bệnh cho những người nông dân địa phương nhưng cuối cùng vẫn bị hành quyết vào mùa xuân vừa qua. Khristya Chunyak thút thít rồi cuối cùng oà khóc khi kể cho tôi nghe đến đoạn ông cụ bác sĩ đã bị buộc phải tự đào huyệt cho mình như thế nào. Ông phải chết 1 mình vì chẳng còn người Do Thái nào còn sống đến mùa xuân năm 1943.
  9. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Các tập đoàn quân của tướng Vatutin đã thiết lập được nhiều đầu cầu bên kia sông Dnepr sau đó phát triển về phía nam Kiev hướng về Berdichev, quê hương Grossman. Thống chế Von Manstein phản công liên tiếp trong suốt tháng 12, cố gắng đẩy bật Vatutin về bờ phải nhưng vào ngày Lễ Giáng sinh ông ta đã phải ngạc nhiên khi người Nga đã nguỵ trang rất tốt rồi mở 1 cuộc tấn công gần Brusilov.
    Đầu năm 1944, các lãnh đạo Wehrmacht đối mặt với sự thật đau đớn rằng mặc dù phải chịu rất nhiều thương vong, Hồng quân đã trở thành 1 bộ máy chiến tranh ghê gớm chỉ sau có hơn 1 năm. Các sư đoàn Đức bị hao hụt nặng nề và các tân binh mới bổ sung chưa được huấn luyện đầy đủ. Các sư đoàn thiết giáp đã ko thể có lại sức mạnh như trước kể từ sau trận Kursk, trong khi đó lực lượng thiết giáp Soviet vẫn được cung cấp liên tục những chiếc xe tăng mới từ vùng công nghiệp khổng lồ Chelyabinsk và xa hơn nữa là Ural. Các đơn vị Hồng quân cũng được tăng cường mạnh mẽ khả năng cơ động nhờ những chuyến hàng chở xe tải Dodge và Studebaker vẫn đều đặn đến từ nước Mỹ. Hồng quân đã có thể tiến rất nhanh qua vùng Trung Âu nhờ sự giúp đỡ to lớn của người Mỹ, điều này mỉa mai thay đã ko được các sử gia Nga thừa nhận.
    Trong cuộc tấn công mùa đông bắt đầu vào cuối tháng 12/1943, Hồng quân đã tấn công về phía Bắc đẩy quân Đức về phía Leningrad. Tại phía nam, 4 phương diện quân Ukraina cùng mở đợt tấn công từ Kiev tới tận Biển Đen. Công việc của Vatutin tại Phương diện quân Ukraina 1 là ngày 24/12 mở cuộc tấn công từ 1 đầu cầu nằm sát Kiev về phía nam, quân của ông chiếm được Zitomir vào ngày 1/1. Kazatin cách đó 70km về phía nam cũng được chiếm lại và thị trấn Berdichev nằm giữa 2 nơi đó cuối cùng đã sạch bóng quân thù ngày 5/1/1944 sau 1 trận ác chiến với sự tham gia của Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân Xe tăng 1.
    Grossman có lý do rất riêng để được có mặt tại Ukraina. Ông nhất định phải tìm ra điều gì đã xảy ra tại Berdichev, nơi ông sợ rằng mẹ mình và những người thân đã bị tàn sát. Ông viết cho vợ ngay khi đến gần Berdichev.

    Lyusenka yêu quý nhất của anh, hôm nay anh sẽ tới nơi cần tới vì mai anh phải đi Kiev. Thật khó diễn tả những gì anh đã cảm nhận và trải qua trong mấy tiếng đồng hồ đi qua những nơi quen thuộc. Chỉ có toàn những ngôi mộ và xác chết. Anh sẽ tới Berdichev trong hôm nay. Các đồng đội của anh đã ở đó, họ nói thị trấn hoàn toàn vắng lặng, có lẽ chỉ còn độ mươi người sống sót trong số hàng ngàn hàng vạn người Do Thái đã từng sống ở đây. Anh ko hy vọng tìm thấy mẹ còn sống. Điều duy nhất anh mong là biết được về những giờ phút cuối cùng và về cái chết của bà ... Ở đây anh đã hiểu thế nào là tình thân giữa 1 nhúm người sống sót.
    Ông cũng viết thư cho cha, chắc là trong cùng 1 ngày tháng 1 đó, để kể về cái chết của 1 người bạn tại Kiev.
    Con sẽ đi Berdichev hôm nay. Người ta nói toàn bộ dân Do Thái đã bị giết hết, thị trấn gần như bị phá huỷ hoàn toàn và ko còn ai. Ôm hôn cha, người con yêu quý. Con đang có những cảm xúc thật là mãnh liệt. Vasya của cha.
    Grossman đã tới bãi hành quyết nằm trên 1 khu đất trống và khu vực mà dân Do Thái ở Berdichev đã bị tập trung vào đó. Ông hỏi han những nhân chứng 1 cách ko mệt mỏi, cả số ít người Do Thái sống sót và những người Ukraina địa phương. Với ông, điều gây shock nhất là ông phát hiện ra dân Ukraina địa phương đã đóng vai trò quan trọng trong tấn thảm kịch này. Nhiều người đã được nhà cầm quyền Đức tuyển vào lực lượng cảnh sát địa phương, phát súng, đồng phục gồm mũ lưỡi trai và băng tay trắng. Chúng khuyến khích họ hành hạ người Do Thái, sau đó hỗ trợ chúng bố ráp và hành quyết họ.
    Grossman khi còn trẻ đã được dạy là nên tránh tiếp xúc với những người Do Thái tại Berdichev nên giờ ông cảm thấy nặng nề gấp đôi vì tội lỗi này. Trong số hơn 60.000 dân cư Berdichev có hơn 30.000 người Do Thái, khoảng 20 - 30.000 người trong số đó đã bị giết ngay trong cuộc tàn sát quy mô lớn đầu tiên tại Ukraina. Grossman thừa nhận nhiều người Ukraina làm vậy là để trả thù chính sách đàn áp và nạn đói những năm 20 - 30 mà những người Stalinist đã gây nên và đẩy người Do Thái ra làm vật tế thần. Họ cũng ko hề hổ thẹn với việc cướp bóc tài sản của dân Do Thái trong thị trấn. Tuy nhiên Grossman cũng ghi nhận 1 thực tế là hầu hết những người Do Thái còn sống sót đều là nhờ được những người Nga hoặc Ukraina bảo bọc. Những ghi chép từ những cuộc phỏng vấn này đã được ông đưa vào cuốn Sách Đen.

    Khoảng 30.000 người Do Thái đã bị giết tại Berdichev. 2 anh em nhà Pekilis, Mikhel và Wulf, sống sót. Nhiều người dân thị trấn quen biết gia đình Pekilis, họ là những thợ xây đá nổi tiếng, gồm cha và 5 con trai. Họ đã xây nhà cửa ở Berdichev, xây nhà máy ở Kiev và thậm chí đã tham gia xây dựng 1 số công trình ngầm ở Moscow. Khi bọn Đức tới, Mikhel và Wulf thoát được. 2 anh em đang xây 1 cái bếp lò đẹp cho 1 gia đình nông dân và đã trốn luôn trong bếp, sau đó họ đào 1 cái lỗ dưới 1 công trình của người Đức trên phố Sverdlovskaya và ngồi trong đó suốt 145 ngày. 1 kỹ sư người Nga tên là Evgeny Osipovich đã tiếp tế cho họ. Sau đó họ trốn ra trong 1 chiếc quan tài và tìm gặp du kích, Mikhel và Wulf Pekilis đã tham gia vào trận đánh giải phóng Berdichev.
  10. mariacallas

    mariacallas Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2007
    Bài viết:
    112
    Đã được thích:
    0
    Trc đây mình đã đọc nhiều tài liệu nói về sự bố trí của quân đội Đức tại 2 chiến tuyến , và cũng có 1 số khẳng định sự cân = về sức mạnh của Đức ở Đông và Tây . Khi đó mình cũng thấy bt vì nhiều khi sách báo nói theo kiểu chung chung thường k0 chính xác , cần phải kiểm chứng lại ...Nhưng năm ngoái tớ đọc 1quyển sách do tác giả và nhà xuất bản khá uy tín nói về vấn đề này rất chi tiết thì tớ thấy rất là bất ngờ và ngạc nhiên .
    Trc khi đồng minh đổ bộ thì rõ ràng phía Tây là hậu phương của Đ nên có ít quân và toàn những đơn vị dưỡng thương iếu ớt là đương nhiên . Nhưng sang năm 44 thì số lượng quân Đ ở phía Tây chiếm khoảng 40% lục quân và 70% k0 quân . Nếu cộng thêm cả vùng Balkan thì tỉ lệ lên đến 53% ( Balkan là nơi có nhiều quân vì du kích pt và phòng ngừa Anh đổ bộ ) . Cụ thể ở 2 khu vực quan trọng là Ý Đ có 20 sđ và Pháp có 70 sđ .
    Sang đến năm 45 vùng Balkan đã thuộc phạm vị mặt trận phía Đông nên tỉ lệ là 40 - 60 ( lục quân ) . Thậm chí số lượng quân Đ chết ở 2 chiến tuyến cũng có tỉ lệ đúng i như vậy
    Các đơn vị cơ động mạnh đc luân chuyển liên tục giữa 2 phía . Nhưng nhìn vào thời gian biểu và các khu vực đóng quân của các đơn vị thiện chiến Đ ( 6 xe tăng , 1,2,3 ,4 SS ... ) thì thấy chúng nó ở phía Tây là chính , tham gia các trận đánh chủ yếu bên phía Tây .
    Đến hết War tỉ lệ bắt tù binh của 2 bên cũng gần như tỉ lệ quân Đ ở 2 phía . Tỉ lệ tù binh này là đã tính đến việc trao trả theo khu vực mặt trận

Chia sẻ trang này