1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vasily Grossman - Nhà văn chiến tranh

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi maseo, 20/05/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    LỜI BẠT
    SỰ DỐI TRÁ CỦA CHIẾN THẮNG
    Niềm tin của Vasily Grossman vào ?osự thật trần trụi của chiến tranh? bị giới chức Soviet từ chối ko thương tiếc, đặc biệt khi họ muốn ém nhẹm thông tin về các vụ thảm sát người Do Thái (Holocaust). Đầu tiên là việc phủ nhận sự tồn tại của chủ nghĩa bài Do Thái trong xã hội Soviet. Grossman phải làm ra vẻ hòa hợp với Sholokhov, người đã xúc phạm cả ông lẫn Ehrenburg khi nêu 2 ông như những ví dụ điển hình của các tư tưởng ********* còn sót lại từ trước cách mạng. Sau chiến tranh, ông sớm phát hiện ra rằng bản thân những người Stalinist còn bài Do Thái hơn nhiều so với tưởng tượng của ông. Nhiều năm sau đó, khi viết cuốn ?oCuộc đời và Số phận?, ông đã bộc lộ điều này công khai khi mô tả cuộc chiến nhưng cuốn sách đã ra đời quá sớm. Mặc dù có những cảnh báo nhưng tư tưởng bài Do Thái trong hệ thống chính quyền Soviet đã ko bộc lộc 1 cách rõ ràng cho đến tận năm 1948. Nó bộc phát 1 cách đáng sợ năm 1952 trong chiến dịch ?obài trừ chủ nghĩa quốc tế? của Stalin và việc tung ra giả thuyết về âm mưu của các bác sĩ Do Thái định sát hại các nhà lãnh đạo Soviet. Tuy chưa phải người bài Do Thái thực sự nhưng Stalin có những tư tưởng ko khác mấy bọn Nazi, xuất phát từ tư tưởng bài ngoại hơn là phân biệt chủng tộc.
    Ủy ban người Do Thái chống phát xít được thành lập tháng 4/1942 theo yêu cầu từ 1 năm trước đó của ?onhững người anh em Do thái? trên toàn thế giới nhằm giúp đỡ nhau trong cuộc chiến, lúc này nổi lên như 1 đối tượng nghi ngờ của Stalin. Trong cuộc Đại thanh trừng những năm 1937 ?" 1938, chỉ 1 dấu hiệu mơ hồ về việc có liên lạc với người ngoại quốc đã đủ để kết tội vô số nạn nhân. Chỉ đến những tháng đầu của cuộc chiến, khi đất nước đối mặt với mối đe dọa sống còn, Stalin mới suy nghĩ lại về ý tưởng để người Do Thái Liên Xô thiết lập quan hệ trực tiếp với người Do Thái tại Mỹ và Anh. Tuy thế đề nghị thành lập các Lữ đoàn quốc tế của những người nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, trong đó người Do Thái tập trung thành các đơn vị độc lập chiến đấu trong thành phần Hồng quân, đã bị chính thức bác bỏ. Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất là ngay sau khi bảo vệ thành công Moscow tháng 12/1941, 2 nhân vật chính yếu đưa ra đề nghị trên là Henryk Erlich và Viktor Alter, 2 người Do Thái Ba Lan, đã bị bắt. Erlich sau đó tự sát trong tù còn Alter bị xử tử.
    Nhà cầm quyền Soviet ko tỏ ra phản đối Ủy ban người Do thái chống phát xít trên mặt trận tuyên truyền khi Thỏa ước Lend ?" Lease với người Mỹ vẫn còn rất quan trọng với sự sống còn của đất nước. Tuy nhiên hoạt động của Ủy ban ngày 1 mở rộng và khiến họ xung đột với chủ trương của những người Stalinist muốn che đậy các vụ Holocaust. 1 ý tưởng khác xuất phát từ Mỹ mà trong nhóm đề xướng có cả Albert Einstein, 1 người Do Thái Mỹ nổi tiếng, là lập ra cuốn Sách Đen. Ý tưởng này thậm chí còn bị những người Stalinist phản đối nhiều hơn, ngay cả khi Thông tấn xã Soviet đã chấp thuận đưa vào kế hoạch xuất bản năm 1943. Grossman, 1 người Nga yêu nước và Ehrenburg, 1 người gốc Pháp đều được xem là những người Do Thái dù cả 2 vốn ko bao giờ quan tâm đến những nghi lễ Do Thái giáo Chính thống. Giờ đây họ gắn mình với số phận của những người Do Thái trên khắp Châu Âu. Cũng trong mùa hè năm 1943, khi xu thế chiến cuộc đã chuyển hướng 1 cách quyết định sang bất lợi cho phe phát xít, cả Ehrenburg và Grossman đều phát hiện ra rằng các cơ quan xuất bản chính đã cắt bỏ hầu hết các bài viết của 2 ông về đề tài tội ác chống người Do Thái của bọn Nazi. Chỉ còn lại 1 số nhỏ nhà báo người Do thái, khoảng 20 người trên toàn Liên Xô, là chấp nhận đề tài này, họ tập trung nỗ lực vào dự án xuất bản cuốn Sách Đen (*). Sau này Grossman có đề nghị đích thân Konstantin Simonov tham gia viết 1 chương về Majdanek nhưng ông này từ chối, lấy lý do là quá bận, rõ ràng ông ta ko muốn hứng chịu rủi ro của việc gây thù chuốc oán với giới chức cầm quyền.
    Cuối năm 1944, giữa Ehrenburg và các thành viên khác trong nhóm văn sĩ của Ủy ban người Do Thái chống phát xít phát sinh mâu thuẫn, vì vậy Grossman phải lãnh trách nhiệm biên tập cuốn sách. Tuy nhiên tháng 2/1945, Thông tấn xã Liên Xô phê phán việc nhấn mạnh các hành động của những kẻ phản bội tại các vùng tạm chiếm khi cộng tác với bọn Đức thảm sát người Do Thái. Đây chính là điểm đã làm Grossman phản đối mạnh mẽ con người nhìn xa trông rộng Ehrenburg. Đối với nhà cầm quyền, mục đích duy nhất của cuốn Sách Đen là 1 bằng chứng trong các phiên tòa diễn ra liên tục để xét xử bọn phát xít Đức.

    (*) Để biết chi tiết về những vấn đề gặp phải trong quá trình thực hiện cuốn Sách Đen có thể xem các ấn bản của Garrard & Garrard trang 199 ?" 221, của Rubenstein trang 212 ?" 217 và chi tiết nhất là của Rubeinstein & Naumov. Bản tiếng Anh của cuốn Sách Đen do NXB Vad Yashem ấn hành năm 1981.
  2. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Sau chiến tranh, Uỷ Ban Do Thái chống phát xít nhận ra rằng ko thể xin được giấy phép xuất bản cuốn Sách Đen từ giới chức cầm quyền. Tháng 11/1946, Ehrenburg, Grossman và người đứng đầu Uỷ ban là Solomon Mikhoels đã đồng gửi 1 lá đơn thỉnh nguyện tới Andrei Zhdanov, Bí thư Dân Uỷ Trung ương (*).
    Mãi ko nhận được câu trả lời nào. Cuối cùng, sau 11 tháng tức tháng 10/1947, Uỷ ban mới được thông báo rằng cuốn sách mắc "những sai lầm Ctrị nghiêm trọng" và bị cấm xuất bản. Chiến Tranh Lạnh vừa mới bắt đầu tháng 9 năm đó, và Uỷ ban Do thái chống phát xít trở thành đối tượng rất đáng ngờ vì có quan hệ với nước Mỹ, 2 tháng sau nó bị giải tán, các nhà văn tham gia viết cuốn Sách Đen tứ tán mỗi người 1 nơi. Tháng 1/1948, Solomon Mikhoels bị 1 chiếc xe tải nghiền nát ở Minsk, vụ này sau đó được chứng minh là 1 hành động của KGB nhằm loại trừ ông. Grossman chính là người đã đưa Mikhoels ra ga trong chuyến đi định mệnh này nên chắc cũng có nhiều nghi ngờ khi nghe được tin dữ, phương pháp ám sát quá thô thiển để có thể tin là 1 vụ tai nạn bình thường.
    Trong các năm 1945 và 1946, sự nghiệp văn chương của Grossman vẫn tiếp tục tiến triển ngoại trừ cuốn Sách Đen. 1 số bài viết của ông đăng trên tờ Krasnaya Zvezda được tập hợp và tái bản thành 1 cuốn sách nhỏ mang tên "Gody Voiny" (Những năm tháng chiến tranh), cuốn sách sau đó còn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Bản mới của cuốn "Nhân dân bất diệt" cũng được in và thậm chí chuyển thể thành kịch. Tuy nhiên những thành công này ko kéo dài quá 1 năm. Tháng 8/1946 bắt đầu thời kỳ trấn áp văn hoá và ý thức hệ do Andrei Zhdanov khởi sướng, nó được đặt tên là Zhdanovschina bắt chước theo tên gọi cuộc Đại Thanh trừng là Yezhovschina. Kể cả ko tính tới những việc đã làm cho cuốn Sách Đen, 1 nhà văn chân thực như Grossman cũng vẫn bị buộc phải đối mặt với quãng thời gian hậu chiến khó khăn. Tháng 9, vở kịch "Nếu chúng ta tin vào Pythagor" của ông đã bị tờ Pravda chỉ trích 1 cách ác ý. Sau đó là những lời cạnh khoé khác về các tác phẩm của ông viết trong chiến tranh, tuy nhiên điểm chính yếu khiến cho các nhà chức trách ko ưa ông vẫn là cuốn Sách Đen.
    Đòn tấn công tiếp theo vào Grossman nằm trong chiến dịch "bài trừ chủ nghĩa quốc tế" của những người Stalinist, nó bắt đầu tháng 11/1948 với việc giải tán Uỷ ban Do thái chống phát xít. (Theo logic quái gở của những người Stalinist, việc này ít nhiều trùng hợp với việc Liên Xô công nhận Nhà nước Do thái, 1 cuộc phân chia hoàn toàn chỉ nhằm mục đích làm hỏng kế hoạch của nước Anh). 3 tháng sau, tháng 1/1949, truyền thông Soviet bắt đầu cuộc tổng tấn công "bài trừ chủ nghĩa quốc tế" theo lệnh của Kremlin. 15 thành viên Uỷ ban bị bắt, bị thẩm vấn, tra tấn và cuối cùng bị xét xử vào tháng 5/1952. Các phiên toà đều được xử kín, 13 bị cáo bị xử tử vào tháng 8. Tháng 1/1953, 1 nhóm bác sĩ hầu hết là người Do Thái bị buộc tội là âm mưu sát hại các nhà lãnh đạo Soviet. Chiến dịch bài Do Thái trắng trợn này chỉ chấm dứt sau cái chết của Stalin vào tháng 3.
    Viktor Komarev, Phó Giám đốc cơ quan điều tra thuộc MGB đã thẩm vấn các thành viên Uỷ ban Do thái chống phát xít và khoác lác trong 1 bức thư gửi Stalin rằng "tôi căm ghét những kẻ thù của nhân dân này biết bao". Ông ta khoe khoang về những việc làm tàn bạo của mình và sự sợ hãi của các nạn nhân.
    "Tôi đặc biệt căm ghét và đối xử ko thương xót với những tên quốc gia Do thái, những kẻ mà tôi xem như kẻ thù nguy hiểm và hung ác nhất. Vì lòng căm thù đối với chúng mà tôi tự cho mình là người bài Do Thái ko chỉ với những bị cáo này mà cả với các cựu nhân viên MGB người Do Thái." 1 trong các bị cáo, Boris Shimeliovich, đã bị tra tấn đến mức phải ra toà trên cáng.

    (*) Andrei Aleksandrovich Zhdanov (1896 - 1948), sinh tại Mariupol, gia nhập Đảng Bolshevik năm 1915 và trở thành đệ tử trung thành của Stalin. Sau vụ ám sát Sergei Kirov năm 1934, Zhdanov trở thành thị trưởng Leningrad. Ông đóng vai trò quan trọng trong các cuộc thanh trừng và lãnh đạo cuộc phòng thủ Leningrad năm 1941. Sau đó ông trở lại với vai trò cũ là phụ trách an ninh văn hoá cho Stalin, trông nom hoạt động của Thông tấn xã Liên Xô và sau đó là Cục thông tin Quốc tế CS từ năm 1947. Học thuyết của ông được biết đến dưới cái tên "chủ nghĩa Zhdanovism" lấy căn bản là khái niệm partiynost, hay "tính Đảng", phải là 1 kim chỉ nam cho các văn nghệ sĩ. Sau này giới chức Soviet có cho rằng cái chết của ông năm 1948 là 1 phần vụ "âm mưu của các bác sĩ" nhưng cũng có thể chính Stalin, do lo ngại sự gia tăng quyền lực của nhóm quan chức gốc Leningrad dưới trướng Zhdanov, đã nhúng tay vào cái chết phi tự nhiên này.
  3. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Vasily Grossman và Ilya Ehrenburg đã cực kỳ may mắn khi ko bị liệt vào số những kẻ hợp tác với Uỷ ban Do thái chống phát xít bị bắt đợt đầu. Họ bị triệu đến thẩm vấn tháng 3/1952 để chuẩn bị cho phiên xét xử nhưng được để ngồi 1 mình tự viết bản cung. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Grossman về Stalingrad "Vì Chính Nghĩa" đã được xuất bản dài kỳ trong năm đó sau khi ông bị buộc phải sửa đổi nhiều đoạn liên quan đến Ctrị. Cuốn tiểu thuyết được đề cử Giải thưởng Stalin nhưng ngay sau đó Grossman đã bị phê phán dữ dội.
    Những tay bồi bút của Đảng đã phát hoảng khi nhận ra Grossman viết cuốn tiểu thuyết về trận Stalingrad mà ko hề nhắc tới Stalin. Danh sách những điểm đáng phê bình ngày càng mở rộng. Ông bị cho là đã làm giảm thắng lợi và vai trò của Đảng CS trong chiến thắng. Grossman đã buộc phải viết 1 bức thư xám hối nhưng ông chỉ thoát khỏi trại cải tạo Gulag nhờ cái chết của Stalin tháng 3/1953.
    Mặc dù ghê tởm những tín điều Stalinist mà vì nó ông phải liên tục dối trá và phản bội chính mình, Grossman vẫn ko bao giờ đánh mất niềm tin vào những người lính Nga bình thường và thành công to lớn của cuộc Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại. Con gái ông kể lại trong hồi ký ông đã thúc giục mọi người trong gia đình hát những bài hát chiến tranh trong nhà mình.

    Trong căn phòng trống lớn, trời đang chạng vạng, ko hiểu vì sắp tối hay sắp có mưa, có 3 người chúng tôi: bố, em cùng cha khác mẹ Fedya và tôi ... chúng tôi đang hát vài bài hát thời chiến. Cha tôi bắt nhịp bằng giọng vang và ồm ồm, đôi tai kém thẩm âm của ông ko quan tâm nhiều đến chuyện đó, những câu hát rất quen thuộc với chúng tôi:
    Chiếc máy bay đang quần lượn quanh quanh
    Nó đang gầm rú, lao vào lũ quỹ trên mặt đất ... (*)
    Bất ngờ cha tôi đứng dậy, Fedka và tôi cũng đứng lên. Cha tôi khom mình, tay để 2 bên như trong 1 cuộc duyệt binh, mặt trang nghiêm.
    Tiến lên đất nước vĩ đại
    Tiến lên trong cuộc chiến sống còn
    Trước đám mây đen phát xít
    Trước lũ hung tàn đáng nguyền rủa
    Cha tôi coi việc hát này như 1 nghi lễ: ông nói rất nhiều và rất thành kính ... Ông lúc nào cũng đứng khi hát.
    Grossman vẫn còn hứng thú với những câu hỏi về lòng dũng cảm và tính hèn nhát. Con gái ông ghi lại 1 cuộc nói chuyện trong nhà với vài khách khứa, câu chuyện xoay sang chủ đề các hoạt động trong chiến tranh. 1 người nói khi ai đó có những tình cảm mạnh mẽ như yêu nước hoặc tức giận, sự sợ hãi sẽ biến mất. "Grossman trả lời rằng điều đó ko đúng. "Chỉ giống như là có 2 kiểu dũng cảm thôi, tôi nghĩ anh cần phân biệt 2 kiểu sợ hãi khác nhau - nỗi sợ vật chất ví dụ như sợ chết, và nỗi sợ tinh thần ví dụ như sợ bị người khác ghét bỏ trên mặt trận. Như trường hợp Tvardovsky bẩm sinh là 1 người cực kỳ dũng cảm, còn những người khác như Simonov chẳng hạn thì ko sở hữu tính cách đó vì anh ta vốn là thường dân, mặc dù vậy Kostya Simonov vẫn tỏ ra vô cùng dũng cảm trong chiến tranh.""
    Grossman ko hoàn toàn bị bỏ rơi về mặt Ctrị, thậm chí trong những lúc khó khăn nhất ông vẫn nhận được sự ủng hộ từ 1 số tướng lĩnh Stalingrad. Rodimtsev, người ông luôn tôn kính, đã đứng bên ông khi cuốn "Vì Chính Nghĩa" bị công kích, đó là 1 hành động thực sự dũng cảm. Năm 1955, sau cái chết của Stalin, khi mọi sự đã ko còn quá tệ với Grossman, ông đã gặp 1 người bạn chí cốt của Stalin là Nguyên soái Voroshilov, người đã cố thuyết phục ông vào Đảng nhưng Grossman khăng khăng từ chối. "Ờ, với tôi vẫn rõ ràng thôi," Voroshilov trả lời với vẻ tốt bụng, "anh là 1 người Bolshevik ngoài Đảng."
    Năm 1954, cuốn "Vì Chính Nghĩa" được tái bản, lần này dưới dạng sách và lại 1 lần nữa được ngợi ca. Trong thời gian nghỉ viết những năm 50s, Grossman vẫn tiếp tục làm nhiều việc để chuẩn bị cho kiệt tác của mình, cuốn "Cuộc đời và Số phận". Cuốn sách được kính cẩn đề tặng Tolstoy, tác giả cuốn "Chiến tranh và Hoà bình", và cũng là 1 thiên anh hùng ca, nhưng ở đây trung tâm là trận Stalingrad. 1 trong những khác biệt căn bản giữa 2 cuốn tiểu thuyết là cách Grossman đặt vấn đề với những câu chuyện và nhân vật gần gũi với ông. Thực tế cuốn sách hầu hết lấy chất liệu từ đời thực nhưng vẫn ko làm mất đi tính tiểu thuyết. Ngược lại, những chất liệu thực tế làm cho cuốn sách có sức hấp dẫn lớn.
    Grossman đã tưởng rằng dưới thời Nikita Khrushchev, cựu Chính uỷ Stalingrad và là người phê phán Stalin tháng 2/1956 tại Đại hội Đảng 20, sự thật cuối cùng cũng đã có thể nói ra. Nhưng sự thiếu óc xét đoán Ctrị đã làm hại Grossman. Ông đã ko nhận thấy rằng sự tương đồng ngấm ngầm giữa Nazism và Stalinism trong cuốn sách của ông vẫn là rất khó nghe. Huyền thoại về chủ nghĩa anh hùng trong cuộc Chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại đã quá ăn sâu bén rễ. Ông chỉ nhận ra đầy đủ sự thật khi chứng kiến số phận của cuộc nổi dậy tại Hungary năm 1956, nó đã bị tướng Babadzhanyan, người anh hùng trong cuốn "Nhân dân bất diệt" của ông, nghiền nát ko thương tiếc.
    Grossman hoàn thành cuốn "Cuộc đời và Số phận" năm 1960 và đưa đi đánh máy. Những người biên tập làm ra vẻ bất tài và lười biếng nhưng thực ra là họ sợ hãi vì những gì viết trong tác phẩm. Việc cấp phép xuất bản bị đá lên cấp trên và ngày 14/2/1961, 3 sĩ quan cao cấp KGB đã tới tịch thu tất cả các bản đánh máy. Họ lục soát căn hộ của cả Grossman lẫn những người đánh máy cho ông, lấy đi các bản chép tay và cả giấy than cũng như những băng chữ trên máy đánh chữ. Bản thảo cuốn sách được chuyển tới trưởng ban tư tưởng Đảng CS Mikhail Suslov, nhà lãnh đạo đầy quyền lực của Ban Văn hoá Uỷ ban TW (**). Suslov tuyên án cuốn sách sẽ ko được xuất bản trong ít nhất 200 năm nữa, đây cũng chính là 1 lời khẳng định rõ ràng về tầm quan trọng của cuốn sách.
    Tiếp theo là 1 sự tàn phá toàn diện, các cuốn sách trước đây của Grossman bị ngừng lưu hành. Ông rơi vào cảnh cơ hàn và chỉ còn lại 1 số ít bạn bè sẵn sàng chia sẻ rủi ro với ông, ko lâu sau ông bị phát hiện ung thư dạ dày. Grossman mất vào mùa hè năm 1964, cho đến khi chết ông vẫn nghĩ rằng các tác phẩm vĩ đại của mình sẽ bị cấm xuất bản vĩnh viễn. Ehrenburg đề nghị đưa các tác phẩm của ông ra trước 1 uỷ ban đánh giá nhưng bị Hội Nhà văn từ chối. Trong con mắt của giới chức cầm quyền Soviet, Vasily Grossman đã hoàn toàn ko còn sinh mạng Ctrị.
    Tuy nhiên, Grossman vẫn còn 1 bản thảo đánh máy cuốn sách gửi nhờ 1 người bạn. Người bạn đó đã bỏ bản thảo của ông vào 1 cái túi vải bạt và bỏ quên nó khi treo trên móc dưới 1 cái áo khoác trong nhà nghỉ nông thôn của ông ta. Sau này bản thảo đó mới được tìm thấy và copy thành microfilm nhờ công của Andrei Sakharov, 1 nhà vật lý vĩ đại và 1 người bất đồng chính kiến. Vladimir Voinovich, tiểu thuyết gia trào phúng, tác giả cuốn "Binh nhì Chonkin" (1 tác phẩm về Hồng quân tương tự cuốn "Chú lính Schwejk tốt bụng"), đã bí mật chuyển bản microfilm khỏi Liên Xô, tới Thuỵ Sĩ (***). Cuốn "Cuộc đời và Số phận" đã được xuất bản tại Thuỵ Sĩ và nhiều nước trên thế giới. Nó chỉ xuất hiện tại Nga sau khi chủ nghĩa CS sụp đổ. Lời hứa với mẹ mà Grossman chưa bao giờ nói được với bà đã hoàn thành. Bà đã sống lại trong cuốn tiểu thuyết của ông với nhân vật Anna Shtrum. Bản thân Grosman đã bị cuốn vào 1 thế kỷ chó sói nhưng tình người và lòng can đảm của ông vẫn sống mãi trong các tác phẩm.

    (*) Grossman viết bài hát về những phi công Soviet anh hùng này khi đến thăm trung đoàn ko quân của Vasily Stalin, con trai nhà độc tài, gần Stalingrad vào đầu mùa thu năm 1942.
    (*) Mikhail Suslov (1902 - 1982) Uỷ viên TW Soviet phụ trách tư tưởng, từng tham gia giám sát các cuộc thanh trừng thời năm 1937 - 1938 tại Ukraina và Ural. Trong những năm 1944 - 1945 ông ta trực tiếp tham gia các chiến dịch hành quyết và trục xuất tàn bạo đối với các phần tử dân tộc chủ nghĩa trong các dân tộc thiểu số Liên Xô do người Đức chỉ huy tại các vùng tạm chiếm.
    (***) Vladimir Nikolayevich Voinovich, sinh năm 1932, bắt đầu làm thơ khi còn trong quân đội Soviet từ 1950 - 1955. Sau đó ông chuyển sang văn xuôi và trở thành 1 người bất đồng chính kiến. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là "Cuộc đời và những chuyến phiêu lưu của binh nhì Ivan Chonkin" đã khiến ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn năm 1974. Ông vượt biên năm 1980 và bị Brezhnev tước quyền công dân.
  4. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Paul Adair, "Hitler''s Greatest Defeat - The Collapse of Army Group Centre, June 1944" (Thất bại lớn nhất của Hitler - Sự sụp đổ của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm, tháng 6/1944), London, 1994.
    Paul Addison và Angus Calder, "Time to Kill, The Soldier''s Experience of War 1939 - 1945" (Thời chết chóc, kinh nghiệm người lính trong chiến tranh 1939 - 1945), London, 1997.
    Antony Beevor, "Stalingrad", London, 1998.
    Antony Beevor, "Berlin - The Downfall, 1945" (Berlin sụp đổ, 1945), London, 2002.
    Anatoly Bocharov, "Vasily Grossman, zhizn, tvorchestvo, sudba" (Vasily Grosman, cuộc đời, sự nghiệp, số phận), Moscow, 1990.
    Vassily I. Chuikov, "The Beginning of the Road" (Sự bắt đầu của 1 con đường), London, 1963.
    Vassily I. Chuikov, "The End of the Third Reich" (Sự kết thúc của Đế chế thứ 3), London, 1967.
    Norman Davies, "Rising ''44" (Cuộc nổi dậy năm 44), London, 2003.
    Ilya Ehrenburg, "Lyudi. Gody. Zhizn" (Con người, năm tháng, cuộc đời) tập 2, Moscow, 1990.
    Frank Ellis, "Vasily Grossman, The Genesis and Evolution of a Russian Heretic" (Vasily Grossman, sự khởi đầu và phát triển của 1 kẻ dị giáo Nga), Oxford, 2004.
    John Erickson, "The Road to Stalingrad" (Đường tới Stalingrad), London, 1975.
    John Erickson, "The Road to Berlin" (Đường tới Berlin), London, 1999.
    John Garrard và Carol Garrard, "The Bones of Berdichev, The Life and Fate of Vasily Grossman" (Những nắm xương tàn ở Berdichev, cuộc đời và số phận của Vasily Grossman), New York, 1996.
    David M. Glantz và Jonathan House, "When Titans Clashed, How the Red Army Stopped Hitler" (Cuộc chiến giữa những người khổng lồ, cách Hồng quân chặn đứng Hitler), Kansas, 1995.
    Vasily Grossman, "V gorode Berdicheve" (Ở thị trấn Berdichev), Moscow, 1934.
    Vasily Grossman, "Gliukauf!" (Chúc may mắn!), Moscow, 1934.
    Vasily Grossman, "Stepan Kolchugin", Moscow, 1937 - 1940.
    Vasily Grossman, "Narod Bessmerten" (Nhân dân bất diệt), Moscow, 1942 và 1962.
    Vasily Grossman, "Esli verit'' pitagoreitsam" (Nếu chúng ta tin vào Pythagore), Moscow, 1946.
    Vasily Grossman, "Za pravoye delo" (Vì Chính nghĩa), Moscow, 1952.
    Vasily Grossman, "Vsyo techyot" (Mãi nổi trôi), New York, 1972.
    Vasily Grossman, "Tovarishchi" (Đồng chí), trong tuyển tập "Zhurnalisty na voine" (Nhà văn chiến tranh) tập 2, Moscow, 1974.
    Vasily Grossman, "Zhizu i sudba" (Cuộc đời và số phận), Geneva, 1981 và 1985.
    Vasily Grossman, "Gody voiny" (Những năm tháng chiến tranh), Moscow, 1989.
    Fyodor Guber, "Pamyat i pisma", Daugava, 1990.
    Raul Hilberg, "The Destruction of the European Jews" (Cuộc huỷ diệt người Do thái châu Âu), New York, 1985.
    Simon Markish, "Le cas Grossman", Paris, 1983.
    Catherine Merridale, "Night of Stone" (Đêm của đá), London, 2000.
    D. I. Ortenberg, "Vremya ne vlastno" (Thời gian ko có quyền), Moscow, 1979.
    D. I. Ortenberg, "God 1943" (Năm 1942), Moscow, 1982.
    D. I. Ortenberg, "Iyun - Dekabr Sorok pervogo" (Tháng 6 - 12/1941), Moscow, 1984.
    D. I. Ortenberg, "Sorok trety" (1943), Moscow, 1991.
    Richard Overy, "Russia''s War" (Cuộc chiến của nước Nga), London, 1998.
    Donald Rayfield, "Stalin and his Hangmen" (Stalin và những tên đao phủ của ông), London, 2004.
    Joshua Rubenstein, "Tangled Loyalties - the Life and Times of Ilya Ehrenburg" (Những niềm tin phức tạp - Cuộc đời và những sự nghiệp của Ilya Ehrenburg), New York, 1996.
    Joshua Rubenstein và Vladmir P. Naumov, "Stalin''s Secret Pogrom, The Postwar Inquisition of the Jewish Anti - Fascist Commitee" (Cuộc tàn sát bí mật người Do thái của Stalin, cuộc điều tra thời hậu chiến của Uỷ ban người Do thái chống phát xít), New Haven, 1996.
    Simon Sebag Montefiore, "Stalin: the Court of the Red Tsar" (Stalin: triều đại của Sa hoàng Đỏ), London, 2004.
    Konstantin Simonov, "Days and Nights" (Ngày và đêm), New York, 1945.
    Tsvetan Todorov, "Mémoires du Mal, Tentations du Bien", Paris, 2000.
    P. I. Troyanovsky, "Navosmi frontakh" (Tại 8 Phương diện quân), Moscow, 1982.
    Dmitri Volkogonov, "Stalin: Triumph and Tragedy" (Stalin: Thành công và bi kịch), London, 1991.
    A. I. Yeremenko, "Stalingrad - Zapiski komandujuscego frontom", Moscow, 1961.
    V. I. Zaitsev, "Za Volgoi Zemli dlya nas ne bylo" (Vì chúng ta ko còn chỗ nào lùi, phía sau là Volga), Los Angeles, 1973.
    Tuyển tập "Zhurnalisty na voine" (Nhà văn chiến tranh), Moscow, 1966.
    HẾT
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Maseo xin cám ơn các bác đã theo dõi cuốn sách khá khó nuốt này, đặc biệt cám ơn nhà tài trợ Danngoc và bác nào đã liên tục vote bấy lâu. Hẹn gặp lại các bác vào năm con trâu với 01 tác phẩm hầm hố hơn nhiều:
    PENALTY STRIKE - Hồi ký của 01 đại đội trưởng trừng giới trong WW2
    CHÚC MỪNG NĂM MỚI!
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Quyển này đã có ebook chưa bác?

Chia sẻ trang này