1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vật cổ truyền Việt Nam

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi jsf, 10/04/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. jsf

    jsf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2003
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Vật cổ truyền Việt Nam

    các cao thủ đã bàn về đủ loại võ Tây, Tàu, ta, Nhật, vậy có cao thủ nào có tài liệu về vật cổ truyền việt nam, xin post lên để mọi người cùng tham khảo
  2. havt

    havt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/10/2003
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Vật cổ truyền là niềm tự hào của Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm nó vẫn giữ nguyên bản sắc mà nó vốn có. Chúng ta thử để ý mà xem từ cách tổ chức cuộc đấu( hội), cách ứng sử, cách thể hiện niềm vui của khán giả và nhiều thứ khác xung quanh một cuộc đấu đó chính là văn hóa truyền thống Việt. Tôi làm tài liệu về văn hóa làng xã VN cụ thể là về Hưng Yên, mọi cái đều ổn đến anh Vật cổ truyền thì bị tắc tị vì không có tài liệu nào về nó cả. Các cao thủ ơi ra tay giúp mình với, Xin đa tạ
  3. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    Hội võ vật Liễu Đôi

    Làng Liễu Ðôi thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Hàng năm từ 5 đến 10 tháng Giêng âm lịch, làng đều tổ chức hội Vật võ để kỷ niệm Thánh Ông (một người họ Ðoàn, đã có công chiến đấu chống ngoại xâm phương Bắc, đồng thời là ông tổ của vật võ).
    ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao thì trong lễ hội Liễu Ðôi này, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.
    Mở đầu là nghi thức Rước Thánh vào dóng. Lễ rước nghiêm trang đậm tinh thần thượng võ. Tiếp theo là lễ Phát hoả. Một ngọn lửa thật sáng được đốt lên, ông Trùm trao gươm và khăn đào cho một đô vật danh dự (lễ này gọi là lễ trao gươm và thắt khăn đào). Cuối cùng là lễ Thanh động còn gọi là "lễ múa cờ tụ nghĩa".
    Sau nghi thức long trọng, cuộc vật võ bắt đầu. Có hai em bé trai được làng cử ra vật năm keo để trình làng (gọi là lệ năm keo rốt), tiếp theo là các đô vật của Liễu Ðôi giao đấu trước, sau đó là đến các đô vật ở các nơi đến tranh tài.
    Ngoài việc vật võ, hội làng Liễu Ðôi còn tổ chức nhiều thú vui khác như hát vè, hát đối đáp... và những món ăn đặc sản do tài nghệ chế biến của nhân dân địa phương mang đến lễ hội để dự thi.

  4. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    Hội Vật Làng Sình
    Lại Ân còn gọi là làng Sình, nằm bên hữu ngạn sông Hương, ở hạ lưu ngã ba Sình, trước thuộc huyện Tư Vinh hay tổng Mậu Tài, nay là xã Phú Mẫu huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là địa chỉ cuối cùng về phương Nam còn lưu giữ truyền thống vật võ, một sinh hoạt văn hoá đặc trưng của người Việt. Hằng năm sau khi ăn Tết xong, làng ở hội vật vào ngày 10 tháng giêng với niềm mong ước: dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc muôn ngườị
    Hội vật làng Sình, ngoài yếu tố tâm linh truyền thống, còn là một hoạt động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ, lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí, nhất là với lớp trai trẻ.
    Võ đài là xới vật bằng đất bột, mỗi bề rộng chừng bốn năm sải tay, cao hơn một mét được dựng trước sân đình từ ngày hôm trước, mùng chín tháng giêng, bốn bề có dăng dây bảo vệ. Ngôi đình làng nằm bên bờ sông, cảnh quan thoáng đãng, sông nước hữu tình. Người xem vây quanh xới vật ngồi san sát bên nhau trên những mô đất, những bệ cấp bằng tre già đan kết lại trong khuôn viên đình rộng chừng 600m2. Sau nghi lễ và những điều dặn dò về thi đấu, các đô sẵn sàng vào cuộc thi hào hứng. Điều khiển vật võ là một vị cao niên, có uy tín trong làng, khăn đen, áo dài, ngồi cầm trống ngay trước đình. Tiếng trống nhịp nhàng, thong thả là gọi vật; hối hả, liên tục là thúc giục các đô tích cực thi đấụ Trọng tài trên xới là một người am hiểu luật, nhanh nhạy, kiên quyết. Các đô vật không đóng khố như ở Bắc mà mặc quần và quấn thêm một cán ngang lưng. Người đến thi đấu không cần báo trước, chỉ đăng ký tại chỗ theo lời mời gọi thi tàị Khi được phép, họ này vào xới, làm lễ bái thần làng và các vị cao tuổị Trọng tài kiểm tra trang phục, xong cho lệnh thi đấụ Trống đánh một tiếng quì xuống chào nhau, trống đánh hai tiếng, đứng lên ôm nhau vật. Trống đánh ba tiếng thì thả nhau ra, lựa thế khác, vật lạị
    Luật vật dân tộc dựa trên nguyên tắc "túc bất ly địa" (chân không rời đất). Nêu nhấc được hai chân của đối thủ rời khỏi mặt đất là thắng cuộc. Từ "túc bất ly địa", luật tiến đến "lấm lưng, trắng bụng", một phần hoặc cả hai phần lưng lấm đất, bụng ngửa lên trời, là thua cuộc. Trước dây, vật võ làng Sình áp dụng luật "lấm lưng trắng bụng". Các đô phải đánh ngã đối thủ ở tư thế lấm lưng và phải thắng tất cả đô trong ngày để đoạt chức vô địch. Luật này làm nảy sinh sự tính toán để giành chức vô địch, gây mất đoàn kết và để lại hậu quả xấụ Từ hơn 20 năm nay luật qui định: duy trì "lấm lưng trắng bụng", nhưng phải giữ (đè) đối thủ bất động trong ba giây, phải thắng tiếp ba người mới được vào bán kết. Tiếp tục thắng ba người nữa vào chung kết. Sau này, tuỳ số đô lọt vào vòng hai mà qui định thể lệ, thông thường là loại trực tiếp. Với vật võ, ngoài sức khoẻ, các đô còn có kỹ thuật, có "miếng" và nhanh nhạy mới mong giành được thắng lợị Vật có nhiều miếng đẹp mắt, quyết liệt. Những miếng thường được các đô sử dụng là xốc nách, vạch sườn, miếng bò, miếng háng (thò tay vào háng rồi lựa thế tấn công) nâng đối thủ vật ngã bổng, miếng bành (xốc nách bế ngửa) miếng táng (nâng đối thủ lên)... Một đô vật lý tưởng có tay chân cân đốị Chân mạnh để trụ vững, tay mạnh để vật ngã đối phương. Nhưng to chưa hẳn đã mạnh, mạnh chưa hẳn đã thắng, cần phải nhanh, kiên trì để khai thác sơ hở của đối phương.
    Hội Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ, cấm chơi xấu, xa đòn độc, đòn hiểm, nguy đến tính mạng như bẻ, vặn, khoá trái khớp, tấn công bằng đầu, bấm các huyệt, đòn đá, đòn đánh, nắm tóc, tấn công vào hạ bộ, yết hầu, mắt.... Nếu hai đô vật giằng co nhau không thắng, trọng tài sẽ phạt và buộc thay thế tư thế vật (vật quỳ) để kết thúc nhanh trận đấụ Hội vật sắm các giải hưởng để động viên. Đô vật thua cũng có quà lưu niệm. Giải thưởng là tặng phẩm do dân làng và các mạnh thường quân đóng góp. Giải thưởng vô địch thường trang trọng hơn (cau trầu, rượu, đầu heọ...). Các đô vật chia theo hai hạng tuổi: thiếu niên và thanh niên, tầm vóc chênh lệch trên dưới 10Kg.
    Tinh thần đồng đội ở các địa phương rất quan trọng, một đô của làng nào bị thua tức khắc có đô khác lên tiếp sức. Mỗi năm có hơn 100 đô vật tham gia hào hứng suốt ngàỵ Thua một trận phải chờ đến năm sau mới "phục hận" được. Vì vậy các đô phải rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức để chờ đầu xuân được dự đua tàị Các xã có phòng trào đô vật mạnh là Phú Mẫu, Phú Thanh, Phú Dương (Phú Vang) Hải Dương, Hương Phong, Hương Vinh (Hương Trà), Thủ Lễ (Quang Điền), Hương Sơ (TP. Huế).
    Cùng với xới vật chính, đêm hôm trước và suốt ngày hội, khắp nơi trong làng các quán hàng ăn: bún bò, bánh bèo, bánh nậm, bán bột lọc, cháo lòng, bánh canh, chè....các gian trò chơi thu hút đông đảo khách chơi xuân. Cho đến khi tắt nắng, cuộc vui mới chịu dừng. Và, hôm sau mọi việc trở lại nhịp đời thường. Một năm làm lụng mới lại bắt đầụ
    Hoàng Dạ Lê (tạp chí Quê Hương)

  5. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    Hội vật
    Hội vật là môt lễ hội đắc sắc không kém. Đây vừa là môn thể thao rèn luyện sức khoẻ, vừa thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc.
    Các cuộc đấu vật phải có sới vật với đường kính khoảng 5m, rẫy sạch cỏ, phủ cát mỏng, rắc vôi bột làm giới hạn của sới vật. Các lò vật đến xin đấu giải. Đầu tiên là những giải lèo cho đông đảo mọi người tham dự. Rồi đến các lò vật cử các đô ra tranh giải nhất, nhì, ba. Những người tài nghệ thấp vào trước, dần dần cho các đô tiêu biểu cho các lò vào tranh giải cao. Giữ giải nhất thường là đô nổi tiếng khắp vùng. Những đô giữ giải nhất, không ai dám vào đấu, cuối cùng đô đó ăn giải cạn. Người xem vật thường ngưỡng mộ từ lúc các đô vật nổi tiếng lên xe đài (ra giàng) để vào trận đấu: vừa mềm mại, khoan thai, uyển chuyển như vờn, như múa nhưng lại thể hiện một sức mạnh thật sự của những cơ bắp được tập luyện đến mức lão luyện. Lý thú nhất khi vào sới là đấu miếng vật và điểm mạnh, điểm yếu của từng sân, từng lò vật, thì càng thấy cái hay của một trận đấu.
  6. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    VẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI
    Phan Quỳnh
    Đấu vật là một hoạt động dùng sức không có phương tiện, dụng cụ nào ngoài tài khéo nhanh nhẹn, nghệ thuật, dẻo dai và sức lực nhằm thi thố tài năng quật ngã nhau giữa hai đối thủ gọi là Đô hay Đô Vật. Khác với đánh võ bàn tay luôn luôn cứng, khi giao đấu các đô vật hai bàn tay mở xòe và mền mại, hầu dễ dàng cầm nắm, quăng quật. Những đô vật nổi tiếng hay bậc thầy được tôn là Trạng Vật. Tại những làng thôn có nhiều đô vật giỏi, hoặc có nơi đào tạo được nhiều đô vật, có thầy dạy hẳn hoi, gọi là Lò Vật.
    Vật là một bộ môn thể thao rất được ưa chuộng trong giới nông dân Việt Nam thời xưa. Những ngày đầu của mùa Xuân thuở thanh bình hay những buổi hội hè đình đám nơi thôn dã, dân làng thường tổ chức những cuộc vui như hát quan họ, thi nấu cơm, chọi trâu, đá gà, đánh đu, kéo co, bắùn nỏ, đánh gậy trung bình tiên, đấu vật, v.v... Nhất là đấu vật, mở hội ngày Xuân mà không có thi vật thì thật là thiếu thú vị của những ngày Tết. Trống vật nổi lên là có sức thu hút mọi người, già, trẻ, gái, trai, đủ mọi tầng lớp nô nức đến bao quanh đấu trường; người ta bình luận say sưa, chê khen rành rọt từng thế, từng miếng vật, từng keo vật từng tác phong của mỗi đô. Bộ môn vật, ngoài tính cách giải trí vui chơi, còn là một môn thể thao hữu ích, giúp thanh niên trong làng thêm cường tráng, thêm nghị lực, lòng dũng cảm, để giữ làng, giữ lúa và giữ nước. Đấu vật đã trở thành một tục lệ, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bức tranh dân gian Du Xuân Đồ đã miêu tả sống động cảnh tượng sinh hoạt văn nghệ, thể thao của nhân dân Việt Nam xưa vào dịp đầu Xuân với lời thơ chú thích:
    Thái bình mở hội xuân,
    Nô nức quyết xa gần,
    Nhạc dâng ca trong điện,
    Trò thưởng vật ngoài sân
    Ca dao vùng Sơn Nam có câu:
    Ba năm chúa mở khoa thi
    Đệ nhất thi vật, đệ nhì thi bơi,
    Đệ tứ thi đánh cờ người,
    Phường Bông tứ xứ mồng Mười tháng Ba.
    Ngay từ thời xa xưa, khi mới có của bộ môn này tại nước ta, vật đã được coi là một phương pháp dùng để luyện sức, đo tài, chọn người ra giúp dân giúp nước. Điều đó đã thể hiện ngay trong kỹ thuật, phong cách và lối chơi.
    Theo Pierre Gourou, tác giả sách "Les Paysans Du Delta Tonkinois" tái bản tại Paris năm 1965 (1), thì tại đồng bằng sông Hồng có nhiều làng, ví dụ làng Hà Lỗ tỉnh Bắc Ninh, có tục "đặt ruộng", dành riêng một số Công điền của làng cho làm rẽ, cho thuê thu tô để có tiền tổ chức Hội Vật hàng năm.
    Thật vậy, xưa kia ở nước ta chẳng mấy nơi không có lò vật. Có những lò vật vang lừng xứ Bắc như lò vật Guột, Tri Nhị, Gia Lương (Bắc Ninh), lò vật Đông Kỵ (Đồng Quang, Từ Sơn, Bắc Ninh) lò vật Thụy Lâm (Đông Anh, Cổ Loa), lò làng Yên ( Yên Mẫn, Châm Khê, Võ Giàng ) lò Liễu Đôi (Nam Hà), lò Phú Thọ, Vĩnh Phúc Yên, Nam Định, Hưng Yên,Hải Phòng, lò vật Thường Tín, lò Thanh hóa, Nghệ An, vân vân. Hội Vật làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên) hàng năm mở hội vào ngày 10 tháng Giêng Âm lịch thu hút nhiều đô danh tiếng miền Trung. Lại có lò cứ 12 năm mới mở Hội Vật một lần, ví dụ lò vật Trà Lữ thuộc trấn Sơn Nam cũ, cứ đúng năm Mùi mới lại mở thi Vật, nơi tranh hùng của các đô vật bốn phương, háo hức về giật giải. Nhưng cũng có làng khi mở hội đình ráng tổ chức đấu vật vẫn không thành, theo các cụ già xưa, nếu nơi naò không phải là đất vật thì khó có thể lập nổi sân vật mà các tay đô vật giỏi cũng không đến tranh giải. Đền Lý Bát Đế, thờ tám vị vua nhà Hậu Lý (từ năm 1010 đến năm 1225) tại Đình Bảng (Bắc Ninh), có tượng hai ông Đá Rãi, hai đô vật nổi tiếng.
    Các bô lão Trường Yên Ninh Bình rất tự hào về những ngày hội lớn hàng năm ở địa phương mình: Hội đền vua Đinh, Hội chùa Trường Yên, Hội Cờ Lau tập trận. Trò vui lớn nhất của những hội này là trò đấu võ, đấu vật. Những đô và những thày dậy võ họ Đinh, họ Bùi, họ Vũ cha truyền con nối, làm vẻ vang làng xóm
    Dưới đây, chúng ta thử hướng về lối vật của người nông dân Việt Nam thời xa xưa.
  7. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    I/. TẬP LUYỆN
    1/. Quanh năm, xong việc đồng áng, được lúc nào rảnh rỗi, trai tráng trong làng thường rủ nhau tập dượt võ thuật hay vật, họ chỉ bào lẫn nhau, ai có miếng võ nào hay, ngón vật nào độc đáo thì lại truyền dậy cho anh em cùng tập. Những ngày giáp Tết Nguyên Đán, nếu trong làng có ông thày võ, họ đến tụ tập tại nhà ông thày để luyện tập thêm; làng nào không có thì cử người đi đón thày ở lò võ, lò vật các làng lân cận về để dậy.
    Trang phục khi tập luyện cũng như khi lên đài đấu của các đô vật là đóùng có mỗi một cái khố và ở trần, không có đai đẳng gì cả, trên đầu chít khăn đầu rìu hay chít khăn bỏ tua. Khố là một miếng vài dài được cuốn vào như một cái quần sì-líp. Khố có nhiều màu, nào đỏ, nào xanh, nâu hay vàng, hồng, tím,...
    2/. Kỹ thuật và Nghi lễ.
    Trước hết, các đô vật được tập cách luyện thể lực cho dai sứ, mạnh tay mạnh chân, cách đứng thủ thế nào cho vững chắc, cách ?o***g tay tư?sao cho có ưu thế và những bộ pháp như cách di chuyển từng bước chân, khi tới, khi lui, khi bước ngang, bước xéo, xoay vòng,... Họ còn được tập luyện cách té ngã thế nào cho khỏi đập đầu xuống đất, khỏi gẫy tay, tập cách né tránh, thoát hiểm, ?o cầu vồng ?o, kể cả những nghi thức có tính cách tôn giáo dành riêng cho mỗi lò vật, như Múa Hoa, Xe Đài hay còn gọi là Ra Giàng, hoặc Múa Hạc v.v...
    Ra Giàng, Múa Hạc hay Xe Đài là một lễ nghi thành kính của các đô vật, và còn một hình thức khởi động của đô vật có mang tính dân tộc, vừa là cách trình diễn của đô vật với khán giả, tạo một không khí hào hứng lành mạnh trước khi vào cuộc đấu thực sự. Ngoài ra Ra Giàng, hai bên vờn nhau, còn đánh đòn tâm lý, gây cho đối phương tư tưởng hoang mang, giao động với những lối Ra Giàng hùng dũng, chân đứng hình con hạc, hay đứng theo kiểu con phượng nhích chân, con dang cất cánh hoặc con công múa xòe, cổ tay uốn lượn, ngón tay múa may mền dẻo, uốn éo, giống như những nghi thức tay Ấn tay Quyết của các thầy tế, pháp sư hay phù thủy. Có lẽ nó có nguồn gốc của lễ nghi Tế Thần sau những chiến thắng của các dân tộc Á đông thời thượng cổ bên ngọn lửa thiêng bập bùng trên thuyền chiến hay đồng nội ven ao hồ, sông biển. (Xem Luyện Võ của Phan Quỳnh). Phải chăng có sự liên hệ nào đó giữa những hình ảnh Ra Giàng hay Múa Hạc của các đô vật vùng đồng bằng Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam mà nhịp chân tiến lên lùi xuống ba bước, bước ngang hai bước với những cảnh chim chóc, cảnh người múa (múa võ?)õ chạm đúc trang trí trên trống đồng Đông Sơn, hay rõ hơn trống đồng Hoàng Hạ, Ngọc Lũ hay trên thạp đồng Đào Thịnh? Điểm đáng chú ý là động tác bàn tay những người múa trên trống đồng, thạp đồng đã được thể hiện một cách cường điệu, bàn tay xòe ra hình ba chạc to quá khổ so với người.
    (Xin mở một ngoặc đơn là một số các dân tộc ở Nam Á và ở châu Á hải đảo chạy dài từ phía nam quần đảo Nam Dương đổ lên vùng đa đảo cực bắc Thái Bình Dương cũng có những nghi thức Ra Giàng giống như các đô vật vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã: nghi thức Kanbangan của các võ sĩ Pukalam Pentjack cổ điển ở Indonesia, ở vùng hải đảo Celebes, nghi thức Nagdadasal của các đô vật Dommoq nhóm bộ lạc Tagalog vùng đảo Luzon Phi Luật Tân, nghi lễ Suat-Mon hay Wai-Pá thành kính cầu nguyện lúc thượng đài của các võ sĩ Muay-Tai Thái Lan, các võ sĩ Tỷ-Môi xa xưa ở Ai Lao hay của các đô vật Sumo ở Hokkaido Nhật Bản).
    Vật không phải chỉ cần có sức khỏe, có lực để thắng được đối phương, nó còn đòi hỏi phải có thế, có miếng, có kỹ thuật, có mánh lới, cộng với sự nhanh nhẹn, chính xác của từng đô vật. Do đó, vật có nhiều thế, nhiều miếng, có những miếng đánh trong tư thế bất ngờ, có những miếng đánh trong lúc giằng co, hoặc đánh trong tư thế nằm (nằm bò). Dưới đây là một số đòn miếng vật thông dụng:
    - Kê: dùng hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ.
    - Ngáng (hay Cản): dùng chân quét hay gạt, cản chân đối thủ làm mãt thăng bằng cho té ngãù.
    - Đệm: dùng đầu gối, hay bắp đùi, lót đằng sau chân đối thủ rồi dùng sức mạnh của mình gait, đẩêy, sô đối phương té ngửa ra.
    - Vét: đang vờn nhau, nhử cho đối thủ tiến lại gần, nhanh chóng cúi người xuống, chân trái gập hạ thấp, chân phải rút về sau duỗi thẳng, đồng thời tay phải đưa lên ấn mạnh vào vai trái đối thủ, bàn tay bắùt chặùt lãy khoeo sau chân trái đối thủ giật mạnh về phía mình.
    - Bắt Để Hớt Gót: Hai đô vật đối diện sát vào nhau (mà chưa ***g tay tư) một người bất ngờ dùng hai tay bắt chặt lấy cánh tay phải đối phương. Chân phải và người lập tức xoay chếch sang phía bên phải, người cúi thấp hai chân dạng ra hai bàn chân rê mạnh và nhanh, lùi chếch về phía sau, đồng thời dùng hai tay kéo mạnh đối phương về phía mình. Khi đối phương đang mất đà hơi chúi về phía trước thì lập tức ta hạ tay trái xuống, từ phía trong dùng bàn tay phải bắt và hất mạnh cổ chân trái đối phương ra đằng sau. Thuận bên nào, làm bên ấy.
    -Bốc Một Chân:
    a/ Tư thế bất ngờ: Hai đô vật đứng sát và đối diện, một trong hai người bất ngờ hất hai tay của đối phương lên và người phải nhanh chóng chuồi dài ra phía sau, lúc này chân trái đặt trước, chân phải đặt ở phía sau, đầu cúi xuống, dùng vai ấn vào thân thể đối phương, đồng thời dùng hai tay bốc khoeo chân phải đối phương giật mạnh về phía mình, đối phương bị mất thăng bằng bởi hai lực nên ngã ngửa.
    b/ Tư thế giằng co: Tay phải bá cổ đối phương, tay trái nắm cánh tay trên, tay phải đối phương, dầu cúi xuống dựa vào gáy phía phải đối phương, chân trái phía trước, chân phỉ phía sau. Đối phương dùng sức nay ta, ta dùng sức nay lại. Đối phương lại cố dùng sức nay ta, ta bất ngờ hạ thấp người xuống và đánh như miếng bốc một chân trong tư thế bất ngờ.
    -Sườn tay trong: còn gọi là đánh đòn dọc, bất ngờ biến thế thật nhanh, luồn luồn cánh tay phải vào phía trong cánh tay trái đối phương, bàn tay phải ***g vào nách trái đối phương. Tay trái nắm vào cánh tay phải đối phương, ghì vào sát người mình. Đồng thời bước nhanh chân phải về phía trong lòng đối phương, cúi người xuống dùng hông mình hất mạnh đối phương ra phía sau cho ngã.
    -Đánh Gẩãy: Đang ***g tay tư, bất ngờ đổi hai tay vào phía trong cánh tay đối phương, bàn tay trái mở nay mạnh vào cổ bean phải, bàn tay phải xốc nách trái đối phương, kéo mạnh về phía mình, đồng thời nghiêng người dùng sườn trái hất mạnh, chân phải hất chân đối phương cho té ngã.
    -Tay Quai: Đang ***g tay tư, bất ngờ chuyển hai tay vào phía trong hai cánh tay đối phương, tay phải luồn qua dưới nách trái đối phương, tay trái luồn qua trên vai đối phương đều ra sau long và hai bàn tay nắm chắc lấy nhau ghì chặt đối phương. Rồi bất ngờ dùng tay phải nay mạnh đối phương ra sau, cánh tay trái kéo mạnh đối phương về phía mình. Đồng thời nghiêng mình dùng sườn phải đánh mạnh và châm phải hất chân đối phương cho té ngã.
    - Nằm Bò (hay Hạ Thổ): khi bị xa cớ lỡ miếng hay khi gặp đối thủ mạnh hớn, họ thường nằm sãp xuống mặt đãt, tay chân dang rộng ra, mặc cho đối thủ tha hồ đẩêy, bê, bứng, nhấc hổng, để rồi liệu cơ hội đánh lừa đối thủ, lợi dụng lúc đối thủ sơ hở thì lập tức chồm dậy tấn công lại.
    Các miếng Bốc, miếng Gồng, miếng Sườn,..., có lại có nhiều thế khác nhau: Gồng Đứng, Gồng Quỳ, Gồng Ngồi, Sườn Tay Trong, Sườn Tay Ngoài, Bốc Hai Chân, Bốc Một Chân, vân vân.(2)
    Tuy nhiên, mỗi lò vật, mỗi địa phương, lại có những thế vật độc đáo, đặc biệt riêng, phong cách riêng, mạnh mẽ, ác hiểm hay uyển chuyển, bay **** riêng, nổi tiếng trong vùng, nhất là những thế ?ođánh dịp nhì?. nghĩa là kỹ thuật đánh chống lại, phản lại: chống Bốc, chống Gồng ngồi, chống Mói, chống Cầu vồng, chống Sườn trong, vân vân, ví dụ xưa kia: lò Mỹ Độ (tổng Mỹ Cầu, Phủ Lạng Thương) có miếng chống Vét, chống Gẫy, Lấy Bò, lò Mai Động có miếng Giồng, miếng Mói, lò Yên Sở có miếng Sườn miếng Móc, lò Đồng Tâm (Vụ Bản Nam Định) lại nổi tiếng với những ngón Móc-Chảo, Vỉa Lộn Cối, Giát Bốc, Bỏ Thuốc, Sườn Cặp Cổ,...
  8. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    II/-. LỆ VẬT
    Muốn đánh bại đối thủ trong cuộc đãu vật thì các đô vật phải theo những luật lệ sau đây:
    1/. Nhấc bổng địch thủ hổng cả hai chân lên khỏi mặt đất (?oTúc Ly Địa?) được coi là thắng, hổng một chân không kể.
    2/. Vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặùt đất thì thắng (?oLấm Lưng Trắng Bụng?), ngã xấp không kể.
    Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá, bãm huyệt, móc xương quai xanh, chẹn hàm, bẻ cổ, lên gối, nắm tóc, móc mắùt, cù léc, thọc cắn,..., phun nưôc miếng, văng tục, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v...
    Thí sinh thượng đài đấu vật không tính tuổi tác hay cân lượng.
    III/. GIẢI VẬT
    Tùy theo địa phương tổ chức, vật có nhiều giải khác nhau, chia hai loại: Giải Thờ và Giải Chính.
    1/. Giải Thờ (hay Giải Hàng)
    Giải thờ còn được gọi là Giải Xông Sới, không có người giữ giải. Ai muốn lên vật thì ghi tên rồi bắt cặp. Ai thắng thì được làng thưởng. Tranh Giải Thờ chỉ là mở đầu cho ngày Hội Vật, để cho những ai muốn khảo sức nhau thì lên bắt cặp, và có nhiều Giải Thờ trong một ngày. Ở giải này khi vật hai đối thủ thường không dùng hết sức, chỉ cốt phô bày nghệ thuật, vật cho đẹp, cho vui, có khi cả hai cùng té ngã cho cả làng cùng cười. Thay vì họ lừa miếng nhau thì họ lại múa may cho thật mền dẻo để người xem vui mắt.(3)
    2/. Giải Chính.
    Giải Chính có ba giải: giải nhất, giải nhì và giải ba. Ba giải này đều có người xin giữ. Các đô vật tứ xứ muốn phá giải nào thì xin ghi tên để vật với người giữ giải ấy. Nếu không có ai xin phá giải trong ba ngày, theo lệ làng, thì người giữ giải đương nhiên được lãnh giải mình giữ (Giải Cạn).
    Trong ba Giải Chính này thì giải ba phải được phá trước rồi mới tới giải nhì, và giải nhất.
    Về số đối thủ phải đấu thì lệ làng định như sau:
    - Giải nhất: trong sáu ngoài năm.
    - Giải nhì: trong bốn ngoài ba.
    - Giải ba: trong ba ngoài hai.
    "Trong sáu ngoài năm" nghĩa là ai giữ giải nhất thì phải vật thắng đủ liền sáu người mới được coi là chiếm giải, còn người phá giải thì chỉ cần vật ngã năm đối thủ kể cả người giữ giải. Nếu người giữ giải đã thắng năm keo mà bị thua keo chót thì cũng không được nhận giải. "Trong bốn ngoài ba" hay "Trong ba ngoài hai" cũng tính tương tự như thế.Giải thưởng cho đô vật có nhiều loại cho giải chính, giải hàng, lại có giải chung cuộc cho đô vật nào thắng nhiều điểm nhật trong những ngày Hội Vật
    Thường thường Giải Chính do đô vật hạng nhất trong làng hay ở các làng khác đến xin giữ.
  9. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    IV/. THƯỢNG ĐÀI
    Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trước sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần. Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu, hoặc bó hoa, trái cây hoa quả , hoặc thẻ nhang,...
    Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường, ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn, đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét, có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh, có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng, khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người). Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ. Các đô vật trong thiên hạ ở trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố, đầu chit khăn, ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ. Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc.
    Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn), có nơi chỉ dùng một trống thôi, và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái, gọi là "cầm chịch", nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu.
    Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần, và phía dưới, trước mặt bàn thờ, được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi.
    Sau khi múa Ra Giàng, hai đô vật bắt đầu giao đấu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt, nghiêm túc và chính xác.
    Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ. Hai trong ba người này, mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích, thúc dục hai đô tấn công tiếp.
    Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuần đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc, để cổ võ để nhắc nhở, hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặt.
    Khán giả reo hò, la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần "gà nhà", họ dán mắt vào từng miếng bốc, miếng sườn, miếng gồng của các đô, rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt. Keo vật vào hồi quyết liệt, họ, những khán giả sát gần sới vật, nằm xoài ra đất để xem cho rõ.
    Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay, hoặc thủ thế, giữ miếng, vờn nhau,... Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau ?olấm lưng trắng bụng? giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người...
    Giải nhất vừa được phá. Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải. Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn, giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấu như chào mừng người vô địch thiên hạ.
    Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấu trong tinh thần thượng võ, huynh đệ, các đô lại quây quần dưới mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ.
  10. Lonelymanus

    Lonelymanus Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    1.556
    Đã được thích:
    0
    V/ TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI
    Vật cổ truyền Việt Nam đã có từ thời thượng cổ. Truyền thuyết và giai thoại về vật cũng phong phú và đa dạng.
    Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước, các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian, được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ: như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm, (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ), Đô Nồi (Nồi Hầu), giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch), ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa.
    Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ, luyện vật cho ba quân, chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc. Đô Dương, Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước. Khi chết, Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động.
    Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài ?oLai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động? đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật, số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15, 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61), các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân, nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh. (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng).
    Thần phả làng Mai Động ghi: Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa, vì chán cảnh mất nước, bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động, thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học. Ông thu nhận được 30 môn đồ, có sức khỏe, có kiến thức,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ. Trong các môn võ thuật, ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật. Ngày ngày, trước sân trường, ông ngồi xem từng cặp luyện tập, chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương. Lớp học càng ngày càng tấn tới. Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định, ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công. Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông. Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng. Hàng năm mỗi lần Tết đến, nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa.
    Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà. Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng, Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng.
    Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô, Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật, luyện kiếm, bắn cung nỏ, huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào, vừa tinh thông các môn võ nghệ, chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên:
    Hoành qua đương hổ dị
    Đối diện Bà vương nam!
    (múa giáo chống hổ dễ, giáp mặt với vua Bà thực khó!)
    Dân gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần chúng đối với ?oNhụy Kiều tướng quân? Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức của bà:
    Ru con con ngủ cho lành
    Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
    Muốn coi lên núi mà coi
    Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng.
    Lý Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan tức Mai Hắc Đế (năm 722)... đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược. Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô Quân, vua của các đô vật, và người em ruột của ông là Phùng Hải, giỏi vật không kém anh, được nhân dân tôn là Đô Bảo, tướng của các đô vật trong thiên hạ (4)
    Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI, thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu: ?oLo vật Quỳnh Đô, rỏ cua Cổ điển? , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Hồi còn son trẻ, lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương, khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô. ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt, Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã ?oứng điềm lành? trong việc ông ra đời) (5)
    Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ, nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước.
    Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc, các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa, trong việc tổ chức quân độ gìn giữ bờ cõi, nhà nước đều coi trọng bộ môn vật, đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật, tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực, lòng dũng cảm, tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ.
    Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn, có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời. Bà Liệt, Hoài Đức Vương, con tư sinh của Trần Thừa, em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông, cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long.
    Sử cũ chép: ?o Nhâm Thìn, năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5). Tháng Giêng, mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều:
    Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương.
    Thượng hoàng lúc còn hàn vi, có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt, huyện Tây Chân, khi đã có thai thì bỏ, sau sinh con trai, Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến. Người con trai ấy lúc lớn lên, mặt mũi khôi ngô, giỏi nghề võ, sung vào đội đánh vật. Một hôm, cùng với người trong đội đánh cầu, rồi lại cùng nhau đánh vật, người kia vật người con trai ấy ngã, chẹn lấy cổ, gần tắt thở, Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng: ?o Nó là con ta nay! ?o Anh kia sợ, buông ra, nhân thế gọi tên là Bà Liệt. Nay có lệnh phong tước cho (6)
    Trong binh đội của triều đình nhà Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc, tên gọi khác nhau, lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí như sau:
    ?oHàng năm, khi Tế cờ xong, sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu, một viên quản ngoại binh). Trước khi thi Đô và Sứ ba keo, rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi. Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau, ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa. Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù. Tuy thắng Dù ba keo, cũng không được đấu với Sứ. Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa, thắng Xa ba keo, cho đấu với Dù, thắng Dù ba keo, cho đấu với Sứ. Tuy thắng Sứ ba keo, cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ, thắng ba keo, thì cho đấu với Xa, thắng Xa ba keo, cho đấu với Dù, thắng Dù ba keo, cho đấu với Sứ, thắng Sứ ba keo, cho đấu với Đô. Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên, thì cho làm danh tướng ở Dù, đấu với Xa thắng hai keo trở lên, cho làm danh tướng ở Xa, đấu với Lực thắng hai keo trở lean, cho làm danh tướng ở Lực. Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên, cho làm danh tướng ở Dù, đấu với Xa thắng hai keo, cho làm danh tướng ở Xa. Nội lực sĩ đấu với Xa, thắng hai keo, cho làm danh tướng ở Xa, đấu với Dù thắng hai keo, cho làm danh tướng ở Dù. Người nào thắng Sứ hai keo, cho chức phó đề hạt; thắng Đô hai keo, cho chức đô úy. Sứ thắng Sứ ba keo, cho đấu với Đô; thắng Đô một keo, dẫu có thua một keo, cũng cho thăng chức. Đô mà thắng Đô, không thua keo nào, cho chức Đô úy. (chú giải: Đô, Sứ: các tay vật cao cấp; Xa: có lẽ là quân ở các độ Tứ xa; Dù: có lẽ là quân các độ Bả dù; Lực: tên những đội quân, ví như Lực, Hành)? (7)

Chia sẻ trang này