1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Việt Nam năm 1979

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi tarzan, 11/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tigris

    tigris Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    tôi nghĩ bạn nên tham khảo bài "cuộc chiến giữa những anh em đỏ" mà nguyenquang đang đăng. Có lẽ đọc xong thì nhận định của bạn sẽ khách quan hơn chăng?
    Cái câu bạn viết trên cũng rất hay vậy bạn có thể chứng minh tại sao đó là bài học đau xót nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc không?
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Topic Việt Nam năm 79 vào lại được rồi này : http://thitruong.ttvnol.com/f_533/128573.ttvn
  3. hungdung75az

    hungdung75az Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2005
    Bài viết:
    68
    Đã được thích:
    0
    Tôi viết cũng khá đầy đủ về bài học của chúng ta rồi nhưng xin giải thích thêm:
    + Chúng ta nếu bằng đường lối ngoại giao khôn khéo đã tránh được cuộc chiến. Còn gây chiến và quấy rối thì biên giới nước nào chẳng vậy? Thời nào chẳng vậy, bây giờ ai lên Cao Bằng xem thác Bản Dốc xem, mình xây nhà trên đất mình , cách cột mốc hơn 1km mà nó vẫn sang nó đập đó thôi. Trên biển máu của bà con và chiến sỹ mình vẫn đổ đó thôi.
    + Đất nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh với 90% cơ sở hạ tầng bị phá, kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ. Các nước trên thế giới đang rất phấn khởi vì VN đã thoát ra khỏi cuộc chiến tranh. Bản thân tổng thống Ford năm 1975 cũng đã vui mừng vì chiến tranh đã chấm dứt. Nhiều nước đang bắt tay với Việt Nam và đây là cánh cửa rộng để ta đi ra với thế giới.
    + TQ là một nước lớn, khi lâm trận thì chẳng thể biết được bên nào thắng bên nào thua nhưng thiệt hại về kinh tế là điều không phải bàn cãi. Năm 1975 đến 1985 dân ta không có cơm để ăn, áo để mặc. Ai làm nông nghiệp thì kha hơn song ai là cán bộ công chức thời đó thì chắc không lạ gì đi xếp hàng từ 2 giờ sáng để mua sắn, hạt bo bo, ngô, gạo mốc chứ? Trong khi đó hàng tỷ USD được ném vào cuộc chiến.
    Mọi người phản đối tôi nhưng tôi thấy rằng thời buổi này không có tiền thì đừng mơ mà mua cái này cái nọ. Phải giầu đã, phải khôn ngoan, linh hoạt, biết tận dụng các cơ hội để giảm thiểu sự đe doạ. Hành động vũ lực chỉ là biện pháp của kẻ võ biền. Dân ta có câu lạt mềm buộc chặt hay lấy nhu thắng cương. Máy bay hiện đại là trên 30 triệu USD một chiếc, tầu chiến hiện đại hàng trăm USD một chiếc, chiếc nào ngon lên đến hàng tỷ USD chưa kể đến chi phí bảo dưỡng , vận hành. Ngân sách VN lấy đâu ra đầu tư nhiều như vậy? Nếu chạy đua vũ trang thì đất nước này liệu có chịu đựng được không? Nếu để đủ duy trì lực lượng hiện tại và bảo dưỡng đình kỳ ( không kể mua vũ khí mới) VN cũng phải cần đến 2,5 tỷ USD rồi. Cái khoản này đã là quá sức chứ chưa nói đến khoản khác đâu.
    Xem phát triển kinh tế các ông cứ tưởng 8%/năm là oai a? Đứng thứ 2 thế thế giới là oai a? Nước ngoài nó khen, nó đọng viên thôi. Xem cơ cấu xuất khẩu thì biết được chất lượng phát triển. Vẫn là dầu thô ( theo bộ trưởng bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng thì hết dầu thô ngân sách chờ vào đâu) 6tỷ USD, may mặc, giày dép, thuỷ sản , đồ gỗ , hàng điện tử. Vẫn là xuất nguyên liệu thô và hàng nông sản. Khi nào VN xuất được hàng tỷ USD hàng hoá có hàm lượng chất xám cao như phần mềm, hàng điện tử, đồ gia dụng, máy móc công nghệ cao thì hãy nghĩ đến chuyện có nhiều tiền nhé.
    Các ông cứ mơ hồ về sự phát triển của quân sự , kinh tế nhưng các ông biết là các vũ khí của mình đều có độ an toàn cực thấp không? Phi công thì sợ khi lên máy bay. Thuỷ thủ thì hạm tầu, bộ binh thì sợ đạn nổ khi nào chẳng biết và tất cả đã quá cũ. 3 con SU30 thì đem ra doạ được ai? Mấy chục con Su 27 chắc chỉ đủ cho hệ thống phòng không hiện đại nó ăn gỏi trong vòng vài phút. Kinh tế thì sao? Vẫn nghèo, tiền chủ yếu là tham nhũng mà có ( 1/3 quan chức được hỏi trả lời đã từng và sẵn sàng nhân hối lộ http://vietnamnet.vn/chinhtri/2005/11/517669/ ). Đây là cuộc phỏng vấn khoảng 6 ngàn người ở tất cả các ngành nghề. Ai vào miền tây quảng trị chưa nhỉ? Bà con Paco, Vân kiều vẫn còn ở những căn nhà tranh dột nát từ 40 năm trước đó (đó là ven đường, nhưng vào sâu hơn nữa chắc là tồi hơn) còn bên cạnh là những toà nhà đồ sộ của trụ sở chính quyền. Lên vùng tây bắc, rồi các tỉnh biên giới tây nguyên, dọc các tỉnh miền trung, đông nam bộ mà xem. Dân vẫn nghèo vẫn đói khổ như ngày nào, mua cho họ buồng chuối, con gà là họ mừng cuống lên cảm ơn rối rít. Và thật xấu hổ khi chỉ mấy phút sau những cuộc vui tiền triệu, những mùi chai rượu ngoại đắt tiền của mấy ông chính quyền , lãnh đạo công ty nhà nước và chúng tôi át hết cả mùi sắn bung, mùi ngô nướng và mùi kham khổ của họ. Không hiểu sao chỗ nọ chỉ cách chỗ kia vài mét . Thật buồn
    Mọi người cứ nghĩ là mình mua sắm vũ khí mới mà thằng Tầu công nó không biết mua chắc? Mình mua một nó mua một trăm, mình bắn nó một nó bắn 1000. Nói ra đây không phải là sợ nó nhưng để thấy rằng mình vẫn thua kém nó về mọi mặt. Nên chúng ta phải dùng mưu để nói chuyện với nó chứ không phải bắn pháo hay tên lửa sang đất nó.
    Nên chúng ta đừng bao giờ hão huyền, đùng bao giờ để tình cảm chi phối những việc làm của chúng ta. Nhìn sang Đài Loan, họ giầu như thế nhưng vẫn rất tiết kiệm. sang Việt Nam làm việc cơm ăn có 9.000 đòng một bữa mà họ không dám ăn. Nhật bản , Hàn Quốc cũng vậy, cực kỳ tiết kiệm và làm việc thì như một cái robót, không biết thời gian và mệt mỏi là gì. Họ giàu hơn cũng đúng thôi. Mình nghèo cứ đỏ cho hoàn cảnh, đổ cho cơ chế đổ cho thiên nhiên khắc nghiệt, các nước khác nó khó gấp vạn lần mình.
    Theo quan điểm của tôi muốn đòi được Hoàng Sa, giữ được Hoàng Sa mỗi người chúng ta phải tự vươn lên, vượt lên chính mình và hơn đối phương về mọi mặt( xin đùng nghĩ là Việt Nam có hơn Mỹ mà vẫn chiến thắng Mỹ đấy nhé, Xét về chung cuộc VN vẫn hơn Mỹ về mọi mặt). Còn không thì đến cái tháp rùa cũng chưa chắc đã giữ được.
  4. kien098

    kien098 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    530
    Đã được thích:
    15
    hungdung75az, nghe bạn nói lại thấy giông giống cái câu "năm 46 ta mà uyển chuyển mềm mại thì tránh được 30 năm chiến tranh"
    Bạn tưởng mấy ông tướng nhà mình thích đánh nhau lắm à??? 30 năm ròng ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân, bom đạn chết lúc nào không biết, chỉ có điên mới chủ động đánh nhau tiếp!
  5. sheva551984

    sheva551984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2003
    Bài viết:
    310
    Đã được thích:
    0
    Cái chính là nó luôn muốn chơi mình chứ đâu phải mình ko nhận ra là mình còn nhiều cái yếu. Mình cũng muốn đối thoại lắm chứ, sau cải cách mình luôn muốn quan hệ ngoại giao với tất cả các nước. Cái này đã được khẳng định trong " 6 đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN" trong Đại hội Đảng 7 (1991). Hiện tại, nước mình có một địa vị nhất định trên TG về ngoại giao nhưng các huynh thấy thằng Khửa nó có coi luật pháp Quốc tế ra gì ko? Như Đài Loan ko có Mỹ bảo hộ nó chẳng cho toi luôn. Nó lại là nước lớn, nhiều nước có rất nhiều quyền lợi tai nó nên các huynh có thấy nước nào phản ứng nếu nó gây hấn với một nước nhỏ như mình ko? Khi tàu hải quân của nó bắn chìm tàu đánh cá của ta là chết 12 thuyền viên các huynh có thấy nước nào phản đối nó trên mặt trận ngoại giao hay ko? hay chỉ là đưa tin như một tai nạn, xung đột mà thôi. Nếu khi mà nó gây hấn ở TS, sau đó viện cớ tấn công mình (hạn chế như năm 79) thì sao? các huynh lúc đó chắc nghĩ còn LX áp lực ngoại giao hay là một số nước nào khác đây? Nói tóm lại là như ở trên đệ đã nói, mình đang ngồi cạnh một tên cướp, mà cướp thì bất chấp cần gì biết đến luật pháp đây. Mặc dù bây giờ ta còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn phải đề phòng. Cũng tại ta ko hiểu sinh ra thế nào mà lại nằm cạnh ngay một nước lớn có chủ nghĩa bá quyền như vậy. Viva Việt Nam.
    Được sheva551984 sửa chữa / chuyển vào 10:39 ngày 03/12/2005
  6. kien098

    kien098 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    530
    Đã được thích:
    15
    Ừ, đồng ý!
    hungdung75az hùng dũng quá nhỉ. Cậu quên mất là tướng của ta đa số là nông dân đi lính, lâu và có công, đủ trình thì lên tướng. Oánh nhau thì đi ra mặt trận chứ không nằm nhà!
    Theo "Biên niên sử ngành quân khí VN", từ tháng 8/1977 Cục Vũ khí đã có lệnh triển khai sản xuất mìn, lựu đạn và chuyển trạng thái chiến đấu các kho vùng Tây Nguyên và Nam Bộ "để đối phó với tình hình phức tạp ở biên giới Tây - Nam".
    Nhịn nó 2 năm trời mới đánh đấy, các anh hùng võ mồm ạ! Hàng vạn đồng bào và hàng nghìn chiến sĩ hy sinh trong 2 năm ấy để cản mấy thằng đi theo dấu cây thốt nốt đấy ạ.
  7. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    Tớ lấy hai bài bên topic mà Trường Sơn vừa mở lại:
    Về chiến tranh biên giới Tây Nam, tôi xin đóng góp một số thông tin như sau để các bạn tham khảo :
    Có thể chia quan hệ Việt Nam ?" Cam-pu-chia từ hoà bình đến chiến tranh (1975-1979) thành hai giai đoạn :
    1. Từ 1975-1977 : Trong giai đoạn này đã diễn ra các xung đột nhỏ ở dọc biên giới Tây Nam. Đặc biệt là các vụ Khme đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chu, Phú Quốc, giết hại dân thường VN. Trong giai đoạn này VN chưa đánh giá đúng bản chất của Khme đỏ cũng như những tính toán của lực lượng này và những thế lực đứng sau nó nên đã không coi xung đột biên giới là chủ trương của lãnh đạo CPC. Do đó, phía VN chủ trương giải quyết hoà bình cách tranh chấp, giữ hoà khí và chưa đánh trả quyết liệt. VN thúc đẩy xúc tiến đàm phán để giải quyết xung đột.
    2. Từ 1977-1978 : Giai đoạn này tần số những lần gây chiến của Khme đỏ và quy mô tăng đột biến. Qua tìm hiểu và đánh giá VN đã nhận rõ nguyên nhân các cuộc xung đột. Chính vì vậy VN kiên quết đánh trả và đồng thời kiên trì đề nghị phía CPC thương lượng, vận động quốc tế giúp VN thương lượng với CPC (qua trung gian TQ, Không Liên Kết, LHQ nhưng không thành vì nhân tố TQ)
    Nguyên nhân chiến tranh biên giới Tây Nam
    1. Bối cảnh : Cuộc chiến tranh này diễn ra cuối thời chiến tranh lạnh. Mỹ mới rút khỏi ĐNÁ lục địa và đang phải tiến hành củng cố vị trí của mình trong thế giới « tự do ». Liên Xô và Trung Quốc đều lợi dụng tình thế cải thiện quan hệ với Mỹ. Đây là giai đoạn hoà hoãn thứ hai giữa hai cường quốc Xô-Mỹ trong suốt chiến tranh lanh. Quan hệ quốc tế trong khu vực ĐNÁ nói chung và Đông Dương nói riêng chịu tác động của các mâu thuẫn lớn giữa LX-Mỹ; LX-TQ; TQ-VN.
    2. Mục tiêu của Polpot và nguyên nhân cuộc chiến tranh :
    Thứ nhất, Polpot lựa chọn mô hình cộng sản nông thôn của Mao Trạch Đông là nền tảng lý luận xây dựng CNXH. Theo lý luận này, trong chiến tranh, « nông thôn bao vây thành thị », đưa cách mạng từ rùng rú về thành phố. Còn trong xây dựng hoà bình, vai trò của nông dân là trên hết. Không cần trí thức, không cần thành phố. Cả nước là một cánh đồng. Tiến lên CNXH bằng cái đòn gánh và nồi cơm to (thuyết này của MTĐ nêu ra khi tiến hành CM công nghiệp không thành công đầu những năm 50). Chính vì vậy, Polpot đã tiến hành những « cải cách » nhằm làm trong sạch hoá xã hội CPC : loại trừ trí thức, tiểu tư sản, tầng lớp bóc lột (Việt kiều, Hoa kiều, Thái kiều?). Đối lập mô hình XHCN ở CPC với mô hình ở VN. Tiến hành tuyên truyền chống VN để loại trừ những phần tử thân VN trong Đảng Cộng sản CPC không tuân theo định hướng mao-ít của Polpot. Đánh ra bên ngoài cũng là một giải pháp giải quyết vấn đề nội bộ. Lý do tương tự cũng phù hợp với trường hợp TQ năm 1979.
    Thứ hai, Polpot có tư tưởng « dân tôc » quái thai. Trong nước thì tiến hành đàn áp, diệt chủng nhưng lại nêu cao ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa bằng việc tuyên truyền cho một nhà nước CPC tương xứng với hào quang của Đế chế Angco khi thịnh vượng nhất với lãnh thổ bảo gồm Nam bộ VN và phần Đông Thái Lan. Đây là một ám ảnh của không chỉ Polpot mà còn của nhiều Đảng phái CPC hiện nay nhằm lôi kéo cử trị. Polpot một phát động chiến tranh với VN (tất nhiên với hy vọng chiến thắng) nhằm lấy lại vùng đất Khme Kromm.
    Thứ ba, chúng ta phải kể đến sự mâu thuẫn giữa VN và Đảng CS CPC (Khme đỏ). Từ 1954, Đảng CS CPC bất đồng đường lối với VN. Cho rằng VN đã bán rẻ CPC trên bàn đàm phán tại Geneve, ký hiệp định này trên lưng cách mạng CPC và Lào. Thực chất tại Geneve, đoàn VN đã hết sức đấu tranh để đoàn Đảng CS CPC và đoàn Pathet Lào tham dự. Nhưng do tính toán của các cường quốc và do thực lực của hai lực lượng này, họ đã không được tham dự đồng thời trong Hiệp định Geneve, hai lực lượng này không được phân chia vùng tập kết (tức vùng chiếm đóng) mà phải giải giáp và gia nhập chính quyền hoà giải. Trong chiến tranh chống Mỹ, VN vừa ủng hộ Đảng CS CPC vừa có quan hệ tốt với chính quyền trung lập CPC do Hoàng Thân Xi-ha-núc đứng đầu. Trong khi Đảng CS CPC lại chống lại chính quyền của Xi-ha-núc. Năm 1973, VN ký Hiệp định Paris với Mỹ. Polpot cho rằng một lần nữa VN lại ký hiệp định trên lưng cách mạng CPC vì Hiệp định này chỉ có giá trị đối với VN và vô hình chung đẩy CPC thành mục tiêu chiến tranh của Mỹ. Thực tế là sau 1973, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Nguỵ ở Phnôm-pênh và ném bom gây nhiều thiệt hại cho Đảng CS CPC. Trong thời gian này, Poltpot đã dần triển khai chính sách chống VN thông qua việt loại trừ khỏi ban lãnh đạo những phần tử thân VN và nhích dần về phía TQ.
    Thứ tư, sau khi giải phóng Phnôm-pênh, tháng 4/1975, Polpot cho rằng CPC đã thắng Mỹ. Trên cở sở « lạc quan cách mạng », Polpot cho rằng CPC hoàn toàn có thể thắng cả VN nhất là trong bối cảnh có sự trợ giúp của TQ. Vì vậy Khme đỏ đã sớm sắp đặt kế hoạch đánh VN.
    Thứ năm, những tồn tại lịch sử giữa VN và CPC bị Polpot công cụ hoá. Miền Nam là lãnh thổ cũ của Angkor, hồi ức về sự đối xử dã man của lính VN dưới thời chúa Nguyễn Ánh, lính Cộng hoà?
    Thứ sáu, sai lầm chủ quan của VN. Như trên đã nói, từ năm 1975, CPC đã nhiều lần gây xung đột. Nhưng do thiếu thông tin, quá tin vào « bạn bè », VN đã không sớm nhận ra bản chất của Khme đỏ để có biện pháp đối phó hoặc răn đe sớm hơn. Không sớm nhận thức được rõ vai trò của TQ (đến giữa năm 78 ta mới nhận biết được mối liên hệ này).
    Thứ bảy, vai trò « thày dùi » không thể phủ nhận của TQ. TQ là người cung cấp lý luận, trang bị vũ khí, cố vấn, hứa hẹn giúp đỡ và thúc gục Polpot đánh VN.
    Về vấn đề CPC, ông Trường Chinh có viết (ND ngày 24/11/1979): Cuộc chiến tranh xâm lược của bè lũ Polpot Ieng Xary chống VN thực chất là một cuộc chiến tranh của tập đoàn ********* trong giới cầm quyền Bắc Kinh, do Bắc Kinh tổ chức, nuôi dưỡng và chỉ đạo. Nó nằm trong kế hoạch từng bước kiềm chế, làm suy yếu và thôn tính VN.
    Văn kiện Đại hội V ĐCS Viêt-nam viết : Trung quốc " thúc đẩy bè lũ tay sai Polpot mở rộng và tăng cường chiến tranh ở biên giới Tây Nam nước ta hòng đánh chiếm nhiều vùng rộng lớn từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tạo cơ hội cho bọn ********* trong Việt Nam nổi dậy lật đổ cách mạng. Phối hợp với kế hoạch này, Trung Quốc dựng lên cái gọi là "sự kiện nạn kiều", "cắt viện trợ", rút chuyên gia, tìm đủ cách gây rối cho ta về chính trị, kinh tế, tăng sức ép quân sự dọc biên giới phía Bắc nước ta và ở Biển Đông... Trung Quốc xúi giục bọn Polpot cự tuyệt mọi đề nghị thiện chí của VN (VKĐH V TI,tr 25-26)
    Các mốc lớn cuộc chiến tranh :
    - Khiêu khích, xung đột : 04/5/1975 : CPC đánh Phú Quốc; 8/5/75 : đánh Hà Tiên - Tây ninh; 10/5 : đánh Thổ chu. Năm 1975 gây ra 100 vụ xung đột; năm 1976 : 280 vụ; đầu năm 1977 : 185 vụ.
    - 30/4/1977 : Chiến tranh biên giới (vào thời điểm này đã xảy ra chiến tranh biên giới chứ không phải đển 12/1978 như một số bạn đã nêu).
    - 31/12/77 : Cắt quan hệ ngoại giao.
    - 23/12/1978 : Khme đỏ tập trung 19/23 sư đoàn, đánh sang Việt nam. Việt nam đánh lại, truy kích và đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước CPC đã giúp nhân dân CPC lật đổ chế độ diệt chủng.
    Các biện pháp đấu tranh ngoại giao của phía VN nhằm giải quyết chiến tranh biên giới tây nam
    - 4/1976 : Thoả thuận họp hội nghị cấp cao giữa hai Đảng
    - 5/1976 : Hội nghị trù bị họp, thoả thuận : hai bên giáo dục nhân dân, tránh va chạm; mọi va chạm phi được giải quyết trên tinh thần hữu nghị, tôn trong lẫn nhau; Ban liên lạc điều tra, giải quyết các cuộc va chạm.
    - 7/6/1976 : Trung ương Đảng và chính phủ Viêt-nam gửi thư đề nghị gặp phía CPC. (18-6 CPC trả lời : găp khi hết va chạm)
    - 10/1977 Thứ trưởng Phan Hiền gặp đoàn Polpot ở Bắc kinh, đề nghị đàm phán về biên giới (khme đỏ yêu cầu chấm dứt xung đột biên giới đã).
    - 31/12/1977 : Chính phủ Viêt-nam ra tuyên bố sẵn sàng gặp phía CPC
    - 1/1978, Thứ trưởng Phan Hiền găp phía CPC ở Bắc kinh(CPC yêu cầu VN thừa nhận đã xâm lược thì gặp)
    - 4/1/1978 : VN phê phán gián tiếp Trung Quốc trong vấn đề CPC
    - 5/2/1978 : Tuyên bố của chính phú VN gồm 3 điểm : (1) Chấm dứt xung đột, cách ly quân hai bên, rút về 5 km ; (2) Đàm phán ký hiệp ước tôn trọng độc lập, chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ, không xâm lược, lật đổ ; (3) Thoả thuận hình thức bảo đảm quốc tế.
    - 10/3/1978 : Qua TTK LHQ, đề nghị LHQ giúp hai bên ngồi vào đàm phán
    - 3/1978 : Đề nghị Xrilanca, chủ tịch phong trào KLK giúp VN gặp CPC
    - 10/4/1978 : Bộ trưởng ngoại giao VN gửi công hàm nhắc lại nội dung 5/2/1978
    - 6/6/78 : BNG VN gửi công hàm nhắc lại đề nghị ngày 5/2/78 và hai điểm : (1) Chấm dứt hoạt động quân sự, lưc lượng vũ trang rút về 5 km ; (2) Bàn địa điểm họp hai bên.
    (12-4 CPC bác bỏ, nêu 3 vấn đề : biên giới, âm mưu lật đổ, quan hệ đặc biệt)
    - 27/6/1978 : TTXVN bác bỏ lời vu cáo 24/6/78 của IENGXARY về kế hoạch VN làm đảo chính cùng với CIA.
    - 7/1978 : tại hội nghị ngoại trưởng KLK Beograt VN đưa dự thảo nghị quyết kêu gọi VN và CPC giải quyết xung đột
    - 23/12/1978? đoạn này tất cả các bạn đều đã biết và sau đó là giải phóng CPC.
    Đánh giá việc VN giải quyết chiến tranh biên giới tây nam, giúp nhân dân CPC lật đổ chế độ diệt chủng Polpot
    - Giai đoạn đầu 1975-77 : Ta chưa thấy rõ bọn Polpot; còn coi là cộng sản chân chính : chủ trương không đánh trả nên bị thiệt hại.
    - Các biện pháp đấu tranh ngoại giao với CPC đã nêu được thiên chí muốn giải quyết xung đột băng đàm phán, song chưa nêu rõ trên dư luận quốc tế việc Việt Nam sẽ vào CPC là phòng vệ chính đáng, vừa để truy kích địch, vừa giúp nhân dân CPC lật đổ chế độ diệt chủng, thậm chí lúc đầu còn Viêt nam tuyên truyền không có quân VN ở CPC. Điều này dẫn đến thế giới nghi ngờ tính toán của Viêt nam.
    - Về mặt quân sự : Sử dụng chiến thuật không phù hợp. Nhiều nhà nghiên cứu quân sự đã mô tả chiến thuật này là « ném đá ao bèo » hoặc « xua gà ». Chính vì vậy, mặc dù giành chiến thắng nhanh chóng nhưng không tiêu diệt được sinh lực địch, chỉ xua tan, không bắt được đầu sỏ do đó địch mau chóng cụm lại.
    - Chưa chuẩn bị tổt lực lượng cho một kể hoạch hậu Polpot. Việc Đảng của Hênh Somrin thành lập tại Viêt Nam quá muộn dẫn đến tính hợp pháp của đảng này trên thế giới chưa cao. Đảng này cũng không đủ mạnh để đảm nhận vai trò lãnh đạo CPC sau chiến tranh.
    - Sai lầm lớn nhất của Viêt Nam là việc ở lại CPC quá lâu, bị cuốn vào chiến tranh du kích với vị trí bất lợi. Đúng như một bạn đã nói, chúng ta có lẽ đã có giải pháp nào hay hơn thế. Chẳng hạn sau đó rút về nước, yêu cầu LHQ vào giám sát (tất nhiên khả thi hay không sẽ phụ thuộc vào TQ với vai trò là thành viên thường trực HĐBA LHQ)? Hậu quả của việc chúng ta phải ở lại là rất lớn cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao? Đến năm 1991 khi Hiệp định Paris về CPC được ký kết chúng ta mới phần nào thoát khỏi gánh nặng này.
    Bài của vercingetorix.
  8. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    Tiếp tục:
    Về nguyên nhân chiến tranh biên giới phía Bắc xin có một số thông tin cùng các bạn như sau :
    Để đánh giá đúng nguyên nhân cuộc chiến này trước hết phỉa xem lại quan hệ giữa VN và TQ từ 1975 trở đi. Trong giai đoạn 1975-1978, Việt nam vẫn coi TQ là nước XHCN do đó chủ trương phát triển quan hệ với TQ như với các nước XHCN khác, giải quyêt các vấn đề giữa hai nước qua thương lượng. Tuy nhiên trong quan hệ hai nước đã nảy sinh một số vấn đề.
    1. Việc Trung Quốc cắt viện trợ đã cam kết với VN :
    Có thể nói cắt viên trợ là một bộ phận trong chính sách của TQ nhằm ép VN theo định hướng của TQ, phục vụ mục tiêu bình thường hoá quan hệ với Mỹ, tăng cường mở rộng ảnh hưởng ở ĐNA.
    Trong hai năm 1969-1970, để phục vụ tiếp xúc với Mỹ, ép VN giảm nhịp độ chiến tranh thống nhất VN và giảm đàm phán với Mỹ ở Paris, Trung Quốc liên tục giảm viện trợ cho Việt Nam. Riêng về viện trợ quân sự, TQ chuyển dần sang viện trợ vũ khí phòng thủ nhằm giảm khả năng tiến công của quân đội VN. Tiếp tục đặt vấn đề viện trợ của TQ trong yêu cầu VN giảm quan hệ với LX, thậm chí khuyên VN từ chối viện trợ của LX. Mao tuyên bố : TQ có thể bao VN hết nếu VN thôi nhận viện trợ của LX. Ý đồ của TQ bộc lộ rõ là âm mưu độc quyền công cụ hoá chiến tranh VN trong đàm phán với Mỹ.
    Ngược lại trong hai năm 1971-1972, TQ lại tăng viện trợ nhằm gây sức ép với phía Mỹ trong đàm phán Trung - Mỹ. Đồng thời giai đoạn này tình hình chiến trường căng thẳng hơn nhiều nên phái VN cũng yêu cầu TQ và LX tăng viện trợ thêm. Năm 1973, lãnh đạo tuyên bố giữ nguyên mức viện trợ trong 5 năm cho VN. TQ muốn duy trì nguyên trạng VN (chia cắt hai miền như Triều Tiên và đúng với thoả thuận giữa TQ và Mỹ ở Thượng Hải) nên chuyển hẳn viện trợ vũ khí tiến công sang vũ khí phòng thù nhằm ngăn cản khả năng VN giải phóng và thống nhất. Đến cuối năm 1975, TQ chấm dứt mọi viện trợ không hoàn lại cho VN. Cuối năm 1977 TQ chấm dứt cho vay. Căng thẳng trong vấn đề viện trợ, cho vay và chuyên gia TQ ngày càng tăng cao. Sau khi tiến hành rút chuyên gia khỏi nhà máy dệt Vĩnh Phú tháng 5/1978, giữa tháng 5/78, TQ tuyên bố cắt 21 công trình TQ đang giúp VN, cuối tháng 5/78, cắt 51 công trình , tháng 7/78, TQ rút toàn bộ chuyên gia, cắt toàn bộ viện trợ.
    Có thể nói viện trợ của TQ cho VN trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ phục vụ một cách sát sao chính sách của TQ đối với Mỹ và khu vực. Đúng như câu nói mà nhiều người đều đã từng nghe : TQ đánh Mỹ đến người VN cuối cùng. Viện trợ này một mặt để nuôi chiến tranh ở VN nhằm thúc đẩy đàm phán Mỹ - Trung. Mặt khác viên trợ này nhằm buộc VN nằm trong quỹ đạo của TQ, gạt ảnh hưởng của LX đối với VN và thông qua VN sẽ tăngg cường ảnh hưởng trong khu vưc. Nên biết rằng trong suốt giai đoạn này TQ lớn tiếng ủng hộ các phong trào CS mao-ít tại các nước khác trong khu vực với ý đồ sử dụng lựclượng này và cộng đồng người Hoa như là tiền trạm cho chính sách của TQ trong khu vực.
    2. Vấn đề xung đột biên giới VN ?" TQ 1975-1978.
    Tranh chấp biên giới là một trong những đặc điểm quan hệ VN-TQ kể từ khi hai nước tồn tại như la hai quốc gia. Trong các tranh chấp này hầu TQ luôn là bên chủ động tạo vấn đề thông qua di dân, mua chuộc các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng biên hoặc lấn chiếm bằng quân sự, xâm canh?Trong giai đoạn này, khiêu khích biên giới là bộ phận trong chính sách của Trung Quốc chống Việt Nam nhằm gây mất ổn định cho Việt Nam, ép VN nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của TQ. Những hành động lấn chiếm của TQ diễn ra một cách hệ thống ngay từ sau khi Hiệp định Geneve được ký kết nhưng đến khi VN thống nhất, TQ tăng cường hơn nữa các hoạt động này.
    Bị vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 14/2/79 nêu tóm lược lịch sử biên giới Việt Nam - Trung Quốc từ các công ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và triều đình Mãn Thanh 1887, 1895. Trong đó ghi rõ những vi phạm của Trung Quốc : năm 1974 : 179 vụ; 1975 : 294 vụ; 1976 : 812 vụ; 1977 : 873 vụ (tổng cộng từ 1974-1977 : 2158 vụ). Từ năm 1975-1977 : 1.500 lần tàu thuyền TQ xâm phạm vùng biển VN.
    Kể từ tháng 9/78 khi Trung Quốc chấm dứt đàm phán về người Hoa, Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động chuẩn bị chiến tranh ở biên giới, điều động hàng chục sư đoàn, đem nhiều vũ khí dụng cụ chiến tranh tới biên giới. Đồng thời Trung Quốc kích động người Hoa gây rối ở vùng biên giới, tăng cường hoạt động vũ trang xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. - Các bác chú ý đoạn này hộ tôi cái nhé
    Tháng 1/1979, Đặng Tiểu Bình khi thăm Mỹ, Nhật đã đe doạ "cho Việt Nam một bài học cần thiết", "cần phải trừng phạt Việt Nam". Theo hãng tin ANSA từ Nữu Ước ngày 23/1/79 : ?oTrung Quốc đã chuẩn bị kế hoạch mở một cuộc xâm lăng vào Việt Nam".
    3. Vụ "nạn kiều", người Hoa
    Gây vụ "nạn kiều" nằm trong chính sách chống Việt Nam của Trung Quốc nhằm gây rối cho Việt Nam, phá hoại kinh tế của Việt Nam (do người Hoa bỏ công việc, ra đi hàng loạt) tạo tâm lý chống Việt Nam trong nhân dân Trung Quốc ép VN phải nhân nhượng trong vấn đề biên giới, CPC?
    Ở Việt Nam có trước 1978 có khoảng hơn một triệu người Hoa, nhiều người Hoa là tư sản. Từ 24/3/1978 Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Do nắm vai trò chính trong kinh tế tư nhân ở Miền Nam, người Hoa là lực lượng bị ảnh hưởng nhiều nhất của chính sách này. Nhân dịp này, cuối tháng 4/1978, Trung Quốc chủ động nêu ra vụ "nạn kiều"
    Đây thực ra là một vấn đề khá nan giải. Từ tháng 5/1955, hai Đảng Việt Nam - Trung Quốc tho thuận là Hoa kiều ở Việt Nam do ĐLĐ Việt Nam phụ trách : Đại sứ quán Trung Quốc không cấp hộ chiếu cho người Hoa, chỉ cấp "chứng minh thư du lịch" theo danh sách của Việt Nam.
    Ở miền Nam, theo chính sách của chính quyền NĐD, từ 1956 hầu hết Hoa kiều phải vào quốc tịch Việt Nam, trở thành người Việt gốc Hoa.
    Như vây thực chất ở VN không còn thừa nhận khái niệm Hoa kiều mà chỉ có cộng động người Việt gốc Hoa. Họ là những công dân VN và phải chịu pháp luật VN như mọi công dân khác.
    Nhằm gây hận thù dân tộc, kích động tâm lý chống Việt Nam trong nhân dân Trung Quốc, TQ đã tung tin tuyên truyền đe doạ, lôi kéo người Hoa của Trung Quốc để gây vụ "nạn kiều". Từ đầu 1977, trong người Hoa có tin đồn : Trung Quốc ủng hộ CPC chống Việt Nam. Chiến tranh Trung Quốc - Việt Nam sẽ xảy ra. Người Hoa ở Việt Nam sẽ bị thiệt hại, phi rời Việt Nam nhanh. Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Hoa về nước, ai không về là phản bội Tổ quốc.
    Trung Quốc quyết định từ 1/9/78 cấp lữ hành chứng thay cho hộ chiếu cho Hoa kiều chưa có hộ chiếu Trung Quốc. Ngày 8/8/1978, hai bên họp cấp thứ trưởng, song không tho thuận được gì do phía Trung Quốc họp để tuyên truyền, kích động người Hoa, gây tâm lý chống Việt Nam trong nhân dân Trung Quốc.
    Cũng ngày 8/8/1978 xung đột ở cửa khẩu Bắc Luân, Quảng Ninh. Các ngày 10, 11, 13, 19, 20/8/1978, đặc biệt ngày 25/8/1978, TQ kích động người Hoa khiêu khích ở Hữu Nghị quan làm 2 người chết, 25 bị thương (7 bị thương nặng). Thủ đoạn của TQ còn thâm hiểm ở chỗ sau khi kêu gọi người Hoa về TQ, tập trung người Hoa ở các cửa khẩu, hải cảng TQ lại không mở cửa khẩu hay cho tầu đến đón người Hoa gây ra tình trạng lộn xộn. Đặc biệt ngày 19/8/1978, Trung Quốc bắt đầu yêu cầu Việt Nam nhận lại người Hoa (đến đây thì thủ đoạn ?othâm nho nhọ đít? như một số bạn nói đã lộ mặt)
    Nguyên nhân của cuộc chiến tranh 17/2/1979 :
    1. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Trung Quốc đánh Việt Nam vì Việt Nam chống Trung Quốc, thể hiện qua các sự kiện lớn :
    - Vấn đề người Hoa
    - Việt Nam liên minh với Liên Xô, góp phần thực hiện chiến lược của Liên Xô bao vây Trung Quốc, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực ảnh hưởng truyền thống của Trung Quốc.
    - Lật đổ đồng minh của Trung Quốc ở CPC, xây dựng liên minh đặc biệt Việt Nam-Lào-CPC, trái với chiến lược của Trung Quốc ở ĐNA''.
    2. Một số ý kiến khác cho rằng : Trung Quốc đánh Việt Nam chủ yếu nhằm phục vụ việc điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Trung Quốc : đi với Mỹ và phương Tây nhằm tranh thủ vốn và khoa học kỹ thuật của họ phục vụ 4 hiện đại hoá (đánh cho người ta xem); phá thế 2 cực Xô-Mỹ, xác lập thế 3 cực Xô-Mỹ-Trung gii quyết công việc thế giới; phục vụ chiến lược của Trung Quốc ở ĐNA''.
    Những ý kiến nêu ở phần (1) đáng để suy nghĩ, song cần cân nhắc thêm các khía cạnh :
    - Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ 1974, liên tục xâm phạm, khiêu khích biên giới trong những năm về sau, trước khi có vụ người Hoa, trước khi Việt Nam ký với Liên Xô hiệp ước hữu nghị và hợp tác và vào CPC giúp nhân dân CPC lật đổ chế độ diệt chủng.
    - Người Hoa ở CPC bị bọn Polpot đối xử tệ hại, song Trung Quốc không phản ứng, ngược lại, còn viện trợ cho chúng.
    - Anbani chống Liên Xô gay gắt, liên tục, song từ 1971, Trung Quốc đã giảm viện trợ cho Anbani, không cử đoàn Đảng sang dự đại hội Đảng Anbani và từ 7/7/1978 đã cắt hoàn toàn viện trợ, rút chuyên gia về nước vì những lý do kỹ thuật. Những mốc đó gắn với các mốc điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc : 1971 đón Kissinger và 1972 đón Nixon.
    - Việt Nam đã nêu quan hệ đặc biệt với Lào và CPC từ 1976; đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Lào ngày 18/7/1977, song Trung Quôc không phản ứng.
    Trong Bản báo cáo của Chính phủ VN trước Quốc hội tháng 5/1979 nêu rõ nguyên nhân của cuộc xâm lược của Trung Quốc là :
    - Tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của ta, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đoạt đất đai của ta, kích động bạo loạn.
    - Buộc chúng ta từ bỏ trách nhiệm giúp đỡ Campuchia, tạo điều kiện cho bọn Polpot-Ieng sary đẩy mạnh hoạt động chống lại nhân dân Campuchia, khôi phục ách thống trị của chúng.
    - Tranh thủ sự tín nhiệm của Mỹ và các nước đế quốc đối với Trung Quốc, cầu mong các nước đế quốc liên minh chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc, giúp Trung Quốc nhiều hơn để thực hiện kế hoạch 4 hiện đại hoá hòng nhanh chóng ngoi lên địa vị một cường quốc siêu đẳng, để chống Việt Nam, chống Liên Xô, chống lại các trào lưu cách mạng thế giới.
    - Thị uy với các nước ĐNA'', gỡ thể diện của chúng sau thất bại nặng nề ở CPC.
    Thực tế TQ còn muốn trừng phạt VN vì đã làm hỏng tiến trình hoàn hoãn Mỹ -Trung do việc VN giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Làm cho thoả thuận của TQ với Mỹ ở Thượng Hải vô nghĩa và như vậy làm cho khả năng thống nhất TQ với Đài Loan trở nên khó khăn.
    Ngoài ra, việc TQ đánh VN cũng là để giải quyết các vấn đề nội bộ. Như nhiều bạn đã phân tích, ĐTB mới trở lại nắm quyền nhưng định hướng 4 hiện đại hoá không được chấp nhận bởi tất cả các phe phái. Vị trí chính trị của họ Đặng chưa thực sự được bảo đảm. Trong bối cảnh đó đánh VN sẽ chuyển dịch trọng tâm dự luận TQ ra ngoài tạo điều kiện cho Đặng tiến hành cải cách như đã định. Thực tế lịch sử TQ đã nhiều lần chứng minh thủ đoạn chính trị này của giới cầm quyền TQ : Tể tướng Vương An Thạch khi tiến hành cải cách cũng đánh Đại Việt để đánh lạc hướng dư luận. Dưới thời Mao, những xung đột biên giới với Ấn Độ, LX cũng gắn liền với những khủng hoảng chính trị nội bộ sau Đại nhảy vọt, Trăm hoa đua nở hay Đại *****************.
    Nguyên nhân từ phía VN :
    - Không có đánh giá đúng về TQ ngay từ đầu. Thực ra sau Geneve, VN đã phần nào nhận ra được thâm ý của TQ và trong suốt kháng chiến chống Mỹ, VN đều cảnh giác với những gì TQ thúc giục chúng ta : Cách mạng văn hoá, trường kỳ kháng chiến không đàm phán với Mỹ, không nhận viện trợ của LX, đưa quân tình nguyện TQ sang đánh Mỹ ở VN, để TQ đứng ra làm trung gian đàm phán với Mỹ? VN vẫn có một phần tin vào sự hợp tác ?ovô tư? của TQ nên khi gặp vấn đề từ năm 1975 đã không xử lý đúng đắn được.
    - Không đánh giá đúng vấn đề CPC để dẫn đến phải đưa quân vào CPC tạo cớ cho TQ đánh VN với sự ủng hộ ngầm hoặc công khai của Mỹ và các nước ASEAN đặc biệt là Thái Lan.
    - Không cân bằng được quan hệ giữa VN-TQ và VN-LX. Tạo cớ cho TQ tố cáo VN liên minh với LX để bao vây TQ.
    Tóm lại cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, nếu nhìn từ cả hai phía thì khó tránh khỏi. Một mặt TQ đã chuẩn bị cuộc chiến này như là một con bài trong quan hệ với Mỹ và ASEAN (TQ tuyên bố : ?ođánh cho người ta xem?). Mặt khác TQ cũng cần có chiến tranh để giải quyết các vấn đề nội bộ. Và cuối cùng những thiếu sót của VN cũng đã góp phần làm cho cuộc chiến nổ ra.
    Mặc dù TQ không dạy được cho VN bài học mong muốn là phải thần phục TQ, nhưng thực tế cho thấy VN cũng nhận được nhiều bài học qua vụ này. Bài học lớn nhất là bài học sống như thế nào với thằng láng giềng vừa to khoẻ, vũ phu, tham lam, giảo hoạt. Con người ta có nhiều thứ có thể lựa chọn được (kể cả vợ, chồng) nhưng cha mẹ, anh em, họ hàng và thằng hàng xóm thì không. Chính vì vậy truyền thống VN đã để lại câu nói chỉ đạo cho ứng xử với làng giềng là : ?obán anh em xa, mua láng giềng gần?. Trong khi đó VN lại đi tìm kiếm một ông anh ở rất xa (LX) để chọc tức một thằng láng giền gần. Bài học thứ hai, VN là nước nhỏ (như ***** nói : nước nhược tiểu) thì tốt nhất không nên giây vào cuộc chơi của các nước lớn. Mà nếu vì quyền lợi của mình bị xúc phạm mà phải tham gia vào thì giữ cân bằng trong quan hệ vơi các nước lớn là an toàn nhất. Không nên thực hiện ?onhất biên đảo?. Các nước lớn sẵn sàng hy sinh lợi ích của các nước nhỏ để đạt mục tiêu của mình. Nam tư, Hy lạp đã bị LX vứt bỏ trong chiến tranh TG II đã là ví dụ. Và chính trong vụ việc này thái độ của LX cũng đủ cho VN một bài học. Mặc dù ĐTB đã tuyên bố sẽ ?odạy cho VN một bài học? từ 31/1/1979, nhưng LX vẫn làm ngơ cho dù đã ký Hiệp ước với VN trong đó có điều khoản tương trợ khi bị xâm lược và bị đe doạ xâm lược. Thực chất tuyên bố của Đặng ở Mỹ và sau đó ở Nhật không chỉ nhằm vào Mỹ và đồng minh hay VN mà còn là câu xin phép LX : tớ sắp đánh thằng VN, cậu có ý kiến gì không. Sự im lặng của LX là câu trả lời đồng ý : cậu cứ việc đánh, tớ sẽ kiếm chác tí trong vụ này? Và sau đó, tháng 5/1979, LX được VN đồng ý cho vào cảng Cam Ranh.
  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Hồi xưa tôi luôn tin tưởng thế. Chỉ đến khi mấy thằng Thuỵ điển cùng lớp nó chỉ cho mấy cái sách dịch của LXô (không nhớ tên) mới biết chỉ có Liên xô và Ấn độ ủng hộ thôi. Các nước xã hội chủ nghĩa thì không ý kiến gì vì đợt đó Liên xô cũng đang đánh Apganistan và ép khối phải ủng hộ. Kinh nghiệm Tiệp khắc bị Liên xô đưa quân sang đánh năm 1968 làm các nước đó phải cân nhắc.
    Theo cuốn sách đó thì sau khi Việt nam ở lại Campuchia quá lâu mà không tiến hành bầu cử và rút quân, cũng như cho Liên hợp quốc vào điều tra, hàng loạt nước đã cô lập ngoại giao với Việt nam, trong đó có cả những nước gần gũi nhất với ta là Đông Âu và Đông Bắc Âu. Cái này trong bài của Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, cựu trợ lý của mấy đời tổng bí thư, phát biểu trước Đại hội Đảng trù bị, được đưa lên Internet hồi đầu năm cũng nói tương tự.
    Tất nhiên hệ quả này còn là do có cả sức ép của Mỹ + Trung quốc nữa. Đến nỗi nhiều tổ chức quốc tế cũng đình chỉ hoàn toàn quan hệ với Việt nam (World bank và IMF chẳng hạn).
    Cho đến năm 1988, Việt nam muốn quay lại chính trường quốc tế, yêu cầu đặt ra đầu tiên của Liên hợp quốc và các nước, đặc biệt là khối láng giềng Đông Nam Á và TQuốc, là ta phải rút quân khỏi Campuchia, tổ chức bầu cử, trả lại tài sản cho Campuchia, ký hiệp định đất đai với Campuchia... gì đấy nữa tôi không nhớ hết. Sau đó thì mới có đàm phán cho VIệt nam quay lại. Do đó từ năm 88-89 ta rút đại quân ra khỏi Campuchia, và bắt đầu quá trình đàm phán hoà bình ở Giacácta, thủ đô Indonexia. Đoàn nhà ta do Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch dẫn đầu (ông vừa mới mất).
    Sau khi LHợp Quốc vào Campuchia xong thì mới bắt đầu tiến trình đàm phán bình thường hoá TQ-VN, Mỹ-VN, Pháp-VN, ĐNÁ-VN.
    Sách tôi đọc năm 2002 ở Anh, được in năm 97 gì đấy, dịch từ tiếng Nga sang tiếng Pháp và Anh.
  10. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    Ủa bửu bối hết thiêng rồi hay sao mà giờ quay ra trưng cầu dân ý??? anh bạn làm rồi hay sao mà biết con số là 70% gì gì đó va vài % gì gì đó ... tự đoán à??? .
    Thôi cứ cho bửu bối của anh bạn đúng, cái bửu bối đó nó có tính được bao lâu cúng ta sẽ cho được Hunsen thành danh chính ngôn thuận để chống Khmer đỏ ko??? 10 năm, 20 năm .... ... hay 100 năm. Bửu bối hay thế nhưng nó ko phân tích được à??? thế vứt nó vào sọt rác là vừa đi.
    Với tình hình đó 600 000 quân Tàu bên biên giới phía Bắc, 25 sư đoàn biên giới Tây Nam ... thì theo anh bạn bao giờ hai mũi sẽ giáp công??? Buu boi co ghi ko??? 100 nam sau sau khi Hunsen thanh danh chinh ngon thuan???
    Theo những gì cho thấy trong topic này ... 99% dân số ủng hộ việc VN đưa quân qua Căm dẹp trước một mối lo ... chỉ có 1% như anh bạn là chống thôi .... .

Chia sẻ trang này