1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Việt Nam năm 1979

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi tarzan, 11/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. blue_woman

    blue_woman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2002
    Bài viết:
    24
    Đã được thích:
    0

    Tôi có hóng hớt được mấy chuyện ,kể cho bà con nghe chơi:
    Chuyện Một : Vụ 79 mình cũng đã biết trước là anh Khựa sẽ choảng mình nên các bác nhà ta đã học cụ Lý Thường Kiệt ngày xưa đưa một cơ số quân sang phá kho lương hậu cần của quân bác Đặng.Có lẽ cũng một phần nhờ chuyện này đã hạn chế phần nào cuộc chiến của ông hàng xóm "bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong bụng chứ trăm mười con dao".
    Tất nhiên tình cảm hai nước vẫn như môi với răng (mình yếu hơn làm môi là tất nhiên!!!).
    Chuyện Hai: Sau vụ đó ở Cao Bằng ,trên đất Tàu,họ cho dựng một bức tượng Mao cao khoảng vài chục mét,một tay của chủ tịch chỉ xuống phương Nam thị uy.Các bác nhà ta cũng nhanh trí,mấy hôm sau ở hướng tay Mao chỉ sang,trên đất Việt,dựng ngay một tấm biển có mấy dòng :Không có gì quý hơn độc lập tự do.Cũng bản lĩnh đấy chứ ?
    Thưa các bác,tư tưởng của anh Tàu là tư tưởng đại hãn.Còn sống cạnh bác Khựa là phải biết điều này!!!Nhưng mình yếu hơn,đánh nhau thì mệt,đành phải vừa đấm vừa xoa.
    Nhưng cũng xin các bác chớ quên tinh thần của cha ông mình xưa :
    Đằng Giang tự cổ huyết do hồng!(Giang Văn Minh)
    Nam quốc sơn hà nam đế cư ...

    Blue Woman
  2. thenguyen

    thenguyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/11/2002
    Bài viết:
    102
    Đã được thích:
    0
    Chuyện hay thế mà bạn bây giờ mới kể hả Blue woman. Tôi thì chỉ nghe kể là Tầu cứ xông lên còn ta cứ bắn, khi hết đạn rồi đang định rút lui thì mới biết là không còn lính Tầu nữa. Mà đạn ta nhiều chứ có phải ít đâu, lấy được của Mỹ và Sgòn cả đống.
  3. thenguyen

    thenguyen Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/11/2002
    Bài viết:
    102
    Đã được thích:
    0
    Chuyện hay thế mà bạn bây giờ mới kể hả Blue woman. Tôi thì chỉ nghe kể là Tầu cứ xông lên còn ta cứ bắn, khi hết đạn rồi đang định rút lui thì mới biết là không còn lính Tầu nữa. Mà đạn ta nhiều chứ có phải ít đâu, lấy được của Mỹ và Sgòn cả đống.
  4. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Chà, box này cãi nhau cũng ghê nhỉ ? Sao chẳng thấy ai trưng bằng cớ ra cho bà con coi . Nói về lịch sử mà : nghe bố em nói,.... tôi nghĩ.... thì bên nào nói bên ấy nghe thôi .
    Các bác đã xài số liệu của tàu & của ta rồi ( dẫu là nghe nói...)
    Xin gửi tới các bác 1 chút đánh giá của người ngoài cuộc, các bác chịu khó đọc tiếng anh ( do không có thời gian chuyển ngữ):
    -----------
    In February 1979 China attacked along virtually the entire Sino-Vietnamese border in a brief, limited campaign that involved ground forces only. The Chinese attack came at dawn on the morning of 17 February 1979, and employed infantry, armor, and artillery. Air power was not employed then or at any time during the war. Within a day, the Chinese People's Liberation Army (PLA) had advanced some eight kilometers into Vietnam along a broad front. It then slowed and nearly stalled because of heavy Vietnamese resistance and difficulties within the Chinese supply system. On February 21, the advance resumed against Cao Bang in the far north and against the all-important regional hub of Lang Son. Chinese troops entered Cao Bang on February 27, but the city was not secured completely until March 2. Lang Son fell two days later. On March 5, the Chinese, saying Vietnam had been sufficiently chastised, announced that the campaign was over. Beijing declared its "lesson" finished and the PLA withdrawal was completed on March 16.
    Hanoi's post-incursion depiction of the border war was that Beijing had sustained a military setback if not an outright defeat. Most observers doubted that China would risk another war with Vietnam in the near future. Gerald Segal, in his 1985 book Defending China, concluded that China's 1979 war against Vietnam was a complete failure: "China failed to force a Vietnamese withdrawal from [Cambodia], failed to end border clashes, failed to cast doubt on the strength of the Soviet power, failed to dispel the image of China as a paper tiger, and failed to draw the United States into an anti-Soviet coalition." Nevertheless, Bruce Elleman argued that "one of the primary diplomatic goals behind China's attack was to expose Soviet assurances of military support to Vietnam as a fraud. Seen in this light, Beijing's policy was actually a diplomatic success, since Moscow did not actively intervene, thus showing the practical limitations of the Soviet-Vietnamese military pact. ... China achieved a strategic victory by minimizing the future possibility of a two-front war against the USSR and Vietnam."
    After the war both China and Vietnam reorganized their border defenses. In 1986 China deployed twenty-five to twenty-eight divisions and Vietnam thirty-two divisions along their common border.
    The 1979 attack confirmed Hanoi's perception of China as a threat. The PAVN high command henceforth had to assume, for planning purposes, that the Chinese might come again and might not halt in the foothills but might drive on to Hanoi. The border war strengthened Soviet-Vietnamese relations. The Soviet military role in Vietnam increased during the 1980s as the Soviets provided arms to Vietnam; moreover, Soviet ships enjoyed access to the harbors at Danang and Cam Ranh Bay, and Soviet reconnaissance aircraft operated out of Vietnamese airfields. The Vietnamese responded to the Chinese campaign by turning the districts along the China border into "iron fortresses" manned by well-equipped and well-trained paramilitary troops. In all, an estimated 600,000 troops were assigned to counter Chinese operations and to stand ready for another Chinese invasion. The precise dimensions of the frontier operations were difficult to determine, but its monetary cost to Vietnam was considerable.
    By 1987 China had stationed nine armies (approximately 400,000 troops) in the Sino-Vietnamese border region, including one along the coast. It had also increased its landing craft fleet and was periodically staging amphibious landing exercises off Hainan Island, across from Vietnam, thereby demonstrating that a future attack might come from the sea.
    Low-level conflict continued along the Sino-Vietnamese border as each side conducted artillery shelling and probed to gain high spots in the mountainous border terrain. Border incidents increased in intensity during the rainy season, when Beijing attempted to ease Vietnamese pressure against Cambodian resistance fighters.
    Since the early 1980s, China pursued what some observers described as a semi-secret campaign against Vietnam that was more than a series of border incidents and less than a limited small-scale war. The Vietnamese called it a "multifaceted war of sabotage." Hanoi officials have described the assaults as comprising steady harassment by artillery fire, intrusions on land by infantry patrols, naval intrusions, and mine planting both at sea and in the riverways. Chinese clandestine activity (the "sabotage" aspect) for the most part was directed against the ethnic minorities of the border region. According to the Hanoi press, teams of Chinese agents systematically sabotaged mountain agricultural production centers as well as lowland port, transportation, and communication facilities. Psychological warfare operations were an integral part of the campaign, as was what the Vietnamese called "economic warfare"--encouragement of Vietnamese villagers along the border to engage in smuggling, currency speculation, and hoarding of goods in short supply.
    ( Trích từ :Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict - by Bruce Elleman - Vietnam Center at
    Texas Tech University ).
    --------
    và đây là bài "A Nervous China Invades Vietnam" của tác giả
    TERRY McCARTHY ( Time Asia )

    Early in the morning of Feb. 17, 1979, Chinese artillery batteries and multiple rocket launchers opened fire all along the Vietnamese border with protracted barrages that shook the earth for miles around. Then 85,000 troops surged across the frontier in human-wave attacks like those China had used in Korea nearly three decades before. They were decimated: the well-dug-in Vietnamese cut down the Chinese troops with machine guns, while mines and booby traps did the rest.
    Who learned the bigger lesson? The invasion demonstrated a contradiction that has forever bedeviled China's military and political leaders: good strategy, bad tactics. The decision to send what amounted to nearly 250,000 troops into Vietnam had been taken seven months before and was well-telegraphed to those who cared to listen. When Deng Xiaoping went to Washington in January 1979 to cement the normalization of China's relations with the United States, he told President Jimmy Carter in a private meeting what China was about to do--and why. Not only did Beijing feel Vietnam was acting ungratefully after all the assistance it had received during its war against the U.S., but in 1978 Hanoi had begun expelling Vietnamese of Chinese descent. Worst of all--it was cozying up to Moscow.
    In November 1978 Vietnam signed a treaty of friendship and cooperation with the Soviet Union. A month later the Vietnamese invaded Cambodia, a Chinese ally.
    Although Hanoi said it was forced to do so to stop Pol Pot's genocide and to put an end to his cross-border attacks against Vietnam, Deng saw it as a calculated move by Moscow to use its allies to encircle China from the south. Soviet "adventurism" in Southeast Asia had to be stopped, Deng said, and he was calculating (correctly, it turned out) that Moscow would not intervene in a limited border war between China and Vietnam. Carter's National Security Adviser, Zbigniew Brzezinski, said Deng's explanation to Carter of his invasion plans, with its calculated defiance of the Soviets, was the "single most impressive demonstration of raw power politics" that he had ever seen.
    At the time Deng was consolidating his position as unchallenged leader of China. Having successfully negotiated normalization of relations with Washington, he wanted to send a strong signal to Moscow against further advances in Asia. He also thought the Carter Administration was being too soft on the Soviets, although he did not say as much to his American hosts.
    Hanoi, for its part, was unfazed by Deng's demonstration of "raw power." The Vietnamese fought the Chinese with local militia, not bothering to send in any of the regular army divisions that were then taken up with the occupation of Cambodia. Indeed, Hanoi showed no sign of withdrawing those troops, despite Chinese demands that they do so: the subsequent guerrilla war in Cambodia would bog down Vietnam's soldiers and bedevil its foreign relations for more than a decade.
    The towns captured by the Chinese were all just across the border; it is not clear whether China could have pushed much farther south. Having lost so many soldiers in taking the towns, the Chinese methodically blew up every building they could before withdrawing. Journalist Nayan Chanda, who visited the area shortly after the war, saw schools, hospitals, government buildings and houses all reduced to rubble.
    The war also showed China just how outdated its battlefield tactics and weaponry were, prompting a major internal review of the capabilities of the People's Liberation Army. The thrust for military modernization continues to this day, even as the focus of China's generals has shifted from Vietnam back to Taiwan--a pesky little irritant that could cause Beijing even bigger problems if it decides to administer another "lesson."
    ---------------------------------------------------

    Dưới đây là mấy ý kiến cá nhân,

    Có mấy bác trong box này cho là mấy chú chệch muốn sang dạy ta "1 bài học", dạy xong rồi rút chứ muốn ở lại thì....
    Xin thưa là :các bác mở lại sử ta, sử tàu ra đọc, nhà Minh cũng lấy lý do "phù Trần , diệt Hồ" để đến nước ta rồi... may mà nước Nam có ông Lê Lợi. Gần đây thì có cuộc chiến của Quang Trung - Tôn sĩ Nghị. Nhiều nhà " sử học người Việt???" cả ở Hà nội lẫn châu Âu đang chứng minh quân tàu sang Thăng Longchỉ có vài ngàn ( chứ không phải nhiều vạn như sách sử trước đây ghi lại) & quan trọng hơn hết là các " sử "giả"" trên cho rằng với lượng quân tướng như vậy, Càn long chỉ muốn răn đe nhà Tây sơn chứ không có ý định thôn tính hay 'oánh' thiệt sự. Ô . hô......miễn bình luận ... nhưng sao thấy giống lập luận trên của cuộc chiến biên giới 79 quá.
    Thiển nghĩ, xếnh xáng Đặng muốn dằn mặt một cú , nhưng thua te tua , gỡ lấy chút thể diện bằng cách nói là đã cho chú học trò 1 bài học.
    Kể thêm cho các bác nghe 1 chuyện mà rùa này chứng kiến để biết:
    Năm 1979, đất nước vừa thống nhất đượcvài năm. Dân miền nam cũng còn ... tạm gọi là "dè dặt" ( cho khỏi nhại cẽm). Lúc đó rùa cũng vừa vào tuổi đang 'tự nhận thức' như nhiều bạn bây giờ. Sáng ngày 17/09 nghe radio nói mấy xếnh xáng lại sang ta , 1 giờ sau mấy ông uỷ ban cho loa phóng thanh kêu gọi mọi người đi đào hào chuẩn bị chống tàu. Rùa này thấy chưa bao giờ (từ 1975) mà lớn bé già trẻ lại tự nguyện đi đào hào cho mấy ông CS như vậy. Ông bô nhà rùa có nói : ai tới chứ tụi chệch mà qua đây thì dân nam này không còn được làm người nữa.
  5. ruavang

    ruavang Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    361
    Đã được thích:
    0
    Chà, box này cãi nhau cũng ghê nhỉ ? Sao chẳng thấy ai trưng bằng cớ ra cho bà con coi . Nói về lịch sử mà : nghe bố em nói,.... tôi nghĩ.... thì bên nào nói bên ấy nghe thôi .
    Các bác đã xài số liệu của tàu & của ta rồi ( dẫu là nghe nói...)
    Xin gửi tới các bác 1 chút đánh giá của người ngoài cuộc, các bác chịu khó đọc tiếng anh ( do không có thời gian chuyển ngữ):
    -----------
    In February 1979 China attacked along virtually the entire Sino-Vietnamese border in a brief, limited campaign that involved ground forces only. The Chinese attack came at dawn on the morning of 17 February 1979, and employed infantry, armor, and artillery. Air power was not employed then or at any time during the war. Within a day, the Chinese People's Liberation Army (PLA) had advanced some eight kilometers into Vietnam along a broad front. It then slowed and nearly stalled because of heavy Vietnamese resistance and difficulties within the Chinese supply system. On February 21, the advance resumed against Cao Bang in the far north and against the all-important regional hub of Lang Son. Chinese troops entered Cao Bang on February 27, but the city was not secured completely until March 2. Lang Son fell two days later. On March 5, the Chinese, saying Vietnam had been sufficiently chastised, announced that the campaign was over. Beijing declared its "lesson" finished and the PLA withdrawal was completed on March 16.
    Hanoi's post-incursion depiction of the border war was that Beijing had sustained a military setback if not an outright defeat. Most observers doubted that China would risk another war with Vietnam in the near future. Gerald Segal, in his 1985 book Defending China, concluded that China's 1979 war against Vietnam was a complete failure: "China failed to force a Vietnamese withdrawal from [Cambodia], failed to end border clashes, failed to cast doubt on the strength of the Soviet power, failed to dispel the image of China as a paper tiger, and failed to draw the United States into an anti-Soviet coalition." Nevertheless, Bruce Elleman argued that "one of the primary diplomatic goals behind China's attack was to expose Soviet assurances of military support to Vietnam as a fraud. Seen in this light, Beijing's policy was actually a diplomatic success, since Moscow did not actively intervene, thus showing the practical limitations of the Soviet-Vietnamese military pact. ... China achieved a strategic victory by minimizing the future possibility of a two-front war against the USSR and Vietnam."
    After the war both China and Vietnam reorganized their border defenses. In 1986 China deployed twenty-five to twenty-eight divisions and Vietnam thirty-two divisions along their common border.
    The 1979 attack confirmed Hanoi's perception of China as a threat. The PAVN high command henceforth had to assume, for planning purposes, that the Chinese might come again and might not halt in the foothills but might drive on to Hanoi. The border war strengthened Soviet-Vietnamese relations. The Soviet military role in Vietnam increased during the 1980s as the Soviets provided arms to Vietnam; moreover, Soviet ships enjoyed access to the harbors at Danang and Cam Ranh Bay, and Soviet reconnaissance aircraft operated out of Vietnamese airfields. The Vietnamese responded to the Chinese campaign by turning the districts along the China border into "iron fortresses" manned by well-equipped and well-trained paramilitary troops. In all, an estimated 600,000 troops were assigned to counter Chinese operations and to stand ready for another Chinese invasion. The precise dimensions of the frontier operations were difficult to determine, but its monetary cost to Vietnam was considerable.
    By 1987 China had stationed nine armies (approximately 400,000 troops) in the Sino-Vietnamese border region, including one along the coast. It had also increased its landing craft fleet and was periodically staging amphibious landing exercises off Hainan Island, across from Vietnam, thereby demonstrating that a future attack might come from the sea.
    Low-level conflict continued along the Sino-Vietnamese border as each side conducted artillery shelling and probed to gain high spots in the mountainous border terrain. Border incidents increased in intensity during the rainy season, when Beijing attempted to ease Vietnamese pressure against Cambodian resistance fighters.
    Since the early 1980s, China pursued what some observers described as a semi-secret campaign against Vietnam that was more than a series of border incidents and less than a limited small-scale war. The Vietnamese called it a "multifaceted war of sabotage." Hanoi officials have described the assaults as comprising steady harassment by artillery fire, intrusions on land by infantry patrols, naval intrusions, and mine planting both at sea and in the riverways. Chinese clandestine activity (the "sabotage" aspect) for the most part was directed against the ethnic minorities of the border region. According to the Hanoi press, teams of Chinese agents systematically sabotaged mountain agricultural production centers as well as lowland port, transportation, and communication facilities. Psychological warfare operations were an integral part of the campaign, as was what the Vietnamese called "economic warfare"--encouragement of Vietnamese villagers along the border to engage in smuggling, currency speculation, and hoarding of goods in short supply.
    ( Trích từ :Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict - by Bruce Elleman - Vietnam Center at
    Texas Tech University ).
    --------
    và đây là bài "A Nervous China Invades Vietnam" của tác giả
    TERRY McCARTHY ( Time Asia )

    Early in the morning of Feb. 17, 1979, Chinese artillery batteries and multiple rocket launchers opened fire all along the Vietnamese border with protracted barrages that shook the earth for miles around. Then 85,000 troops surged across the frontier in human-wave attacks like those China had used in Korea nearly three decades before. They were decimated: the well-dug-in Vietnamese cut down the Chinese troops with machine guns, while mines and booby traps did the rest.
    Who learned the bigger lesson? The invasion demonstrated a contradiction that has forever bedeviled China's military and political leaders: good strategy, bad tactics. The decision to send what amounted to nearly 250,000 troops into Vietnam had been taken seven months before and was well-telegraphed to those who cared to listen. When Deng Xiaoping went to Washington in January 1979 to cement the normalization of China's relations with the United States, he told President Jimmy Carter in a private meeting what China was about to do--and why. Not only did Beijing feel Vietnam was acting ungratefully after all the assistance it had received during its war against the U.S., but in 1978 Hanoi had begun expelling Vietnamese of Chinese descent. Worst of all--it was cozying up to Moscow.
    In November 1978 Vietnam signed a treaty of friendship and cooperation with the Soviet Union. A month later the Vietnamese invaded Cambodia, a Chinese ally.
    Although Hanoi said it was forced to do so to stop Pol Pot's genocide and to put an end to his cross-border attacks against Vietnam, Deng saw it as a calculated move by Moscow to use its allies to encircle China from the south. Soviet "adventurism" in Southeast Asia had to be stopped, Deng said, and he was calculating (correctly, it turned out) that Moscow would not intervene in a limited border war between China and Vietnam. Carter's National Security Adviser, Zbigniew Brzezinski, said Deng's explanation to Carter of his invasion plans, with its calculated defiance of the Soviets, was the "single most impressive demonstration of raw power politics" that he had ever seen.
    At the time Deng was consolidating his position as unchallenged leader of China. Having successfully negotiated normalization of relations with Washington, he wanted to send a strong signal to Moscow against further advances in Asia. He also thought the Carter Administration was being too soft on the Soviets, although he did not say as much to his American hosts.
    Hanoi, for its part, was unfazed by Deng's demonstration of "raw power." The Vietnamese fought the Chinese with local militia, not bothering to send in any of the regular army divisions that were then taken up with the occupation of Cambodia. Indeed, Hanoi showed no sign of withdrawing those troops, despite Chinese demands that they do so: the subsequent guerrilla war in Cambodia would bog down Vietnam's soldiers and bedevil its foreign relations for more than a decade.
    The towns captured by the Chinese were all just across the border; it is not clear whether China could have pushed much farther south. Having lost so many soldiers in taking the towns, the Chinese methodically blew up every building they could before withdrawing. Journalist Nayan Chanda, who visited the area shortly after the war, saw schools, hospitals, government buildings and houses all reduced to rubble.
    The war also showed China just how outdated its battlefield tactics and weaponry were, prompting a major internal review of the capabilities of the People's Liberation Army. The thrust for military modernization continues to this day, even as the focus of China's generals has shifted from Vietnam back to Taiwan--a pesky little irritant that could cause Beijing even bigger problems if it decides to administer another "lesson."
    ---------------------------------------------------

    Dưới đây là mấy ý kiến cá nhân,

    Có mấy bác trong box này cho là mấy chú chệch muốn sang dạy ta "1 bài học", dạy xong rồi rút chứ muốn ở lại thì....
    Xin thưa là :các bác mở lại sử ta, sử tàu ra đọc, nhà Minh cũng lấy lý do "phù Trần , diệt Hồ" để đến nước ta rồi... may mà nước Nam có ông Lê Lợi. Gần đây thì có cuộc chiến của Quang Trung - Tôn sĩ Nghị. Nhiều nhà " sử học người Việt???" cả ở Hà nội lẫn châu Âu đang chứng minh quân tàu sang Thăng Longchỉ có vài ngàn ( chứ không phải nhiều vạn như sách sử trước đây ghi lại) & quan trọng hơn hết là các " sử "giả"" trên cho rằng với lượng quân tướng như vậy, Càn long chỉ muốn răn đe nhà Tây sơn chứ không có ý định thôn tính hay 'oánh' thiệt sự. Ô . hô......miễn bình luận ... nhưng sao thấy giống lập luận trên của cuộc chiến biên giới 79 quá.
    Thiển nghĩ, xếnh xáng Đặng muốn dằn mặt một cú , nhưng thua te tua , gỡ lấy chút thể diện bằng cách nói là đã cho chú học trò 1 bài học.
    Kể thêm cho các bác nghe 1 chuyện mà rùa này chứng kiến để biết:
    Năm 1979, đất nước vừa thống nhất đượcvài năm. Dân miền nam cũng còn ... tạm gọi là "dè dặt" ( cho khỏi nhại cẽm). Lúc đó rùa cũng vừa vào tuổi đang 'tự nhận thức' như nhiều bạn bây giờ. Sáng ngày 17/09 nghe radio nói mấy xếnh xáng lại sang ta , 1 giờ sau mấy ông uỷ ban cho loa phóng thanh kêu gọi mọi người đi đào hào chuẩn bị chống tàu. Rùa này thấy chưa bao giờ (từ 1975) mà lớn bé già trẻ lại tự nguyện đi đào hào cho mấy ông CS như vậy. Ông bô nhà rùa có nói : ai tới chứ tụi chệch mà qua đây thì dân nam này không còn được làm người nữa.
  6. phamhoangthanh

    phamhoangthanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Quả thật là Tầu thua đau ở biên giới rồi, giống như hồi Càn long thua Quang Trung nhưng lại sáu tranh mô tả mình thằng trận! Thế mà cũng có người tin mấy nguy hiểm cho nền sử học nước nhà chứ. Còn chuyện sinh viên miền Nam cắt máu đánh Khựa thì tôi cũng biết. Chỉ tiếc chưa kịp cắt thì Khựa đã rút quân về rồi. Cạnh bác Khựa là khổ đây, nhưng dù sao cũng vinh dự lắm chứ khi trong quá khứ cha ông ta dùng "văn Tàu đánh Tàu" còn năm 1979 thì ta dùng "võ Tầu đánh Tàu".
  7. phamhoangthanh

    phamhoangthanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    Quả thật là Tầu thua đau ở biên giới rồi, giống như hồi Càn long thua Quang Trung nhưng lại sáu tranh mô tả mình thằng trận! Thế mà cũng có người tin mấy nguy hiểm cho nền sử học nước nhà chứ. Còn chuyện sinh viên miền Nam cắt máu đánh Khựa thì tôi cũng biết. Chỉ tiếc chưa kịp cắt thì Khựa đã rút quân về rồi. Cạnh bác Khựa là khổ đây, nhưng dù sao cũng vinh dự lắm chứ khi trong quá khứ cha ông ta dùng "văn Tàu đánh Tàu" còn năm 1979 thì ta dùng "võ Tầu đánh Tàu".
  8. MTH

    MTH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/05/2002
    Bài viết:
    917
    Đã được thích:
    0
    Trước tháng 2-1979. Trung quốc có 3,600,000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Vũ khí gồm có 10,000 chiến xa, 20,000 giàn phóng hỏa tiển, 16,000 ca nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30,000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Ðông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400,000 phi công, 5,000 chiến đấu cơ củ và lỗi thời, loại Mig 15, 17, 19 và 80 Mig 21. Ðặng Tiểu Bình là Tổng Tư lệnh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng.
    Về phía VN, tổng quân số lên đến 600,000 phân chia 200,000 tại Campuchia, 100,000 tại Lào, 100,000 tại miền Nam, và 200,000 ở miền Bắc. Xung quanh Hànội, có 5 sư doàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150,000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không quân VN có 300 máy bay (70 Mig 19, 21 Mig 70, và một số F-5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân VN có 2 chiếc PETYA LX với hòa tiễn chống tiềm thủy đĩnh, và 60 tàu tuần tiểu.
    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn:
    1) Từ 17 đến 26-2-1979. Ngày 17 thàng, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100,000 Tàu khựa, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Ðồng Ðăng), Cao Bằng, Ðồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hànội. Ðồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu".
    Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiểu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự Sô viết bay qua Hànội. Maxcova yêu cầu Bắc Kinh lui binh.
    2) Từ 27-2 đến 5-3. Chiến cuộc tiếp diển ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông Cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Ðèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hánội, 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Ðồng Ðăng và Lộc Bình, quân Tàu vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Quân Việt chống cự mảnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba, Lạng Sơn thất thủ. Ðồng Ðăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông Cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn quân Việt và mặt khác, cảnh cáo Hànội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc.
    Cùng một ngày, VN động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẳn sàng gởi quân trợ chiến Hànội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16-3-1979, không còn đơn vị TQ nào ở VN
    MTH@
  9. MTH

    MTH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/05/2002
    Bài viết:
    917
    Đã được thích:
    0
    Trước tháng 2-1979. Trung quốc có 3,600,000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Vũ khí gồm có 10,000 chiến xa, 20,000 giàn phóng hỏa tiển, 16,000 ca nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30,000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Ðông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400,000 phi công, 5,000 chiến đấu cơ củ và lỗi thời, loại Mig 15, 17, 19 và 80 Mig 21. Ðặng Tiểu Bình là Tổng Tư lệnh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng.
    Về phía VN, tổng quân số lên đến 600,000 phân chia 200,000 tại Campuchia, 100,000 tại Lào, 100,000 tại miền Nam, và 200,000 ở miền Bắc. Xung quanh Hànội, có 5 sư doàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150,000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không quân VN có 300 máy bay (70 Mig 19, 21 Mig 70, và một số F-5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân VN có 2 chiếc PETYA LX với hòa tiễn chống tiềm thủy đĩnh, và 60 tàu tuần tiểu.
    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn:
    1) Từ 17 đến 26-2-1979. Ngày 17 thàng, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100,000 Tàu khựa, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Ðồng Ðăng), Cao Bằng, Ðồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hànội. Ðồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu".
    Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiểu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự Sô viết bay qua Hànội. Maxcova yêu cầu Bắc Kinh lui binh.
    2) Từ 27-2 đến 5-3. Chiến cuộc tiếp diển ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông Cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Ðèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hánội, 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Ðồng Ðăng và Lộc Bình, quân Tàu vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Quân Việt chống cự mảnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba, Lạng Sơn thất thủ. Ðồng Ðăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông Cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn quân Việt và mặt khác, cảnh cáo Hànội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc.
    Cùng một ngày, VN động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẳn sàng gởi quân trợ chiến Hànội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16-3-1979, không còn đơn vị TQ nào ở VN
    MTH@
  10. MTH

    MTH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/05/2002
    Bài viết:
    917
    Đã được thích:
    0
    Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Ðông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng:
    1 - Chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Giang Thanh, vợ Mao, đầu não phát động *****************.
    2 - Việc thi hành chậm trể kế hoạch Bốn Hiện Ðại Hóa do Chu Ân Lai đề xướng để canh tân kỷ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học.
    3 - Sự tranh quyền ráo riết giữa Ðặng Tiểu Bình và Tổng bí thư Hoa Quốc Phong, lảnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả :))) Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Ðặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Ðảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao xếnh xáng. Ðặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi bởi một nước vẫn được coi là là nhỏ hơn tại và thời điểm lúc đó tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu. Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Ðặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thâp đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược bành trướng toàn cầu của Bắc Kinh, chiến lược bán đảo Ðông dương của VN, sự can thiệp của Liên xô, vấn đề Campuchia, tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa kỳ, dư luận thế giới... ) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia v...v... Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Trung Ương. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng. Trong khi đó việc VN ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và dồn Khơme đỏ vào rừng sống bị coi là những hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa.
    Ngày 15-12-1978, Hoa kỳ công nhận Trung Hoạ Ðặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Ðốn hội kiến với Tổng thống Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1-1-1979, hai nước bang giao chính thức. Ðặng cũng viếng Nhật và một số quốc gia Ðông Á để dò xét phản ứng. Trở về Bắc Kinh, Ðặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Campuchia, chia vui với Khơ Me Ðỏ và để tránh mang tiếng với thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Ðặng muốn dạy cho VN "một bài học quân sự đich đáng".
    Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Ðặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa-Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp TQ tham chiến ở Triều tiên hay vụ Lien Xo can thiệp ở Tiệp khắc và Hung.
    Bài học quân sự 1979
    Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết:"Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz:"Chiến tranh không phãi là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để tấn công VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây.
    Sau này, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm". Một kết luận thực tế là năm 1979, tại Việt Nam, các lãnh tụ Trung Hoa thay vì dạy đối phương lại thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.
    Trong khi đó Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất !".
    MTH@
    Được mth sửa chữa / chuyển vào 05:04 ngày 16/11/2002

Chia sẻ trang này