1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Việt nam thuộc vùng văn hóa nào? Đông Á hay Đông nam Á?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 15/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    1. Thái, Miến, Lào, Khmer, Phù Nam, Chiêm Thành
    2. Tàu, Nhật, Hàn, Việt.
    Mặc dù về mặc chủng tộc, người Thái gần với người Hán hơn Việt, Tàu, Nhật. Nhưng các tộc người trong các nhóm trên có chung với các tộc khác trong nhóm cái gọi là "Xa đồng quỹ, thư đồng văn". À!!! Mà người Nhật ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo hơn và họ có một chế độ "phong kiến" đúng theo nghĩa của nó chứ không phải là một chế độ "quân chủ tập quyền" như ở Việt Nam hay Tàu và cũng không có hệ thống quan liêu như vậy.
    Nhóm Thái, Miến, Khmer, Phù Nam, Chiêm Thành thuộc nhiều nhóm chủng tộc khác nhau, nhưng lại chịu ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ theo hai lớp khác nhau.
    1. Lớp 1: Bà-la-môn và Phật Giáo Đại Thừa Ấn độ. Mà biểu tượng rực rỡ nhất là Angkor. Ngày nay, có lẽ chỉ còn dân tộc Chăm ở Việt Nam là còn giữ lại được lớp văn hóa này trong cuộc sống thường nhật. Có lẽ Việt Nam nên tự hào về điều này và nên có chính sách bảo lưu lớp văn hóa này.
    2. Lớp 2: Lớp văn hóa chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Nam Truyền (Hệ Pali truyền từ Sri Lanka). Là lớp văn hóa hiện tại của các nước này (trừ người Chăm). Giữa lớp văn hóa này và thế hệ văn hóa của lớp 1 có một lỗ hổng. Thế hệ trong lớp 2 này ít biết về lớp 1. Thậm chí người Khmer trước đây không hề biết rằng có sự tồn tại của Angkor trước khi người Pháp phát hiện ra nó.
    Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và Nho Giáo rất mờ nhạt. Trung Quốc xưa coi họ là phiên thần, không coi là "nội thuộc" như Việt Nam, Hàn Quốc.
    Được madeinviet sửa chữa / chuyển vào 21:42 ngày 30/08/2007
  2. keke123654

    keke123654 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/05/2009
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Đọc thấy bài viết của 1 bạn (có trích dẫn bên dưới) tôi cảm thấy không ổn. Có lẽ tư tưởng chống TQ trong thời gian gần đây làm cho bạn ấy bị sai lệch trong suy nghĩ, thích cổ vũ cho cái gọi là văn hóa ĐNÁ và gán ghép miễn cưỡng các chứng cứ để cho rằng văn hóa VN thuộc ĐNÁ (để có cảm giác tự hào & độc lập hơn trước TQ ??? Bạn không biết là mình đang là quốc gia hoàn toàn độc lập & tự chủ ?!!).
    Nói thật, tôi cũng không ưa gì cái cách đối xử kiểu cường quốc của TQ với các nước nhỏ hơn xung quanh, nhưng hãy nhìn vào sự thực, VN thuộc văn hóa Đông Á !!! Hãy đọc bài viết của tôi kỹ để hiểu rõ hơn !
    Thực tế, ở Châu Á này, nếu bạn không giống TQ, thì bạn sẽ giống Ấn Độ và ngược lại (trừ 1 số quốc gia gần như cách ly bởi vùng biển với 2 "ông lớn" trên như Philipine hay Indonesia có văn hóa các bộ tộc Thái Bình Dương). Cái gọi là văn hóa ĐNÁ thực tế là sự lai tạo giữa văn hóa người bản địa và văn hóa của 1 trong 2 ông lớn trên.
    Trong vùng địa lý ĐNÁ, duy nhất VN hoàn toàn khác biệt số còn lại, trong khi Thái Lan, Miến Điện (tuy tên gọi của người Miến Điện lại khá giống hệ thống tên gọi của người Đông Á), Campuchia, Lào, Malaysia,...đều mang nặng văn hóa Ấn Độ thì VN lại ảnh hưởng phần lớn bởi TQ. Từ sắc tộc (màu da, nét mặt,...), từ con người đến cách sống, các ngày lễ tết, hệ thống chữ, đạo lễ, văn học, nhạc cụ, v.v...VN đều trông giống người Đông Á hơn, tuy nhiên, vì ở vùng khí hậu ĐNÁ vốn nóng nực, nắng gắt khiến cho làn da người Việt không sáng như Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản hay Trung Quốc, và thế là có người cho rằng chúng ta có màu da tối giống người ĐNÁ, nhưng hãy so sánh qua các hình ảnh trên tạp chí, sách báo, Internet, v.v... bạn sẽ thấy người Việt có làn da sáng hơn hẳn các quốc gia ĐNÁ khác (không tính người gốc Hoa ở các nước này)
    Người Việt cổ trước đây di cư từ vùng địa lý gần trung tâm TQ xuống tận miền Nam TQ, và giờ đây, sau khi thôn tính Champa, người Việt có thêm vùng đất phía Nam. Qua rất rất nhiều năm (có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình), người Việt có sự giao thoa về hệ gene, văn hóa thì hấp thụ mạnh văn hóa Hán. Đó là điều bình thường giữa 1 nước đông dân hơn, 1 nước lớn hơn đối với nước nhỏ hơn xung.
    Ở các nước như Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Nhật Bản có lòng tự tôn dân tộc cao cực độ là thế mà họ có bao giờ phủ nhận văn hóa của họ ảnh hưởng mạnh mẽ bởi TQ ?! Thế thì không vấn đề gì phải xấu hổ hay khó chịu nếu nói người Việt có nền văn hóa Đông Á !! Giống như vậy, ở Thái Lan hay Malaysia cũng không thể phủ nhận văn hóa và con người của họ tương đồng Ấn Độ !
    Các di tích cổ, hay các chứng cứ như khu văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn, hay các loại trống đồng đều là của các bộ tộc người Việt cổ, khi đã nói đến bộ tộc, có nghĩa là những người Việt này sống cách đây từ rất rất lâu, nên nhớ khi đó ngay cả phương Bắc là TQ cũng chỉ gồm những bộ tộc, sinh sống riêng lẻ giống như các bộ tộc trên toàn thế giới. Với những bộ tộc riêng lẻ như vậy, khi mà lối sống còn rất thô sơ, chưa có nhiều thời gian để phát triển các hệ tư tưởng hay ý niệm văn hóa, bạn không thể nói hay kết luận đó là văn hóa của cả dân tộc Việt (người Kinh. Xin mạn phép không bàn về các dân tộc ít người ở VN) hiện đại ngày nay. Nếu nói là trống Đồng đặc trưng của người Việt, bạn sẽ không thể giải thích vì sao ở TQ người ta cũng đào được trống đồng, đơn giản, trống được đúc từ đồng đã có mặt rộng khắp các bộ tộc, và khi mà các bộ tộc còn chưa phân chia ranh giới rành mạch như các quốc gia bây giờ, thì sự di cư lên xuống, giao lưu giữa các bộ tộc là điều hiển nhiên.
    Văn hóa là sự phát triển theo thời gian, còn các bộ tộc, đó là lịch sử. Nếu khám nghiệm gene, rất có thể bạn sẽ biết rằng nguồn gốc bộ tộc cổ hay còn gọi là Tổ tiên của bạn ở tít nơi đâu đó, bít đâu ở mãi tận Bắc Âu Có thể lắm chứ ! Sự di cư trong suốt chiều dài lịch sử lòai người là bất tận.
    Giao thoa & ảnh hưởng mạnh văn hóa TQ là thế, nhưng khi nói đến văn hóa Đông Á, người ta không nói là văn hóa TQ, vì sao ? Đơn giản, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản & Trung Quốc hợp lại mới tạo thành văn hóa Đông Á, còn chỉ riêng TQ bản thân nó không tạo ra văn hóa của cả nền Đông Á. Tất nhiên, TQ là nước ảnh hưởng rộng nhất, nhưng ở mỗi nước trong 3 nước còn lại đều phát triển riêng và phát huy lối văn hóa ấy thành nét văn hóa đặc sắc của quốc gia mình. Vì vậy, hãy tự hào vì VN nằm trong khối Đồng Văn (1 từ để chỉ 4 nước VN, Nhật, Triều Tiên, TQ)
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    vùng ĐNA-TBD có bộ gene thuộc loại cổ nhất TG thì phải ,chỉ sau Châu Phi thôi
  4. rongdenvn

    rongdenvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/08/2007
    Bài viết:
    488
    Đã được thích:
    0
    Quan niệm "trọng nam khinh nữ" được một số bác ở trên nhắc tới tiện thể tôi cũng xin góp một bài viết về vấn đề này:
    Giới và vấn đề phát triển ở các nước Đông-Nam Á - nhìn từ góc độ văn hóa
    1. ... Từ những nhận thức về phát triển
    Ngày nay, xu thế chung của thế giới, dù nước lớn hay nước nhỏ, phát triển hay đang phát triển, đều tập trung mọi nguồn lực quốc gia để nâng cao chất lượng sống, đảm bảo cho sự phát triển an sinh bền vững. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp vì quá chú ý đến vật chất kỹ thuật người ta đã không huy động được những giá trị văn hóa để làm nền tảng tinh thần, làm động lực và hệ điều tiết cho sự phát triển, nên đã dẫn tới tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng và làm xói mòn những giá trị văn hóa lâu đời. Sự xuất hiện chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa thực dụng cao độ trong đời sống xã hội đã dẫn đến sự khô cằn về tình cảm, đạo đức thẩm mĩ, làm băng hoại nhân phẩm con người. Vì vậy, UNESCO đã đưa ra những lời kêu gọi và nhấn mạnh: Văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau... các trọng tâm, các động cơ và mục đích của sự phát triển phải tìm trong văn hóa... phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm, có vai trò điều tiết xã hội...
    Thế giới đã chuyển sang bước ngoặt mới: Từ đối đầu chạy đua vũ trang sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình, từ chiến lược phát triển châu Âu - Đại tây dương sang châu Á - Thái Bình Dương... nhân loại đang cổ vũ cho xu hướng hội nhập Đông - Tây (mặc dù nhân loại còn phải đối đầu với chủ nghĩa khủng bố và đối xử bất bình đẳng...). Một yêu cầu đặt ra là cả phương Đông lẫn phương Tây cần có sự hiểu biết về nhau sâu sắc trên tất cả mọi phương diện với tinh thần khoan dung để tìm ra những giải pháp có lý có tình, có hiệu quả, trong đó có vấn đề giới và phát triển.
    Điểm chung nhất giữa phương Đông và phương Tây trong văn hóa chính là tính nhân bản. Họ đều là con người và văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra theo quy luật của cái đẹp. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa phương Đông và phương Tây được quyết định bởi quan niệm về con người. Phương Tây, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Cơ đốc giáo, coi con người là sản phẩm hoàn chỉnh nhất của Chúa nên được xem là trung tâm của vũ trụ. Phương Đông, gắn liền với thiên nhiên theo triết lý ?onhân sinh tiểu vũ trụ?, coi con người là một thành viên của vũ trụ. Để minh chứng, chúng tôi giới thiệu một lược đồ về sự tương đồng và khác biệt giữa phương Đông và phương Tây.
    [​IMG]
    Qua lược đồ, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
    Là con người, phương Đông hay phương Tây đều có cách ứng xử, và tùy theo sự lựa chọn mà mỗi nền văn hóa nghiêng về phía nào đó nên có những mặt mạnh và mặt yếu khác nhau, nhưng không có nền văn hóa nào có thể tự xem là hoàn hảo, là cao hơn nền văn hóa khác.
    So sánh hai cách ứng xử trước những vấn đề cơ bản, cho ta một sự tương ứng: Cái gì phương Tây mạnh thì phương Đông yếu, cái gì phương Đông mạnh thì phương Tây bất cập. Trong xu thế hội nhập, hai nền văn hóa có thể bổ sung cho nhau (chứ không loại trừ nhau).
    Hội nhập phải đi theo phương châm: Mỗi bên giữ lấy cái bản thể của mình để tiếp nhận cái tinh hoa của người khác và phải có thái độ khoan dung, chấp nhận cái khác mình nơi người khác, để người khác chấp nhận cái khác họ nơi mình. Nhân loại sống trong hòa bình, hữu nghị và tôn trọng sự khác biệt.
    Đối với các nước Đông Nam Á, muốn phát triển đuổi kịp các nước tiên tiến thì không có con đường nào khác là phải sử dụng tối ưu phép lợi thế của người đi sau. Lợi thế của người đi sau chính là chỗ được phép lựa chọn những giải pháp tối ưu, khả thi, kết hợp một cách thông minh, khôn ngoan giữa những nhân tố tiên tiến nhất của thời đại với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc để xây dựng mô hình phát triển phù hợp, cân đối, bền vững.
    Lợi thế của người đi sau là được phép lựa chọn những mặt mạnh vốn được xem là bản thể văn hóa phương Đông (ứng xử cân bằng giữa con người với tự nhiên và xã hội - chưa bị nền văn minh công nghiệp tàn phá) để trên cơ sở đó ứng dụng những thành tựu của văn hóa phương Tây (cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và nền dân chủ hiện đại) sao cho cân bằng hài hòa, tránh được những hạn chế của mỗi nền văn hóa và đi vào dòng thác phát triển của thế giới với một mô hình vừa dân tộc vừa hiện đại.
    2. ... Đến Giới và phát triển ở các nước Đông Nam Á
    Ai cũng biết thế giới này sẽ là hư ảo nếu không có Êva. Nhà văn Mác-xim Goóc-ky từng nói: Không có mặt trời thì hoa không nở, không có bà mẹ thì không có cả những nhà thơ và những người anh hùng.
    Nếu xét con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội thì quan hệ xã hội cơ bản nhất là quan hệ giữa nam và nữ. Ngay từ thời hồng hoang, người vượn nguyên thuỷ chuyển sang người văn minh - con người đã phải tự kiềm chế tính giao từ tạp hôn, quần hôn để đi đến hôn nhân cá thể... Để làm việc đó, hầu như tất cả những thiết chế xã hội nguyên thuỷ đều hướng vào một mục đích là chống loạn luân. Đó là cái cửa ải đầu tiên mà con người phải đối mặt với cái nghịch lý vĩ đại mà tạo hoá đã bày đặt ra để thách đố con người; nghịch lý giữa cái CON và NGƯỜI trong con người. Vì là CON cho nên con người chỉ là hữu hạn, là tham lam trần tục, nhưng là NGƯỜI con người lại muốn trở thành vô hạn và thánh thiện. Cái nghịch lý ấy nằm trong anh, trong tôi và có mặt trong mọi nơi, mọi lúc kể cả nơi mà không ai biết được - trong suy nghĩ thầm kín của anh, và, ranh giới giữa chúng mong manh như một sợi tóc.
    Chính vì thế mà gia đình trở thành đơn vị xã hội đầu tiên của loài người. Nó là kết quả của quá trình thiết chế quan hệ tính giao nam nữ - và được xem là tế bào của xã hội. Rồi từ đó mở ra những cộng đồng tộc người lớn hơn (cộng đồng làng, nước...). Vì thế gia đình là mầm sống của sự phát triển xã hội, và phụ nữ là thành viên không thể thiếu trong sự phát triển đó.
    Đông Nam Á được xác định là một khu vực văn hóa lúa nước với một phức thể gồm 3 yếu tố: Văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Lịch sử ở đây đã diễn ra những quá trình hội tụ - phát tán dẫn đến những phức thể văn hóa chung cho toàn vùng, bước hội tụ sau cao hơn bước hội tụ trước, đồng thời cũng để lại nhiều sắc thái khác nhau có tính dân tộc hoặc mang dấu ấn địa phương. Một đặc trưng nổi bật của văn hóa Đông Nam Á là ?oThống nhất trong đa dạng? và quá trình hội tụ bắt nguồn từ nhiều trung tâm khác nhau cho nên chúng không mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập mà là đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đường đồng quy, những cấu trúc văn hóa - tộc người đa thành phần được vận hành theo những cơ chế linh hoạt mà đồng nhất. Kết quả là tính đa dạng ngày càng được mở rộng trong không gian, tính đồng nhất được tiềm ẩn trong thời gian và sự tác động qua lại giữa chúng tạo thành một cơ chế tổng hợp quy định sự phát triển của mỗi nước và của toàn khu vực.
    Được rongdenvn sửa chữa / chuyển vào 11:20 ngày 12/05/2009
  5. rongdenvn

    rongdenvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/08/2007
    Bài viết:
    488
    Đã được thích:
    0
    Trong bối cảnh đó, chúng ta có thể nhận diện vấn đề giới và vai trò của người phụ nữ Đông Nam Á. Căn cứ vào những dấu vết được bảo lưu trong các xã hội của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, chúng ta có thể nhìn thấy, hình thức gia đình lớn thuộc chế độ mẫu hệ tương ứng với thời kỳ tiền cốc loại làm rẫy ở vùng núi hay cao nguyên trong các công xã thị tộc. Khi chuyển sang làm lúa nước ở các vùng thung lũng và đồng bằng, gia đình lớn bị vỡ vụn ra thành gia đình hạt nhân, xã hội từ công xã thị tộc chuyển sang công xã nông thôn. Gia đình được xem là tế bào xã hội, một đại lượng văn hóa nhỏ nhất. Mặc dù đã chuyển sang chế độ phụ hệ, nhưng vai trò của người phụ nữ Đông Nam Á còn rất lớn và được củng cố bởi chế độ tiểu nông. Tuy vậy, việc phân chia thị tộc theo hai tử hệ cơ bản: Con theo dòng mẹ và con theo dòng cha cũng chỉ là tương đối. Hiện nay, ở In-đô-nê-xi-a có nhiều bộ tộc theo phụ hệ, nhưng còn nhiều bộ tộc vừa mẫu hệ vừa phụ hệ hoặc tàn dư mẫu hệ. Việt Nam có dân tộc Chàm, Êđê..., vẫn sống theo chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ là bà chủ ngự trị trong gia đình: hỏi chồng, cưới chồng, con theo mẹ và thuộc gia đình vợ. Người chồng chỉ là chồng khi sống ở gia đình vợ, khi chết nhà vợ trả anh ta về với tổ tiên bên mẹ. Người Bru, Vân Kiều, Xổ, Khùa (nhóm Môn ở Việt Nam và Lào) còn giữ chế độ hôn nhân liên thị tộc.
    Người phụ nữ Đông Nam Á được đề cao vì ngoài cái thiên chức ?osinh con đẻ cái?, họ lao động không kém gì đàn ông trên ruộng lúa. Họ còn làm những công việc buôn bán, tiểu thương và là ?otay hòm chìa khóa?; trong nhà họ là ?onội tướng? lo toan đủ điều kể cả việc chăm lo thuốc thang và chăm lo đời sống tâm linh, thờ cúng tổ tiên, thờ thần lúa... Vì thế người Việt nói ?ophúc đức tại mẫu?. Từ ?ocái? trong ?ocon dại cái mang? còn được dùng để gọi cái gì là lớn như sông cái, đường cái, trống cái... Mặc dù phận gái, nhưng phụ nữ Đông Nam Á đều tham gia bảo vệ đất nước ?ogiặc đến nhà đàn bà cũng đánh? và mỗi quốc gia dân tộc đều có những nữ anh hùng. Vì vậy, ở Đông Nam Á có tục thờ Mẹ. Người Việt có ?ođạo mẫu?, người Chàm thờ ?othần mẹ xứ sở?,... ở miền Bắc Việt Nam hầu như các chùa đều có cấu trúc ?oTiền Phật, hậu Thánh? mà đa phần là Thánh Mẫu. Ngay đức Phật cũng được ?omẫu hóa? thành Phật Bà Quan Âm; rất nhiều tượng Phật thời Lê đều có khuôn mặt nữ. Có nơi như chùa Tiên Sơn (Bắc Ninh) người ta còn hóa thân hai vị Phật và Thánh thành chùa ?oQuan Âm Thánh Mẫu?...
    Người phụ nữ Đông Nam Á có vai trò và địa vị quan trọng trong gia đình và ngoài xã hội với 3 việc lớn: Sinh con nuôi dạy con cái, lao động sản xuất không kém nam giới, tham gia quản lý cộng đồng. Và nếu như gia đình Việt Nam gắn với cộng đồng xã hội, thì người phụ nữ như là cầu nối của sự gắn bó đó. Người phụ nữ Việt Nam nói:
    ?oCó con phải khổ vì con
    Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng?.

    Khi các nước Đông Nam Á xây dựng các quốc gia cổ đại họ đã tiếp nhận mô hình văn hóa Hán và văn hóa Ấn Độ. Trên cái nền ?otrọng nữ? của văn hóa bản địa người ta đã ?ocấy? lên đó một lớp sơn ?otrọng nam? của Nho giáo và Phật giáo, và quá trình tiếp biến văn hóa cho ta một độ khúc xạ rất lớn.
    Nho giáo ở Trung Quốc là một học thuyết tập trung vào chính trị xã hội tạo nên một thiết chế được xem là những khuôn vàng thước ngọc mà tiêu biểu là hệ thống quan niệm ?otu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ? với những trật tự ?oquân, thần, phụ, tử?, ?otam cương ngũ thường?... Với phụ nữ thì đó là ?otam tòng tứ đức? (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công, dung, ngôn, hạnh). Ở Trung Quốc, quan hệ gia đình có xu hướng tập trung vào quan hệ cha - con (còn Việt Nam - quan hệ vợ - chồng). Người phụ nữ Trung Quốc được xem là một con số không ?onhất nam viết hữu thập nữ viết vô?. Theo Nho giáo, họ chỉ có hai việc đẻ con và giữ nhà. Nhưng Nho giáo khi vào Việt Nam thì quan niệm ?otrọng nam? đã bị khúc xạ bởi truyền thống ?otrọng nữ? tạo cho phụ nữ một vị trí ?ohai mặt?: một là, quyền uy trên lý thuyết của người chồng, mặt khác, địa vị bình đẳng trên thực tế của phụ nữ, và họ phải ứng xử hai mặt. Bên ngoài, ai nấy đều lo tôn trọng cụ Khổng, phụ nữ tỏ ra phục tùng đàn ông, đàn ông ?ora oai? với đàn bà, nhưng bên trong thì các ông đều ?osợ vợ? và suốt trong chiều dài truyền thống ?otrọng nữ? đã tạo điều kiện cho người phụ nữ ?ogiỏi việc nước đảm việc nhà?.
    Ở Cam-pu-chia hay Lào, Thái Lan? Phật giáo được xem là quốc giáo, người ta áp đặt một chế độ ?otrọng nam? trên cái biển ?omẫu hệ?. Ấn Độ và Trung Hoa đều ?otrọng nam? nhưng rất khác nhau. Ấn Độ nghiêng về đời sống tâm linh, đạo Phật chống phân biệt đẳng cấp nên không quá bất bình giữa nam và nữ, tình yêu không bị bó buộc mà mở rộng. Cảnh chùa, hội chùa là những nơi gặp gỡ nam nữ, vui và yêu đương? cho nên độ khúc xạ ở các nước theo đạo Phật đối với phụ nữ mềm mại hơn. Trong gia đình người Lào ít nghe thấy tiếng to giữa vợ chồng và tiếng bố mẹ quát nạt con cái. Họ có một cuộc sống khá hài hòa êm đềm. Tiếp nhận đạo Phật, người Lào không quá say mê với giáo lý, không quá ép mình trong khuôn khổ lễ nghi gò bó, không dùng quyền uy của Đức Phật để biến mình thành vua ?" thần, không quá mất công để xây dựng những chùa tháp nguy nga? họ tiếp nhận đạo Phật một cách bình dị. Đạo Phật mang lại cho họ những điều khuyên răn hạn chế lòng tham và thói xấu, tu nhân tích đức không phải là để được lên cõi niết bàn mà để thõa mãn lòng thương người, đạo Phật đem lại cho họ cuộc sống có văn hóa, có chữ viết, có lễ hội?
    Khi các nước Đông Nam Á tiếp xúc với văn hóa phương Tây, dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, xã hội các nước này dần dần biến đổi thành xã hội kép: xã hội nông dân với nền nông nghiệp cổ truyền, nền văn hóa xóm làng, và xã hội thực dân với nền công nghiệp (dù rất lạc hậu, què quặt) và văn hóa thị dân.
    Vấn đề giải phóng phụ nữ, đòi quyền theo cá nhân luận phương Tây được khúc xạ bởi truyền thống trọng nữ mầu sắc nam quyền theo cộng đồng luận Đông Nam Á, đã diễn ra dai dẳng, cho đến tận hôm nay. Ở Việt Nam được đánh dấu bằng sự ra đời của tờ báo ?oNữ giới chung? vào năm 1918 tại Sài Gòn do bà Sương Nguyệt Anh ?" con gái thứ năm của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu làm chủ bút. Lúc đầu, phong trào giải phóng phụ nữ chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, chống lễ giáo phong kiến, vận động ?onữ học? để nâng cao địa vị của người phụ nữ. Sau, mở rộng trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị ?" xã hội (quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động và tự do kết hôn).
    Cho đến khi các nước Đông Nam Á giải phóng được đất nước, giành quyền độc lập và tự do, vấn đề giải phóng giới và phát triển mới được đặt ra toàn diện, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò và địa vị của người phụ nữ càng được đề cao. Theo báo cáo ?ocuộc cách mạng vì sự bình đẳng giới? của UNDP (Cơ quan phát triển của Liên hợp quốc), trên cơ sở nghiên cứu trên 130 nước đã đi đến kết luận: hiện nay không có một xã hội nào trên thế giới trong đó phụ nữ có được cơ hội hoàn toàn bình đẳng với nam giới. Chắc chắn còn lâu dài chúng ta mới thực hiện được điều khẳng định trong hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946: ?oPhụ nữ bình đẳng với nam giới về mọi phương diện?. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực to lớn như đưa được số lượng phụ nữ chiếm tỷ lệ cân bằng: 52% trong tổng số 40 triệu lao động và chiếm tỷ lệ cao trong ngành giáo dục: 67%, ngành y tế: gần 64%, ngành thương nghiệp dịch vụ: 71%, công nghiệp: 43%, nghiên cứu khoa học: 37% (xưa kia thời phong kiến 1000 năm mới có một tiến sĩ ?" Nguyễn Thị Duệ). Đến nay, nước ta đã có hàng ngàn phụ nữ là giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, nhiều phụ nữ có vị trí cao trong lãnh đạo Đảng, Quốc hội và Nhà nước. Nhưng hơn ai hết, trong cơn lốc phát triển hiện đại, dường như phụ nữ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất, phải chịu sức ép từ nhiều phía, phải lao động nhiều hơn nam giới, tệ nạn xã hội lan tràn như mại dâm, ma túy, HIV, buôn bán phụ nữ và trẻ em?
    Hệ quả nặng nề ràng buộc người phụ nữ bởi ý thức hệ ?otrọng nam?, xem thường thậm chí đàn áp phụ nữ và bản thân phụ nữ với thiên chức và cơ địa của mình cũng hạn chế sự nỗ lực cầu tiến. Trong đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam giới người ta đưa khẩu hiệu: Cái gì đàn ông làm được thì đàn bà cũng làm được; nhưng người ta không đưa ra định đề ngược lại: cái gì phụ nữ làm được thì đàn ông cũng làm được! Đàn ông làm sao đẻ con! Làm gì có sự bình đẳng nào hoàn toàn tuyệt đối! Thật ra câu chuyện ?ođôi co? giữa đàn ông và đàn bà là vấn đề muôn thuở và chỉ có thể giải quyết trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Việc xác lập quyền bình đẳng nam nữ phải được đặt trong chiến lược phát triển nhưng hầu hết các chương trình phát triển kinh tế ?"xã hội đều chưa tính đến lực lượng phụ nữ, chưa coi phụ nữ là mục tiêu phát triển xã hội và là động lực quan trọng có tầm quyết định của phát triển xã hội, xây dựng tổ ấm gia đình và nhân cách cá nhân. Với Đông Nam Á, muốn giải quyết vấn đề này, nhằm rút ngắn khoảng cách đối với các nước phát triển, phải sử dụng lợi thế của người đi sau.
    Lợi thế và vấn đề giải phóng phụ nữ ở đây được tính toán trên các mặt sau:
    Thứ nhất, vai trò của người phụ nữ và truyền thống ?otrọng nữ?. Ở Đông Nam Á là một lợi thế rất lớn vì nó đã ăn sâu, bám rễ trong tình cảm, nhận thức của toàn dân. Xã hội truyền thống còn bảo lưu được môi trường sống khá thuận lợi cho phụ nữ: một gia đình ấm cúng dù còn nghèo, một cộng đồng làng xóm bao dung, một Tổ quốc mà họ rất gắn bó?Tuy đã tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa từ nhiều luồng, nhưng môi trường đó ?" cũng như môi trường tự nhiên chưa bị nền văn minh công nghiệp tàn phá cho phép người phụ nữ vững tin hơn.
    Thứ hai, lợi thế của Đông Nam Á thể hiện ở năng lực và cách ứng xử của phụ nữ trong điều kiện ?otrọng nữ? ở trình độ văn minh nông nghiệp đã được phát huy khá tích cực, làm cho người phụ nữ Đông Nam Á ý thức được vai trò và bổn phận của mình để đáp ứng một cách hài hòa theo kiểu ?othuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn?. Ngày nay, điều kiện xã hội thuận lợi hơn nhiều và người phụ nữ đang hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, với thiên chức và đặc điểm tâm sinh lý của người phụ nữ, xã hội cần có một cách đánh giá cân bằng hài hòa, không nên để phụ nữ phải làm việc quá giới hạn cho phép; người đàn ông cần phải cố gắng để xứng đáng là trụ cột của gia đình. Việc nâng cao dân trí là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Tại Đông Nam Á, truyền thống hiếu học, cầu tiến bộ của toàn dân, trong đó phụ nữ là chỗ dựa vững chắc cho việc giáo dục đào tạo; phụ nữ đang vươn lên bằng chính trí tuệ của mình, vượt qua những rào cản của các tôn giáo, các quan niệm gò bó của truyền thống để đi vào xã hội trí thức.
    Thứ ba, Đông Nam Á là ngã tư đường giao lưu quốc tế và nơi hội nhập Đông ?" Tây từ xa xưa, đã có nhiều kinh nghiệm trong tiếp biến văn hóa. Ngày nay sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cả thế giới đang sống trong cộng sinh văn hóa. Một người có thể tiếp xúc và sống với nhiều nền văn hóa khác nhau với thái độ khoan dung. Điều đó thực sự đã tạo ra một chân trời mới rộng mở giúp cho người phụ nữ Đông Nam Á thoát khỏi cảnh ?ocá chậu chim ***g? quẩn quanh trong xó bếp. Họ sẽ thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và tự tạo cho mình một thế thích hợp (với những ?ohội chống đàn ông?, tôn thờ chủ nghĩa độc thân), cũng không quá mềm yếu kiểu ?oliễu yếu đào tơ? để trở thành một người phụ nữ hiện đại- đúng theo nghĩa chân chính của nó. Chính họ sẽ tạo nên sự cân bằng Đông ?" Tây trong sự hội nhập quốc tế.
    Thứ tư, tư duy truyền thống là tư duy tổng hợp nguyên sơ, vì vậy cần đổi mới tư duy phức hợp hiện đại và đặt vấn đề giải phóng phụ nữ như là một chỉnh thể, không thể tách rời nhau, quan hệ mật thiết đến sự phát triển của xã hội. Do đó, lợi thế của người đi sau trong việc lựa chọn mô hình phát triển là điểm cốt tử liên quan đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Đông Nam Á đang trong quá trình lựa chọn và điều chỉnh mô hình phát triển của chính mình. Mô hình đó cần hội đủ bốn nhân tố: Nền kinh tế sinh thái hiện đại và đô thị hóa nông thôn; Nền công nghiệp hiện đại quy mô vừa và nhỏ; Nền văn hóa giáo dục hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc; Nền dân chủ công bằng xã hội dựa trên tái phân phối và tạo cơ hội như nhau cho các thành viên.
    Hy vọng mô hình này sẽ gắn phụ nữ với vấn đề phát triển. Bảo đảm cho người phụ nữ ngày càng có vai trò to lớn hơn trong xây dựng hạnh phúc gia đình và phát triển đất nước giàu đẹp, văn minh.

    * GS, TS, Chủ tịch Hội Nghiên cứu khoa học Đông Nam Á - Việt Nam
    Phạm Đức Dương

  6. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Vì cổ nên nó cũ và lạc hậu quá rồi! Gen của mấy anh châu phi còn được cái khỏe.
  7. Feragamo

    Feragamo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2006
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Mình thấy là miền Bắc mình có nhiều nét văn hoá tương đồng với Đông Á
    Miền Nam thì gần với Đông Nam Á hơn
    Tuy nhiên, về mặt bệnh thành tích thì cả 2 miền đều như nhau và thuộc Đông Nam Á hết. Cho nên VN tham gia SEA Games là hợp lý
  8. star4v

    star4v Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    143
    Đã được thích:
    0
    Trong giới nghiên cứu văn hoá, vấn đề này đã được đặt ra từ lâu và việc xếp văn hoá VN thuộc hẳn vào một vùng nào, Đông Á hay Nam Á, cũng đã ngã ngũ.
    văn hoá VN có cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, trong quá trình phát triển chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ, và Phương Tây (Pháp, Mỹ).
    Tại sao người ta nói như vậy
    cần biết rằng: quan điểm này đưa ra trên cơ sở: Việt Nam có hình dạng chữ S hiện nay (trong đó có văn hoá của các dân tộc thiểu số khác)
    Lãnh thổ VN to dần theo các cuộc nam chinh trong lịch sử.
    Nếu chỉ nói văn hoá của người Việt/Kinh, Tày, Nùng, Thái,... thì xếp văn hoá VN vào vùng Đông Á.
    Nếu chỉ nói văn hoá của người Chăm/Khmer/.. thì xếp văn hoá VN vào vùng Nam Á (văn hoá Ấn Độ)
    Nếu chỉ nói văn hoá của các tộc người Tây Nguyên, Edê, Bana, Chu-ru,.. thì xếp nó vào văn hoá Đông Nam Á lục địa.
    Nếu chỉ tính văn hoá Pháp thuộc, thời Mỹ-nguỵ, thì văn hoá VN có chịu ảnh hưởng của văn hoá Phương Tây.
    như vậy, theo tôi, phải xét trên các mốc thời gian, tộc người nào thì mới có thể xếp văn hoá VN vào vùng văn hoá nào.
    nếu nhìn nhận văn hoá VN chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hoá thì rõ ràng ta đã xem VN là một lãnh thổ chữ S hiện nay, nơi sinh sống của 54 dân tộc.
    Tổ quốc tôi là một con tàu,
    Mũi thuyền ta đó - Mũi Cà Mau.
  9. kedadi

    kedadi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/09/2007
    Bài viết:
    16
    Đã được thích:
    0
    em ko đồng ý với ý kiến của bác feragamo, VN là nước chịu ảnh hưởng của văn hoá ÁĐ, với dân tộc thiểu số của VN ở phía nam như chăm, khmer ... là chịu ảnh hưởng của văn hoá nam á, nhưng đại đa số là người Kinh thì làm sao có thể nói phía nam lại thuộc văn hoá NÁ được?
  10. hsukaka

    hsukaka Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/06/2004
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    0
    Vn là bắc của đông nam,nam của đông bắc. xin hết.

Chia sẻ trang này