1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vụ án Lệ Chi viên

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi anhdenthamemdem30, 29/05/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anhdenthamemdem30

    anhdenthamemdem30 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    358
    Đã được thích:
    0
    Vụ án Lệ Chi viên

    Bác nào có tài liệu nghiên cứu về vụ này thì pót cho nhà cháu xin được không ạ?
  2. anhdenthamemdem30

    anhdenthamemdem30 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    358
    Đã được thích:
    0
    Trong một cuộc Hội thảo để "chiêu tuyết cho Nữ học sỹ Nguyễn Thị Lộ", cụ Phan Huy Lê có viết thế này, các bcs xem rồi cho ý kiến nhé.
    "Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với NGUYỄN TRÃI và NGUYỄN THỊ LỘ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời một anh hùng vĩ đại, mọt nữ sỹ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trnạg tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cớ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghien cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà văn hoá,? lịch sử càng ngày càng làm rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, vè những công lao, cống hiến, nhữung giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc".
    Tôi muốn nêu lên và lưu ý hai vấn đề: minh oan, chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ và phá vụ án LỆ CHI VIÊN. Hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau những không phải là một và cần có sự phân biệt.
    Chính sử triều LÊ tất nhiên chép theo quan điểm chính thống, kết tội Nguyễn Thị Lộ đã "giết vua" và Nguyễn Trãi phải liên luỵ, kèm theo Lời bàn hết sức nặng nề: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi. Thái Tông vì nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi vì nó mà ba họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?" (ĐVSKTT).
    Vua Lê Nhân Tông (1443-1459) sau khi đã trưởng thành, trực tiếp nắm triều chính từ năm 1443, có lần ngự đến Bí thư các, được xem di bản DƯ ĐỊA CHÍ của Nguyễn Trãi, nhà vua khẳng định lại công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi: "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức THÁI TỔ dẹp yên giặc loạn, giúp đức THÁI TÔNG sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng". Nhà vua đã coi tác phẩm của Nguyễn Trãi là "chính thư" để ở "ngự tẩm". Nhưng vua chưa dám minh oan cho Nguyễn Trãivà vẫn giữ quan điểm kết tội của triều đình đối với Nguyễn Thị Lộ: "Không may người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội, rất là đáng thương". (Nguyễn Trãi toàn tập)
    Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông(1460-1497) mới chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi, ca ngợi "ỨC TRAI tâm thương quang KHUÊ tảo", truy tặng tước TRÁN TRÙ bá, ban cho con là ANH VŨ chức Huyện quan. Năm 1467 nhàvua ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Chưa rõ vì những uẩn khuc gì mà một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tôngđã minh oan cho Nguyễn Trãilà vị khai quốc công thần sáng lập triều LÊ, một người đã cùng Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan thủa hàn vi, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn tước Quan Phuc hầu vốn được Lê Thái Tổ (Lê Lợi) ban phong. Còn nhiều điều bí ẩn bị che đật đằng sau vụ án oan khốc và bi thảm này mà chính Lê Thánh Tông cũng chưa dám khám pha.
    Mãi đến năm 1512, vua LÊ TƯƠNG DỰC mới phong tặng Nguyễn Trãi tước TẾ VĂN hầu, nghĩa là phục hồi đúng tước hiệu của ông. Tác phẩm của Nguyễn Trãi đã dần được minh oan, chiêu tuyết. Công lao Bình Ngộ, những cống hiến về tư tưởng, văn học và tài năng, nhân cách của ông càng ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, về Nguyễn Thị Lộthì gần như chưa được minh oan, thậm chí bộ quốc sử đời NGUYỄN là KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (KĐVSTGCM) vẫn chép theo quan điểm xử tội của triều LÊ năm 1442: "Giết Thừa chỉ nhập nội hành khiển trí sĩ LÊ TRÃI, tru di cả ba họ. TRÃI phải tội liên luỵ vì người vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ. Người ta đều cho là oan", kèm theo Lời phê của TỰ ĐỨC "Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. TRÃI nếu là người hiền thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón rước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự TRÃI chuốc lấy." (KĐVSTGCM).
    Đặt trong bối cảnh cụ thể của triều LÊ lúc bấy giờ, chúng ta có thể chứng minh rằng không có một lý do, lợi ích và dộng cơ nào dẫn Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ đến âm mưu sát hại vua Lê Thái Tông.
    Về Nguyễn Trãi thì không những đức độ, phẩm cách con người mà cả quyền lợi, địa vị cá nhân cũng không thể tìm thấy một nguyên do nào dẫn ông đến chỗ xúi giục, bố trí cho Nguyễn Thị Lộ giết vua. Hơn nữa, vua Lê Thái Tônglà một ông vua trẻ từ năm 1435, Nguyễn Trãicùng một số văn thần tài cao đức trọng được cử vào cung để dạy vua. Chính trong nghĩa vụ cao cả đó, Nguyễn Trãi đã soạn DƯ ĐỊA CHÍ để trang bị cho nhà vua những hiểu biết cơ bản về giang sơn đất nươc cũng những đặc điểm dân cư, văn hoá, phong tục tập quán và sản vật, tài nguyên từng vùng của tổ quốc. Với tất cả tâm huyết và tri thức tích luỹ được của mình, ông đã hoàn thành DƯ ĐỊA CHỈ trong 10 ngày. Nhà vua trẻ xem xong đã phán: " Than ôi, đức THÁNH TỔ ta kinh dinh bốn phương, dấu chân đi khắp trong thiên hạ, quạt gió, uống mưa, nằm trống gối giáo, thật cùng gian nan thay! Tiên sinh giúp ĐỨC THẦN KHẢO ta thay trời làm việc, sánh được với Thượng Đế. Đến sách này, lại muốn bắt chước như đời NGU, đời HẠ. Khuyên chớ bỏ ta, dẫn ta tiến đến như NGHIÊU, THUẤN, thật cũng lơớnlao kỳ vĩ thay." (Nguyễn Trãi toàn tập). Nguyễn Trãi vô cùng cảm động và đặt nhiều kỳ vọng vào nhà vua: "Nhà vua nói như thế, thật là sự may mắn cho nước nhà vậy" (Nguyễn Trãi toàn tập). Nguyễn Trãi tận dụng mọi cơ hội để khuyên bào và hươớn dẫn nhà vua vận dụng tư tưởng nhân nghĩa trong phát triển xã hội và xây dựng đời sống: "Nguyện xin bệ hạ yêu thương muôn dân, để chốn cùng thôn vắng không còn tiếng oán hận sầu than" (ĐVSKTT).
    Nhưng lợi dụng nhàvua còn ít tuổi, bọn quyền thần và hoạn quan đã thâu tóm quyền lực và hoành hành dữ dội. Nguyễn Trãi đã đấu tranh quyết liệt với bọn chúng và điều đau buồn, thất vọng là trong cuộc đấu tranh đó, ông đơn độc và bất lực. Khaỏng cuối năm 1437 hay đầu 1438, Nguyễn Trãi lui về sống ẩn dật ở CÔN SƠN. Trong năm 1437-1438, vua Lê Thái Tông đã 15-16 tuổi (sinh 1423), bắt đầu trực tiếp điều hành triều chính. Nhà vua khôn khéo bố trí lại các quan chức cao cấp, cô lập dần các quyền thần, năm 1437 bãi chức và bắt Đại tư đồ LÊ SÁT tự vẫn, cuối năm bãi chức Đại đô đốc LÊ NGÂN, trừ khử bè đảng của bọn quyền thần. Năm 1439, nhà vua vời Nguyễn Trãivề tham dự triều chính, giữ lại chứuc cũ là Nhập nội hành khiển coi việc Môn hạ sảnh và Tam quán sự, kiên Hàn lâm viện Thừa chỉ, giao thêm coi việc sổ sách, từ tụng quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước lúc đó có 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc). Nguyễn Trãi đã 60 tuổi những vẫn hăm hở đem tài năng ra phò vua giúp dân dựng nước. Trong biể tạ ơn, ông xúc động nói lên tâm sự và ước vọng của mình:
    Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi,
    Cho thần như thông qua năm rét, càng dạn tuyết sương.
    Quân môn mặc kệ dèm pha,
    Thánh ý cứ bề tín nhiệm
    Thánh 3 năm NHÂM TUẤT (1442), Nguyễn Trãivới cương vị Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Quốc tử giám, được cử làm quan Độc quyển kỳ thi hội đầu tiên của thời Hậu Lê, lấy đỗ Trạng nguyên NGUYỄN TRỰC, Bảng nhãn NGUYỄN NHƯ ĐỔ, Thám hoa LƯƠNG NHƯ HỘC và 7 tiến sỹ, 23 Đồng tiến sỹ. Trong lúc Nguyễn Trãiđược vua Lê Thái Tôngtín nhiệm và chính ông cũng đang hăng hái ra phò vua với bao niềm hi vọng thì việc triều đình kết tội Nguyễn Trãi âm mưu ám hại nhà vua chỉ là một sự bịa đặt, vu không cực kỳ phi lý.
    Còn Nguyễn Thị Lộ đang giữ chức LỄ NGHI HỌC SĨ được vua Lê Thái Tông rất quý mến, luôn luôn hầu hạ ben cạnh thì có thể làm sao tin được lời kết tội "Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua" (ĐVSKTT).
    Tuy nhiên việc phá vụ án LỆ CHI VIÊN lại là việc khác. Tôi quan niệm phá án ở đây không phải chỉ là khẳng định bọn quyền thần đã lợi dung cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông để dựng lên bản án tru di Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ, mà còn phải đưa ra những chứng cớ cụ thể đủ sức thuyết phục để khám phá những điều bí ẩn bị che đậy, đưua ra ánh sáng những kẻ chủ mưu cùng hành động khống chế cả triều đình và cách thức hành động của bọ chúng. Không phải đến ngày nay mà từ khá lâu, một số nhà nghiên cứu đã thu thập, phân tích những tư liệu liên quan để cố gắng phá vụ án đầy bí ẩn này. Bài viết đầu tiên được nhiều người quan tâm là bài THỬ XÉT LẠI CÁI ÁN NGUYỄN TRÃI của LÊ THƯỚC - TRƯƠNG CHÍNH năm 1957 (sẽ post).
    Xu hướng chung của nhiều tác giả là tỏ ý hoài nghi về cái chết của cua Lê Thái Tông là do truy hoan với Nguyễn Thị Lộ vì khoảng cách về tuổi tác và cho rằng kẻ chủ mưu trong vụ án này là Thần phi Nguyễn Thị Anh, mẹ của BANG CƠ là người được lạp lên kế vị Lê Thái Tông. Căn cứ vào mối quan hệ trong cung đình và xét về mặt logic thì đây là một giả thuyết dễ được nhiều người đồng tình nhất.
    Vua Lê Thái Tông tên là NGUYỄN LONG, sinh năm 1423, len ngôi năm 1433, tức là 11 tuổi tính theo tuổi ta. Cho đến lúc từ trần đột ngột năm 1442, lúc ấy nhà vua mới 20 tuổi mà có đến 6 bà phi:
    - Thần phi DƯƠNG THỊ BÍ, sinh ra NGHI DÂN.
    - Một bà phi khác không rõ tên sinh ra KHẮC XƯƠNG.
    - Nguyên phi LÊ THỊ NGỌC DAO con gái Đại tư đồ LÊ SÁT.
    - Chiêu nghi LÊ NHẬT LỆ con gái cú Đại đô đốc LÊ NGÂN, năm 1437 được phong làm Huệ phi.
    - Tiệp dư NGUYỄN THỊ ANH sinh ra BANG CƠ (Lê Nhân Tông), sau được phong làm Thần phi.
    - Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO sinh ra LÊ TƯ THÀNH, sau trở thành Lê Thánh Tông.
    Trong 6 bà phi trên thì cho đến trước vụ án LỆ CHI VIÊN, chỉ còn lại hai bà là Thần phi NGUYỄN THỊ ANH và Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO. Năm 1437, sau khi LE SÁT bị bãi chức và bắt phải tự tự, Nguyên phi LÊ THỊ NGỌC DAO bị phế. Đầu năm 1438, LÊ NGÂN bị tội và Huệ phi LÊ NHẬT LỆ cũng bị giáng làm Tư dung. Năm 1441, Thần phi DƯƠNG THỊ BÍ trước đã bị giáng làm Chiêu nghi, nay bị giáng làm thứ dân.
    Vua Lê Thái Tông có 4 hoàng tử: NGHI DÂN sinh tháng 10 năm KY MÙI (1439), ngày 21 tháng 1 năm CANH THÂN (1440) được lập làm Hoàng Thái tử. Nhưng đến tháng 3 năm TÂN DẬU (1441) khi mẹ là DƯƠNG THỊ BÍ bị giáng làm thứ nhân thì ngôi "Thái tử chứ định (ĐVSKTT)" tức là ngôi Thái tử tạm trống chờ lập sau và năm 1441 LÊ NGHI DÂN được phong làm LẠNG SƠN VƯƠNG cùng lúc với KHẮC XƯƠNG được phong TÂN BÌNH VƯƠNG. Ngày 5 tháng 9 năm TÂN DẬU (1441), Thần phi NGUYỄN THỊ ANH sinh hoàng tử BANG CƠ và ngày 16 tháng 11 năm đó được lập làm Hoàng Thái tử. Năm sau, ngày 20 tháng 7 năm NHÂM TUẤT (1442) Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO sinh hoàng tử TƯ THÀNH. NGÔ THỊ NGỌC DAO là con của vị Khai quốc công thần NGÔ TỪ có công lớn trong việc tổ chức cung cấp quân lương thời khởi nghĩa, đã được Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phong Thái bảo. Bà mới được lập làm Tiệp dư năm 1440 và trước khi sinh hoàng tử TƯ THÀNH, đã từng bị dèm pha và đã được Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, sinh con tại chùa HUY VĂN (Hà Nội) rồi ẩn tránh ra QUẢNG YÊN (QUẢNG NINH) (Ức trai tập). Theo LÊ QUÝ ĐÔN thì bà vì trái ý vua nên bị bỏ tù ở Vườn hoa và được TRỊNH KHẢ cứu giúp (Đại Việt thông sử). Tuy BANG CƠ đã được lập làm Thái tử, nhưng sự ra đời của TƯ THÀNH được Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Tịnh Khả che chở có thể gây nên sự lo lắng của NGUYỄN THỊ ANH. Đó là những quan hệ phức tạp, những mưu đồ tranh giành quyền lực ngấm ngầm trong cung đình mà có người khai thác để cho rằng NGUYỄN THỊ ANH là kẻ chủ mưu trong việc lợi dụng cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tôngkhi có Nguyễn Thị Lộ bên cạnh để cùng một số triều thần và bè cánh dựng lên vụ án kết tội Nguyễn Thị Lộ giết vua rồi từ đó kết tội cả Nguyễn Trãi. Theo tôi, có thể coi đây là một giả thuyết có tính logic và có một số căn cứ nhất định mà đứng về khía cạnh văn học nghệ thuật, các tác giả có thể tận dụng khi sáng tác các tiểu thuyết lịch sử hay kịch bản sân khâu. Nhưng về mặt sử học thì chưa đủ bằng chứng để coi là một kết luận khoa học.
  3. anhdenthamemdem30

    anhdenthamemdem30 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    358
    Đã được thích:
    0
    Trong một cuộc Hội thảo để "chiêu tuyết cho Nữ học sỹ Nguyễn Thị Lộ", cụ Phan Huy Lê có viết thế này, các bcs xem rồi cho ý kiến nhé.
    "Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với NGUYỄN TRÃI và NGUYỄN THỊ LỘ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời một anh hùng vĩ đại, mọt nữ sỹ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trnạg tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cớ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghien cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà văn hoá,? lịch sử càng ngày càng làm rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, vè những công lao, cống hiến, nhữung giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc".
    Tôi muốn nêu lên và lưu ý hai vấn đề: minh oan, chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ và phá vụ án LỆ CHI VIÊN. Hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau những không phải là một và cần có sự phân biệt.
    Chính sử triều LÊ tất nhiên chép theo quan điểm chính thống, kết tội Nguyễn Thị Lộ đã "giết vua" và Nguyễn Trãi phải liên luỵ, kèm theo Lời bàn hết sức nặng nề: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi. Thái Tông vì nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi vì nó mà ba họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?" (ĐVSKTT).
    Vua Lê Nhân Tông (1443-1459) sau khi đã trưởng thành, trực tiếp nắm triều chính từ năm 1443, có lần ngự đến Bí thư các, được xem di bản DƯ ĐỊA CHÍ của Nguyễn Trãi, nhà vua khẳng định lại công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi: "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức THÁI TỔ dẹp yên giặc loạn, giúp đức THÁI TÔNG sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng". Nhà vua đã coi tác phẩm của Nguyễn Trãi là "chính thư" để ở "ngự tẩm". Nhưng vua chưa dám minh oan cho Nguyễn Trãivà vẫn giữ quan điểm kết tội của triều đình đối với Nguyễn Thị Lộ: "Không may người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội, rất là đáng thương". (Nguyễn Trãi toàn tập)
    Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông(1460-1497) mới chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi, ca ngợi "ỨC TRAI tâm thương quang KHUÊ tảo", truy tặng tước TRÁN TRÙ bá, ban cho con là ANH VŨ chức Huyện quan. Năm 1467 nhàvua ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Chưa rõ vì những uẩn khuc gì mà một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tôngđã minh oan cho Nguyễn Trãilà vị khai quốc công thần sáng lập triều LÊ, một người đã cùng Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan thủa hàn vi, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn tước Quan Phuc hầu vốn được Lê Thái Tổ (Lê Lợi) ban phong. Còn nhiều điều bí ẩn bị che đật đằng sau vụ án oan khốc và bi thảm này mà chính Lê Thánh Tông cũng chưa dám khám pha.
    Mãi đến năm 1512, vua LÊ TƯƠNG DỰC mới phong tặng Nguyễn Trãi tước TẾ VĂN hầu, nghĩa là phục hồi đúng tước hiệu của ông. Tác phẩm của Nguyễn Trãi đã dần được minh oan, chiêu tuyết. Công lao Bình Ngộ, những cống hiến về tư tưởng, văn học và tài năng, nhân cách của ông càng ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, về Nguyễn Thị Lộthì gần như chưa được minh oan, thậm chí bộ quốc sử đời NGUYỄN là KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (KĐVSTGCM) vẫn chép theo quan điểm xử tội của triều LÊ năm 1442: "Giết Thừa chỉ nhập nội hành khiển trí sĩ LÊ TRÃI, tru di cả ba họ. TRÃI phải tội liên luỵ vì người vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ. Người ta đều cho là oan", kèm theo Lời phê của TỰ ĐỨC "Đời Lê Thái Tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. TRÃI nếu là người hiền thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón rước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì cái vạ tru di cũng là tự TRÃI chuốc lấy." (KĐVSTGCM).
    Đặt trong bối cảnh cụ thể của triều LÊ lúc bấy giờ, chúng ta có thể chứng minh rằng không có một lý do, lợi ích và dộng cơ nào dẫn Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ đến âm mưu sát hại vua Lê Thái Tông.
    Về Nguyễn Trãi thì không những đức độ, phẩm cách con người mà cả quyền lợi, địa vị cá nhân cũng không thể tìm thấy một nguyên do nào dẫn ông đến chỗ xúi giục, bố trí cho Nguyễn Thị Lộ giết vua. Hơn nữa, vua Lê Thái Tônglà một ông vua trẻ từ năm 1435, Nguyễn Trãicùng một số văn thần tài cao đức trọng được cử vào cung để dạy vua. Chính trong nghĩa vụ cao cả đó, Nguyễn Trãi đã soạn DƯ ĐỊA CHÍ để trang bị cho nhà vua những hiểu biết cơ bản về giang sơn đất nươc cũng những đặc điểm dân cư, văn hoá, phong tục tập quán và sản vật, tài nguyên từng vùng của tổ quốc. Với tất cả tâm huyết và tri thức tích luỹ được của mình, ông đã hoàn thành DƯ ĐỊA CHỈ trong 10 ngày. Nhà vua trẻ xem xong đã phán: " Than ôi, đức THÁNH TỔ ta kinh dinh bốn phương, dấu chân đi khắp trong thiên hạ, quạt gió, uống mưa, nằm trống gối giáo, thật cùng gian nan thay! Tiên sinh giúp ĐỨC THẦN KHẢO ta thay trời làm việc, sánh được với Thượng Đế. Đến sách này, lại muốn bắt chước như đời NGU, đời HẠ. Khuyên chớ bỏ ta, dẫn ta tiến đến như NGHIÊU, THUẤN, thật cũng lơớnlao kỳ vĩ thay." (Nguyễn Trãi toàn tập). Nguyễn Trãi vô cùng cảm động và đặt nhiều kỳ vọng vào nhà vua: "Nhà vua nói như thế, thật là sự may mắn cho nước nhà vậy" (Nguyễn Trãi toàn tập). Nguyễn Trãi tận dụng mọi cơ hội để khuyên bào và hươớn dẫn nhà vua vận dụng tư tưởng nhân nghĩa trong phát triển xã hội và xây dựng đời sống: "Nguyện xin bệ hạ yêu thương muôn dân, để chốn cùng thôn vắng không còn tiếng oán hận sầu than" (ĐVSKTT).
    Nhưng lợi dụng nhàvua còn ít tuổi, bọn quyền thần và hoạn quan đã thâu tóm quyền lực và hoành hành dữ dội. Nguyễn Trãi đã đấu tranh quyết liệt với bọn chúng và điều đau buồn, thất vọng là trong cuộc đấu tranh đó, ông đơn độc và bất lực. Khaỏng cuối năm 1437 hay đầu 1438, Nguyễn Trãi lui về sống ẩn dật ở CÔN SƠN. Trong năm 1437-1438, vua Lê Thái Tông đã 15-16 tuổi (sinh 1423), bắt đầu trực tiếp điều hành triều chính. Nhà vua khôn khéo bố trí lại các quan chức cao cấp, cô lập dần các quyền thần, năm 1437 bãi chức và bắt Đại tư đồ LÊ SÁT tự vẫn, cuối năm bãi chức Đại đô đốc LÊ NGÂN, trừ khử bè đảng của bọn quyền thần. Năm 1439, nhà vua vời Nguyễn Trãivề tham dự triều chính, giữ lại chứuc cũ là Nhập nội hành khiển coi việc Môn hạ sảnh và Tam quán sự, kiên Hàn lâm viện Thừa chỉ, giao thêm coi việc sổ sách, từ tụng quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước lúc đó có 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc). Nguyễn Trãi đã 60 tuổi những vẫn hăm hở đem tài năng ra phò vua giúp dân dựng nước. Trong biể tạ ơn, ông xúc động nói lên tâm sự và ước vọng của mình:
    Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi,
    Cho thần như thông qua năm rét, càng dạn tuyết sương.
    Quân môn mặc kệ dèm pha,
    Thánh ý cứ bề tín nhiệm
    Thánh 3 năm NHÂM TUẤT (1442), Nguyễn Trãivới cương vị Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Quốc tử giám, được cử làm quan Độc quyển kỳ thi hội đầu tiên của thời Hậu Lê, lấy đỗ Trạng nguyên NGUYỄN TRỰC, Bảng nhãn NGUYỄN NHƯ ĐỔ, Thám hoa LƯƠNG NHƯ HỘC và 7 tiến sỹ, 23 Đồng tiến sỹ. Trong lúc Nguyễn Trãiđược vua Lê Thái Tôngtín nhiệm và chính ông cũng đang hăng hái ra phò vua với bao niềm hi vọng thì việc triều đình kết tội Nguyễn Trãi âm mưu ám hại nhà vua chỉ là một sự bịa đặt, vu không cực kỳ phi lý.
    Còn Nguyễn Thị Lộ đang giữ chức LỄ NGHI HỌC SĨ được vua Lê Thái Tông rất quý mến, luôn luôn hầu hạ ben cạnh thì có thể làm sao tin được lời kết tội "Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua" (ĐVSKTT).
    Tuy nhiên việc phá vụ án LỆ CHI VIÊN lại là việc khác. Tôi quan niệm phá án ở đây không phải chỉ là khẳng định bọn quyền thần đã lợi dung cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông để dựng lên bản án tru di Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ, mà còn phải đưa ra những chứng cớ cụ thể đủ sức thuyết phục để khám phá những điều bí ẩn bị che đậy, đưua ra ánh sáng những kẻ chủ mưu cùng hành động khống chế cả triều đình và cách thức hành động của bọ chúng. Không phải đến ngày nay mà từ khá lâu, một số nhà nghiên cứu đã thu thập, phân tích những tư liệu liên quan để cố gắng phá vụ án đầy bí ẩn này. Bài viết đầu tiên được nhiều người quan tâm là bài THỬ XÉT LẠI CÁI ÁN NGUYỄN TRÃI của LÊ THƯỚC - TRƯƠNG CHÍNH năm 1957 (sẽ post).
    Xu hướng chung của nhiều tác giả là tỏ ý hoài nghi về cái chết của cua Lê Thái Tông là do truy hoan với Nguyễn Thị Lộ vì khoảng cách về tuổi tác và cho rằng kẻ chủ mưu trong vụ án này là Thần phi Nguyễn Thị Anh, mẹ của BANG CƠ là người được lạp lên kế vị Lê Thái Tông. Căn cứ vào mối quan hệ trong cung đình và xét về mặt logic thì đây là một giả thuyết dễ được nhiều người đồng tình nhất.
    Vua Lê Thái Tông tên là NGUYỄN LONG, sinh năm 1423, len ngôi năm 1433, tức là 11 tuổi tính theo tuổi ta. Cho đến lúc từ trần đột ngột năm 1442, lúc ấy nhà vua mới 20 tuổi mà có đến 6 bà phi:
    - Thần phi DƯƠNG THỊ BÍ, sinh ra NGHI DÂN.
    - Một bà phi khác không rõ tên sinh ra KHẮC XƯƠNG.
    - Nguyên phi LÊ THỊ NGỌC DAO con gái Đại tư đồ LÊ SÁT.
    - Chiêu nghi LÊ NHẬT LỆ con gái cú Đại đô đốc LÊ NGÂN, năm 1437 được phong làm Huệ phi.
    - Tiệp dư NGUYỄN THỊ ANH sinh ra BANG CƠ (Lê Nhân Tông), sau được phong làm Thần phi.
    - Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO sinh ra LÊ TƯ THÀNH, sau trở thành Lê Thánh Tông.
    Trong 6 bà phi trên thì cho đến trước vụ án LỆ CHI VIÊN, chỉ còn lại hai bà là Thần phi NGUYỄN THỊ ANH và Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO. Năm 1437, sau khi LE SÁT bị bãi chức và bắt phải tự tự, Nguyên phi LÊ THỊ NGỌC DAO bị phế. Đầu năm 1438, LÊ NGÂN bị tội và Huệ phi LÊ NHẬT LỆ cũng bị giáng làm Tư dung. Năm 1441, Thần phi DƯƠNG THỊ BÍ trước đã bị giáng làm Chiêu nghi, nay bị giáng làm thứ dân.
    Vua Lê Thái Tông có 4 hoàng tử: NGHI DÂN sinh tháng 10 năm KY MÙI (1439), ngày 21 tháng 1 năm CANH THÂN (1440) được lập làm Hoàng Thái tử. Nhưng đến tháng 3 năm TÂN DẬU (1441) khi mẹ là DƯƠNG THỊ BÍ bị giáng làm thứ nhân thì ngôi "Thái tử chứ định (ĐVSKTT)" tức là ngôi Thái tử tạm trống chờ lập sau và năm 1441 LÊ NGHI DÂN được phong làm LẠNG SƠN VƯƠNG cùng lúc với KHẮC XƯƠNG được phong TÂN BÌNH VƯƠNG. Ngày 5 tháng 9 năm TÂN DẬU (1441), Thần phi NGUYỄN THỊ ANH sinh hoàng tử BANG CƠ và ngày 16 tháng 11 năm đó được lập làm Hoàng Thái tử. Năm sau, ngày 20 tháng 7 năm NHÂM TUẤT (1442) Tiệp dư NGÔ THỊ NGỌC DAO sinh hoàng tử TƯ THÀNH. NGÔ THỊ NGỌC DAO là con của vị Khai quốc công thần NGÔ TỪ có công lớn trong việc tổ chức cung cấp quân lương thời khởi nghĩa, đã được Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phong Thái bảo. Bà mới được lập làm Tiệp dư năm 1440 và trước khi sinh hoàng tử TƯ THÀNH, đã từng bị dèm pha và đã được Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, sinh con tại chùa HUY VĂN (Hà Nội) rồi ẩn tránh ra QUẢNG YÊN (QUẢNG NINH) (Ức trai tập). Theo LÊ QUÝ ĐÔN thì bà vì trái ý vua nên bị bỏ tù ở Vườn hoa và được TRỊNH KHẢ cứu giúp (Đại Việt thông sử). Tuy BANG CƠ đã được lập làm Thái tử, nhưng sự ra đời của TƯ THÀNH được Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Tịnh Khả che chở có thể gây nên sự lo lắng của NGUYỄN THỊ ANH. Đó là những quan hệ phức tạp, những mưu đồ tranh giành quyền lực ngấm ngầm trong cung đình mà có người khai thác để cho rằng NGUYỄN THỊ ANH là kẻ chủ mưu trong việc lợi dụng cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tôngkhi có Nguyễn Thị Lộ bên cạnh để cùng một số triều thần và bè cánh dựng lên vụ án kết tội Nguyễn Thị Lộ giết vua rồi từ đó kết tội cả Nguyễn Trãi. Theo tôi, có thể coi đây là một giả thuyết có tính logic và có một số căn cứ nhất định mà đứng về khía cạnh văn học nghệ thuật, các tác giả có thể tận dụng khi sáng tác các tiểu thuyết lịch sử hay kịch bản sân khâu. Nhưng về mặt sử học thì chưa đủ bằng chứng để coi là một kết luận khoa học.
  4. anhdenthamemdem30

    anhdenthamemdem30 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    358
    Đã được thích:
    0
    Trước hết về cái chết của vua Lê Thái Tông, quả thật còn nhiều điều chưa rõ. Chính sử triều LÊ viết theo quan điểm kết án của triều đình: "Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ nghi Học sỹ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về đến VƯỜN VẢI, xã ĐẠI LẠI, ven sông THIÊN ĐỨC (sông ĐUỐNG, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng" (ĐVSKTT). Xét về khoảng cách tuổi tác, nhiều người đã bác bỏ hay tỏ ra hoài nghi mối quan hệ này. Nhưng dù có sự truy hoan đó thì cũng không thể quy tội cho Nguyễn Thị Lộvì làm sao bề tôi dám làm trái ý vua. Hơn nữa, theo LÊ QUÝ ĐÔN thì phò giá nhà vua đi tuần miền đông và duyệt binh ở thành CHÍ LINH có tướng TRỊNH KHẢ giữu chức Tổng quản hành quân lĩnh quân Thiết đột, các đội Ngự tiền võ sỹ, Ngự tiền trung quân được phong Thiếu bảo tham tri chính sự rồi được gia chức Thái uý. Và "khi vua Lê Thái Tông đi tuần miền đông, mắc bệnh nguy kịch, ông hầu hạ thuốc men không rời lúc nào'' Đại Việt thông sử)". Như vậy không phải nhà vua bị dột tử đeê 4-8 năm NHÂM TUẤT (1442) vì truy hoan với Nguyễn Thị Lộ mà mắc bệnh nguy kịch và TRỊNH KHẢ đã chăm sóc thuốc men một thời gian. TRỊNH KHẢ biết rõ cái chết của vua Lê Thái Tông nhưng tại sao ông cũng đồng tình với sự kết tội Nguyễn Thị Lộ"giết vua" của triều đình?
    Cho rằng kẻ chủ mưu lợi dụng cái chết của vua Lê Thái Tông để vu oan cho Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ là NGUYỄN THỊ ANH không những chưa có đủ bằng chứng mà cụ thể và ngay về mặt logic cũng có chỗ chưa đủ sức thuyết phục lắm. Năm TÂN DẬU (1441), ngày 16 tháng 11 con trai của bà là hoàng tử BANG CƠ đã được chính thức lập làm Hoàng thái tử và ngày 20 tháng 7 năm NHÂM TUẤT (1442) , hoàng tử TƯ THÀNH mới sinh. Như vậy, mọi việc đã được an bài, vua Lê Thái Tôngmất thì dĩ nhiên con bà sẽ lên nối ngôi và mặc nhiên bà sẽ là Hoàng thái hậu nhiếp chính. Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộcó che chở cho mẹ con NGÔ THỊ NGỌC DAO và TƯ THÀNH, nhưng bà cũng thừa biết một con người nhân nghĩa và trung quân như Nguyễn Trãikhông bao giờ dám làm trái mệnh vua, dám mưu việc phế lạp, đe doạ địa vị của mẹ con bà. Hoàng thái tử BANG CƠ lên ngôi lúc 2 tuổi, Tuyên Từ Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH "buông rèm coi việc chính sự nắm quyền quyết đoán mọi việc" cho đến năm 1453 khi nhà vua "bắt đầu đích than coi chính sự" (ĐVSKTT). Đánh giá thời gian coi chính sự của Thái hậu nên cắn cứ vào việc phân tích những chủ trương và hoạt động của bà, không nên dựa vào những lời lên án trong bài văn đại xá của NGHI DÂN sau khi cướp ngôi hay bài Trung hưng ký năm QUANG THUẬN. Tôi muốn lưu ý thêm một điểm là thái độ của Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH đối với TƯ THÀNH. Chính trong thời gian nhiếp chính, bà đã phong TƯ THÀNH làm bình NGUYÊN VƯƠNG, cho vào học ở Kinh diên với các vương khác. Chính sử cũng đã ghi nhận: "Tuyên Từ Thái hậu yêu vua (tức Lê Thánh Tông Tư Thành) như con mình đẻ ra, NHÂN TÔNG coi vua là em hiếm có" (ĐVSKTT). Tôi không hề có ý định bao che, biện hộ cho NGUYỄN THỊ ANH mà chỉ lưu ý và mong muốn các nhà khoa học giữ một thái độ hết sức khách quan, không nên kết luận vội vàng khi chưa đủ tư liệu, chứng cớ và từ đó vô tình rơi vào tình trạng minh oan cho người này lại đổ oan cho người khác.
    Nội tình triều LÊ từ đời Lê Thái Tổ (1428-1433), Lê Thái Tông (1433-1442) đến Lê Nhân Tông (1142-1459), Lê Nghi Dân (1459) còn thiếu ổn định, chưa đựng nhiều mâu thuẫn, xung đột cung đình cực kỳ phức tạp. Chỉ dưới triều Lê Thái Tông, trong triều luôn có phe phái và xung khắc, giữa bên văn bên võ, giữa các phái của võ quan và hoạn quan. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phế con trưởng là TƯ TỀ, lập con thứ là NGUYÊN LONG lên nối ngôi khi miới 11 tuổi. Ba đại thần Đại tư đồ LÊ SÁT, Tư khấu LÊ NGÂN và Đô đốc PHẠM VẤN làm phụ chính (Đại Việt thông sử). Đó là những tướng soái tài ba của quân đôi Lam Sơ, đã từng có công lớn trong sự nghiệp bình Ngô và là những khai quốc công thần của triều Lê. Nhưng trình độ văn hoá có hạn, mỗi khi nắm quyền lực thường có xu hướng chuyên quyền, ghen ghét hiền tài, kết bè cánh, thao túng triều đình. PHẠM VẤN mất năm 1435, mọi quyền lực tập trung vào tay LÊ SÁT và LÊ NGÂN. Trong bài chiếu bãi chức LÊ SÁT có đoạn viết: "LÊ SÁT chuyên quyền nắm giữ việc nước, ghen ghét hiền tài, giết LƯU NHÂN CHÚ để hòng ra oai, truất TRỊNH KHẢ để bắt người ta phục, baã chức tước của BÙI Ư ĐÀI khiến đình thần không còn ai dám nói, đuổi BÙI CẦM HỔ ra biên giới cho gián quan đều bịt miệng im hơi" (ĐVSKTT).
    Bên cạnh quyền thần là nạn hoạn qua. Năm 1437, Nguyễn Trãi cùng mọt số văn thần như ĐÀO CÔNG SOẠN, NGUYỄN TRUYỀN, NGUYỄN VĂN HUYẾN, NGUYỄN LIỄU dâng sớ phê phán việc dịnh nghi thức đại triều của hoạn quan LƯƠNG ĐĂNG và tâu vua "ĐĂNG là đứa hoạn quan, quanh quẩn hầu hạ bên cạnh vua, thần trộm lấy làm ngờ lắm". NGUYỄN LIỄU nhân đó tâu thêm: "Từ xưa đến nay chưa bao giờ có cảnh hoạn quan chuyên phá hoại thiên hạ như thế". Một hoạn quan là ĐINH THẮNG dám mắng lại rằng: "Hoạn quan làm gì àm páh hoại thiên hạ. Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước". Thế mà chính NGUYỄN LIỄU bị xử án đày ra châu xa. Lấy cớ Nguyễn Trãi lúc bị hành hình, tỏ ý hối tiếc không ngeh lời Thắng, Phúc nên hai hoạn quan có thế lực lúc bấy giờ là ĐINH THẮNG, ĐINH PHÚC bị giết. Rõ ràng một số hoạn quan có dính dáng đến vụ án LỆ CHI VIÊN.
    Trong cung đình, việc phế trưởng lập thư và mưu đồ thoán đoạt luôn luôn xẩy ra. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phế TƯ TỀ đã được lập làm Thái tử để lập con thứ là NGUYÊN LONG làm Thái tử và nối ngôi. TƯ TỀ là con trưởng, đã từng tham gia khởi nghĩa LAM SƠN, đánh giặc giỏi, năm 1427 được phong chức Tư đồ, cùng LƯU NHÂN CHÚ vào thành ĐÔNG QUAN làm con tin trong thời gian thương lượng với VƯƠNG THÔNG. Khi triều LÊ thành lập, TƯ TỀ được phong làm Hữu tướng quốc, tước Quận vương. Năm 1429 trong lúc phong NGUYÊN LONG làm Thái tử thì TƯ TỀ được phong làm Quốc vương tạm coi việc nước. Về sau do TƯ TỀ bị bệnh cuồng (?), năm 1433, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) quyết định chọn NGUYÊN LONG kế thừa ngôi vua và giáng TỪ TỀ làm Quậc vương. Lê Thái Tông NGUYÊN LONG cấm văn võ bá quan không được tiếp xúc với quận vương. Năm 1438, Lê Thái Tông giáng TƯ TỀ làm thứ nhân. Thái phi PHẠM THỊ NGHIÊU, vợ của Lê Thái Tổ (Lê Lợi)trước kia bị MÃ KỲ bắt đang đất Minh, được trở về nước lại "định mưu phế lập" nên bị bắt vào LAM KINH hầu VĨNH LĂNG rồi bắt phải tự tử. Trong các hoàng tử con Lê Thái Tông, Hoàng Thái tử NGHI DÂN bị giáng làm LẠNG SƠN VƯƠNG và con thứ mà BANG CƠ được lập làm Hoàng Thái tử. Đằng sau việc phế lập đó là những địa vị, lợi ích của phe nhóm trong cung đình và cũng là nguyên do khai thác, lợi dụng của các thế lực mâu thuẩn trong triều đình.
    Bộ quốc sử xưa nhất ghi chép lịch sử đời vua Lê Thái Tông là ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, phần Bản kỷ thực lục, quyển XI. Bộ quốc sử này là tập đại thành nhiều bộ sử của những sử gia nổi tiếng trong đời Trần, Lê sơ, Lê Trung hưng, từ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của LÊ VĂN HƯU đời Trần, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của PHAN PHÙ TIÊN, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN, ĐẠI VIỆT THÔNG GIÁM THÔNG KHẢO của VŨ QUỲNH, ĐẠI VIỆT THÔNG GIÁM TỔNG LUẬN của LÊ TUNG thời Lê sơ đến ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ THỰC LỤC, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ TỤC BIÊN của nhóm PHẠM CÔNG TRỨ và ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của nhón LÊ HY đời Lê Trung hưng. Bộ quóc sử này do nhóm LÊ HY biên tập cuối cùng, biên soạn lịch sử từ đời HỒNG BÀNG đến năm 1675 và khắc bản in năm 1637 (Theo ĐVSKTT, tác giả, văn bản, tác phẩm của Phan Huy Lê). ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của PHAN PHÙ TIÊN viết năm 1455 đời vua Lê Nhân Tông, chép lịch sử từ đời Trần Thái Tông cho đến khi quân Minh bị đuổi ra khỏi nước, nghĩa là đến năm 1427. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN viết năm 1479 đời vua Lê Thánh Tông, chép lịch sử cũng cho đến năm 1427 và bổ sung thêm phần Ngoại kỷ với Kỷ họ Hồng Bàng. Như vậy ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN dừng lại năm 1427 với sự nghiệp Bình Ngô của BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊ LỢI, chưa có các đời vua Lê sơ.
    Phần lịch sử của ba đời vua đầu Lê sơ là Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, từ năm 1428 đén naă 1459 do NGÔ SỸ LIÊN biên soạn trong đời HỒNG ĐỨC (1470-1497) khi giữ chức Quốc tử giám Tư nghiệp (hay Tế tửu?) kiêm Sử quan tu soạn, tác phẩm mang tên TAM TRIỀU BẢN KỶ. Đây là phần biên soạn chính thức của Quốc sử viện đời HỒNG ĐỨC, nhưng chưa công bố và được LÊ QUÝ ĐÔN đánh giá là "kể việc cũng kỹ và có mối giường" (theo ĐẠI VIỆT THÔNG SỬ, Bài tựa, Toàn tập của Lê Quý Đôn). Đến đầu thế kỷ 16, nhóm PHẠM CÔNG TRỨ khi viết ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ TOÀN THỬ và BẢN KỶ THỰC LỤC, đã dựa vào TAM TRIỀU BẢN KỶ để viết về ba đời vua đầu thời Lê sơ, rồi sau đó nhón LÊ HY đưa vào bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀNTHƯ hoàn thành năm 1697 (theo NGÔ SỸ LIÊN và ĐVSKTT, trong Tìm về cội nguồn của Phan Huy Lê). Hiện nay TAM TRIỀU BẢN KỶ của NGÔ SỸ LIÊN và phần tương ứng trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của nhóm PHẠM CÔNG TRỨ đều thất truyền, nên không có điều kiện so sánh, đối chiếu văn bản để xác minh tính xác thgực trong phần viết của NGÔ SỸ LIÊN và ba đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Trong ĐVSKTT do nhó LÊ HY hoàn thành năm 1697, gồm 24 quyển thì lịch sử hai đời vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông nằm trong quyển XI của phần Bản kỷ thực lục và vẫn đề tên tác giả là "Triều liệt đại phu Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan to soạn thần NGÔ SỸ LIÊN". Điều này càng chứng tỏ quyển XI dựa trên TAM TRIỀU BẢN KỶ của NGÔ SỸ LIÊN, nhưng không thể biết các tác giả về sau khi biên tập có thêm bớt, sửa đổi gì không và ở mức độ nào.
    Phân tích lịch sử học trên đây nhằm làm sáng tỏ trong bộ sử quốc triều Lê, phần lịch sử Lê Thái Tông không phải do NGÔ SỸ LIÊN viết trong ĐVSKTT hoàn thành năm 1479 gồm 15 quyển. Tuy nhiên, qua nội dung của ĐVSKTT hoàn thành năm 1697, chúng ta thấy rõ tác giả phần này biên soạn trên quan điểm chính thống của vương triều và riêng về vụ án LỆ CHI VIÊN viết theo đúng quan điểm của những kẻ chủ mưu giết hại Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ, do đó các sự thật lịch sử đều bị che đậy thậm chí xuyên tạc. Đọc và đối chiếu sử liệu cũng thấy có những điều không nhất quán đến khó hiểu. Ví dụ, ngày sinh của BANG CƠ, quyển XI, tờ 54a chép ngày 9 tháng 5, nhưng tờ 58a sau đó lại chép ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441), sai nhau 1 tháng. Ngày BANG CƠ được lập làm Hoàng Thái tử, quyển XI, tờ 54b chép ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu, nhưng tờ 58a lại chép ngày 6 tháng 6 năm Đại Bảo thứ 3 tức năm Nhâm Tuất (1442), sai nhau cả ngày, tháng năm, cách nhau đến hơn nửa năm. Một số nhân vật và sự kiện cũng đầy bí ẩn và khó giải thích. Ví dụ trường hợp tướng TRỊNH KHẢ. Ông là một tướng soái cao cấp của quân đội Lam Sơn, một công thần khai quốc của triều Lê, đã từng bị LÊ SÁT ghen ghét, đẩy ra làm Đồng tổng quan vệ Nam Sách Hạ. Năm 1437, vua Lê Thái Tông điều ông về kinh làm Hành quân tổng quản trực tiếp quản lĩnh quân Thiết đột, quân Ngự tiền, rồi phong chức Thiếu uý. Ông giữ vai trò quan trọng trong việc bố trí lại lực lượng để lật đổ LÊ SÁT. Năm 1442, ông phò giá nhà vua đi tuần miền đông và dự duyệt binh ở CHÍ LINH. Ông cũng là người chăm lo thuốc men khi nhà vua bị "bệnh nguy kịch" và có mặt trong giờ phút lâm chung của nhà vua, nghĩa là ông biết rõ hơn ai hết cái chết của vua Lê Thái Tông. Cũng chính ông cùng các đại thần NGUYỄN XÍ, LÊ (NGUYỄN) THỤ nhận di mệnh cùng LÊ (ĐINH) LIỆT, LÊ BÔI tôn BANG CƠ lên ngôi vua. Trong thời gian Hoàng Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH nhiếp chính, TRỊNH KHẢ giữ chức Nhập nội tư mã, rồi phong làm Nhập nội suy trung tá lý Dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân Thượng tướng quân, cai quan các vệ quân Tây Đạo, tước Quận Thượng hầu. Năm 1446, sau khi đánh thắng quân CHIÊM THÀNH, ông được phong Nhập nội Thái uý kiểm hiệu Bình chương quan quốc trọng sự, Thượng trụ quốc, tước Quốc thượng hầu. Ông được các nhà sử học đời sau như LÊ QUÝ ĐÔN, PHAN HUY CHÚ đánh giá cao, coi cùng LÊ THỤ là "bậc tể phụ đứng đầu" triều đình, "tính người giữ tín, thẳng thắn, giữ phép công hết chức phận, kiên quyết trừng phạt bọn tham nhũng" (theo Đại Việt thông sử, truyện Trịnh Khả, trong Toàn tập của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí của Phan Huy Chú). Nhưng bỗng nhiên đến năm 1451, sử biên niên ghi: "giết Thái uý TRỊNH KHẢ và con là TRỊNH QUÁT, Tư khấu TRỊNH KHẮC PHỤC và con là Phò mã Đô uý TRỊNH BÀ NHAI" (Theo ĐVSKTT). LÊ QUÝ ĐÔN cho biết lý do là "có kẻ dèm pha rằng cha con ong kết đảng, Thái hậu cả giận, ông và con là QUÁT bị hại" (theo Đại Việt thông sử, truyện Trịnh Khả, trong Toàn tập của Lê Quý Đôn). Năm 1453, khi vua Lê Nhân Tông nắm chính sự thì một trong những việc đầu tiên của nhà vua là ra lệnh phục chức và ban 100 mẫu ruộng tế choi TRỊNH KHẢ, TRỊNH KHẮC PHÚC cùng với LÊ SÁT, LÊ NGÂN, LÊ KHIÊM. Trong bài văn đại xá của NGHI DÂN năm 1459 lại cho rằng: "NGUYỄN Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan TẠ THANH dựng BANG CƠ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau TẠ THANH tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái uý TRỊNH KHẢ và Tư thông TRINH KHẮC PHỤC, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt người nói ra" (ĐVSKTT). Nhưng đây là văn bản tuyên bố nhằm biện hộ cho một cuộc biến giết vua cướp ngôi của NGHI DÂN nên đầy rẫy những thông tin thất thiệt, thậm chí cả sự bịa đặt nhưu cho rằng Lê Nhân Tông đã nhường ngôi báu cho NGHI DÂN, nên tính xác thực cần được kiểm chứng cẩn thận.
    Trong tình trạng sử liệu như vậy, việc tìm đủ những chứng cớ đáng tin cậy để phá vụ án LỆ CHI VIÊN quả thật không đơn giản. Các nhà sử học cần phát hiện và thu thập thêm những nguồn sử liệu mơớinhư văn bia, gia phả? và giám định chặt chẽ để tìm ra những thông tin mới liên quan đến vụ án.
    Nhưng chúng ta cũng đã có đủ sơ sở khoa học để khẳng định cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ là âm mưu của một thế lực trong triều đình nhà Lê muốn trừ khử một tài năng quá lỗi lạc, một nhân cách quá cao thượng, luôn luôn đối nghịch và cản trở những việc làm mờ ám của chúng. Từ đó, chúng ta không những minh oan mà còn tôn vinh Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ lên xứng đáng với công lao, cống hiến trong lịch sử.
  5. anhdenthamemdem30

    anhdenthamemdem30 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    358
    Đã được thích:
    0
    Trước hết về cái chết của vua Lê Thái Tông, quả thật còn nhiều điều chưa rõ. Chính sử triều LÊ viết theo quan điểm kết án của triều đình: "Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ nghi Học sỹ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về đến VƯỜN VẢI, xã ĐẠI LẠI, ven sông THIÊN ĐỨC (sông ĐUỐNG, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng" (ĐVSKTT). Xét về khoảng cách tuổi tác, nhiều người đã bác bỏ hay tỏ ra hoài nghi mối quan hệ này. Nhưng dù có sự truy hoan đó thì cũng không thể quy tội cho Nguyễn Thị Lộvì làm sao bề tôi dám làm trái ý vua. Hơn nữa, theo LÊ QUÝ ĐÔN thì phò giá nhà vua đi tuần miền đông và duyệt binh ở thành CHÍ LINH có tướng TRỊNH KHẢ giữu chức Tổng quản hành quân lĩnh quân Thiết đột, các đội Ngự tiền võ sỹ, Ngự tiền trung quân được phong Thiếu bảo tham tri chính sự rồi được gia chức Thái uý. Và "khi vua Lê Thái Tông đi tuần miền đông, mắc bệnh nguy kịch, ông hầu hạ thuốc men không rời lúc nào'' Đại Việt thông sử)". Như vậy không phải nhà vua bị dột tử đeê 4-8 năm NHÂM TUẤT (1442) vì truy hoan với Nguyễn Thị Lộ mà mắc bệnh nguy kịch và TRỊNH KHẢ đã chăm sóc thuốc men một thời gian. TRỊNH KHẢ biết rõ cái chết của vua Lê Thái Tông nhưng tại sao ông cũng đồng tình với sự kết tội Nguyễn Thị Lộ"giết vua" của triều đình?
    Cho rằng kẻ chủ mưu lợi dụng cái chết của vua Lê Thái Tông để vu oan cho Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ là NGUYỄN THỊ ANH không những chưa có đủ bằng chứng mà cụ thể và ngay về mặt logic cũng có chỗ chưa đủ sức thuyết phục lắm. Năm TÂN DẬU (1441), ngày 16 tháng 11 con trai của bà là hoàng tử BANG CƠ đã được chính thức lập làm Hoàng thái tử và ngày 20 tháng 7 năm NHÂM TUẤT (1442) , hoàng tử TƯ THÀNH mới sinh. Như vậy, mọi việc đã được an bài, vua Lê Thái Tôngmất thì dĩ nhiên con bà sẽ lên nối ngôi và mặc nhiên bà sẽ là Hoàng thái hậu nhiếp chính. Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộcó che chở cho mẹ con NGÔ THỊ NGỌC DAO và TƯ THÀNH, nhưng bà cũng thừa biết một con người nhân nghĩa và trung quân như Nguyễn Trãikhông bao giờ dám làm trái mệnh vua, dám mưu việc phế lạp, đe doạ địa vị của mẹ con bà. Hoàng thái tử BANG CƠ lên ngôi lúc 2 tuổi, Tuyên Từ Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH "buông rèm coi việc chính sự nắm quyền quyết đoán mọi việc" cho đến năm 1453 khi nhà vua "bắt đầu đích than coi chính sự" (ĐVSKTT). Đánh giá thời gian coi chính sự của Thái hậu nên cắn cứ vào việc phân tích những chủ trương và hoạt động của bà, không nên dựa vào những lời lên án trong bài văn đại xá của NGHI DÂN sau khi cướp ngôi hay bài Trung hưng ký năm QUANG THUẬN. Tôi muốn lưu ý thêm một điểm là thái độ của Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH đối với TƯ THÀNH. Chính trong thời gian nhiếp chính, bà đã phong TƯ THÀNH làm bình NGUYÊN VƯƠNG, cho vào học ở Kinh diên với các vương khác. Chính sử cũng đã ghi nhận: "Tuyên Từ Thái hậu yêu vua (tức Lê Thánh Tông Tư Thành) như con mình đẻ ra, NHÂN TÔNG coi vua là em hiếm có" (ĐVSKTT). Tôi không hề có ý định bao che, biện hộ cho NGUYỄN THỊ ANH mà chỉ lưu ý và mong muốn các nhà khoa học giữ một thái độ hết sức khách quan, không nên kết luận vội vàng khi chưa đủ tư liệu, chứng cớ và từ đó vô tình rơi vào tình trạng minh oan cho người này lại đổ oan cho người khác.
    Nội tình triều LÊ từ đời Lê Thái Tổ (1428-1433), Lê Thái Tông (1433-1442) đến Lê Nhân Tông (1142-1459), Lê Nghi Dân (1459) còn thiếu ổn định, chưa đựng nhiều mâu thuẫn, xung đột cung đình cực kỳ phức tạp. Chỉ dưới triều Lê Thái Tông, trong triều luôn có phe phái và xung khắc, giữa bên văn bên võ, giữa các phái của võ quan và hoạn quan. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phế con trưởng là TƯ TỀ, lập con thứ là NGUYÊN LONG lên nối ngôi khi miới 11 tuổi. Ba đại thần Đại tư đồ LÊ SÁT, Tư khấu LÊ NGÂN và Đô đốc PHẠM VẤN làm phụ chính (Đại Việt thông sử). Đó là những tướng soái tài ba của quân đôi Lam Sơ, đã từng có công lớn trong sự nghiệp bình Ngô và là những khai quốc công thần của triều Lê. Nhưng trình độ văn hoá có hạn, mỗi khi nắm quyền lực thường có xu hướng chuyên quyền, ghen ghét hiền tài, kết bè cánh, thao túng triều đình. PHẠM VẤN mất năm 1435, mọi quyền lực tập trung vào tay LÊ SÁT và LÊ NGÂN. Trong bài chiếu bãi chức LÊ SÁT có đoạn viết: "LÊ SÁT chuyên quyền nắm giữ việc nước, ghen ghét hiền tài, giết LƯU NHÂN CHÚ để hòng ra oai, truất TRỊNH KHẢ để bắt người ta phục, baã chức tước của BÙI Ư ĐÀI khiến đình thần không còn ai dám nói, đuổi BÙI CẦM HỔ ra biên giới cho gián quan đều bịt miệng im hơi" (ĐVSKTT).
    Bên cạnh quyền thần là nạn hoạn qua. Năm 1437, Nguyễn Trãi cùng mọt số văn thần như ĐÀO CÔNG SOẠN, NGUYỄN TRUYỀN, NGUYỄN VĂN HUYẾN, NGUYỄN LIỄU dâng sớ phê phán việc dịnh nghi thức đại triều của hoạn quan LƯƠNG ĐĂNG và tâu vua "ĐĂNG là đứa hoạn quan, quanh quẩn hầu hạ bên cạnh vua, thần trộm lấy làm ngờ lắm". NGUYỄN LIỄU nhân đó tâu thêm: "Từ xưa đến nay chưa bao giờ có cảnh hoạn quan chuyên phá hoại thiên hạ như thế". Một hoạn quan là ĐINH THẮNG dám mắng lại rằng: "Hoạn quan làm gì àm páh hoại thiên hạ. Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước". Thế mà chính NGUYỄN LIỄU bị xử án đày ra châu xa. Lấy cớ Nguyễn Trãi lúc bị hành hình, tỏ ý hối tiếc không ngeh lời Thắng, Phúc nên hai hoạn quan có thế lực lúc bấy giờ là ĐINH THẮNG, ĐINH PHÚC bị giết. Rõ ràng một số hoạn quan có dính dáng đến vụ án LỆ CHI VIÊN.
    Trong cung đình, việc phế trưởng lập thư và mưu đồ thoán đoạt luôn luôn xẩy ra. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) phế TƯ TỀ đã được lập làm Thái tử để lập con thứ là NGUYÊN LONG làm Thái tử và nối ngôi. TƯ TỀ là con trưởng, đã từng tham gia khởi nghĩa LAM SƠN, đánh giặc giỏi, năm 1427 được phong chức Tư đồ, cùng LƯU NHÂN CHÚ vào thành ĐÔNG QUAN làm con tin trong thời gian thương lượng với VƯƠNG THÔNG. Khi triều LÊ thành lập, TƯ TỀ được phong làm Hữu tướng quốc, tước Quận vương. Năm 1429 trong lúc phong NGUYÊN LONG làm Thái tử thì TƯ TỀ được phong làm Quốc vương tạm coi việc nước. Về sau do TƯ TỀ bị bệnh cuồng (?), năm 1433, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) quyết định chọn NGUYÊN LONG kế thừa ngôi vua và giáng TỪ TỀ làm Quậc vương. Lê Thái Tông NGUYÊN LONG cấm văn võ bá quan không được tiếp xúc với quận vương. Năm 1438, Lê Thái Tông giáng TƯ TỀ làm thứ nhân. Thái phi PHẠM THỊ NGHIÊU, vợ của Lê Thái Tổ (Lê Lợi)trước kia bị MÃ KỲ bắt đang đất Minh, được trở về nước lại "định mưu phế lập" nên bị bắt vào LAM KINH hầu VĨNH LĂNG rồi bắt phải tự tử. Trong các hoàng tử con Lê Thái Tông, Hoàng Thái tử NGHI DÂN bị giáng làm LẠNG SƠN VƯƠNG và con thứ mà BANG CƠ được lập làm Hoàng Thái tử. Đằng sau việc phế lập đó là những địa vị, lợi ích của phe nhóm trong cung đình và cũng là nguyên do khai thác, lợi dụng của các thế lực mâu thuẩn trong triều đình.
    Bộ quốc sử xưa nhất ghi chép lịch sử đời vua Lê Thái Tông là ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, phần Bản kỷ thực lục, quyển XI. Bộ quốc sử này là tập đại thành nhiều bộ sử của những sử gia nổi tiếng trong đời Trần, Lê sơ, Lê Trung hưng, từ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của LÊ VĂN HƯU đời Trần, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của PHAN PHÙ TIÊN, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN, ĐẠI VIỆT THÔNG GIÁM THÔNG KHẢO của VŨ QUỲNH, ĐẠI VIỆT THÔNG GIÁM TỔNG LUẬN của LÊ TUNG thời Lê sơ đến ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ THỰC LỤC, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ TỤC BIÊN của nhóm PHẠM CÔNG TRỨ và ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của nhón LÊ HY đời Lê Trung hưng. Bộ quóc sử này do nhóm LÊ HY biên tập cuối cùng, biên soạn lịch sử từ đời HỒNG BÀNG đến năm 1675 và khắc bản in năm 1637 (Theo ĐVSKTT, tác giả, văn bản, tác phẩm của Phan Huy Lê). ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của PHAN PHÙ TIÊN viết năm 1455 đời vua Lê Nhân Tông, chép lịch sử từ đời Trần Thái Tông cho đến khi quân Minh bị đuổi ra khỏi nước, nghĩa là đến năm 1427. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN viết năm 1479 đời vua Lê Thánh Tông, chép lịch sử cũng cho đến năm 1427 và bổ sung thêm phần Ngoại kỷ với Kỷ họ Hồng Bàng. Như vậy ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ của NGÔ SỸ LIÊN dừng lại năm 1427 với sự nghiệp Bình Ngô của BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊ LỢI, chưa có các đời vua Lê sơ.
    Phần lịch sử của ba đời vua đầu Lê sơ là Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, từ năm 1428 đén naă 1459 do NGÔ SỸ LIÊN biên soạn trong đời HỒNG ĐỨC (1470-1497) khi giữ chức Quốc tử giám Tư nghiệp (hay Tế tửu?) kiêm Sử quan tu soạn, tác phẩm mang tên TAM TRIỀU BẢN KỶ. Đây là phần biên soạn chính thức của Quốc sử viện đời HỒNG ĐỨC, nhưng chưa công bố và được LÊ QUÝ ĐÔN đánh giá là "kể việc cũng kỹ và có mối giường" (theo ĐẠI VIỆT THÔNG SỬ, Bài tựa, Toàn tập của Lê Quý Đôn). Đến đầu thế kỷ 16, nhóm PHẠM CÔNG TRỨ khi viết ĐẠI VIỆT SỬ KÝ BẢN KỶ TOÀN THỬ và BẢN KỶ THỰC LỤC, đã dựa vào TAM TRIỀU BẢN KỶ để viết về ba đời vua đầu thời Lê sơ, rồi sau đó nhón LÊ HY đưa vào bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀNTHƯ hoàn thành năm 1697 (theo NGÔ SỸ LIÊN và ĐVSKTT, trong Tìm về cội nguồn của Phan Huy Lê). Hiện nay TAM TRIỀU BẢN KỶ của NGÔ SỸ LIÊN và phần tương ứng trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của nhóm PHẠM CÔNG TRỨ đều thất truyền, nên không có điều kiện so sánh, đối chiếu văn bản để xác minh tính xác thgực trong phần viết của NGÔ SỸ LIÊN và ba đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Trong ĐVSKTT do nhó LÊ HY hoàn thành năm 1697, gồm 24 quyển thì lịch sử hai đời vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông nằm trong quyển XI của phần Bản kỷ thực lục và vẫn đề tên tác giả là "Triều liệt đại phu Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan to soạn thần NGÔ SỸ LIÊN". Điều này càng chứng tỏ quyển XI dựa trên TAM TRIỀU BẢN KỶ của NGÔ SỸ LIÊN, nhưng không thể biết các tác giả về sau khi biên tập có thêm bớt, sửa đổi gì không và ở mức độ nào.
    Phân tích lịch sử học trên đây nhằm làm sáng tỏ trong bộ sử quốc triều Lê, phần lịch sử Lê Thái Tông không phải do NGÔ SỸ LIÊN viết trong ĐVSKTT hoàn thành năm 1479 gồm 15 quyển. Tuy nhiên, qua nội dung của ĐVSKTT hoàn thành năm 1697, chúng ta thấy rõ tác giả phần này biên soạn trên quan điểm chính thống của vương triều và riêng về vụ án LỆ CHI VIÊN viết theo đúng quan điểm của những kẻ chủ mưu giết hại Nguyễn Trãi- Nguyễn Thị Lộ, do đó các sự thật lịch sử đều bị che đậy thậm chí xuyên tạc. Đọc và đối chiếu sử liệu cũng thấy có những điều không nhất quán đến khó hiểu. Ví dụ, ngày sinh của BANG CƠ, quyển XI, tờ 54a chép ngày 9 tháng 5, nhưng tờ 58a sau đó lại chép ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441), sai nhau 1 tháng. Ngày BANG CƠ được lập làm Hoàng Thái tử, quyển XI, tờ 54b chép ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu, nhưng tờ 58a lại chép ngày 6 tháng 6 năm Đại Bảo thứ 3 tức năm Nhâm Tuất (1442), sai nhau cả ngày, tháng năm, cách nhau đến hơn nửa năm. Một số nhân vật và sự kiện cũng đầy bí ẩn và khó giải thích. Ví dụ trường hợp tướng TRỊNH KHẢ. Ông là một tướng soái cao cấp của quân đội Lam Sơn, một công thần khai quốc của triều Lê, đã từng bị LÊ SÁT ghen ghét, đẩy ra làm Đồng tổng quan vệ Nam Sách Hạ. Năm 1437, vua Lê Thái Tông điều ông về kinh làm Hành quân tổng quản trực tiếp quản lĩnh quân Thiết đột, quân Ngự tiền, rồi phong chức Thiếu uý. Ông giữ vai trò quan trọng trong việc bố trí lại lực lượng để lật đổ LÊ SÁT. Năm 1442, ông phò giá nhà vua đi tuần miền đông và dự duyệt binh ở CHÍ LINH. Ông cũng là người chăm lo thuốc men khi nhà vua bị "bệnh nguy kịch" và có mặt trong giờ phút lâm chung của nhà vua, nghĩa là ông biết rõ hơn ai hết cái chết của vua Lê Thái Tông. Cũng chính ông cùng các đại thần NGUYỄN XÍ, LÊ (NGUYỄN) THỤ nhận di mệnh cùng LÊ (ĐINH) LIỆT, LÊ BÔI tôn BANG CƠ lên ngôi vua. Trong thời gian Hoàng Thái hậu NGUYỄN THỊ ANH nhiếp chính, TRỊNH KHẢ giữ chức Nhập nội tư mã, rồi phong làm Nhập nội suy trung tá lý Dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân Thượng tướng quân, cai quan các vệ quân Tây Đạo, tước Quận Thượng hầu. Năm 1446, sau khi đánh thắng quân CHIÊM THÀNH, ông được phong Nhập nội Thái uý kiểm hiệu Bình chương quan quốc trọng sự, Thượng trụ quốc, tước Quốc thượng hầu. Ông được các nhà sử học đời sau như LÊ QUÝ ĐÔN, PHAN HUY CHÚ đánh giá cao, coi cùng LÊ THỤ là "bậc tể phụ đứng đầu" triều đình, "tính người giữ tín, thẳng thắn, giữ phép công hết chức phận, kiên quyết trừng phạt bọn tham nhũng" (theo Đại Việt thông sử, truyện Trịnh Khả, trong Toàn tập của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại chí, Nhân vật chí của Phan Huy Chú). Nhưng bỗng nhiên đến năm 1451, sử biên niên ghi: "giết Thái uý TRỊNH KHẢ và con là TRỊNH QUÁT, Tư khấu TRỊNH KHẮC PHỤC và con là Phò mã Đô uý TRỊNH BÀ NHAI" (Theo ĐVSKTT). LÊ QUÝ ĐÔN cho biết lý do là "có kẻ dèm pha rằng cha con ong kết đảng, Thái hậu cả giận, ông và con là QUÁT bị hại" (theo Đại Việt thông sử, truyện Trịnh Khả, trong Toàn tập của Lê Quý Đôn). Năm 1453, khi vua Lê Nhân Tông nắm chính sự thì một trong những việc đầu tiên của nhà vua là ra lệnh phục chức và ban 100 mẫu ruộng tế choi TRỊNH KHẢ, TRỊNH KHẮC PHÚC cùng với LÊ SÁT, LÊ NGÂN, LÊ KHIÊM. Trong bài văn đại xá của NGHI DÂN năm 1459 lại cho rằng: "NGUYỄN Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan TẠ THANH dựng BANG CƠ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau TẠ THANH tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái uý TRỊNH KHẢ và Tư thông TRINH KHẮC PHỤC, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt người nói ra" (ĐVSKTT). Nhưng đây là văn bản tuyên bố nhằm biện hộ cho một cuộc biến giết vua cướp ngôi của NGHI DÂN nên đầy rẫy những thông tin thất thiệt, thậm chí cả sự bịa đặt nhưu cho rằng Lê Nhân Tông đã nhường ngôi báu cho NGHI DÂN, nên tính xác thực cần được kiểm chứng cẩn thận.
    Trong tình trạng sử liệu như vậy, việc tìm đủ những chứng cớ đáng tin cậy để phá vụ án LỆ CHI VIÊN quả thật không đơn giản. Các nhà sử học cần phát hiện và thu thập thêm những nguồn sử liệu mơớinhư văn bia, gia phả? và giám định chặt chẽ để tìm ra những thông tin mới liên quan đến vụ án.
    Nhưng chúng ta cũng đã có đủ sơ sở khoa học để khẳng định cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ là âm mưu của một thế lực trong triều đình nhà Lê muốn trừ khử một tài năng quá lỗi lạc, một nhân cách quá cao thượng, luôn luôn đối nghịch và cản trở những việc làm mờ ám của chúng. Từ đó, chúng ta không những minh oan mà còn tôn vinh Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ lên xứng đáng với công lao, cống hiến trong lịch sử.
  6. htcuong

    htcuong Phải lấy người như anh!

    Tham gia ngày:
    13/02/2002
    Bài viết:
    6.542
    Đã được thích:
    9
    Nếu như Nguyễn Trãi có thể làm được như Trương Lương, ở ẩn cho đến cuối đời thì chắc không gặp họa như vậy.
    Ai cũng biết Lê Lợi sau khi lên ngôi đã thanh trừ những tướng tá thân cận từng theo mình vào sinh ra tử như thế nào. Đến Trần Nguyễn Hãn, anh họ của Nguyễn Trãi, một võ tướng có công lao lớn nhất trong sự nghiệp bình Ngô còn phải ngậm oan mà chết. Sở dĩ Nguyễn Trãi thoát được họa là nhờ sớm trốn về quê ở ẩn. Điều đó đủ thấy sự nghi kị của Lê Lợi nói riêng và hoàng thất họ Lê đối với các tướng lãnh cũ như thế nào. Huống hồ sau khi Lê Lợi chết, con kế vị còn nhỏ, chưa có công trạng gì đặc biệt. Nguyễn Trãi, một người rất có uy vọng trong dân chúng lẫn quân đội lại trở về tham chính thì đố ai mà không lo cho được . Việc trừ khử Nguyễn Trãi xem chừng ko là âm mưu riêng của Nguyễn Thị Anh mà chắc còn được sự ủng hộ của hoàng tộc Lê Triều, đặc biệt là những người ko tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Nếu ko thì một mình Nguyễn Thị Anh cũng chẳng dám to gan mà phán bừa như vậy. Và lệ Chi Viên chỉ là 1 cái cớ mà thôi.
    Nếu Nguyễn Trãi ko chết, sau khi Thái Tông đăng cơ, liệu Nguyễn Thị Anh có thể dễ dàng thao túng và đưa Băng Cơ lên ko ? Nếu Nguyễn Trãi với uy tín của mình kêu gọi bộ hạ cũ ủng hộ 1 người khác thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra.
  7. lamthitdencung9999

    lamthitdencung9999 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/02/2006
    Bài viết:
    889
    Đã được thích:
    5

    các bác cho em hỏi
    không biết có phải khi chu di cửu tộc nguyễn trãi thì vẫn còn sót một người thiếp chạy sang lào phải không nhỉ???? sau đó chi này phát triển đông lắm
  8. ki43hayabusa

    ki43hayabusa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/11/2006
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    1
    Đúng rồi bà này lúc chạy thoát có mang thai con của Nguyễn Trãi. Tên là Nguyễn Anh. Lúc đầu thì ông này k dám mang họ Nguyễn mà phải đổi họ khác. Về sau Lê Thánh Tông lên ngôi minh oan cho Nguyễn Trãi mới cho ông này làm tri huyện hay là tri phủ gì gì đấy!!!!
  9. Amor

    Amor Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    477
    Đã được thích:
    0
    Khi đó Bang Cơ vẫn còn nằm trong nôi, chưa có gì để khiến Nguyễn Trãi phải phế đi lập người khác cả. Tính ông chính trực, không phải là loại người vì ghét mẹ (nếu thực thế đi chăng nữa) mà đòi phế con khi con không tội lỗi gì, nhất là người con ấy lại đã chính danh Thái tử. Ông giúp mẹ con bà Ngọc Dao là vì nhân nghĩa, để tránh cho hai mẹ con khỏi chịu khổ một cách oan ức, nó cũng khác hoàn toàn với việc định đưa Tư Thành lên ngôi báu. Thế nên trừ khi bà Nguyễn Thị Anh quá đa nghi và tàn bạo, việc kết luận bà ta chủ mưu giết Nguyễn Trãi vì lo cho ngai vàng của con mình là không có cơ sở. Nếu thế, chỉ e mạng của Tư Thành cũng chẳng còn chứ đừng nói đến việc được phong làm Bình Nguyên Vương.
    Tuy nhiên, có thể bà Nguyễn Thị Anh không ưa Nguyễn Trãi khi thấy ông xin hộ cho bà phi kia (ghen mà), hoặc vì quyền lợi nào khác nữa nên đã ngầm đồng ý cho bọn triều thần đối địch với ông bày mưu hại. Nhưng bọn đó là ai thì có lẽ ta không bao giờ biết được.
    Được amor sửa chữa / chuyển vào 01:29 ngày 20/06/2007
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0

    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 18:14 ngày 20/06/2007

Chia sẻ trang này