1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vụ án mạng đường Bacbiê Sài Gòn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoangcongtam, 27/02/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoangcongtam

    hoangcongtam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/08/2005
    Bài viết:
    140
    Đã được thích:
    0
    Vụ án mạng đường Bacbiê Sài Gòn

    Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo đã diễn ra trong giữa phân bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội(*) ở Nam Kỳ. Lê Văn Phát (bí danh Mỹ, Lang) bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội, theo điều lệ của đảng, vì anh ta "ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt". Tội của Phát là "không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng". Ba người trong số các đồng chí trẻ nhất của Phát (23, 24 và 26 tuổi) phải thi hành án quyết đã được tòa án cách mạng chuẩn y. Tôn Đức Thắng chủ trì tòa án, lúc đó 40 tuổi, đứng đầu kỳ bộ. Vì đâu, (vì tự ái, vì ghen tương?) án quyết thủ tiêu một đồng chí không tương xứng với "lỗi lầm", bí mật ấy vẫn âm u trong bóng tối.

    Một vụ sát nhân chính thức, ba nạn nhân cùng một lúc, đáp lại vụ ám sát trên: Tòa đại hình Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1930 kết án tử hình ba người thi hành án quyết trên kia. Tòa chỉ tuyên phạt Tôn Đức Thắng (người sau này kế vị chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969) 20 năm tù khổ sai, và Phạm Văn Đồng (về sau là thủ tướng của chính phủ Hồ Chí Minh) 10 năm tù cấm cố. Hai mươi ba người khác trong phân bộ phải chịu án tù tổng cộng 100 năm. Phân bộ Thanh Niên Nam Kỳ hoàn toàn tan vỡ.

    Hai năm năm tháng sau vụ ám sát, trong hoành cảnh phong trào nông dân thoái trào và thời kỳ khủng bố trắng, bọn cầm quyền bí mật chuẩn bị hành quyết những người bị kết án tử trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 5 năm 1931.

    Máy chém dựng sồ sộ trước cổng Khám Lớn Sài Gòn, lính cảnh sát xếp hàng dày đặc ngăn đón các con đường, chánh sở mật thám có mặt tại đó, tay lăm lăm khẩu súng lục. Vào lúc bốn giờ sáng, ba cái đầu người cách mạng trẻ tuổi rơi xuống sau tiếng hô cuối cùng "Đả đảo đế quốc Pháp".

    Trong giờ liền theo đó trong Khám Lớn, tù chính trị - kể cả tù đàn bà - nổi lên phản đối: "Đả đảo khủng bố trắng! Đả đảo đế quốc Pháp!", rùm lên náo động cả châu thành. Nước vòi rồng chữa lữa tưới ngộp những người tù phản kháng, bọn ngục tốt táo bạo đánh đập họ, cùm chân họ vào khoen sắt.

    Sử chính thức cùng truyện ký về lãnh tụ không bao giờ nhắc lại vụ sát nhân thô bỉ. Nó có thể làm lu mờ hình ảnh "người anh hùng Hắc Hải", Tôn Đức Thắng được phong danh hiệu như vậy để kỷ niệm cuộc nổi dậy tháng 4 năm 1919 trên chiến hạm Pháp mà người dân thuộc địa là Tôn Đức Thắng được đội thủy thủ Pháp chỉ định kéo lá cờ đỏ thượng lên.

    Nếu ai muốn biết rõ hơn, thì đây:

    Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1928, mật thám phát hiện trong sân đàng sau căn phố số 5 đường Bacbiê, Sài Gòn, một xác người đàn ông đã bị biến dạng, mặt và tóc cháy xém, tay bị trói quặt sau lưng, họng bị cắt, ngực bị đâm hai chỗ.

    Sau này người ta được biết người bị ám sát là Lê Văn Phát, đã từng là đại biểu đi dự Đại Hội lâm thời của Thanh Niên ở Hương Cảng. Sinh tại tỉnh Bến Tre, Phát làm thầy thuốc và cũng là hương lễ, một hương chức trông coi việc tế tự ở làng. Khi trở về Sài Gòn vào tháng 6 với danh nghĩa đại diện của Tổng Bộ bên cạnh Kỳ bộ Nam Kỳ - Kỳ bộ từ trước đến giờ do Tôn Đức Thắng chỉ huy. Thắng là người lớn tuổi hơn hết trong nhóm. Phát bị tòa án cách mạng do Tôn Đức Thắng chủ trì, xét xử bí mật và kết án tử hình vắng mặt. Người ta kết tội Phát "lạm dụng quyền hành do chức vụ đảng giao phó để hãm hiếp một nữ đồng chí."

    Dù cho có những hình phạt nghiêm khắc theo như điều lệ qui định - mà Nguyễn Đình Tú phải nhớ kỹ khi gia nhập Thanh Niên năm 1926 - thì một hành vi không trong sáng (như uống rượu, cờ bạc, hay lui tới nhà điếm, cưới xin ngoài đảng, khước từ hoạt động chiến đấu do lãnh đạo giao phó) sẽ có thể dẫn tới bị khai trừ, chứ không phải tử hình như kẻ phản đảng (trốn sang trại địch, tự động hành động không có chỉ thị làm cho các đồng chí mất an toàn, chậm trễ thi hành chỉ thị, làm lộ bí mật của đảng, âm mưu phá đảng).

    Kỳ bộ thành lập một tòa án vào đêm 29 tháng 11 gồm các đảng viên của Kỳ bộ Nam Kỳ và Tỉnh bộ Bến Tre tại nhà Bùi Văn Thêm, số 79 phố Pôlơ Bơlănsy. Trong số các thẩm phán đột xuất này có ba người là Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm đã từng là thợ trong xưởng Kropff, nơi mà Tôn Đức Thắng làm cập rằng; Trần Trương và Nguyễn Tôn Nguyệt là bà con họ hàng với vợ Tôn Đức Thắng. Do đó uy tín của Thắng không phải chỉ vì có tuổi. Trước tiên ba thẩm phán trong phiên tòa đó bỏ phiếu chống tử hình. Nhưng áp lực của đa số là 5 thẩm phán kia làm xiêu lòng 3 người, họ tự lấn áp "tình cảm cá nhân" của mình đúng theo giáo lý (le catéchisme) do Quảng Châu đặt ra.

    Trong số các đồng chí của Phát, ai sẽ là người thi hành án? Với nhiệm vụ khủng khiếp này, ba đồng chí trẻ tuổi nhất rút trúng thăm. Đó là Ngô Thiêm, bí thư Kỳ bộ, người Nghệ An; Nguyễn Văn Thinh, bí thư của Lê Văn Phát và là chủ bút tờ Công Nông Binh, sinh ở Gò Công; và Trần Thương, người Mỹ Tho. Họ còn phải đốt mặt Phát làm biến dạng xác chết theo sáng kiến của Thắng.

    Sau đó Ngô Thiêm sang ngay Quảng Châu để báo cáo với Tổng bộ, mang theo biên bản của tòa án cách mạng. Tổng bộ phê phán bản án là "không tương xứng với lỗi lầm" rồi tuyên bố giải tán Kỳ bộ Nam Kỳ.

    Mười sáu ngày sau vụ ám sát, sở mật thám nhận được tin tức do nhân viên "mật vụ ở nước ngoài" gửi về, nói đến tờ biên bản trên. Từ tháng 2 Tôn Đức Thắng đã bị bắt, rồi trong mùa hè, hơn hai chục chiến sĩ, dù có hay không dính líu tới vụ ám sát, lọt vào tay mật thám.

    Một khi phát hiện xác chết, mật thám mở đầu tung mạng lưới bủa giăng vây bắt các tổ chức bí mật. Vì thế không chỉ 8 người mà là 45 người bị cáo phải đồng lượt ra trước tòa đại hình Sài Gòn, người thì bị khép tội "giết người có chủ ý trước", người thì bị cáo "âm mưu phá rối trị an nhà nước". Các trạng sư đề nghị xử riêng hai vụ việc nhưng bị bác bỏ. Tòa chỉ nhượng bộ ở một điểm là: hai vụ việc được xem xét lần lượt, và mỗi phạm nhân sẽ chỉ bị hỏi về những tội trạng mà mình có dính líu thôi. Nhưng dù sao xử án cùng một phiên tòa hai vụ việc hoàn toàn khác nhau cũng có một cái gì đó có tính chất gán ghép xáo trộn cốt để ảnh hưởng dư luận theo chiều hướng chính quyền.

    Một năm rưỡi sau vụ ám sát mới đem xét xử, vào ngày 15 tới 19 tháng 7 năm 1930. Bầu không khí xã hội lúc đó đang hừng hực. Phong trào nông dân sôi động ở Nam Kỳ, còn ở Bắc Kỳ, 13 cái đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị rụng dưới máy chém ngày 17 tháng 6 ở Yên Bái.

    Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng tuyên bố như sau:

    "Ngô Thiêm đã dẫn dắt tôi vào hoạt động cách mạng. Tôi gia nhập Hội Thanh Niên Cách Mạng năm 1927. Tôi là đại diện của Tổng bộ Quảng Châu ở Kỳ bộ Nam Kỳ. Những mưu toan của Lang đối với em gái chúng tôi là Thị Nhứt khiến tôi lên án kẻ phạm tội đó. Tôi không hề đứng về phía tán thành cái hình phạt quyết liệt đó. Dù sao tôi cũng vì kỷ luật buộc phải tuân theo đa số. Chính tôi đã ra lệnh cho Thinh làm biến dạng bộ mặt xác chết."

    Còn Phạm Văn Đồng, bị tố cáo âm mưu, thì tuyên bố rằng Đại Hội tháng 5 năm 1929 ở Hương Cảng quyết định là các đồng chí có dính líu đến việc thủ tiêu người đại diện của Tổng bộ vẫn có thể tái gia nhập đảng. Còn chính mình ông ông cũng hối tiếc vì thoạt tiên ông tán thành xử tử Phát, vì ông tưởng Phát "sắp phản đảng" (theo nguyên văn).

    Từ trong văn bản biện hộ của các trạng sư Giaccôbbi, Lôyơ, Becnaa, Masơ, Đơgơrăn, Ferăn, Pinô, Tavecniê và Cănxenliêri, chúng tôi ghi nhớ lời nhận xét của Cănxenliêri vì nó gợi lại lời nhận xét của Nguyễn An Ninh trước tòa án năm trước:

    "Người ta trách cứ những thanh niên này tham gia các hội kín. Thế nhưng những hội kín đó bao giờ cũng vẫn có, bởi lẽ họ những thanh niên này chẳng bao giờ có thể tự do tập hợp với nhau, bởi lẽ họ hiện thân những kẻ bị áp bức. Có một tình thế căng thẳng hiển hiện, nhưng người ta không tìm biện pháp chữa chạy. Cái đó đơn giản thôi, biện pháp đó là ban bố tự do, cái tự do mà chúng tôi đòi hỏi cho họ được hưởng cũng như ta đang được hưởng. Đó là vấn đề của cái nồi hơi và các sú páp an toàn của nó. Hơi nước sôi phải thoát ra, người ta không thể ép nén nó mãi được. Nếu các ông muốn ở đây có hòa bình, trước hết hãy thực hiện công lý, không phải là cứ xây dựng những khám tù mà các ông làm dịu tình hình được. Các ông đã gieo thù hận ở đây, các ông sẽ thu nhận thù hận."

    Ngày 18 tháng 7 năm 1930, vào lúc 20 giờ, chủ tịch phiên tòa hạ lệnh "Giải tỏa phòng xử án, còng tay các tù nhân ngay sau khi tuyên án và dẫn chúng đi ngay, từng nhóm nhỏ. "

    Án quyết như sau: Tử hình 3 người là Trần Trương, Ngô Thiêm và Nguyễn Văn Thinh.

    Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai. Đặng Văn Sâm và Bùi Văn Thêm 10 năm khổ sai. Nguyễn Trung Nguyệt 8 năm khổ sai.

    Cấm cố: 23 đảng viên hoặc cảm tình đảng Thanh Niên, trong đó có Phạm Văn Đồng, tổng cộng hơn 100 năm tù, 3 đảng viên Tân Việt(**), trong đó có Võ Công Tôn, nguyên là hội đồng địa hạt Chợ Lớn, cùng bị bắt với Nguyễn An Ninh năm trước; Nguyễn Phương Thảo (sau này tức là Nguyễn Bình, tham gia ********* năm 1945); và Trần Huy Liệu, nhà báo (chuyển theo Cộng Sản ở Côn Nôn, sau này là bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh), tổng cộng 23 năm rưỡi.

    Có 4 bị cáo được tha.

    Những người bị án tù cấm cố, cũng như những người bị khổ sai, phần lớn đều bị đưa ngay ra nhà ngục Côn Đảo. Chỉ riêng nữ đồng chí Nguyễn Trung Nguyệt ngồi tù 8 năm tại Khám Lớn Sài Gòn.

    Người ta sửng sốt vì lứa tuổi trẻ trung của những người bị kết án. Trong mười người thì chín người chỉ có từ 17 đến 28 tuổi; tuy nhiên nhiều người trong số đó đã từng bị kết án tù với thời hạn ngắn. Trong số những người bị kết án chỉ có một người duy nhất làm báo chuyên nghiệp là Trần Huy Liệu, Việt Nam Quốc Dân Đảng, còn bao nhiêu người là thư ký và giáo viên dạy trường tư, như Phạm Văn Đồng, họ tự viết các tờ báo tuyên truyền cổ động. Một số chiến sĩ làm ở bến cảng và xưởng cơ khí Sài Gòn, chúng ta hiếm thấy có thợ thủ công, chỉ nhận ra hai nhà nông, tiểu địa chủ.

    (Trích từ "Việt Nam 1920-1945 Cách Mạng Và Phản Cách Mạng Thời Đô Hộ Thuộc Địa" của Ngô Văn, trang 126-131, sách phát hành tại California, Hoa Kỳ, năm 2000)



    Chú thích của người trích dẫn:
    (*) Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, hay còn gọi là đảng Thanh Niên, là tổ chức tiền thân của ********************** về sau.
    (**) Đảng Tân Việt là một đảng riêng biệt nhưng có liên hệ mật thiết với đảng Thanh Niên trong thời kỳ phôi thai.



    Hoàng Công Tâm
    ddcnd.org
  2. thepeoplewholovelanguages

    thepeoplewholovelanguages Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    457
    Đã được thích:
    0
    truyện ba xạo của mấy bác cờ que, như vụ Bác Hồ có con vậy!Chik cười!
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bôi bẩn những xác chết .
    Thà cờ bạc đĩ bợm còn hơn suy nghĩ những chuyện bẩn thỉu này,
    dù thật hay bịa đặt .
  4. quydede

    quydede Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2006
    Bài viết:
    594
    Đã được thích:
    0
    Cái này gọi là trò bỉ ổi của cái gọi là đản dcnd.
  5. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Cũng chả quan tâm những chuyện cổ lỗ sĩ này nhưng vào đây nhiều nên tự nhiên cũng biết 1 số thứ, tỷ dụ như 1 số chi tiết về ngày tháng, chức vụ sai bét cả. Chắc tác giả cũng chỉ định viết truyện dã sử võ hiệp kỳ tình thôi, chả cần chính xác lắm. Tác giả ở Mẽo, tiếp thu văn hóa Mẽo mà văn hóa Mẽo thì ko cấm những sáng tác kiểu này, dù là bỉ Bush cũng vô tư nên người ta viết vậy cũng ko việc gì phải chửi. Các bạn đừng có lấy văn hóa VN ra để phán xét 1 tác phẩm Mẽo do người Mẽo viết :D
    Chào thân ái và quyết thắng!
  6. mltr_sg

    mltr_sg Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    404
    Đã được thích:
    0
    Thành viên hoangcongtam lưu ý: các bài viết như thế này của bạn và các link đến website của bạn không phù hợp với Box LSVH của TTVNOL.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này