1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí người Việt cổ

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi nangthuytinh78, 25/10/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nangthuytinh78

    nangthuytinh78 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/07/2004
    Bài viết:
    405
    Đã được thích:
    0
    Vũ khí người Việt cổ

    Các bạn mải cãi nhau vũ khí Tây Tàu mãi.

    Tôi mở topic này để cùng các bạn thảo luận về vũ khí người Việt ta đã được người Hán học theo.

    Thảo luận 1: Nỏ thần của Thục Phán mỗi lần bắn vạn mũi tên khiến quân Triệu Đà khiếp vía. Vậy nỏ thần này có thật không và người Hán đã học cách chế nó như thế nào?

    Luận điểm 1: Nỏ thần của Thục Phán là có thật. Mỗi lần bắn, nỏ này đồng thời phóng ra nhiều mũi tên. Người đương thời hình tượng hoá là nỏ thần bắn vạn phát. Tôi nghĩ nỏ này chỉ có thể bắn ra từ 3 tới 6 mũi tên là cùng.

    Luận điểm 2: Nỏ thần là một phát minh quân sự quan trọng của một số nhóm (phía Tây Nam Trung Quốc và Bắc Việt nam ngày nay) trong Bách Việt phương Nam. Nếu các nhóm Bách Việt phương Bắc và Bách Việt đã bị Hán hoá (Ngô, Sở) biết được vũ khí này, hẳn Triệu Đà đã có thể biết được và vì thế ko cần cử Trọng Thuỷ qua cầu hôn để đánh cắp (đã trừ yếu tố truyền thuyết)

    Luận điểm 3: Sau thời Triệu Đà, người Hán đã học kỹ thuật chế tạo và ứng dụng nỏ bắn nhiều phát trong quân sự. Trong Tam Quốc Chí của Trần Thọ hay Tam Quốc Diễn nghĩa của La Quán Trung, Thục Hán thừa tướng Khổng Minh đã áp dụng kỹ thuật nỏ bắn nhiều phát trong các chiến dịch của mình. Các tác giả tiểu thuyết nêu trên không bình luận sâu về nỏ bắn nhiều phát vì nó đã được phổ biến tương đối sâu.

    Luận điểm 4: Nỏ bắn nhiều phát chỉ phù hợp trong phòng thủ hoặc hội chiến đường hiểm, không phù hợp trong vận động chiến (có sự tham dự của kỵ binh) và hội chiến lớn.

    Mong các bạn thảo luận
  2. tieungoctu

    tieungoctu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2007
    Bài viết:
    190
    Đã được thích:
    0
    Chủ đề này hay đấy, để xem các bác nhà ta bình luận về vũ khí cha ông thế nào nào.
    Nỏ thần của Thục Phán An Dương Vương chỉ là truyền thuyết thôi, làm gì có cái nỏ bắn được hàng vạn mũi tên. Chắc cụ ấy chỉ bắn được cùng lắm là 6 mũi, lực căng dây chắc là chỉ cho phép đến thế là cùng ( đây là loại cầm tay cá nhân, loại to tướng gắn cố định thì không tính ). Tớ xem phim Tam Quốc thấy Khương Duy chế nỏ theo đồ hình của Khổng Minh, có 3 hay bốn mũi tên gì đó, nhưng đó chỉ là "film" thôi, ngoài thật thì bố ai mà biết được.
    Người ta đào được các kho mũi tên ở thành Cổ Loa, rặt là mũi tên đồng thau, loại này dám xuyên qua áo giáp lắm. Nhưng nỏ là loại bắn thẳng và cự ly ngắn, theo tớ thì nó chỉ tốt trong phòng thủ có công sự hoặc đột kích bằng bộ binh thôi chứ mang ra sa trường dã chiến thì vẫn thua đứt cái anh nhà Cung.
    à, có vài ý kiến thế đã.....
  3. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Vào thời ấy, chỉ cần cây nỏ bình thường thôi cũng là 1 phát minh đáng kể, 1 vũ khí lợi hại rồi chứ chưa cần nỏ liên châu gì cả. Khác với cung cần tập nhiều, nỏ cho phép người ít tập luyện cũng sử dụng được.
    Vào thời đó, quân Triệu Đà có lẽ có rất ít quân bắn cung và kỵ binh, cho nên việc đối phương có một lực lượng lớn quân nỏ cứ từ xa bắn vào là sự bất ngờ khó chịu.
  4. haio

    haio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/04/2004
    Bài viết:
    1.979
    Đã được thích:
    0
    bạn có giới hạn về thời gian không ?
    Ví dụ từ thế kỉ mấy tới thế kỉ mấy ấy mà ?
  5. nangthuytinh78

    nangthuytinh78 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/07/2004
    Bài viết:
    405
    Đã được thích:
    0
    Theo các nguồn sử liệu khác nhau, Thục Phán An Dương Vương người bộ lạc Âu Việt nhờ vũ khí tiến bộ và tổ chức quân sự tốt hơn nên đã dùng vũ lực sáp nhập bộ lạc Lạc Việt để thành lập nước Âu Lạc vào năm 257 trước Công lịch. Đây cũng là thời điểm các thị tộc họ Hùng chấm dứt thế quyền lãnh đạo bộ lạc Lạc Việt.
    Theo truyền thuyết, Thục Phán chế ra nỏ thần nhờ móng của thần Kim Quy sau khi hoàn tất gia cố móng Cổ Loa thành. Suy đoán theo truyền thuyết và cứ liệu lịch sử trên thì có lẽ nỏ thần liên châu được trang bị cho quân đội Âu Lạc vào khoảng sau năm 257 trước Công lịch. Loại nỏ liên châu sau đó được sử dụng để đẩy lui các đợt công thành của quân đội Triệu Đà.
    Bỏ qua các yếu tố thần bí, nỏ liên châu là thứ vũ khí rất lợi hại để đối phó với (i) quân địch công thành, (ii) phục kích quân địch hành quân trong các vùng đồi rừng. Tuy nhiên, bản thân nó không phải là thứ vũ khí quyết định thắng thua của cuộc chiến. Quân đội Triệu Đà viễn chinh qua hàng trăm dặm đường rừng để bình định các bộ lạc Bách Việt, trong khi quân chủ lực người Hán và các bộ lạc người Việt bị Hán hoá do chánh tướng Đồ Thư và sau này là Nhâm Ngao lưu lại để giữ vùng đất Lĩnh Nam cho nhà Tần, nên nếu Thục Phán áp dụng chiến tranh du kích và đắp thành Cổ Loa kiên cố để phòng giữ thì Triệu Đà khó mà thu phục được Âu Lạc. Chẳng biết ngày xưa Thục Phán có thủ đắc các chiêu kế phòng thủ của Binh pháp Tôn Tử hay ko?
    Sau này, khi Triệu Đà nắm binh quyền từ sau cái chết của Nhâm Ngao vào năm 208, viên tướng Tần này đã tiến hành thôn tính mở rộng lãnh thổ vào đất Bách Việt để mưu đồ giang sơn riêng. Bài học từ hàng loạt cuộc chinh phạt Âu Lạc theo cách cũ trước đây bị thất bại và việc phải giữ binh lực mạnh để phòng bị quân Trung Nguyên xâm phạm đã khiến Triệu Đà phải chọn biện pháp ngoại giao và hôn nhân dị chủng. Vì vậy, Triệu Đà đã phái Triệu Trọng Thuỷ mang lễ vật cầu hôn Mỵ Châu để thám sát tình hình bố phòng và trang bị vũ khí của Âu Lạc. Chưa đầy 1 năm sau chính sách hôn nhân, quân biệt kích của Triệu Đà đã dụng kế "nội công ngoại kích" để triệt hạ Cổ Loa thành. Âu lạc mất từ đấy.
    Như vậy, niên đại để An Dương Vương Thục Phán sở hữu công nghệ nỏ liên châu có lẽ bắt đầu từ năm 257 trước Công lịch và đây có thể là việc chuyển giao kỹ thuật quân sự cổ đại đầu tiên của người Âu lạc (có vật thờ là Rồng và Tiên) từ một bộ lạc người Việt liên minh nào đấy có vật thờ là con Rùa. Khoảng sau năm 208 trước Công lịch, công nghệ nỏ liên châu bắt đầu được truyền bá vào Hán qua con đường Nam Việt của Triệu Đà.
    Nỏ liên châu ứng dụng trong quân sự có lẽ chỉ phù hợp với việc phòng thủ tầm gần và tác chiến du kích phục binh, không phù hợp với vận động chiến và phòng thủ cứ điểm đồng bằng của Trung Nguyên. Giới hạn công nghệ của nỏ liên châu là kết cấu cồng kềnh, thời gian nạp bắn lâu và tầm bắn ngắn. Trong khi chiến thuật quân sự tại chiến trường Trung Nguyên chủ yếu là đột kích cơ động trong tấn công và thành cao hào sâu trong phòng thủ. Trong không gian chiến trận này, cung tiễn và nỏ đơn châu có lợi thế hơn hẳn.
  6. tieungoctu

    tieungoctu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/10/2007
    Bài viết:
    190
    Đã được thích:
    0
    Hiện nay, một số đồng bào miền núi vẫn dùng nỏ để săn bắt ( không biết là có nhiều hơn kể từ lúc nhà nước cấm tàng trữ súng hay không ), tai hội thi Thể thao các dân tộc phía Bắc thì bắn nỏ là một môn thi chính, thu hút rất nhiều người tham gia.
    Có thể nói đây là một vũ khí khá lợi hại của cha ông ta trong các cuộc kháng chiến, như thời chống Pháp có ông Đinh Núp mang cái ná cứng nhất làng ra bắn con chim sắt[​IMG], khá nhiều ku Pháp, Mẽo....dính trấu loại này. Nỏ dễ tác chiến ở vùng núi, hoặc nơi có địa hình nhiều vật cản, quá phù hợp với chiến tranh Việt nam thời xưa, có lẽ mấy ku phong kiến phương bắc thất bại một phần vì thế chăng ( kể cả mấy ku Mông cổ cưỡi ngựa băn cung vô địch thảo nguyên ).
  7. nvl

    nvl ĐTVT Moderator

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    4.304
    Đã được thích:
    6
    Hồi trước có cả một chủ đề bàn về cái nỏ này rồi cơ mà. Có cả hình vẽ hẳn hoi. Ở VN ngoài gươm giáo thông thường ra thì có thêm một số thứ mà người ngày nay có thể còn nhiều thắc mắc là:
    1. Nỏ liên châu
    2. Hoả hổ
    3. Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng (nghe nói bắn tốt hơn cả thần công)
    Ngoài ra còn có một số chi tiết nữa về quân sự như là cuộc hành quân thần tốc của Quang Trung (liệu cách cáng võng có phải là hiệu quả?) hoặc súng thần công làm sao có thể bắn trên mình voi?
  8. nangthuytinh78

    nangthuytinh78 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/07/2004
    Bài viết:
    405
    Đã được thích:
    0
    @ nvl: đúng là có một chủ đề về nỏ liên châu. Tuy nhiên, các cứ liệu đưa ra chủ yếu là nỏ của Trung Quốc.
    Người Trung Quốc còn cải tiến một dạng nỏ đơn châu có hộp tiếp tên phía trên (nguyên lý tiếp tên như súng tiểu liên tự động hoặc bán tự động bây giờ). Nhưng cái đó khác xa với nỏ liên châu được đề cập.
  9. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    - Hành quân trên võng: cái này đã có lần mình đề cập. Các bác sử học VN toàn là lười chỉ bàn suông mà không thử làm thực tế. Theo ngày đi ngày đến, khoảng cách quảng đường đi, rồi lấy tốc độ hành quân mang vũ khí của quân La Mã hồi xưa làm tham khảo, thì dư sức đạt được chỉ bằng cách đi bộ bình thường.
    - Súng thần công trên mình voi: cái này hàng đống nước đã làm. Sao lại phải nghi ngờ. Súng trên voi là loại nhỏ như khẩu cối thôi.
  10. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    Vài nét về vũ khí cổ Việt Nam
    tác giả Nguyễn Thị Hậu
    Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
    Nước ta trong suốt các triều đại Lý ?" Trần ?" Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết ?o Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi?. Như vậy, ?osửa sang binh khí? là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV ?" XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
    Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
    - Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
    - Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
    Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
    Nước ta trong suốt các triều đại Lý ?" Trần ?" Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết ?o Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi?. Như vậy, ?osửa sang binh khí? là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV ?" XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
    Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
    - Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
    - Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
    * Bạch khí.
    Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba?
    - Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 ?" 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 ?" 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 ?" 40cm, nặng 100 ?" 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán.
    - Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 ?" 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 ?" 520gr.
    - Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 ?" 66cm, nặng từ 580 ?" 1000gr.
    - Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 ?" 61cm, nặng từ 500 ?" 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn.
    Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học.
    - Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 ?" 26cm, nặng khoảng 100 ?" 120gr.
    - Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn.
    - Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 ?" 13cm, thân mũi tên dài từ 4 ?" 8cm.
    Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh?
    Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy? hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích.

Chia sẻ trang này