1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí VN trong 2 cuộc kháng chiến

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 26/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Những căn cứ pháo binh của Mỹ tại VN :



    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 20:41 ngày 08/04/2005
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Theo đánh giá của Viện nghiên cứu chiến lược London về tình hình quân đội các nước trên thế giới, cuối những năm 60, Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị vũ khí với trình độ công nghệ vượt xa khả năng và trình độ công nghệ quân sự trong nước.
    Theo họ, lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị xe tăng T-54, xe tăng trinh sát PT?"76, xe bọc thép chở quân BTR-40, pháo tự hành SU-76, đạn rocket phản lực, các phương tiện cơ giới của công binh.
    Vũ khí trang bị phòng không có pháo phòng không 37mm, 57mm, 85mm; súng máy phòng không 12,7mm, trong số đó có một vài kiểu được điểu khiển bằng rada và tên lửa phòng không tầm vừa SAM-2 có điều khiển.
    Hải quân được trang bị tàu phóng ngư lôi cỡ nhỏ (50 tấn), tàu tuần tra cao tốc (100 tấn), tàu quét mìn ven bờ, tàu và xuồng máy tuần ttra được trang bị pháo, v.v?
    Không quân được trang bị máy bay ném bom IL-28, máy bay tiêm kích MiG-15, MiG-17, MiG-19, MiG-21, tên lửa không đối không, máy bay lên thẳng vũ trang và chống tàu, v.v?
    Trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị thêm các xe tăng T-54, T-59, xe bọc thép trinh sát chiến đấu, pháo tự hành phòng không, tên lửa chống tăng có điều khiển Sagger, tên lửa phòng không tầm vừa SAM-3 và tên lửa phòng không tầm ngắn tự dẫn bằng hồng ngoại SAM-7, v.v?
    Ngoài ra, được sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta đã trang bị cho bộ đội hoá học các phương tiện phòng chống vũ khí sát thương hàng loạt như khí cụ trinh sát phóng xạ (máy đo phóng xạ, máy đo chiếu xạ), khí cụ trinh sát hóa học (máy tự động báo chất độc hóa học, máy trinh sát chất độc hóa học theo phương pháp chỉ thị màu), các loại xe trinh sát phóng xạ và chất độc hóa học. Bộ đội hóa học cũng được trang bị các phương tiện phòng chống hóa học như mặt nạ phòng độc, quần áo phòng da, thiết bị thông gió và lọc độc; khí cụ tiêu độc cho bộ đội và các vũ khí trang bị kỹ thuật khác.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Theo đánh giá của Viện nghiên cứu chiến lược London về tình hình quân đội các nước trên thế giới, cuối những năm 60, Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị vũ khí với trình độ công nghệ vượt xa khả năng và trình độ công nghệ quân sự trong nước.
    Theo họ, lục quân Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị xe tăng T-54, xe tăng trinh sát PT?"76, xe bọc thép chở quân BTR-40, pháo tự hành SU-76, đạn rocket phản lực, các phương tiện cơ giới của công binh.
    Vũ khí trang bị phòng không có pháo phòng không 37mm, 57mm, 85mm; súng máy phòng không 12,7mm, trong số đó có một vài kiểu được điểu khiển bằng rada và tên lửa phòng không tầm vừa SAM-2 có điều khiển.
    Hải quân được trang bị tàu phóng ngư lôi cỡ nhỏ (50 tấn), tàu tuần tra cao tốc (100 tấn), tàu quét mìn ven bờ, tàu và xuồng máy tuần ttra được trang bị pháo, v.v?
    Không quân được trang bị máy bay ném bom IL-28, máy bay tiêm kích MiG-15, MiG-17, MiG-19, MiG-21, tên lửa không đối không, máy bay lên thẳng vũ trang và chống tàu, v.v?
    Trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, Quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị thêm các xe tăng T-54, T-59, xe bọc thép trinh sát chiến đấu, pháo tự hành phòng không, tên lửa chống tăng có điều khiển Sagger, tên lửa phòng không tầm vừa SAM-3 và tên lửa phòng không tầm ngắn tự dẫn bằng hồng ngoại SAM-7, v.v?
    Ngoài ra, được sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta đã trang bị cho bộ đội hoá học các phương tiện phòng chống vũ khí sát thương hàng loạt như khí cụ trinh sát phóng xạ (máy đo phóng xạ, máy đo chiếu xạ), khí cụ trinh sát hóa học (máy tự động báo chất độc hóa học, máy trinh sát chất độc hóa học theo phương pháp chỉ thị màu), các loại xe trinh sát phóng xạ và chất độc hóa học. Bộ đội hóa học cũng được trang bị các phương tiện phòng chống hóa học như mặt nạ phòng độc, quần áo phòng da, thiết bị thông gió và lọc độc; khí cụ tiêu độc cho bộ đội và các vũ khí trang bị kỹ thuật khác.
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Khái quát trình độ công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, có thể rút ra một số nhận xét chung sau đây:
    Về công nghệ vật liệu:
    Đại bộ phận vũ khí trang bị kỹ thuật nhận được từ bên ngoài (từ phần lớn vũ khí bộ binh, pháo chống tăng, pháo phòng không, tên lửa, tàu phóng lôi, xe tăng đến máy bay chiến đấu) đều được chế tạo trong những năm từ 1940 đến 1960 hoặc đầu những năm 70. Trong những năm đó, trên thế giới đã và đang hình thành những công nghệ mới tạo dựng bức tranh công nghệ của thế giới hôm nay. Đó là công nghệ vật liệu mới, công nghệ điện tử-tin học, công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học và năng lượng.
    Trong công nghệ vật liệu đã hình thành và phát triển rất nhanh bộ môn khoa học mới gọi là khoa học vật liệu nhằm nghiên cứu tính chất của vật liệu dưới tác động của các quy luật chế tạo và gia công để tạo ra vật liệu có tính chất vật lý, cơ học, hóa học, nhiệt học theo yêu cầu định trước. Thành tựu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công nghệ quân sự để chế tạo các vật liệu đặc thù như vật liệu composit sợi chất dẻo, gồm chất dẻo, hợp kim nhẹ, v.v? có độ bền lớn ở nhiệt độ cao, chịu được quá tải lớn để chế tạo các thành phần chịu lực của máy bay, tên lửa; vật liệu có độ bền nhiệt chống cháy, chịu va đập và xung lực mạnh ở nhiệt độ cao để chế tạo động cơ các khí cụ bay; vật liệu siêu sạch có độ tinh khiết cao để chế tạo các thiết bị nhậy cảm hồng ngoại, rada, laser. Công nghệ chế tạo vật liệu đã hoàn toàn vượt qua giai đoạn kinh nghiệm để chuyển qua giai đoạn công nghệ-khoa học. Công nghệ vật liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chế tạo các khí cụ bay. Vào thời kỳ đó, khí cụ bay của ta sử dụng vật liệu kết cấu là kim loại và hợp kim nhẹ, còn khí cụ bay của Mỹ đã bước đầu dùng vật liệu composit sợi chất dẻo ở một số bộ phận. Đây là loại vật liệu vừa có độ bền lớn, lại nhẹ hơn nhiều vật liệu kim loại, đã góp phần tạo ra khả năng linh hoạt và cơ động rất lớn cho máy bay của Mỹ.
    Công nghệ vật liệu trong vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta là công nghệ của Liên Xô trước đây và của Trung Quốc, không chỉ có nét đặc thù quân sự như đã nêu trên, mà còn phải chịu được tác động mạnh của môi trường như gỉ, ăn mòn, nấm mốc. Để giải quyết vấn đề này, Liên Xô dùng hai biện pháp kết hợp. Một là dùng các chất phụ gia đặc biệt như nguyên tố hiếm hoặc thành phần tối ưu để tạo ra khả năng ?omiễn dịch môi trường?. Biện pháp này phụ thuộc cốt yếu vào trình độ khoa học và công nghệ vật liệu, đòi hỏi đầu tư rất lớn, nhưng là biện pháp cơ bản, đi thẳng vào bản chất của vật liệu. Biện pháp thứ hai là dùng các chất dầu, mỡ, sơn bảo quản, có thể sản xuất hàng loạt, khối lượng lớn, chi phí thấp, sử dụng kết hợp với các vật liệu có khả năng ?omiễn dịch môi trường? ở mức độ vừa phải. Vì lý do kinh tế, Liên Xô đã phải kết hợp dung hoà hai biện pháp đó. Ngược lại, cách làm của Mỹ và Nhật Bản lại tập trung chủ yếu vào biện pháp thứ nhất. Họ sẵn sàng đầu tư lớn, đầu tư một lần, để nâng cao vượt bậc khả năng ?omiễn dịch môi trường? ngay từ khâu chế tạo vật liệu. Do đó vũ khí trang bị kỹ thuật của họ giá thành cao nhưng tin cậy, chống chịu môi trường tốt, đặc biệt trong môi trường nhiệt đới.
    Công nghệ thiết kế chế tạo trên thế giới giai đoạn này đã bước đầu chuyển sang giai đoạn tự động hóa với sự hỗ trợ của máy tính điện tử. Điều này giải thích vì sao trong những thời gian ngắn, Mỹ đã kịp thay đổi, cải tiến các kiểu vũ khí trang bị để đưa vào sử dụng ở chiến trường Việt Nam.
  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Khái quát trình độ công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, có thể rút ra một số nhận xét chung sau đây:
    Về công nghệ vật liệu:
    Đại bộ phận vũ khí trang bị kỹ thuật nhận được từ bên ngoài (từ phần lớn vũ khí bộ binh, pháo chống tăng, pháo phòng không, tên lửa, tàu phóng lôi, xe tăng đến máy bay chiến đấu) đều được chế tạo trong những năm từ 1940 đến 1960 hoặc đầu những năm 70. Trong những năm đó, trên thế giới đã và đang hình thành những công nghệ mới tạo dựng bức tranh công nghệ của thế giới hôm nay. Đó là công nghệ vật liệu mới, công nghệ điện tử-tin học, công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học và năng lượng.
    Trong công nghệ vật liệu đã hình thành và phát triển rất nhanh bộ môn khoa học mới gọi là khoa học vật liệu nhằm nghiên cứu tính chất của vật liệu dưới tác động của các quy luật chế tạo và gia công để tạo ra vật liệu có tính chất vật lý, cơ học, hóa học, nhiệt học theo yêu cầu định trước. Thành tựu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công nghệ quân sự để chế tạo các vật liệu đặc thù như vật liệu composit sợi chất dẻo, gồm chất dẻo, hợp kim nhẹ, v.v? có độ bền lớn ở nhiệt độ cao, chịu được quá tải lớn để chế tạo các thành phần chịu lực của máy bay, tên lửa; vật liệu có độ bền nhiệt chống cháy, chịu va đập và xung lực mạnh ở nhiệt độ cao để chế tạo động cơ các khí cụ bay; vật liệu siêu sạch có độ tinh khiết cao để chế tạo các thiết bị nhậy cảm hồng ngoại, rada, laser. Công nghệ chế tạo vật liệu đã hoàn toàn vượt qua giai đoạn kinh nghiệm để chuyển qua giai đoạn công nghệ-khoa học. Công nghệ vật liệu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chế tạo các khí cụ bay. Vào thời kỳ đó, khí cụ bay của ta sử dụng vật liệu kết cấu là kim loại và hợp kim nhẹ, còn khí cụ bay của Mỹ đã bước đầu dùng vật liệu composit sợi chất dẻo ở một số bộ phận. Đây là loại vật liệu vừa có độ bền lớn, lại nhẹ hơn nhiều vật liệu kim loại, đã góp phần tạo ra khả năng linh hoạt và cơ động rất lớn cho máy bay của Mỹ.
    Công nghệ vật liệu trong vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta là công nghệ của Liên Xô trước đây và của Trung Quốc, không chỉ có nét đặc thù quân sự như đã nêu trên, mà còn phải chịu được tác động mạnh của môi trường như gỉ, ăn mòn, nấm mốc. Để giải quyết vấn đề này, Liên Xô dùng hai biện pháp kết hợp. Một là dùng các chất phụ gia đặc biệt như nguyên tố hiếm hoặc thành phần tối ưu để tạo ra khả năng ?omiễn dịch môi trường?. Biện pháp này phụ thuộc cốt yếu vào trình độ khoa học và công nghệ vật liệu, đòi hỏi đầu tư rất lớn, nhưng là biện pháp cơ bản, đi thẳng vào bản chất của vật liệu. Biện pháp thứ hai là dùng các chất dầu, mỡ, sơn bảo quản, có thể sản xuất hàng loạt, khối lượng lớn, chi phí thấp, sử dụng kết hợp với các vật liệu có khả năng ?omiễn dịch môi trường? ở mức độ vừa phải. Vì lý do kinh tế, Liên Xô đã phải kết hợp dung hoà hai biện pháp đó. Ngược lại, cách làm của Mỹ và Nhật Bản lại tập trung chủ yếu vào biện pháp thứ nhất. Họ sẵn sàng đầu tư lớn, đầu tư một lần, để nâng cao vượt bậc khả năng ?omiễn dịch môi trường? ngay từ khâu chế tạo vật liệu. Do đó vũ khí trang bị kỹ thuật của họ giá thành cao nhưng tin cậy, chống chịu môi trường tốt, đặc biệt trong môi trường nhiệt đới.
    Công nghệ thiết kế chế tạo trên thế giới giai đoạn này đã bước đầu chuyển sang giai đoạn tự động hóa với sự hỗ trợ của máy tính điện tử. Điều này giải thích vì sao trong những thời gian ngắn, Mỹ đã kịp thay đổi, cải tiến các kiểu vũ khí trang bị để đưa vào sử dụng ở chiến trường Việt Nam.
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Công nghệ điện tử-tin học.
    Trong những năm 60 đến 70 công nghệ bán dẫn, vi điện tử, mạch tích hợp phát triển với tốc độ cao. Đầu những năm 70, công nghệ vi xử lý ra đời tạo ra bước ngoặt lớn trong quân sự. Bộ vi xử lý có thể tích khoảng 0.01cm3 thực chất là một bộ tự động xử lý thông tin logic có thể lắp được vào bất kỳ thiết bị kỹ thuật nào như đầu đạn tên lửa, bom, máy xử lý bảng bắn cho pháo, tạo ra quá trình ?otrí năng hóa? cho các khí tài quân sự và dân dụng. Bom laser, bom từ trường, tên lửa chống rada, các hệ thống điện tử tự động trong hàng rào Mc.Namara là những thí dụ điển hình sử dụng công nghệ điện tử thời kỳ này ở những mức độ khác nhau. Từ đó, bắt đầu ra đời các loại vũ khí điều khiển chính xác cao, hoặc vũ khí ?othông minh?, phần chủ yếu trong các phương tiện chiến tranh công nghệ cao hiện nay.
    Vũ khí trang bị kỹ thuật tiếp nhận từ bên ngoài của các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong những năm chống Mỹ cứu nước bước đầu áp dụng những thành tựu công nghệ nổi bật đó của giai đoạn hình thành và phát triển nhanh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật ở trình độ và quy mô khác nhau.
    Trong các khí cụ hàng không, máy bay chiến đấu MiG-15, MiG-17, MiG-19, tên lửa phòng không là thế hệ những năm 50 có thiết bị đèn điện-điện tử chủ yếu được chế tạo theo công nghệ đèn điện tử, chưa có công nghệ in mạch. Do đó, các thiết bị điều khiển rất cồng kềnh, tiêu hao nhiều năng lượng, cần nhiều các thiết bị cung cấp điện, do đó hạn chế khả năng cơ động. Về sau, ta được viện trợ máy bay chiến đấu MiG-21, tên lửa phòng không SAM-7, tên lửa chống tăng thế hệ những năm 60, thiết bị điện-điện tử bắt đầu được bán dẫn hóa với tỷ lệ nhất định các mạch in đơn giản. Các thiết bị thông tin liên lạc của ta chủ yếu được chế tạo trên cơ sở công nghệ điện tử và bán dẫn, trong đó tỷ lệ thiết bị công nghệ bán dẫn chưa nhiều. Trong khi đó, các thiết bị thông tin của Mỹ đã chuyển sang thế hệ vi điện tử. Các thiết bị thông tin trên các phương tiện chiến đấu khác như xe tăng, thiết giáp, phòng chống hóa học, máy bay chỉ huy điều khiển của ta cũng chỉ mới đạt được trình độ công nghệ đèn điện tử và bán dẫn. Để bù đắp lại sự lạc hậu về công nghệ, các công trình sư Xô Viết đã áp dụng các tư tưởng khoa học thiết kế trình độ cao, độc đáo, để tạo ra các phương tiện chiến đấu có nhiều ưu điểm chiến-kỹ thuật kết hợp có hiệu quả cao, từ xe tăng, tên lửa phòng không, pháo, súng bộ binh đến máy bay đã từng được các chuyên gia phương Tây công nhận. Điển hình là máy bay tiêm kích MiG-17, có bán kính lượn vòng nhỏ, khả năng cơ động và linh hoạt lớn, đã được các phi công của ta khác thác sử dụng tài tình trong các lối đánh du kích trên không rất độc đáo, bắn rơi nhiều máy bay có trình độ công nghệ hiện đại hơn của Mỹ. Các xe tăng của ta có kiểu chỉ được lắp kính ngắm quang học, có kiểu được lắp máy ngắm hồng ngoại để hoạt động cả ngày và đêm; có kiểu điều khiển bằng cơ khí khá lạc hậu, lại có kiểu điều khiển bằng thuỷ lực, vỏ giáp thường là vỏ đúc nhưng ý tưởng thiết kế tiên tiến bù đắp lại vẫn có khả năng cơ động và vượt cản tốt, gọn nhẹ, khá thuận lợi cho khâu khai thác.
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Công nghệ điện tử-tin học.
    Trong những năm 60 đến 70 công nghệ bán dẫn, vi điện tử, mạch tích hợp phát triển với tốc độ cao. Đầu những năm 70, công nghệ vi xử lý ra đời tạo ra bước ngoặt lớn trong quân sự. Bộ vi xử lý có thể tích khoảng 0.01cm3 thực chất là một bộ tự động xử lý thông tin logic có thể lắp được vào bất kỳ thiết bị kỹ thuật nào như đầu đạn tên lửa, bom, máy xử lý bảng bắn cho pháo, tạo ra quá trình ?otrí năng hóa? cho các khí tài quân sự và dân dụng. Bom laser, bom từ trường, tên lửa chống rada, các hệ thống điện tử tự động trong hàng rào Mc.Namara là những thí dụ điển hình sử dụng công nghệ điện tử thời kỳ này ở những mức độ khác nhau. Từ đó, bắt đầu ra đời các loại vũ khí điều khiển chính xác cao, hoặc vũ khí ?othông minh?, phần chủ yếu trong các phương tiện chiến tranh công nghệ cao hiện nay.
    Vũ khí trang bị kỹ thuật tiếp nhận từ bên ngoài của các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong những năm chống Mỹ cứu nước bước đầu áp dụng những thành tựu công nghệ nổi bật đó của giai đoạn hình thành và phát triển nhanh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật ở trình độ và quy mô khác nhau.
    Trong các khí cụ hàng không, máy bay chiến đấu MiG-15, MiG-17, MiG-19, tên lửa phòng không là thế hệ những năm 50 có thiết bị đèn điện-điện tử chủ yếu được chế tạo theo công nghệ đèn điện tử, chưa có công nghệ in mạch. Do đó, các thiết bị điều khiển rất cồng kềnh, tiêu hao nhiều năng lượng, cần nhiều các thiết bị cung cấp điện, do đó hạn chế khả năng cơ động. Về sau, ta được viện trợ máy bay chiến đấu MiG-21, tên lửa phòng không SAM-7, tên lửa chống tăng thế hệ những năm 60, thiết bị điện-điện tử bắt đầu được bán dẫn hóa với tỷ lệ nhất định các mạch in đơn giản. Các thiết bị thông tin liên lạc của ta chủ yếu được chế tạo trên cơ sở công nghệ điện tử và bán dẫn, trong đó tỷ lệ thiết bị công nghệ bán dẫn chưa nhiều. Trong khi đó, các thiết bị thông tin của Mỹ đã chuyển sang thế hệ vi điện tử. Các thiết bị thông tin trên các phương tiện chiến đấu khác như xe tăng, thiết giáp, phòng chống hóa học, máy bay chỉ huy điều khiển của ta cũng chỉ mới đạt được trình độ công nghệ đèn điện tử và bán dẫn. Để bù đắp lại sự lạc hậu về công nghệ, các công trình sư Xô Viết đã áp dụng các tư tưởng khoa học thiết kế trình độ cao, độc đáo, để tạo ra các phương tiện chiến đấu có nhiều ưu điểm chiến-kỹ thuật kết hợp có hiệu quả cao, từ xe tăng, tên lửa phòng không, pháo, súng bộ binh đến máy bay đã từng được các chuyên gia phương Tây công nhận. Điển hình là máy bay tiêm kích MiG-17, có bán kính lượn vòng nhỏ, khả năng cơ động và linh hoạt lớn, đã được các phi công của ta khác thác sử dụng tài tình trong các lối đánh du kích trên không rất độc đáo, bắn rơi nhiều máy bay có trình độ công nghệ hiện đại hơn của Mỹ. Các xe tăng của ta có kiểu chỉ được lắp kính ngắm quang học, có kiểu được lắp máy ngắm hồng ngoại để hoạt động cả ngày và đêm; có kiểu điều khiển bằng cơ khí khá lạc hậu, lại có kiểu điều khiển bằng thuỷ lực, vỏ giáp thường là vỏ đúc nhưng ý tưởng thiết kế tiên tiến bù đắp lại vẫn có khả năng cơ động và vượt cản tốt, gọn nhẹ, khá thuận lợi cho khâu khai thác.
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Xét một số mặt khoa học và công nghệ chủ yếu, vũ khí trang bị kỹ thuật của Mỹ có ưu thế hơn vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta về chất lượng. Về số lượng, Mỹ cũng có ưu thế vượt xa ta nhiều lần. Nhưng với một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, một cơ sở nông nghiệp còn nghèo nàn mới bắt đầu được xây dựng sau 10 năm hoà bình ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vấn đề làm chủ, khai thác các vũ khí trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại có trong trang bị của lục quân, phòng không-không quân và hải quân đối với chúng ta là một thử thách, khó khăn phức tạp về khoa học và công nghệ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần sáng tạo, hy sinh và lao động quên mình của toàn dân ta, của lực lượng vũ trang nhân dân, chúng ta lại một lần nữa vượt qua được thử thách đó, đồng thời thu được nhiều bài học quý báu. Để có được chiến công đó trước hết cần nhận thấy rằng trong những năm 1954 đến 1964, nhờ những thành tựu bước đầu, tuy chưa nhiều trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đặc biệt, nhờ sự giúp đỡ to lớn về vật chất-kỹ thuật, về đào tạo huấn luyện cán bộ chiến sĩ, công nhân kỹ thuật quốc phòng của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, chúng ta đã tạo lập được một tiềm lực khoa học và công nghệ nói chung, tiềm lực khoa học và công nghệ quân sự nói riêng. Tiềm lực đó tuy còn ở mức độ rất thấp nhưng là cơ sở cần thiết cho hoạt động làm chủ, khai thác số vũ khí trang bị kỹ thuật được viện trợ, cải biên cải tiến chúng phù hợp với điều kiện cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, đồng thời đưa truyền thống tự chế tạo và công nghệ sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật được kế thừa phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp lên một bước mới, cao hơn.
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Xét một số mặt khoa học và công nghệ chủ yếu, vũ khí trang bị kỹ thuật của Mỹ có ưu thế hơn vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta về chất lượng. Về số lượng, Mỹ cũng có ưu thế vượt xa ta nhiều lần. Nhưng với một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, một cơ sở nông nghiệp còn nghèo nàn mới bắt đầu được xây dựng sau 10 năm hoà bình ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vấn đề làm chủ, khai thác các vũ khí trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại có trong trang bị của lục quân, phòng không-không quân và hải quân đối với chúng ta là một thử thách, khó khăn phức tạp về khoa học và công nghệ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần sáng tạo, hy sinh và lao động quên mình của toàn dân ta, của lực lượng vũ trang nhân dân, chúng ta lại một lần nữa vượt qua được thử thách đó, đồng thời thu được nhiều bài học quý báu. Để có được chiến công đó trước hết cần nhận thấy rằng trong những năm 1954 đến 1964, nhờ những thành tựu bước đầu, tuy chưa nhiều trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đặc biệt, nhờ sự giúp đỡ to lớn về vật chất-kỹ thuật, về đào tạo huấn luyện cán bộ chiến sĩ, công nhân kỹ thuật quốc phòng của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, chúng ta đã tạo lập được một tiềm lực khoa học và công nghệ nói chung, tiềm lực khoa học và công nghệ quân sự nói riêng. Tiềm lực đó tuy còn ở mức độ rất thấp nhưng là cơ sở cần thiết cho hoạt động làm chủ, khai thác số vũ khí trang bị kỹ thuật được viện trợ, cải biên cải tiến chúng phù hợp với điều kiện cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, đồng thời đưa truyền thống tự chế tạo và công nghệ sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật được kế thừa phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp lên một bước mới, cao hơn.
  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bước sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Đảng ta ra nghị quyết về tăng cường công tác khoa học và kỹ thuật trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ, khoa học và kỹ thuật của ta đứng trước hai nhiệm vụ lớn là phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trong thời chiến và tích cực chuẩn bị để phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trên quy mô lớn với trình độ cao. Trong quân đội, nhiều nhà máy, xí nghiệp quốc phòng, viện nghiên cứu được thành lập đáp ứng các yêu cầu tự chế tạo sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật; cải tiến, cải biên vũ khí trang bị kỹ thuật phù hợp với điều kiện chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và chiến tranh giải phóng ở miền Nam, khai thác tối đa tính năng vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại được các nước bạn viện trợ hoặc thu được của địch.
    Trong lĩnh vực vật liệu đã giải quyết một phần các nhu cầu của sản xuất và quốc phòng như hợp kim chuyên dụng, hợp kim màu phục vụ cho hoạt động sửa chữa vũ khí, đạn dược của bộ binh. Đã làm chủ được một số quy trình công nghệ xử lý, gia công biến tính vật liệu như ủ nhiệt, thấm cacbon, thấm nitơ, v.v? Nhưng chưa có được cơ sở để hình thành công nghệ vật liệu dựa trên nền tảng khoa học vững chắc.
    Về vật liệu thuốc phóng thuốc nổ, một loại vật liệu đặc biệt quan trọng trong công nghiệp chế tạo vũ khí-ta vẫn chưa có nền sản xuất quy mô công nghiệp, chỉ mới sản xuất được thuốc nổ fuminat thuỷ ngân ở quy mô nhỏ dùng cho các chi tiết hoả thuật như hạt lửa, ống nổ. Nhu cầu lượng thuốc này không lớn. Theo quy trình công nghệ các nước bạn giúp, với hệ thống thiết bị do ta tự thiết kế chế tạo đã xây dựng được dây chuyền sản xuất thuốc đen dùng cho dây cháy chậm làm liều phóng đạn và các chi tiết hoả thuật khác cho vũ khí bộ binh. Nói chung, ta đã có khả năng thoả mãn nhu cầu thuốc đen cho các lực lượng vũ trang nhân dân.

Chia sẻ trang này