1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí VN trong 2 cuộc kháng chiến

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Phudongthienvuong

    Phudongthienvuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2004
    Bài viết:
    1.442
    Đã được thích:
    0
    Cái này em nhìn thấy trên một trang web ngoại quốc . Họ nói chụp ở viện bảo tàng vũ khí ở Hà Nội . Cây cối này do VN tự chế vào khoảng năm 1947 nòng 187mm . kích thước nòng lạ quá làm sao kiếm ra đạn để bắn nhỉ ? hay phải tự chế đạn luôn ? Nhìn nó có từng khúc một y như cây tre như vậy giống như Bác Trần Đoàn miêu tả kỹ thuật rèn từng khúc rồi vặn vào nhau .
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Khẩu cối 187mm đó, tầm bắn 2.000m, được trang bị làm pháo đi cùng bộ binh. Theo hồi kí của cụ Giáp, được chế tạo từ vỏ bình oxy. Đúng là kiểu của con nhà nghèo, các bác có biết khẩu ĐBG, được ta dùng phục kích xe vận tải Pháp vài trận rất hiệu quả không ?
    Nhân tiện, đố các bác nguồn gốc tên gọi của khẩu SS ?
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Khẩu cối 187mm đó, tầm bắn 2.000m, được trang bị làm pháo đi cùng bộ binh. Theo hồi kí của cụ Giáp, được chế tạo từ vỏ bình oxy. Đúng là kiểu của con nhà nghèo, các bác có biết khẩu ĐBG, được ta dùng phục kích xe vận tải Pháp vài trận rất hiệu quả không ?
    Nhân tiện, đố các bác nguồn gốc tên gọi của khẩu SS ?
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bác cho hỏi luôn là với các cỡ cối lớn thế thì lúc bắn thế nào nhỉ?
    ----------------------------------------------------------------------------------
    Bớ chú AK_M có câu hỏi về ... cối nè !
    Trong lúc chờ chú AK_M giặt tã cho con xong mới có thời gian trả lời chính xác, tớ tạm trả lời bác thế này :
    Những khẩu cối cỡ lớn từ 160mm trở lên không bắn theo kiểu thả đạn vào nòng như các loại bé 60 ---> 120mm. Nó có bộ phận nạp đạn vào nòng {như pháo } rồi bắn bằng đạp cò { như pháo cao xạ }.
    ----------------------------------------------------------------------------------
    Bàn về đặc trưng công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trước hết cần nhận thấy rằng do đặc điểm của cuộc đụng đầu lịch sử lần thứ hai này quyết liệt hơn, cường độ cao hơn, trên biển, trên đất liền, nền công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta cũng có những đặc trưng mới. Những đặc trưng đó vừa mang đặc điểm của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam thời kỳ đó, vừa mang tính quy luật chung. Ngoài ra, cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ tiến hành chống nước ta là hình thái chiến tranh từ ?othời đại công nghiệp? chuyển tiếp qua ?othời đại thông tin?, thời đại chiến tranh công nghệ cao, nên việc nghiên cứu tổng kết những đặc trưng này vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa mang tính lý luận, thời sự cần thiết và quan trọng trong xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân ta nói chung, trong việc xây dựng một chiến lược công nghệ quân sự nói riêng. Ở đây, chỉ xin giới thiệu một vài ý kiến nhận xét có tính chất tổng kết bước đầu. Để có được những kết luận tổng quát hơn, sâu sắc hơn, cần tổ chức và hình thành các công trình nghiên cứu chuyên đề toàn diện về vấn đề này.
    Đặc trưng thứ nhất : tính đan xen về công nghệ.
    Theo các nhà lý luận quân sự nước ngoài, xét theo quan điểm tiến hóa công nghệ quân sự trong tiến trình lịch sử loài người, chiến tranh đã qua bốn thế hệ: thế hệ thứ nhất là chiến tranh bằng vũ khí lạnh, thế hệ thứ hai là chiến tranh bằng vũ khí nóng (hoả khí), thế hệ thứ ba là chiến tranh hạt nhân, thế hệ thứ tư là chiến tranh bằng vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao.
    Ba thế hệ chiến tranh thể hiện sự tiến hóa về công nghệ quân sự nhằm tăng cường sức mạnh thể lực của con người nhờ sử dụng hiệu lực phản ứng chất nổ thông thường và nhiên liệu hạt nhân.
    Trong những năm 50 của thế kỷ XX, công nghệ điện tử và máy tính ra đời, tiếp đến là công nghệ vi điện tử và vi xử lý những năm 60 đụng chạm đến một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ mà trong suốt hàng ngàn năm tiến hóa văn minh chưa có một cuộc cách mạng công nghệ nào đề cập đến. Đó là khả năng tư duy (hoặc trí năng) của con người. Công nghệ vi điện tử, vi xử lý góp phần rất quan trọng tăng cường khả năng tư duy, khắc phục các trở ngại của bộ não con người trong việc xử lý thông tin. Trở ngại đó thể hiện ở hai khía cạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quân sự.
    Thứ nhất: cần xử lý thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, đa dạng hơn trong một thời gian ngắn hơn, được đo bằng giây, phần triệu giây và ngày nay là phần tỷ giây. Trở lại ngại này nằm ngoài khả năng tự nhiên của trí năng con người.
    Thứ hai: cần phát hiện, thu thập những thông tin ?ovô hình? nằm ngoài khả năng các giác quan của con người. Trong khoa học, người ta gọi đó là ?ocác sensor nhậy cảm?. Hệ thống sensor nhậy cảm của con người không thể nhận biết và xử lý được tín hiệu hồng ngoại cường độ thấp, tín hiệu siêu âu, hạ âm, tín hiệu rada, v.v?
    Công nghệ vi điện tử, vi xử lý giúp con người khắc phục được hai trở ngại đó và tạo ra một cuộc cách mạng tự động hóa vĩ đại trong công nghiệp. Ngay từ khi mới ra đời, công nghệ vi điện tử và vi xử lý được ứng dụng ngay trong công nghệ quân sự, mở đầu quá trình ?otrí năng hóa? hoặc ?othông tin hóa? các khí tài quân sự. Đương nhiên, trong thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70, công nghệ vi điện tử và vi xử lý chưa thể tạo ra được các phương tiện chiến tranh ?othay thế con người? như báo chí thời đó bình luận về cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam.
    Nhưng công nghệ vi điện tử và vi xử lý là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định nội dung khái niệm ?ocác phương tiện chiến tranh công nghệ cao?. Với quan niệm đó, cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam là giai đoạn chuyển tiếp sang một loại hình chiến tranh mới-chiến tranh thế hệ thứ tư hoặc chiến tranh công nghệ cao. Quá trình điều khiển tên lửa chống rada Shrike và sử dụng các hệ thống chiến tranh điện tử của Mỹ cũng như quá trình điều khiển tên lửa phòng không SAM-2, v.v? thực chất là quá trình xử lý thông tin tín hiệu tốc độ nhanh, vượt quá khả năng trí tuệ của con người.
    Đối phó thắng lợi chiến tranh xâm lược của Mỹ, các lực lượng vũ trang nhân dân ta tích luỹ được kinh nghiệm vô giá trong việc tổ chức và xây dựng lực lượng, trong đó có vấn đề vũ khí trang bị.
    Đặc trưng đan xen công nghệ thể hiện ở chỗ vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang nhân dân gồm nhiều thế hệ (từ giáo mác, cung tên, mìn bẫy, đến pháo, xe tăng, tên lửa, máy bay, tàu chiến, v.v?), nhiều trình độ, trong đó có cả trình độ công nghệ cao (tên lửa phòng không điều khiển bằng rada, tên lửa điều khiển bằng hồng ngoại lắp trên máy bay, tên lửa chống tăng có điều khiển, ngư lôi tự dẫn, v.v?) có thể điều khiển bằng tay, bằng máy, theo nguyên lý cơ khí, thuỷ lực, điện tử, hồng ngoại, v.v?
    Đặc trưng đan xen công nghệ không chỉ thể hiện trên quy mô tổng thể vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta mà còn thể hiện rất rõ ngay cả trong mảng vũ khí tự tạo trên chiến trường miền Nam. Vũ khí tự tạo của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam vừa được chi viện về công nghệ từ hậu phương lớn miền Bắc, vừa khai thác công nghệ từ phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ do ta thu được sau từng trận đánh hoặc chiến dịch thắng lợi. Nhờ thế, trình độ công nghệ của vũ khí trang bị tự tạo của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương có nhiều cấp độ khác nhau-từ thô sơ đơn giản như quả đạp lôi, một khối nổ không vỏ, đến tinh vi, có trình độ công nghệ cao hơn như những quả mìn bẫy chứa thuốc nổ cực mạnh có ngòi nổ hẹn giờ điện tử, tù những dàn phóng lựu đạn bố trí dưới mặt đất đến những quả mìn định hướng vừa dùng để diệt sinh lực, vừa sát thương máy bay lên thẳng. Tính chất đan xen công nghệ muôn màu muôn vẻ đó trong vũ khí tự tạo cũng như trong vũ khí trang bị viện trợ được phát huy bằng đường lối chỉ đạo chiến tranh tài tình và sáng suốt của Đảng, với tài thao lược trong sử dụng sáng tạo vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta đã góp phần khắc phục các khoảng trống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật trong tổ chức lực lượng và hoả lực, và tạo ra cuộc chiến tranh đặc biệt mà báo chí phương Tây gọi là ?ocuộc chiến tranh bằng ong vò vẽ? khiến cho cả lính Mỹ lẫn lính nguỵ đều lo sợ mỗi lần nghĩ đến cái chết đang chờ đợi họ trên mỗi bước bước chân hoặc trước mỗi phi vụ ở Việt Nam.

    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 12:16 ngày 17/04/2005
  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Bác cho hỏi luôn là với các cỡ cối lớn thế thì lúc bắn thế nào nhỉ?
    ----------------------------------------------------------------------------------
    Bớ chú AK_M có câu hỏi về ... cối nè !
    Trong lúc chờ chú AK_M giặt tã cho con xong mới có thời gian trả lời chính xác, tớ tạm trả lời bác thế này :
    Những khẩu cối cỡ lớn từ 160mm trở lên không bắn theo kiểu thả đạn vào nòng như các loại bé 60 ---> 120mm. Nó có bộ phận nạp đạn vào nòng {như pháo } rồi bắn bằng đạp cò { như pháo cao xạ }.
    ----------------------------------------------------------------------------------
    Bàn về đặc trưng công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trước hết cần nhận thấy rằng do đặc điểm của cuộc đụng đầu lịch sử lần thứ hai này quyết liệt hơn, cường độ cao hơn, trên biển, trên đất liền, nền công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân ta cũng có những đặc trưng mới. Những đặc trưng đó vừa mang đặc điểm của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam thời kỳ đó, vừa mang tính quy luật chung. Ngoài ra, cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ tiến hành chống nước ta là hình thái chiến tranh từ ?othời đại công nghiệp? chuyển tiếp qua ?othời đại thông tin?, thời đại chiến tranh công nghệ cao, nên việc nghiên cứu tổng kết những đặc trưng này vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa mang tính lý luận, thời sự cần thiết và quan trọng trong xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân ta nói chung, trong việc xây dựng một chiến lược công nghệ quân sự nói riêng. Ở đây, chỉ xin giới thiệu một vài ý kiến nhận xét có tính chất tổng kết bước đầu. Để có được những kết luận tổng quát hơn, sâu sắc hơn, cần tổ chức và hình thành các công trình nghiên cứu chuyên đề toàn diện về vấn đề này.
    Đặc trưng thứ nhất : tính đan xen về công nghệ.
    Theo các nhà lý luận quân sự nước ngoài, xét theo quan điểm tiến hóa công nghệ quân sự trong tiến trình lịch sử loài người, chiến tranh đã qua bốn thế hệ: thế hệ thứ nhất là chiến tranh bằng vũ khí lạnh, thế hệ thứ hai là chiến tranh bằng vũ khí nóng (hoả khí), thế hệ thứ ba là chiến tranh hạt nhân, thế hệ thứ tư là chiến tranh bằng vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao.
    Ba thế hệ chiến tranh thể hiện sự tiến hóa về công nghệ quân sự nhằm tăng cường sức mạnh thể lực của con người nhờ sử dụng hiệu lực phản ứng chất nổ thông thường và nhiên liệu hạt nhân.
    Trong những năm 50 của thế kỷ XX, công nghệ điện tử và máy tính ra đời, tiếp đến là công nghệ vi điện tử và vi xử lý những năm 60 đụng chạm đến một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ mà trong suốt hàng ngàn năm tiến hóa văn minh chưa có một cuộc cách mạng công nghệ nào đề cập đến. Đó là khả năng tư duy (hoặc trí năng) của con người. Công nghệ vi điện tử, vi xử lý góp phần rất quan trọng tăng cường khả năng tư duy, khắc phục các trở ngại của bộ não con người trong việc xử lý thông tin. Trở ngại đó thể hiện ở hai khía cạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quân sự.
    Thứ nhất: cần xử lý thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, đa dạng hơn trong một thời gian ngắn hơn, được đo bằng giây, phần triệu giây và ngày nay là phần tỷ giây. Trở lại ngại này nằm ngoài khả năng tự nhiên của trí năng con người.
    Thứ hai: cần phát hiện, thu thập những thông tin ?ovô hình? nằm ngoài khả năng các giác quan của con người. Trong khoa học, người ta gọi đó là ?ocác sensor nhậy cảm?. Hệ thống sensor nhậy cảm của con người không thể nhận biết và xử lý được tín hiệu hồng ngoại cường độ thấp, tín hiệu siêu âu, hạ âm, tín hiệu rada, v.v?
    Công nghệ vi điện tử, vi xử lý giúp con người khắc phục được hai trở ngại đó và tạo ra một cuộc cách mạng tự động hóa vĩ đại trong công nghiệp. Ngay từ khi mới ra đời, công nghệ vi điện tử và vi xử lý được ứng dụng ngay trong công nghệ quân sự, mở đầu quá trình ?otrí năng hóa? hoặc ?othông tin hóa? các khí tài quân sự. Đương nhiên, trong thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70, công nghệ vi điện tử và vi xử lý chưa thể tạo ra được các phương tiện chiến tranh ?othay thế con người? như báo chí thời đó bình luận về cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam.
    Nhưng công nghệ vi điện tử và vi xử lý là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định nội dung khái niệm ?ocác phương tiện chiến tranh công nghệ cao?. Với quan niệm đó, cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam là giai đoạn chuyển tiếp sang một loại hình chiến tranh mới-chiến tranh thế hệ thứ tư hoặc chiến tranh công nghệ cao. Quá trình điều khiển tên lửa chống rada Shrike và sử dụng các hệ thống chiến tranh điện tử của Mỹ cũng như quá trình điều khiển tên lửa phòng không SAM-2, v.v? thực chất là quá trình xử lý thông tin tín hiệu tốc độ nhanh, vượt quá khả năng trí tuệ của con người.
    Đối phó thắng lợi chiến tranh xâm lược của Mỹ, các lực lượng vũ trang nhân dân ta tích luỹ được kinh nghiệm vô giá trong việc tổ chức và xây dựng lực lượng, trong đó có vấn đề vũ khí trang bị.
    Đặc trưng đan xen công nghệ thể hiện ở chỗ vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang nhân dân gồm nhiều thế hệ (từ giáo mác, cung tên, mìn bẫy, đến pháo, xe tăng, tên lửa, máy bay, tàu chiến, v.v?), nhiều trình độ, trong đó có cả trình độ công nghệ cao (tên lửa phòng không điều khiển bằng rada, tên lửa điều khiển bằng hồng ngoại lắp trên máy bay, tên lửa chống tăng có điều khiển, ngư lôi tự dẫn, v.v?) có thể điều khiển bằng tay, bằng máy, theo nguyên lý cơ khí, thuỷ lực, điện tử, hồng ngoại, v.v?
    Đặc trưng đan xen công nghệ không chỉ thể hiện trên quy mô tổng thể vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta mà còn thể hiện rất rõ ngay cả trong mảng vũ khí tự tạo trên chiến trường miền Nam. Vũ khí tự tạo của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam vừa được chi viện về công nghệ từ hậu phương lớn miền Bắc, vừa khai thác công nghệ từ phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ do ta thu được sau từng trận đánh hoặc chiến dịch thắng lợi. Nhờ thế, trình độ công nghệ của vũ khí trang bị tự tạo của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương có nhiều cấp độ khác nhau-từ thô sơ đơn giản như quả đạp lôi, một khối nổ không vỏ, đến tinh vi, có trình độ công nghệ cao hơn như những quả mìn bẫy chứa thuốc nổ cực mạnh có ngòi nổ hẹn giờ điện tử, tù những dàn phóng lựu đạn bố trí dưới mặt đất đến những quả mìn định hướng vừa dùng để diệt sinh lực, vừa sát thương máy bay lên thẳng. Tính chất đan xen công nghệ muôn màu muôn vẻ đó trong vũ khí tự tạo cũng như trong vũ khí trang bị viện trợ được phát huy bằng đường lối chỉ đạo chiến tranh tài tình và sáng suốt của Đảng, với tài thao lược trong sử dụng sáng tạo vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta đã góp phần khắc phục các khoảng trống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật trong tổ chức lực lượng và hoả lực, và tạo ra cuộc chiến tranh đặc biệt mà báo chí phương Tây gọi là ?ocuộc chiến tranh bằng ong vò vẽ? khiến cho cả lính Mỹ lẫn lính nguỵ đều lo sợ mỗi lần nghĩ đến cái chết đang chờ đợi họ trên mỗi bước bước chân hoặc trước mỗi phi vụ ở Việt Nam.

    Được dongadoan sửa chữa / chuyển vào 12:16 ngày 17/04/2005
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Tính chất đan xem công nghệ đó đã tạo ra hệ thống hoả lực sát thương đan xen (đan xen về tầm cao trong chiến đấu phòng không, đan xen về tình huống chiến thuật, đan xen về cách bố trí và tổ chức lực lượng). Nhờ khai thác tận dụng tính chất đan xen đó chúng ta đã tạo ra hệ thống hoả lực phù hợp với thế trận chiến tranh nhân dân của ta, tạo ra một loại hình chiến tranh du kích mới độc đáo, rất Việt Nam-không chỉ chiến tranh du kích trên đồng lầy Nam Bộ, mà cả chiến tranh du kích trên không, trên biển, đưa nghệ thuật chiến tranh du kích Việt Nam phát triển đến đỉnh cao mới.
    Tờ ?oThời báo? (Mỹ) số ra ngày 28 tháng 11 năm 1966 đã phải thú nhận: ?oDu kích Việt Nam trở thành những chuyên viên vĩ đại nhất, tài tình nhất trong lịch sử loài người?.
    Còn X.Pi-rốt, một nhà báo quân sự Pháp trong bài viết đăng trên tạp chí ?oCác lực lượng vũ trang? (Pháp) số ra ngày 30 tháng 4 năm 1975-đúng vào ngày ta hoàn toàn giải phóng miền Nam-cũng nhận xét: ?oỞ Bắc Việt Nam, trong hệ thống phòng không đan xen giữa pháo 23mm, 30mm, 37mm, 57mm,85mm và 100mm là tên lửa SAM-2, về sau là SAM-3. Trong hệ thống đó, SAM-2 đóng vai trò xua đuổi máy bay Mỹ từ độ cao lớn xuống độ cao thấp, ngang tầm với hoả lực phòng không tầm thấp rất nguy hiểm. Chính thế hoả lực đó giáng cho không quân Mỹ đòn thiệt hại với tỷ lệ 300 máy bay bị bắn rơi trong số 10.000 lượt chiếc trong năm 1966 và năm 1967?.
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Tính chất đan xem công nghệ đó đã tạo ra hệ thống hoả lực sát thương đan xen (đan xen về tầm cao trong chiến đấu phòng không, đan xen về tình huống chiến thuật, đan xen về cách bố trí và tổ chức lực lượng). Nhờ khai thác tận dụng tính chất đan xen đó chúng ta đã tạo ra hệ thống hoả lực phù hợp với thế trận chiến tranh nhân dân của ta, tạo ra một loại hình chiến tranh du kích mới độc đáo, rất Việt Nam-không chỉ chiến tranh du kích trên đồng lầy Nam Bộ, mà cả chiến tranh du kích trên không, trên biển, đưa nghệ thuật chiến tranh du kích Việt Nam phát triển đến đỉnh cao mới.
    Tờ ?oThời báo? (Mỹ) số ra ngày 28 tháng 11 năm 1966 đã phải thú nhận: ?oDu kích Việt Nam trở thành những chuyên viên vĩ đại nhất, tài tình nhất trong lịch sử loài người?.
    Còn X.Pi-rốt, một nhà báo quân sự Pháp trong bài viết đăng trên tạp chí ?oCác lực lượng vũ trang? (Pháp) số ra ngày 30 tháng 4 năm 1975-đúng vào ngày ta hoàn toàn giải phóng miền Nam-cũng nhận xét: ?oỞ Bắc Việt Nam, trong hệ thống phòng không đan xen giữa pháo 23mm, 30mm, 37mm, 57mm,85mm và 100mm là tên lửa SAM-2, về sau là SAM-3. Trong hệ thống đó, SAM-2 đóng vai trò xua đuổi máy bay Mỹ từ độ cao lớn xuống độ cao thấp, ngang tầm với hoả lực phòng không tầm thấp rất nguy hiểm. Chính thế hoả lực đó giáng cho không quân Mỹ đòn thiệt hại với tỷ lệ 300 máy bay bị bắn rơi trong số 10.000 lượt chiếc trong năm 1966 và năm 1967?.
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Hầu hết pháo cao xạ của Việt Nam thời ấy là do TQ viện trợ :
    Cao xạ 25mm :

    Cao xạ 37mm :

    Cao xạ 57mm :

  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Hầu hết pháo cao xạ của Việt Nam thời ấy là do TQ viện trợ :
    Cao xạ 25mm :

    Cao xạ 37mm :

    Cao xạ 57mm :

  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thêm một bài về chống AC-130 để bác levanle2001 tham khảo :
    Chiến tranh điện tử ngăn chặn toàn diện trên đường ?omòn? đã thất bại. Các nhà khoa học Mỹ kiến nghị chương trình ?oưu tiên tập trung? (Priority Concentration Programme) vào mục tiêu cơ động, một thủ đoạn ?ohiểm? trong chiến tranh điện tử, tiêu diệt ?ođồng thời? ba đối tượng: người-xe-hàng. Được Tổng thống Ních-xơn phê chuẩn, tháng 3-1971, các tổ hợp công nghệ kỹ thuật cao khẩn cấp huy động xúc tiến cải tạo AC.130E trang bị đồng bộ các loại khí tài điện tử ?osăn đuổi? ban đêm.
    Qua thực tiễn chiến đấu, thủ đoạn này đã khiến cho các binh chủng trên tuyến đường Trường Sơn gặp nhiều khó khăn. Chỉ một tháng các binh trạm bị tổn thất khá nặng, không hoàn thành kế hoạch....
    Trước thành bại nhiệm vụ, sinh mạng của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, Đảng ủy Đoàn 559 quyết nghị phải kịp thời tổ chức nhiều đoàn phái viên thâm nhập địa bàn. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh, các thủ trưởng cục thị sát từng vùng trọng điểm, kết luận chính xác. Tôi được phái đi cung đoạn Tha Mé-La Họp, hội với các binh trạm 33, 41.
    Tôi chuẩn bị rồi chờ trời tối hẳn mới xuất phát. Đồng chí Đỗ Ngân, lái xe, đề nghị tranh thủ vượt ?otrọng điểm? khi trời chạng vạng, lúc này ?oF? đã ngừng hoạt động, thằng ?oAC? chưa dám bay. Tôi phải phổ biến cho Ngân rõ trách nhiệm chuyến đi.
    Xe đến đường 9, Ngân quẹo xuống Bản Đông, tăng ga lách vượt đoàn xe tải, đột nhiên anh dừng lại ép vệ đường. Chiếc AC.130 từ cõi xa thẳm lừ lừ bay tới dọc đường 9. Nó bỗng nghiêng cánh, những tia lửa đỏ đọc phụt liên tiếp. Tôi lắng nghe. ?oÀ! Anh em gọi thằng ?oxập xình, xập thùng? là phỏng theo tiếng phóng đạn và tiếng nổ...?. Tôi hồi hộp đợi tín hiệu rủi ro. Không thấy lửa bốc lên. Chiếc ?oAC? lẳng lặng trôi ngược lên phía tây. Hơn mười phút, đoàn xe tải vẫn chưa tới. Tôi sốt ruột bảo Ngân quay lại. Cách Bản Keng chừng 5km, những chiếc Din ngụy trang như lùm cây lẫn với các bụi le xơ xác. Hai xe đầu bị phá tan thùng, vỡ lốp. Thợ, lái đang khẩn cấp sửa xe, bốc hàng. Tôi hỏi:
    - Nó bắn khi các đồng chí đang chạy à?
    - Nghe tiếng ?ovèo?, chúng tôi đã dẹp xuống vệ đường.
    - Nó đến các đồng chí tắt máy chưa?
    - Chiếc này dừng lại độ một phút thì nó đến, bắn liền.
    Tôi nhìn những vết đạn quanh xe, suy đoán: địch bắt được tín hiệu nhiệt, liền bắn... Có lẽ không thấy bốc lửa, nó bỏ đi.
    Sửa xong, đoàn xe khởi động máy đi tiếp, người đội trưởng chưa kịp lên buồng lái, chiếc ?oAC? đã vòng lại, xả luôn bốn phát. Lần này ba chiếc vỡ máy, gãy ?ogiường? xe. Anh đại đội trưởng nói to:
    - Xe hỏng tạm để đấy. Từng xe tranh thủ vượt cách nhau 100m. Chờ tại La Hạp.
    Đình ?oĐô?- anh lái lực lưỡng, dập cửa, nổ máy vọt nhanh. Mới chừng năm phút, rừng núi lại vang tiếng ?oxập thùng...?. Đoàn xe đứng khựng. Chiếc xe đầu vẫn phóng như lốc cuốn. Chiếc ?oAC? vè vè rượt theo bắn tới tấp. Đình đột ngột dừng lại, những chớp lửa vọt qua đầu ?oxập thùng?. Anh lượn sang phải, quặt sang trái, lao về hướng dốc thơm, ép sát núi tắt phụt máy. Mất hút con mồi, chiếc ?oAC? chao cánh xoay tròn săn lùng... Hai luồng lửa từ sườn dãy Vàng Đi vọt lên đan chéo xoắn lấy máy bay giặc, ?oCon quỷ? bốc vội quá tầm pháo 57, lảng nhanh xuống phía nam. Đỗ Ngân chớp thời dông một mạch tới bản Pe, nơi đặt binh trạm bộ 33.
    Hôm sau tôi với Binh trạm trưởng Hoàng Xuân Điền gặp các kiện tướng lái xe Trường Sơn. Trần Bách lái kỷ lục 58.000km an toàn suốt bốn mùa liên tục. Đỗ Văn Chiến, Anh hùng LLVT nhân dân. Hồ Hữu Sầm vượt trọng điểm xe bị bom cháy, anh cởi áo dập lửa, phóng một mạch về nơi an toàn. Kim Ngọc Quản-Anh hùng LLVT nhân dân được phong từ năm 1969 và các dũng sĩ Tô Đình Cao, Lại Phú Cương? Tất cả đã nhiều lần đụng độ AC130. Họ đều nói:
    - Cứ nhọ mặt người đã nghe tiếng ầm ì của ?oAC?...
    - Phát động máy chừng 2 phút có mặt nó, chỉ phút sau bắn liền?
    - Mỗi khu vực dài rộng khoảng trăm cây số có một thằng ?oxập thùng?. Cùng lúc ở khu đường 9 và nam bắc Bạc đều bị ?oAC? săn xe?
    - Tụi này bám rất dai. Đêm nào cũng quần lượn đến rạng sáng. Nó rất tỉnh, nhiều khi xe phát động máy dưới rừng già nó bắn trúng?
    - Vài nơi để sót cây ?onhiệt đới?, dù không có máy nổ cũng bị nó ?oxập thùng?.
    - Đêm trăng quá sáng, thằng ?oAC? ít hoạt động, sợ ăn đạn... Ban ngày nó ?ocạch?.
    Thế là rõ mặt mạnh thực sự của AC.130 và chỗ yếu của nó. Sau khi hội đủ các đoàn, Bộ Tư lệnh tổ chức cuộc họp bàn cách ?ođánh qụy? thủ đoạn kỹ thuật hiểm này. Hội nghị chủ trương: ?oĐổi mới ngay quy luật hoạt động trên toàn tuyến. Tổ chức vận tải lớn ban ngày, đồng thời duy trì lực lượng nhỏ lẻ vận tải ban đêm ở từng khu vực?.
    Kiên quyết thực hiện các biện pháp lớn: Tập trung lực lượng công binh xây dựng ?ođường kín? trong mùa mưa 1971 và tiếp giáp các chiến trường, kịp sử dụng đầu mùa khô 1972. Tổ chức nhiều ?oga? tránh, có trạm chỉ huy chặt chẽ. Cải tiến tổ chức đài cảnh giới theo dõi địch từ xa, đài cảnh giới dọc tuyến, kịp phát hiện các thủ đoạn kỹ thuật trinh sát của không quân, mặt đất. Thường xuyên truy quét biệt kích, thám báo, chỉ điểm. Quét sạch khí tài trinh sát điện tử rải khắp rừng Trường Sơn. Mở nhiều đường xương cá để xe ẩn nấp, đường vòng tránh khu vực bị uy hiếp mạnh. Cấu trúc nhiều công trình ?odụ địch?... Bố trí trận địa phòng không nhiều tầng hoả lực phục sẵn, kết hợp công binh ?onhử địch? tới, đánh đòn tiêu diệt lớn.
    Kết quả mùa khô 1971-1972, bộ đội Trường Sơn đã vô hiệu hóa thủ đoạn AC.130 và diệt được hai chiếc. Tổng số tấn cây số vận tải tăng gấp 3 lần năm 1969-1971, gấp 14,5 lần năm 1966-1967.

    Phương Việt



    http://www.quandoinhandan.org.vn




Chia sẻ trang này