1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí VN trong 2 cuộc kháng chiến

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thêm một bài về chống AC-130 để bác levanle2001 tham khảo :
    Chiến tranh điện tử ngăn chặn toàn diện trên đường ?omòn? đã thất bại. Các nhà khoa học Mỹ kiến nghị chương trình ?oưu tiên tập trung? (Priority Concentration Programme) vào mục tiêu cơ động, một thủ đoạn ?ohiểm? trong chiến tranh điện tử, tiêu diệt ?ođồng thời? ba đối tượng: người-xe-hàng. Được Tổng thống Ních-xơn phê chuẩn, tháng 3-1971, các tổ hợp công nghệ kỹ thuật cao khẩn cấp huy động xúc tiến cải tạo AC.130E trang bị đồng bộ các loại khí tài điện tử ?osăn đuổi? ban đêm.
    Qua thực tiễn chiến đấu, thủ đoạn này đã khiến cho các binh chủng trên tuyến đường Trường Sơn gặp nhiều khó khăn. Chỉ một tháng các binh trạm bị tổn thất khá nặng, không hoàn thành kế hoạch....
    Trước thành bại nhiệm vụ, sinh mạng của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, Đảng ủy Đoàn 559 quyết nghị phải kịp thời tổ chức nhiều đoàn phái viên thâm nhập địa bàn. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh, các thủ trưởng cục thị sát từng vùng trọng điểm, kết luận chính xác. Tôi được phái đi cung đoạn Tha Mé-La Họp, hội với các binh trạm 33, 41.
    Tôi chuẩn bị rồi chờ trời tối hẳn mới xuất phát. Đồng chí Đỗ Ngân, lái xe, đề nghị tranh thủ vượt ?otrọng điểm? khi trời chạng vạng, lúc này ?oF? đã ngừng hoạt động, thằng ?oAC? chưa dám bay. Tôi phải phổ biến cho Ngân rõ trách nhiệm chuyến đi.
    Xe đến đường 9, Ngân quẹo xuống Bản Đông, tăng ga lách vượt đoàn xe tải, đột nhiên anh dừng lại ép vệ đường. Chiếc AC.130 từ cõi xa thẳm lừ lừ bay tới dọc đường 9. Nó bỗng nghiêng cánh, những tia lửa đỏ đọc phụt liên tiếp. Tôi lắng nghe. ?oÀ! Anh em gọi thằng ?oxập xình, xập thùng? là phỏng theo tiếng phóng đạn và tiếng nổ...?. Tôi hồi hộp đợi tín hiệu rủi ro. Không thấy lửa bốc lên. Chiếc ?oAC? lẳng lặng trôi ngược lên phía tây. Hơn mười phút, đoàn xe tải vẫn chưa tới. Tôi sốt ruột bảo Ngân quay lại. Cách Bản Keng chừng 5km, những chiếc Din ngụy trang như lùm cây lẫn với các bụi le xơ xác. Hai xe đầu bị phá tan thùng, vỡ lốp. Thợ, lái đang khẩn cấp sửa xe, bốc hàng. Tôi hỏi:
    - Nó bắn khi các đồng chí đang chạy à?
    - Nghe tiếng ?ovèo?, chúng tôi đã dẹp xuống vệ đường.
    - Nó đến các đồng chí tắt máy chưa?
    - Chiếc này dừng lại độ một phút thì nó đến, bắn liền.
    Tôi nhìn những vết đạn quanh xe, suy đoán: địch bắt được tín hiệu nhiệt, liền bắn... Có lẽ không thấy bốc lửa, nó bỏ đi.
    Sửa xong, đoàn xe khởi động máy đi tiếp, người đội trưởng chưa kịp lên buồng lái, chiếc ?oAC? đã vòng lại, xả luôn bốn phát. Lần này ba chiếc vỡ máy, gãy ?ogiường? xe. Anh đại đội trưởng nói to:
    - Xe hỏng tạm để đấy. Từng xe tranh thủ vượt cách nhau 100m. Chờ tại La Hạp.
    Đình ?oĐô?- anh lái lực lưỡng, dập cửa, nổ máy vọt nhanh. Mới chừng năm phút, rừng núi lại vang tiếng ?oxập thùng...?. Đoàn xe đứng khựng. Chiếc xe đầu vẫn phóng như lốc cuốn. Chiếc ?oAC? vè vè rượt theo bắn tới tấp. Đình đột ngột dừng lại, những chớp lửa vọt qua đầu ?oxập thùng?. Anh lượn sang phải, quặt sang trái, lao về hướng dốc thơm, ép sát núi tắt phụt máy. Mất hút con mồi, chiếc ?oAC? chao cánh xoay tròn săn lùng... Hai luồng lửa từ sườn dãy Vàng Đi vọt lên đan chéo xoắn lấy máy bay giặc, ?oCon quỷ? bốc vội quá tầm pháo 57, lảng nhanh xuống phía nam. Đỗ Ngân chớp thời dông một mạch tới bản Pe, nơi đặt binh trạm bộ 33.
    Hôm sau tôi với Binh trạm trưởng Hoàng Xuân Điền gặp các kiện tướng lái xe Trường Sơn. Trần Bách lái kỷ lục 58.000km an toàn suốt bốn mùa liên tục. Đỗ Văn Chiến, Anh hùng LLVT nhân dân. Hồ Hữu Sầm vượt trọng điểm xe bị bom cháy, anh cởi áo dập lửa, phóng một mạch về nơi an toàn. Kim Ngọc Quản-Anh hùng LLVT nhân dân được phong từ năm 1969 và các dũng sĩ Tô Đình Cao, Lại Phú Cương? Tất cả đã nhiều lần đụng độ AC130. Họ đều nói:
    - Cứ nhọ mặt người đã nghe tiếng ầm ì của ?oAC?...
    - Phát động máy chừng 2 phút có mặt nó, chỉ phút sau bắn liền?
    - Mỗi khu vực dài rộng khoảng trăm cây số có một thằng ?oxập thùng?. Cùng lúc ở khu đường 9 và nam bắc Bạc đều bị ?oAC? săn xe?
    - Tụi này bám rất dai. Đêm nào cũng quần lượn đến rạng sáng. Nó rất tỉnh, nhiều khi xe phát động máy dưới rừng già nó bắn trúng?
    - Vài nơi để sót cây ?onhiệt đới?, dù không có máy nổ cũng bị nó ?oxập thùng?.
    - Đêm trăng quá sáng, thằng ?oAC? ít hoạt động, sợ ăn đạn... Ban ngày nó ?ocạch?.
    Thế là rõ mặt mạnh thực sự của AC.130 và chỗ yếu của nó. Sau khi hội đủ các đoàn, Bộ Tư lệnh tổ chức cuộc họp bàn cách ?ođánh qụy? thủ đoạn kỹ thuật hiểm này. Hội nghị chủ trương: ?oĐổi mới ngay quy luật hoạt động trên toàn tuyến. Tổ chức vận tải lớn ban ngày, đồng thời duy trì lực lượng nhỏ lẻ vận tải ban đêm ở từng khu vực?.
    Kiên quyết thực hiện các biện pháp lớn: Tập trung lực lượng công binh xây dựng ?ođường kín? trong mùa mưa 1971 và tiếp giáp các chiến trường, kịp sử dụng đầu mùa khô 1972. Tổ chức nhiều ?oga? tránh, có trạm chỉ huy chặt chẽ. Cải tiến tổ chức đài cảnh giới theo dõi địch từ xa, đài cảnh giới dọc tuyến, kịp phát hiện các thủ đoạn kỹ thuật trinh sát của không quân, mặt đất. Thường xuyên truy quét biệt kích, thám báo, chỉ điểm. Quét sạch khí tài trinh sát điện tử rải khắp rừng Trường Sơn. Mở nhiều đường xương cá để xe ẩn nấp, đường vòng tránh khu vực bị uy hiếp mạnh. Cấu trúc nhiều công trình ?odụ địch?... Bố trí trận địa phòng không nhiều tầng hoả lực phục sẵn, kết hợp công binh ?onhử địch? tới, đánh đòn tiêu diệt lớn.
    Kết quả mùa khô 1971-1972, bộ đội Trường Sơn đã vô hiệu hóa thủ đoạn AC.130 và diệt được hai chiếc. Tổng số tấn cây số vận tải tăng gấp 3 lần năm 1969-1971, gấp 14,5 lần năm 1966-1967.

    Phương Việt



    http://www.quandoinhandan.org.vn




  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nói về ĐKB và A -12 { bài của Mai Sơn trên báo Quân đội } :
    Cần chi viện cho pháo binh quân giải phóng miền Nam các loại pháo có tầm bắn xa, uy lực lớn, sức cơ động cao, hướng giải quyết theo hai cách là cải tiến vũ khí của ta hiện có và đề nghị Liên Xô giúp.
    Năm 1966, máy bay AN-22 của Liên Xô chở sang cho ta loại hỏa tiễn mới, pháo D- cỡ 122mm, tầm bắn xa 11km, đạn nặng gần 60kg. Loại này chưa từng trang bị cho quân đội Việt Nam. Sang Việt Nam, được cải tiến, có thể tháo rời làm 3 bộ phận để cơ động thuận tiện hơn, ta đặt tên là pháo DKB. Một mặt, trong phòng thí nghiệm của Bộ tư lệnh pháo binh, các cán bộ khoa học cũng đang mải miết nghiên cứu cải tiến pháo hỏa tiễn BM-14-17 cỡ 140 mm, nặng 4 tấn, có 17 nòng bắn đạn phản lực, nặng 40kg thành hỏa tiễn mang vác mà vẫn giữ được nguyên tính năng chiến kỹ thuật gọi là pháo A-12. Trước khi đưa loại vũ khí mới này vào chiến trường miền Nam, phải huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo và bắn trình diễn cho cấp trên xem. Đồng chí Nguyễn Thế Lâm, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh chỉ thị cho chúng tôi phải tổ chức bắn thật tốt, thật an toàn và trúng mục tiêu. Tôi được phân công viết báo cáo giới thiệu vũ khí và tổ chức bắn trình diễn. Hôm thông qua báo cáo, đồng chí Tùng Lâm, Tham mưu phó binh chủng, hoàn toàn nhất trí không cần phải thêm bớt gì, còn dặn tôi khi thuyết trình với cấp trên cần bình tĩnh, rõ ràng.
    Vào một ngày cuối tháng 6-1966, trời quang mây tạnh, ở trường bắn Xuân Mai, đội hình thực nghiệm bắn trình diễn đã sẵn sàng. Tôi phân công đại úy Uyên lên đài quan khách làm nhiệm vụ thuyết minh, còn tôi và đồng chí trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô ở trận địa bắn. Lúc này lực lượng bảo vệ trường bắn đã triển khai xong pháo cao xạ nhiều nòng vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, trên trời nhiều máy bay MIG-21 quần lượn tuần tiễu. Đầu tiên là xe của đồng chí Lê Văn Tri, Tư lệnh bộ đội tên lửa phòng không tiến vào trận địa. Bất ngờ, ở một hướng phụ, tôi thấy 1 rồi 2, 3, 4 chiếc xe con lần lượt tiến vào. Hơn 10 người trên các xe bước xuống, đi giữa hàng đầu là một người mặc quần áo trắng, đội mũ cát két đen, chân đi dép cao su.
    Chúng tôi phấn khởi nhận ra Bác Hồ... Bác Hồ đang vào trận địa. Cùng đi với Bác có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và nhiều đồng chí Trung ương nữa như Vũ Tuân, Song Hào, Đinh Đức Thiện... Mừng quá! Mừng nhưng lúng túng, vụng về và chúng tôi vội báo tin cho nhau: ?oBác Hồ đến! Bác Hồ đến thật à? Bác đang ở đâu??-Hỏi nhau ríu rít trên điện thoại. Đầu phía điện thoại bên kia, một người Nga nói tiếng Việt giọng thiết tha: ?oĐồng chí Mai Sơn, hãy cho tôi về ngay trận địa!-Về ngay, vì ở đấy có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến. Tôi chưa được gặp bao giờ. Đồng ý đi Mai Sơn. Cảm ơn nhiều lắm!?.
    Bác Hồ và các đồng chí Trung ương đến trận địa A-12 do đồng chí Nguyễn Trung Lực phụ trách báo cáo. Bác và đồng chí Trường Chinh cười khi xem A-12 nằm trên bệ đất, dùng dây thừng buộc cố định ống phóng. Bác nói đây là hàng nội hóa. Bác và Trung ương hài lòng về sự cải tiến này: từ một xe nặng gần 5 tấn bắn 17 phát hết 9 giây thì A-12 chỉ nặng 40kg mà bắn 50 phát hết có 3 giây. Tôi làm nhiệm vụ giới thiệu vũ khí, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng động viên là nói ngắn gọn nên chỉ hết có 7 phút mà nội dung vẫn đầy đủ.
    Sang phần bắn trình diễn, do điều kiện khí hậu thay đổi nên phải bổ sung phần tử bắn tăng tầm 90m, bắn mỗi loạt 4 phát. Lệnh bắn vừa dứt, 4 quả đạn như 4 con rồng lửa réo, bay về phía mục tiêu. Chỉ vài giây sau đã trông thấy những cột khói to rồi tiếng nổ ầm ầm vang động núi rừng Ba Vì, tỉnh Sơn Tây. Đài quan sát báo về: đạn trùm mục tiêu. Mọi người reo lên sung sướng, còn tôi cố kìm sự phấn khởi, bình tĩnh ra lệnh tiếp: ?oGiữ nguyên phần tử. Bắn loạt 2?. Đạn lại trùm mục tiêu. Bắn loạt 3, đạn vẫn trùm mục tiêu. Tôi đang định hạ lệnh bắn tiếp loạt thứ tư, thì từ trên đài tham quan có lệnh xuống: ?oTạm dừng?. Bác Hồ ra lệnh thôi bắn để tiết kiệm đạn mang ra chiến trường. Bắn 12 phát ĐKB và 4 phát A-12 đã đủ đánh giá được tính năng vũ khí mới. Lập tức xe chúng tôi cùng trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô phóng nhanh như bay về phía mục tiêu để giữ nguyên hiện trường. Và thấy đạn trúng giao thông hào, làm sạt lở nhiều chỗ, các hình nộm bay tứ tung đổ ngả nghiêng. 13 con chó thí nghiệm sống 1, chết 6, bị thương 5, còn một con không bị mảnh đạn nào thì lông cũng xám xịt, mồm và mũi rỉ máu run lẩy bẩy.
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng nghe báo cáo và xem trực tiếp sức công phá của đạn, sau đó nói với đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia: ?oChính phủ Việt Nam đánh giá cao loại vũ khí mới. Cho tôi gửi lời cảm ơn Đảng, Chính phủ Liên Xô và các chiến sĩ Việt Nam đang chờ loại vũ khí mới này?. Trưởng đoàn chuyên gia lắng nghe lời dịch lại của đồng chí Tư lệnh pháo binh Nguyễn Thế Lâm. Ông rất cảm động và hứa với Thủ tướng lĩnh hội ý kiến về Mát-xcơ-va, báo cáo ngay với Đảng và Chính phủ mình.
    Cả trường bắn hân hoan về thành công của cuộc bắn trình diễn cho Bác Hồ và Trung ương xem. Các chuyên gia cũng chia vui với cán bộ và chiến sĩ ta, lấy thuốc lá Bác Hồ cho hút ăn mừng. Một người trong số họ là đại tá pháo binh Rô-ma-nốp, người được phân công đi đài giao hội, không muốn châm thuốc lá của mình hút mà mở ví cất cẩn thận, trịnh trọng nói với các bạn: ?oCho tôi hút thuốc lá chung với, vì ngày mai tôi về Mát-xcơ-va nên muốn dành điếu thuốc quý này cho bạn bè và vợ. Chắc họ rất vui là bạn mình, chồng mình được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người... cho thuốc lá?.
    Là chiến sĩ trưởng thành ở Binh chủng Pháo binh, có vinh dự lớn được báo cáo với Bác Hồ và Trung ương trong buổi bắn trình diễn vũ khí mới. Bác dặn tiết kiệm đạn như lời cha dạy con. Kỷ niệm ấy chẳng bao giờ phai mờ. Bác Hồ mãi mãi trong tôi.
    Trần Quang Tạo ghi
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Nói về ĐKB và A -12 { bài của Mai Sơn trên báo Quân đội } :
    Cần chi viện cho pháo binh quân giải phóng miền Nam các loại pháo có tầm bắn xa, uy lực lớn, sức cơ động cao, hướng giải quyết theo hai cách là cải tiến vũ khí của ta hiện có và đề nghị Liên Xô giúp.
    Năm 1966, máy bay AN-22 của Liên Xô chở sang cho ta loại hỏa tiễn mới, pháo D- cỡ 122mm, tầm bắn xa 11km, đạn nặng gần 60kg. Loại này chưa từng trang bị cho quân đội Việt Nam. Sang Việt Nam, được cải tiến, có thể tháo rời làm 3 bộ phận để cơ động thuận tiện hơn, ta đặt tên là pháo DKB. Một mặt, trong phòng thí nghiệm của Bộ tư lệnh pháo binh, các cán bộ khoa học cũng đang mải miết nghiên cứu cải tiến pháo hỏa tiễn BM-14-17 cỡ 140 mm, nặng 4 tấn, có 17 nòng bắn đạn phản lực, nặng 40kg thành hỏa tiễn mang vác mà vẫn giữ được nguyên tính năng chiến kỹ thuật gọi là pháo A-12. Trước khi đưa loại vũ khí mới này vào chiến trường miền Nam, phải huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo và bắn trình diễn cho cấp trên xem. Đồng chí Nguyễn Thế Lâm, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh chỉ thị cho chúng tôi phải tổ chức bắn thật tốt, thật an toàn và trúng mục tiêu. Tôi được phân công viết báo cáo giới thiệu vũ khí và tổ chức bắn trình diễn. Hôm thông qua báo cáo, đồng chí Tùng Lâm, Tham mưu phó binh chủng, hoàn toàn nhất trí không cần phải thêm bớt gì, còn dặn tôi khi thuyết trình với cấp trên cần bình tĩnh, rõ ràng.
    Vào một ngày cuối tháng 6-1966, trời quang mây tạnh, ở trường bắn Xuân Mai, đội hình thực nghiệm bắn trình diễn đã sẵn sàng. Tôi phân công đại úy Uyên lên đài quan khách làm nhiệm vụ thuyết minh, còn tôi và đồng chí trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô ở trận địa bắn. Lúc này lực lượng bảo vệ trường bắn đã triển khai xong pháo cao xạ nhiều nòng vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, trên trời nhiều máy bay MIG-21 quần lượn tuần tiễu. Đầu tiên là xe của đồng chí Lê Văn Tri, Tư lệnh bộ đội tên lửa phòng không tiến vào trận địa. Bất ngờ, ở một hướng phụ, tôi thấy 1 rồi 2, 3, 4 chiếc xe con lần lượt tiến vào. Hơn 10 người trên các xe bước xuống, đi giữa hàng đầu là một người mặc quần áo trắng, đội mũ cát két đen, chân đi dép cao su.
    Chúng tôi phấn khởi nhận ra Bác Hồ... Bác Hồ đang vào trận địa. Cùng đi với Bác có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và nhiều đồng chí Trung ương nữa như Vũ Tuân, Song Hào, Đinh Đức Thiện... Mừng quá! Mừng nhưng lúng túng, vụng về và chúng tôi vội báo tin cho nhau: ?oBác Hồ đến! Bác Hồ đến thật à? Bác đang ở đâu??-Hỏi nhau ríu rít trên điện thoại. Đầu phía điện thoại bên kia, một người Nga nói tiếng Việt giọng thiết tha: ?oĐồng chí Mai Sơn, hãy cho tôi về ngay trận địa!-Về ngay, vì ở đấy có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến. Tôi chưa được gặp bao giờ. Đồng ý đi Mai Sơn. Cảm ơn nhiều lắm!?.
    Bác Hồ và các đồng chí Trung ương đến trận địa A-12 do đồng chí Nguyễn Trung Lực phụ trách báo cáo. Bác và đồng chí Trường Chinh cười khi xem A-12 nằm trên bệ đất, dùng dây thừng buộc cố định ống phóng. Bác nói đây là hàng nội hóa. Bác và Trung ương hài lòng về sự cải tiến này: từ một xe nặng gần 5 tấn bắn 17 phát hết 9 giây thì A-12 chỉ nặng 40kg mà bắn 50 phát hết có 3 giây. Tôi làm nhiệm vụ giới thiệu vũ khí, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng động viên là nói ngắn gọn nên chỉ hết có 7 phút mà nội dung vẫn đầy đủ.
    Sang phần bắn trình diễn, do điều kiện khí hậu thay đổi nên phải bổ sung phần tử bắn tăng tầm 90m, bắn mỗi loạt 4 phát. Lệnh bắn vừa dứt, 4 quả đạn như 4 con rồng lửa réo, bay về phía mục tiêu. Chỉ vài giây sau đã trông thấy những cột khói to rồi tiếng nổ ầm ầm vang động núi rừng Ba Vì, tỉnh Sơn Tây. Đài quan sát báo về: đạn trùm mục tiêu. Mọi người reo lên sung sướng, còn tôi cố kìm sự phấn khởi, bình tĩnh ra lệnh tiếp: ?oGiữ nguyên phần tử. Bắn loạt 2?. Đạn lại trùm mục tiêu. Bắn loạt 3, đạn vẫn trùm mục tiêu. Tôi đang định hạ lệnh bắn tiếp loạt thứ tư, thì từ trên đài tham quan có lệnh xuống: ?oTạm dừng?. Bác Hồ ra lệnh thôi bắn để tiết kiệm đạn mang ra chiến trường. Bắn 12 phát ĐKB và 4 phát A-12 đã đủ đánh giá được tính năng vũ khí mới. Lập tức xe chúng tôi cùng trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô phóng nhanh như bay về phía mục tiêu để giữ nguyên hiện trường. Và thấy đạn trúng giao thông hào, làm sạt lở nhiều chỗ, các hình nộm bay tứ tung đổ ngả nghiêng. 13 con chó thí nghiệm sống 1, chết 6, bị thương 5, còn một con không bị mảnh đạn nào thì lông cũng xám xịt, mồm và mũi rỉ máu run lẩy bẩy.
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng nghe báo cáo và xem trực tiếp sức công phá của đạn, sau đó nói với đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia: ?oChính phủ Việt Nam đánh giá cao loại vũ khí mới. Cho tôi gửi lời cảm ơn Đảng, Chính phủ Liên Xô và các chiến sĩ Việt Nam đang chờ loại vũ khí mới này?. Trưởng đoàn chuyên gia lắng nghe lời dịch lại của đồng chí Tư lệnh pháo binh Nguyễn Thế Lâm. Ông rất cảm động và hứa với Thủ tướng lĩnh hội ý kiến về Mát-xcơ-va, báo cáo ngay với Đảng và Chính phủ mình.
    Cả trường bắn hân hoan về thành công của cuộc bắn trình diễn cho Bác Hồ và Trung ương xem. Các chuyên gia cũng chia vui với cán bộ và chiến sĩ ta, lấy thuốc lá Bác Hồ cho hút ăn mừng. Một người trong số họ là đại tá pháo binh Rô-ma-nốp, người được phân công đi đài giao hội, không muốn châm thuốc lá của mình hút mà mở ví cất cẩn thận, trịnh trọng nói với các bạn: ?oCho tôi hút thuốc lá chung với, vì ngày mai tôi về Mát-xcơ-va nên muốn dành điếu thuốc quý này cho bạn bè và vợ. Chắc họ rất vui là bạn mình, chồng mình được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người... cho thuốc lá?.
    Là chiến sĩ trưởng thành ở Binh chủng Pháo binh, có vinh dự lớn được báo cáo với Bác Hồ và Trung ương trong buổi bắn trình diễn vũ khí mới. Bác dặn tiết kiệm đạn như lời cha dạy con. Kỷ niệm ấy chẳng bao giờ phai mờ. Bác Hồ mãi mãi trong tôi.
    Trần Quang Tạo ghi
  4. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Đây là trích từ ký sự túi lửa của đồng chí Việt Phương , được ghi chép trong thời kì được cử vào công tác với đoàn 559. Trong kí sự này có nhân chính uỷ Th rất phản diện , không biết hiện nay là ai trong quân đội ?
  5. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Đây là trích từ ký sự túi lửa của đồng chí Việt Phương , được ghi chép trong thời kì được cử vào công tác với đoàn 559. Trong kí sự này có nhân chính uỷ Th rất phản diện , không biết hiện nay là ai trong quân đội ?
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Một nhà khoa học nữa của ta là người đã chế Bazoka ở Thái Bình, một trong ba loại Bazoka của ta.
    ------------------ Trích từ bài của HP --------------------------
    Người có công đầu chế tạo SKZ Việt Nam

    Trong những năm kháng chiến chống Pháp, cùng với sản xuất súng ĐKZ ngành quân giới Việt Nam đã sản xuất thành công súng không giật: SKZ 60. Những người có công nghiên cứu, chế tạo thành công SKZ là những trí thức-người thợ chiến sĩ anh bộ đội *****: Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu..., nhưng người có công lớn nhất là liệt sĩ Nguyễn Trinh Tiếp. Cụ Đỗ Đức Dục, nguyên Phó tư lệnh-Chủ nhiệm kỹ thuật liên khu II, kể lại:
    ...Đầu năm 1947, Nha nghiên cứu kỹ thuật Cục quân giới vừa chuyển lên Tuyên Quang, nhận trách nhiệm xây dựng một phòng xạ thuật (balistique), ta quen gọi là phòng thiết kế vũ khí. Ông Nguyễn Trinh Tiếp, quê ở Nông Cống-Thanh Hóa, học trường cao đẳng công chính cùng tôi, khóa đầu tiên của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Học xong thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chúng tôi cùng về cơ quan nghiên cứu vũ khí đầu tiên của ta. Sau 3 tháng, ông Tiếp được cử làm trưởng phòng, còn tôi là cấp phó. Nha nghiên cứu kỹ thuật lúc ra đời đóng ở Vân Đình-Hà Tây. Cục trưởng kiêm Giám đốc là đồng chí Trần Văn Lễ (tức Trần Đại Nghĩa), là người đã dạy chúng tôi mấy buổi về xạ thuật. Đồng chí Hoàng Đình Phu lúc đó là Phó giám đốc ghi chép cẩn thận các bài giảng và trao lại cho đồng chí Tiếp. Đồng chí Tiếp từng tốt nghiệp tú tài toán ở trường Khải Định (Huế), ra Hà Nội học toán đại cương và cơ học lý tưởng ở Trường cao đẳng khoa học, có vốn về toán cao cấp, lại là người thông minh, đức tính rất khiêm tốn, tác phong làm việc khoa học, đã triển khai công việc rất khẩn trương. Lúc chuyển lên Tuyên Quang, Nha nghiên cứu kỹ thuật được tiếp nhận kho vũ khí trước đây của Pháp-Nhật. Một tủ sách khoa học do đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc phòng mới sưu tầm và mua ở Pháp từ năm 1946 khi ông đi dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô. Lúc này nhiều anh em mới được bổ sung về, rất nhiệt tình học tập, vươn lên trong khi nhiệm vụ đầy khó khăn phức tạp...
    Thu đông 1947, sau khi ta giành chiến thắng lớn trong chiến dịch Việt Bắc, thì quân Pháp co cụm về các phòng tuyến với những boong-ke rất kiên cố. Nhiệm vụ Bộ Quốc phòng đặt ra lúc này là làm thế nào phải có loại vũ khí phá được công sự boong-ke. Anh em tự mày mò nghiên cứu. Chính đồng chí Tiếp đã nghĩ đến loại vũ khí dùng nguyên lý không giật với đạn lõm (dùng hiệu ứng monroe) tầm bắn gần nhưng sức công phá mạnh. Tài liệu lúc đó chủ yếu về súng đạn chống tăng của Liên Xô, Đức, Nhật, Pháp mà ta đã nghiên cứu chế tạo thành công badôka và AT rồi. Đồng chí Tiếp nghĩ đến súng Pan-dơ-phót của Đức và cho tăng lượng nổ ở đạn, nhưng công nghệ chế tạo đối với ta lúc đó là quá sức. Sau khi tham khảo loại súng không giật 57 và 75mm của Mỹ thì nòng súng phải có rãnh xoắn cũng rất khó chế tạo. Loại bom ba càng (của Mỹ) lượng thuốc nổ chừng 2kg, ta đã thử ở mỏ Tràng Đà trên tả ngạn sông Lô (đối diện với Tuyên Quang) từ tháng 4-1947, nó xuyên thủng được tường gạch dày chừng 1m... Cân nhắc kỹ, đồng chí Tiếp đã đề xuất chọn đề án dùng quả đạn dài 1,2m cỡ 120mm bằng ống thép tóp, đuôi cỡ 60mm bằng gỗ đút vào nòng súng, lượng nổ 2,2kg, dùng tác dụng lõm. Loại súng này gồm 3 đoạn: đoạn chứa đuôi dài 0,8m, cỡ 60,8mm; đoạn bụng dài 0,4m, cỡ 82mm chịu áp lực tối đa 320kg/cm2; đoạn tuy-e dài 8-10cm, cỡ 50mm. Khẩu súng như vậy nặng 9kg, sơ tốc bắn 75-80m/giây; tầm hiệu quả 50-60m. Để chế tạo, dùng nguyên liệu chủ yếu là ống thép dày 2mm; một ít đồng, vàng và gỗ; riêng bọng súng dùng thép tiện và dày hơn. Anh em đặt tên SKZ 60, là viết tắt ba chữ ?osúng không giật?, loại cỡ nòng 60mm...
    Đề án chế tạo SKZ 60 được Phó giám đốc Hoàng Đình Phu chấp nhận, khi trình lên Cục được Cục trưởng-Giám đốc Trần Đại Nghĩa hoan nghênh cho thực hiện ngay. Đây là nhiệm vụ trọng tâm rất quan trọng nên được khẩn trương sản xuất thử nghiệm ngay. Lúc bấy giờ Nha đóng ở gần Bến Đĩa, cách Đoan Hùng chừng 10km. Nguyên liệu sản xuất thì nhặt nhạnh khắp nơi về, tổ chức bắn thử liên tục vào ụ đất, núi đá, tường thành cổ (ở Tuyên Quang) dày 1m... để khảo sát, đo đạc, thực nghiệm từ độ lùi, tầm bắn, tính sơ tốc đạn, độ xuyên, sức công phá... Thời gian này, Cục trưởng Trần Đại Nghĩa cũng thỉnh thoảng gửi thư công tác, không chỉ động viên mà nói thêm về tính toán. Hàng chục anh chị em làm việc suốt đêm dưới ánh đèn dầu để tính toán. Từ đó đi đến hoàn thiện trong thời gian ngắn. Lần thử nghiệm cuối cùng là bắn tổng hợp thực sự chiến trường, có Phó giám đốc thường trực quan sát, một cán bộ trực tiếp làm xạ thủ, đã kết thúc tốt đẹp 6 tháng nghiên cứu; sau đó đi vào sản xuất hàng loạt. Qua chiến đấu, những chiến công vang dội ngay sau đó do SKZ 60 đem lại ở Phố Lu, Phố Ràng,... (Tây Bắc), chùa Dầu (Ninh Bình), đến Măng Giang, Kom-plong (Khu 5)... đã nói lên hiệu quả to lớn của SKZ Việt Nam.
    Cũng cần nói thêm: Từ SKZ 60 là cả một dòng họ SKZ nối tiếp nhau ra đời nhưng hiệu quả và phù hợp nhất với chiến trường, được trang bị khắp các đại đoàn chủ lực sau đó là SKZ 60, một loại vũ khí hoàn toàn do Việt Nam nghiên cứu chế tạo, mà công lao lớn nhất thuộc về đồng chí Nguyễn Trinh Tiếp. Đồng chí vừa là tác giả của đề án thông minh và táo bạo này, vừa trực tiếp chủ trì từ nghiên cứu, thực nghiệm, hoàn thành xuất sắc công trình sản xuất vũ khí mới phục vụ chiến đấu kịp thời, hiệu quả. Đến 7-1950, Nha nghiên cứu kỹ thuật lúc này đã đổi tên là Viện-được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3 là huân chương Quân công đầu tiên Nhà nước tặng thưởng cho một cơ quan, và đồng chí Tiếp mới 26 tuổi đã được cử làm Viện trưởng... Đầu năm 1953, Viện giải thể, đồng chí Tiếp sang làm một kỹ sư ngành giao thông vận tải. Năm 1967, khi anh mới được đề cử làm Cục phó Cục quản lý đường bộ, thì trong một chuyến công tác vào Quân khu 4, ngày 24-6-1967 anh đã vĩnh viễn ra đi vì bom Mỹ, ở tuổi sung sức 43 xuân. Đồng chí, đồng đội, Tổ quốc tiếc thương vì đã mất một cán bộ vừa có đức, vừa có tài, có nhiều cống hiến cho đất nước.


    T.N (lược thuật)

  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Một nhà khoa học nữa của ta là người đã chế Bazoka ở Thái Bình, một trong ba loại Bazoka của ta.
    ------------------ Trích từ bài của HP --------------------------
    Người có công đầu chế tạo SKZ Việt Nam

    Trong những năm kháng chiến chống Pháp, cùng với sản xuất súng ĐKZ ngành quân giới Việt Nam đã sản xuất thành công súng không giật: SKZ 60. Những người có công nghiên cứu, chế tạo thành công SKZ là những trí thức-người thợ chiến sĩ anh bộ đội *****: Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu..., nhưng người có công lớn nhất là liệt sĩ Nguyễn Trinh Tiếp. Cụ Đỗ Đức Dục, nguyên Phó tư lệnh-Chủ nhiệm kỹ thuật liên khu II, kể lại:
    ...Đầu năm 1947, Nha nghiên cứu kỹ thuật Cục quân giới vừa chuyển lên Tuyên Quang, nhận trách nhiệm xây dựng một phòng xạ thuật (balistique), ta quen gọi là phòng thiết kế vũ khí. Ông Nguyễn Trinh Tiếp, quê ở Nông Cống-Thanh Hóa, học trường cao đẳng công chính cùng tôi, khóa đầu tiên của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Học xong thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chúng tôi cùng về cơ quan nghiên cứu vũ khí đầu tiên của ta. Sau 3 tháng, ông Tiếp được cử làm trưởng phòng, còn tôi là cấp phó. Nha nghiên cứu kỹ thuật lúc ra đời đóng ở Vân Đình-Hà Tây. Cục trưởng kiêm Giám đốc là đồng chí Trần Văn Lễ (tức Trần Đại Nghĩa), là người đã dạy chúng tôi mấy buổi về xạ thuật. Đồng chí Hoàng Đình Phu lúc đó là Phó giám đốc ghi chép cẩn thận các bài giảng và trao lại cho đồng chí Tiếp. Đồng chí Tiếp từng tốt nghiệp tú tài toán ở trường Khải Định (Huế), ra Hà Nội học toán đại cương và cơ học lý tưởng ở Trường cao đẳng khoa học, có vốn về toán cao cấp, lại là người thông minh, đức tính rất khiêm tốn, tác phong làm việc khoa học, đã triển khai công việc rất khẩn trương. Lúc chuyển lên Tuyên Quang, Nha nghiên cứu kỹ thuật được tiếp nhận kho vũ khí trước đây của Pháp-Nhật. Một tủ sách khoa học do đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc phòng mới sưu tầm và mua ở Pháp từ năm 1946 khi ông đi dự Hội nghị Phông-ten-nơ-blô. Lúc này nhiều anh em mới được bổ sung về, rất nhiệt tình học tập, vươn lên trong khi nhiệm vụ đầy khó khăn phức tạp...
    Thu đông 1947, sau khi ta giành chiến thắng lớn trong chiến dịch Việt Bắc, thì quân Pháp co cụm về các phòng tuyến với những boong-ke rất kiên cố. Nhiệm vụ Bộ Quốc phòng đặt ra lúc này là làm thế nào phải có loại vũ khí phá được công sự boong-ke. Anh em tự mày mò nghiên cứu. Chính đồng chí Tiếp đã nghĩ đến loại vũ khí dùng nguyên lý không giật với đạn lõm (dùng hiệu ứng monroe) tầm bắn gần nhưng sức công phá mạnh. Tài liệu lúc đó chủ yếu về súng đạn chống tăng của Liên Xô, Đức, Nhật, Pháp mà ta đã nghiên cứu chế tạo thành công badôka và AT rồi. Đồng chí Tiếp nghĩ đến súng Pan-dơ-phót của Đức và cho tăng lượng nổ ở đạn, nhưng công nghệ chế tạo đối với ta lúc đó là quá sức. Sau khi tham khảo loại súng không giật 57 và 75mm của Mỹ thì nòng súng phải có rãnh xoắn cũng rất khó chế tạo. Loại bom ba càng (của Mỹ) lượng thuốc nổ chừng 2kg, ta đã thử ở mỏ Tràng Đà trên tả ngạn sông Lô (đối diện với Tuyên Quang) từ tháng 4-1947, nó xuyên thủng được tường gạch dày chừng 1m... Cân nhắc kỹ, đồng chí Tiếp đã đề xuất chọn đề án dùng quả đạn dài 1,2m cỡ 120mm bằng ống thép tóp, đuôi cỡ 60mm bằng gỗ đút vào nòng súng, lượng nổ 2,2kg, dùng tác dụng lõm. Loại súng này gồm 3 đoạn: đoạn chứa đuôi dài 0,8m, cỡ 60,8mm; đoạn bụng dài 0,4m, cỡ 82mm chịu áp lực tối đa 320kg/cm2; đoạn tuy-e dài 8-10cm, cỡ 50mm. Khẩu súng như vậy nặng 9kg, sơ tốc bắn 75-80m/giây; tầm hiệu quả 50-60m. Để chế tạo, dùng nguyên liệu chủ yếu là ống thép dày 2mm; một ít đồng, vàng và gỗ; riêng bọng súng dùng thép tiện và dày hơn. Anh em đặt tên SKZ 60, là viết tắt ba chữ ?osúng không giật?, loại cỡ nòng 60mm...
    Đề án chế tạo SKZ 60 được Phó giám đốc Hoàng Đình Phu chấp nhận, khi trình lên Cục được Cục trưởng-Giám đốc Trần Đại Nghĩa hoan nghênh cho thực hiện ngay. Đây là nhiệm vụ trọng tâm rất quan trọng nên được khẩn trương sản xuất thử nghiệm ngay. Lúc bấy giờ Nha đóng ở gần Bến Đĩa, cách Đoan Hùng chừng 10km. Nguyên liệu sản xuất thì nhặt nhạnh khắp nơi về, tổ chức bắn thử liên tục vào ụ đất, núi đá, tường thành cổ (ở Tuyên Quang) dày 1m... để khảo sát, đo đạc, thực nghiệm từ độ lùi, tầm bắn, tính sơ tốc đạn, độ xuyên, sức công phá... Thời gian này, Cục trưởng Trần Đại Nghĩa cũng thỉnh thoảng gửi thư công tác, không chỉ động viên mà nói thêm về tính toán. Hàng chục anh chị em làm việc suốt đêm dưới ánh đèn dầu để tính toán. Từ đó đi đến hoàn thiện trong thời gian ngắn. Lần thử nghiệm cuối cùng là bắn tổng hợp thực sự chiến trường, có Phó giám đốc thường trực quan sát, một cán bộ trực tiếp làm xạ thủ, đã kết thúc tốt đẹp 6 tháng nghiên cứu; sau đó đi vào sản xuất hàng loạt. Qua chiến đấu, những chiến công vang dội ngay sau đó do SKZ 60 đem lại ở Phố Lu, Phố Ràng,... (Tây Bắc), chùa Dầu (Ninh Bình), đến Măng Giang, Kom-plong (Khu 5)... đã nói lên hiệu quả to lớn của SKZ Việt Nam.
    Cũng cần nói thêm: Từ SKZ 60 là cả một dòng họ SKZ nối tiếp nhau ra đời nhưng hiệu quả và phù hợp nhất với chiến trường, được trang bị khắp các đại đoàn chủ lực sau đó là SKZ 60, một loại vũ khí hoàn toàn do Việt Nam nghiên cứu chế tạo, mà công lao lớn nhất thuộc về đồng chí Nguyễn Trinh Tiếp. Đồng chí vừa là tác giả của đề án thông minh và táo bạo này, vừa trực tiếp chủ trì từ nghiên cứu, thực nghiệm, hoàn thành xuất sắc công trình sản xuất vũ khí mới phục vụ chiến đấu kịp thời, hiệu quả. Đến 7-1950, Nha nghiên cứu kỹ thuật lúc này đã đổi tên là Viện-được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3 là huân chương Quân công đầu tiên Nhà nước tặng thưởng cho một cơ quan, và đồng chí Tiếp mới 26 tuổi đã được cử làm Viện trưởng... Đầu năm 1953, Viện giải thể, đồng chí Tiếp sang làm một kỹ sư ngành giao thông vận tải. Năm 1967, khi anh mới được đề cử làm Cục phó Cục quản lý đường bộ, thì trong một chuyến công tác vào Quân khu 4, ngày 24-6-1967 anh đã vĩnh viễn ra đi vì bom Mỹ, ở tuổi sung sức 43 xuân. Đồng chí, đồng đội, Tổ quốc tiếc thương vì đã mất một cán bộ vừa có đức, vừa có tài, có nhiều cống hiến cho đất nước.


    T.N (lược thuật)

  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Quay lại nguyên tác :
    Bức tranh công nghệ vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một bức tranh hoành tráng lớn phản ánh nền văn minh công nghệ của nhiều thế kỷ từ công nghệ-kỹ xảo trước thế kỷ XV, đến công nghệ-khoa học trình độ cao nửa cuối thế kỷ XX. Khi nói rằng chúng ta thắng Mỹ bằng sức mạnh truyền thống của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước kết hợp với sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời đại mới cũng bao hàm trong đó nền văn minh công nghệ đầy tài hoa của dân tộc kết hợp với các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thời đại, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân.
    Gần đây, khi bàn về xu hướng phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao, trong giới khoa học quân sự nước ngoài có ý kiến nhận định có thể chúng ta phải trở lại với chiến thuật chiến tranh du kích, vì thực chất của chiến tranh du kích là giấu kỹ mình, nhìn rõ người, tạo thế bất ngờ. Còn trong chiến tranh công nghệ cao, để đối phương trinh sát phát hiện ra mình gần như chắc chắn bị tiến công ngay tức khắc (Theo K.B.Smith. Trở lại với cuộc chiến tranh hầm hào. Tạp chí Tin quân sự Mỹ? số 8 năm 1990). Có ý kiến còn khẳng định, trong chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh du kích không những không mất hiệu lực mà còn có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn, toàn diện hơn. Đó là phương thức chiến tranh du kích hiện đại cả trên không, trên biển, trên bộ. Vì thế, chiến tranh du kích của chiến tranh nhân dân Việt Nam dựa trên cơ sở đan xen công nghệ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài học có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong quá khứ mà cả trong hiện tại và tương lai.
  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Quay lại nguyên tác :
    Bức tranh công nghệ vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một bức tranh hoành tráng lớn phản ánh nền văn minh công nghệ của nhiều thế kỷ từ công nghệ-kỹ xảo trước thế kỷ XV, đến công nghệ-khoa học trình độ cao nửa cuối thế kỷ XX. Khi nói rằng chúng ta thắng Mỹ bằng sức mạnh truyền thống của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước kết hợp với sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thời đại mới cũng bao hàm trong đó nền văn minh công nghệ đầy tài hoa của dân tộc kết hợp với các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thời đại, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân.
    Gần đây, khi bàn về xu hướng phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật công nghệ cao, trong giới khoa học quân sự nước ngoài có ý kiến nhận định có thể chúng ta phải trở lại với chiến thuật chiến tranh du kích, vì thực chất của chiến tranh du kích là giấu kỹ mình, nhìn rõ người, tạo thế bất ngờ. Còn trong chiến tranh công nghệ cao, để đối phương trinh sát phát hiện ra mình gần như chắc chắn bị tiến công ngay tức khắc (Theo K.B.Smith. Trở lại với cuộc chiến tranh hầm hào. Tạp chí Tin quân sự Mỹ? số 8 năm 1990). Có ý kiến còn khẳng định, trong chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh du kích không những không mất hiệu lực mà còn có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn, toàn diện hơn. Đó là phương thức chiến tranh du kích hiện đại cả trên không, trên biển, trên bộ. Vì thế, chiến tranh du kích của chiến tranh nhân dân Việt Nam dựa trên cơ sở đan xen công nghệ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài học có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong quá khứ mà cả trong hiện tại và tương lai.
  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Đặc trưng thứ hai : làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại vượt xa khả năng chế tạo trong nước.
    Công nghệ sử dụng của các lực lượng vũ trang nhân dân ta đạt tới trình độ vược bậc trong chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại mới.
    Theo quan niệm của khoa học và công nghệ hiện đại, vũ khí trang bị được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ cho ta có thể được coi là một dạng chuyển giao công nghệ đặc biệt. Đó là công nghệ-sản phẩm.
    Khi bàn về vấn đề chuyển giao công nghệ, yếu tố con người thường được đặt vào vị trí trung tâm và được hiểu là đội ngũ nhân lực được tổ chức tốt, có được thông tin và kỹ năng đầy đủ để khai thác có hiệu quả công nghệ-sản phẩm nhập.
    Khi bước vào cuộc chiến tranh nhân dân chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (năm 1964), chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng hoà bình ở miền Bắc nói chung, trong xây dựng tiềm lực khoa học kỹ thuật nói riêng. Tuy tiềm lực đó chưa đủ để ta có thể tự sản xuất được vũ khí trang bị cần thiết cho chiến tranh nhưng đã nâng cao một mức cơ bản trình độ dân trí, tạo tiền đề rất quan trọng cho chúng ta quản lý, khai thác nguồn vũ khí trang bị hiện đại nhập từ bên ngoài và tiến tới cải tiến, cải biên các phương tiện đó thích hợp với điều kiện và môi trường chiến tranh nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, tiềm lực đó còn góp phần quyết định trong việc nghiên cứu các ưu, nhược điểm trong vũ khí trang bị hiện đại của địch, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu nhằm giảm một phần đáng kể hiệu lực của các phương tiện đó.
    Khai thác các phương tiện kỹ thuật nói chung, vũ khí trang bị nói riêng là một đề tài khoa học và công nghệ được đề cập đến với nhiều quan điểm khác nhau. Có loại ý kiến cho rằng khai thác cái của người khác là vấn đề khoa học và công nghệ ?oloại hai?, không giá trị bằng thiết kế chế tạo cái mới. Loại ý kiến này vừa thiếu tính khoa học, vừa phi kinh tế. Thực tế, ngay ở Liên Xô trước đây và các nước công nghiệp tiên tiến, vấn đề khai thác công nghệ được đánh giá rất cao. Ở các nước đó, nhiều nhà khoa học đã trưởng thành và lập công xuất sắc từ hoạt động này. Nhiều ý tưởng mới về khoa học và công nghệ nảy sinh từ quá trình khai thác công nghệ. Thêm nữa, để khai thác tốt, vừa cần có kiến thức khoa học đầy đủ, phải luôn luôn chủ động sáng tạo và vừa có kỹ năng nhất định. Máy bay MiG-21 của không quân ta rõ ràng tiên tiến hơn nhiều máy bay MiG-17 về công nghệ nhưng thời gian đầu MiG-21 nhiều lần xuất kích chưa bắn rơi máy bay Mỹ. Chỉ sau một thời gian cán bộ kỹ thuật và phi công ta thực sự làm chủ, khai thác tốt, MiG-21 mới thể hiện được ưu thế công nghệ cao hơn thế hệ trước đó. Trong khi đó, không quân ta đã biết khai thác một số ưu điểm kỹ-chiến thuật của máy bay MiG-17 như bán kính lượn vòng nhỏ, biến nó trở thành vũ khí bắn rơi nhiều máy bay nhất trong các trận không chiến với các máy bay siêu âm hiện đại của Mỹ.

Chia sẻ trang này