1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí VN trong 2 cuộc kháng chiến

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Đặc trưng thứ hai : làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại vượt xa khả năng chế tạo trong nước.
    Công nghệ sử dụng của các lực lượng vũ trang nhân dân ta đạt tới trình độ vược bậc trong chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại mới.
    Theo quan niệm của khoa học và công nghệ hiện đại, vũ khí trang bị được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ cho ta có thể được coi là một dạng chuyển giao công nghệ đặc biệt. Đó là công nghệ-sản phẩm.
    Khi bàn về vấn đề chuyển giao công nghệ, yếu tố con người thường được đặt vào vị trí trung tâm và được hiểu là đội ngũ nhân lực được tổ chức tốt, có được thông tin và kỹ năng đầy đủ để khai thác có hiệu quả công nghệ-sản phẩm nhập.
    Khi bước vào cuộc chiến tranh nhân dân chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (năm 1964), chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng hoà bình ở miền Bắc nói chung, trong xây dựng tiềm lực khoa học kỹ thuật nói riêng. Tuy tiềm lực đó chưa đủ để ta có thể tự sản xuất được vũ khí trang bị cần thiết cho chiến tranh nhưng đã nâng cao một mức cơ bản trình độ dân trí, tạo tiền đề rất quan trọng cho chúng ta quản lý, khai thác nguồn vũ khí trang bị hiện đại nhập từ bên ngoài và tiến tới cải tiến, cải biên các phương tiện đó thích hợp với điều kiện và môi trường chiến tranh nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, tiềm lực đó còn góp phần quyết định trong việc nghiên cứu các ưu, nhược điểm trong vũ khí trang bị hiện đại của địch, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu nhằm giảm một phần đáng kể hiệu lực của các phương tiện đó.
    Khai thác các phương tiện kỹ thuật nói chung, vũ khí trang bị nói riêng là một đề tài khoa học và công nghệ được đề cập đến với nhiều quan điểm khác nhau. Có loại ý kiến cho rằng khai thác cái của người khác là vấn đề khoa học và công nghệ ?oloại hai?, không giá trị bằng thiết kế chế tạo cái mới. Loại ý kiến này vừa thiếu tính khoa học, vừa phi kinh tế. Thực tế, ngay ở Liên Xô trước đây và các nước công nghiệp tiên tiến, vấn đề khai thác công nghệ được đánh giá rất cao. Ở các nước đó, nhiều nhà khoa học đã trưởng thành và lập công xuất sắc từ hoạt động này. Nhiều ý tưởng mới về khoa học và công nghệ nảy sinh từ quá trình khai thác công nghệ. Thêm nữa, để khai thác tốt, vừa cần có kiến thức khoa học đầy đủ, phải luôn luôn chủ động sáng tạo và vừa có kỹ năng nhất định. Máy bay MiG-21 của không quân ta rõ ràng tiên tiến hơn nhiều máy bay MiG-17 về công nghệ nhưng thời gian đầu MiG-21 nhiều lần xuất kích chưa bắn rơi máy bay Mỹ. Chỉ sau một thời gian cán bộ kỹ thuật và phi công ta thực sự làm chủ, khai thác tốt, MiG-21 mới thể hiện được ưu thế công nghệ cao hơn thế hệ trước đó. Trong khi đó, không quân ta đã biết khai thác một số ưu điểm kỹ-chiến thuật của máy bay MiG-17 như bán kính lượn vòng nhỏ, biến nó trở thành vũ khí bắn rơi nhiều máy bay nhất trong các trận không chiến với các máy bay siêu âm hiện đại của Mỹ.
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Các loại tiêm kích của KQNDVN trong thời kỳ chống Mỹ :
    MiG - 17 { đồ Nga & Tàu } :

    MiG - 19 { đồ Tàu 100% } :

    MiG - 21{ đồ Nga 100% } :

  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Các loại tiêm kích của KQNDVN trong thời kỳ chống Mỹ :
    MiG - 17 { đồ Nga & Tàu } :

    MiG - 19 { đồ Tàu 100% } :

    MiG - 21{ đồ Nga 100% } :

  4. levanle2001

    levanle2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/11/2001
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Hay quá, cám ơn bác dongadoan, nhất là đoạn ve^` các biện pháp khắc phục bọn này.
    Bàn loạn thêm một chút:
    Theo thiển ý của em thì 2 biện pháp chủ yếu nhất là "xây đường kín ngay trong mùa mưa 71" và "tổ chức vận tải lớn ban ngày, nhỏ lẻ ban đêm". Việc này lam giảm thiểu nguồn mục tiêu cho AC-130.
    Việc "cải tiến tổ chức đài cảnh giới từ xa" và "tổ chức nhiều ga tránh" chắc cũng có tác dụng trong việc báo trước sự xuất hiện của địch. Các biện pháp các tất nhiên cũng có tác dụng nhưng chắc ít hơn.
    Nhìn lại thì thấy chi phí cho các biện pháp này là cực lớn. Xây đường kín, trạm tránh, đường vòng, thay đổi tổ chức, phương thức hoạt động, v.v... Vì thằng 130 này mà ta đã phải "đổi mới ngay quy luật hoạt động trên toàn tuyến". Thời đó chắc khái niệm "chi phí" không tính bằng tiền mà bằng số ngày công, mồ hôi, xương máu, nhân lực, vật lực, v.v.. mà đáng lẽ có thể dùng cho việc khác.
    Vì vậy em xin "bảo lưu" ý kiến là ta đề nghị Đảng và CP Liên Xô viện trợ khoảng 2 chục hệ thống SA-6, thậm chí ít hơn cũng được, vì chỉ cần ta bắn rơi độ 3, 4 chiếc trong vòng 1 vai tháng là chắc thế nào cũng phải tạm dừng hoạt động để rút kinh nghiệm.
    Hai năm sau (1973), các đ/c Ai Cập bắn 95 quả SA-6 diệt 64 máy bay Israel.
    Nhìn chung đầu tư vào công nghệ một cách hợp lý vẫn là cách đầu tư tiết kiệm nhất.
    [sign]Levanle2001
    Được levanle2001 sửa chữa / chuyển vào 03:44 ngày 18/04/2005
  5. levanle2001

    levanle2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/11/2001
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Hay quá, cám ơn bác dongadoan, nhất là đoạn ve^` các biện pháp khắc phục bọn này.
    Bàn loạn thêm một chút:
    Theo thiển ý của em thì 2 biện pháp chủ yếu nhất là "xây đường kín ngay trong mùa mưa 71" và "tổ chức vận tải lớn ban ngày, nhỏ lẻ ban đêm". Việc này lam giảm thiểu nguồn mục tiêu cho AC-130.
    Việc "cải tiến tổ chức đài cảnh giới từ xa" và "tổ chức nhiều ga tránh" chắc cũng có tác dụng trong việc báo trước sự xuất hiện của địch. Các biện pháp các tất nhiên cũng có tác dụng nhưng chắc ít hơn.
    Nhìn lại thì thấy chi phí cho các biện pháp này là cực lớn. Xây đường kín, trạm tránh, đường vòng, thay đổi tổ chức, phương thức hoạt động, v.v... Vì thằng 130 này mà ta đã phải "đổi mới ngay quy luật hoạt động trên toàn tuyến". Thời đó chắc khái niệm "chi phí" không tính bằng tiền mà bằng số ngày công, mồ hôi, xương máu, nhân lực, vật lực, v.v.. mà đáng lẽ có thể dùng cho việc khác.
    Vì vậy em xin "bảo lưu" ý kiến là ta đề nghị Đảng và CP Liên Xô viện trợ khoảng 2 chục hệ thống SA-6, thậm chí ít hơn cũng được, vì chỉ cần ta bắn rơi độ 3, 4 chiếc trong vòng 1 vai tháng là chắc thế nào cũng phải tạm dừng hoạt động để rút kinh nghiệm.
    Hai năm sau (1973), các đ/c Ai Cập bắn 95 quả SA-6 diệt 64 máy bay Israel.
    Nhìn chung đầu tư vào công nghệ một cách hợp lý vẫn là cách đầu tư tiết kiệm nhất.
    [sign]Levanle2001
    Được levanle2001 sửa chữa / chuyển vào 03:44 ngày 18/04/2005
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ...ta đề nghị Đảng và CP Liên Xô viện trợ khoảng 2 chục hệ thống SA-6...
    -------------------------------------------------------------------------
    Lúc ấy thì khó lắm bác ơi ! Sam 2 của ta đã là đồ cổ rồi mới được LX viện trợ { mình nhớ đã đọc ở đâu đó là một số bộ khí tài và tên lửa Sam 2 thu hồi từ Đức về được tân trang lại và đưa sang VN }, còn SA-6 thì mãi sau này khi ta oánh nhau với Tàu và đã ký hiệp ước hợp tác toàn diện với LX thì ta mới có.
    --------------------------------------------------------------------------
    Nhận xét về khía cạnh này, giáo sư Shingo Shibata, chuyên viên nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Trường đại học tổng hợp Tokyo (Nhật Bản) cho rằng: ?oKhông phải vũ khí mà con người là nhân tố quyết định kết quả chiến đấu. Như thế không có nghĩa xem nhẹ vũ khí. Người Việt Nam rất coi trọng vũ khí. Họ đã đưa vào sử dụng những vũ khí mới như máy bay chiến đấu phản lực, tên lửa, rada, súng phòng không? Đó là những vũ khí được viện trợ nhưng chúng ta phải nhớ rằng việc sử dụng những vũ khí đó do nhân dân Việt Nam đảm nhiệm. Khi đưa các thứ vũ khí này vào Việt Nam, trước hết người Việt Nam phải xây dựng hệ thống thuật ngữ chuyên môn kỹ thuật như điện tử, thuỷ khí động học, đạn đạo học, toán học cao cấp bằng ngôn ngữ Việt Nam. Sau đó, khắc phục những khó khăn khác, họ mới bắt đầu học những vấn đề cơ bản. Họ cương quyết duy trì đường lối tự lực cánh sinh. Họ đã độc lập sử dụng những vũ khí mới nhất. Kết quả cố gắng của họ thấy rõ trong việc bắn rơi máy bay hiện đại nhất, trong đó có máy bay B-52 và F-111. Người Việt Nam vẫn cương quyết tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó yếu tố quan trọng nhất là giáo dục. Người Việt Nam đã đạt được thành tựu phi thường. Họ coi giáo dục lý thuyết cơ bản là bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam buộc họ phải sử dụng tên lửa, rada, v.v? và nghiên cứu toán học, điện tử học. Chương trình giáo dục ở các trường đại học được mở rộng, công tác giáo dục ở các trường sơ cấp, trung cấp đước sửa đổi theo hướng hiện đại hơn. Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam là một tổ chức lớn gồm 130.000 thành viên trong khi dân số miền Bắc chỉ có 17 triệu người. Như vậy rõ ràng tỷ lệ thành viên của Hội trong dân số là rất cao. Trình độ hiểu biết khoa học-kỹ thuật ở Việt Nam cũng cao bằng ở Nhật Bản và các nước tư bản khác? (Shingo Shibata, Chiến tranh Việt Nam và cách mạng khoa học kỹ thuật. Bản dịch của Viện khoa học quân sự (nay là Cục quản lý khoa học và công nghệ-Bộ Quốc phòng).
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    ...ta đề nghị Đảng và CP Liên Xô viện trợ khoảng 2 chục hệ thống SA-6...
    -------------------------------------------------------------------------
    Lúc ấy thì khó lắm bác ơi ! Sam 2 của ta đã là đồ cổ rồi mới được LX viện trợ { mình nhớ đã đọc ở đâu đó là một số bộ khí tài và tên lửa Sam 2 thu hồi từ Đức về được tân trang lại và đưa sang VN }, còn SA-6 thì mãi sau này khi ta oánh nhau với Tàu và đã ký hiệp ước hợp tác toàn diện với LX thì ta mới có.
    --------------------------------------------------------------------------
    Nhận xét về khía cạnh này, giáo sư Shingo Shibata, chuyên viên nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Trường đại học tổng hợp Tokyo (Nhật Bản) cho rằng: ?oKhông phải vũ khí mà con người là nhân tố quyết định kết quả chiến đấu. Như thế không có nghĩa xem nhẹ vũ khí. Người Việt Nam rất coi trọng vũ khí. Họ đã đưa vào sử dụng những vũ khí mới như máy bay chiến đấu phản lực, tên lửa, rada, súng phòng không? Đó là những vũ khí được viện trợ nhưng chúng ta phải nhớ rằng việc sử dụng những vũ khí đó do nhân dân Việt Nam đảm nhiệm. Khi đưa các thứ vũ khí này vào Việt Nam, trước hết người Việt Nam phải xây dựng hệ thống thuật ngữ chuyên môn kỹ thuật như điện tử, thuỷ khí động học, đạn đạo học, toán học cao cấp bằng ngôn ngữ Việt Nam. Sau đó, khắc phục những khó khăn khác, họ mới bắt đầu học những vấn đề cơ bản. Họ cương quyết duy trì đường lối tự lực cánh sinh. Họ đã độc lập sử dụng những vũ khí mới nhất. Kết quả cố gắng của họ thấy rõ trong việc bắn rơi máy bay hiện đại nhất, trong đó có máy bay B-52 và F-111. Người Việt Nam vẫn cương quyết tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó yếu tố quan trọng nhất là giáo dục. Người Việt Nam đã đạt được thành tựu phi thường. Họ coi giáo dục lý thuyết cơ bản là bộ phận quan trọng của chương trình giáo dục. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam buộc họ phải sử dụng tên lửa, rada, v.v? và nghiên cứu toán học, điện tử học. Chương trình giáo dục ở các trường đại học được mở rộng, công tác giáo dục ở các trường sơ cấp, trung cấp đước sửa đổi theo hướng hiện đại hơn. Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam là một tổ chức lớn gồm 130.000 thành viên trong khi dân số miền Bắc chỉ có 17 triệu người. Như vậy rõ ràng tỷ lệ thành viên của Hội trong dân số là rất cao. Trình độ hiểu biết khoa học-kỹ thuật ở Việt Nam cũng cao bằng ở Nhật Bản và các nước tư bản khác? (Shingo Shibata, Chiến tranh Việt Nam và cách mạng khoa học kỹ thuật. Bản dịch của Viện khoa học quân sự (nay là Cục quản lý khoa học và công nghệ-Bộ Quốc phòng).
  8. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Này thì SA-6 { Kub } này :


  9. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Này thì SA-6 { Kub } này :


  10. levanle2001

    levanle2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/11/2001
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Vừa nói chuyện với một "giặc lái" AC-130. Nói suốt 2 tiếng đồng hồ mà không moi được gì mấy, vì "giặc lái" này rất hay nói lan sang các vấn đề vĩ mô như là Bush cha & con, chiến tranh Iraq, sự suy thoái của nước Mỹ ngày nay, v.v..
    Đại thể là thế này, AC-130 của Mỹ đặt ở Thái lan, bay vào tuần tiễu hàng đêm trên đường mòn HCM. Mỗi chiếc có khoảng 10 người, trong đó có 4 người phụ trách các thiết bị hồng ngoại và nghe trộm qua các cây nhiệt đới. Đây là 2 loại sensor duy nhất để xác định mục tiêu dưới đất. Không có thiết bị nhìn đêm theo nguyên lý khuếch đại ánh sáng. Như vậy là các bác nhà mình đã xác định chính xác 2 nguồn thu thap thông tin của AC-130. Phần lớn (hoặc là toàn bộ) AC130 của Mỹ ở VN được trang bị súng 20mm. Hình như không có loại dùng 105mm. Vũ khí của nó có thể điều khiển bằng tay hoặc có thể "lock" vào mục tiêu và điểu khiển tự động bằng điện tử. (Không rõ là nó có thể lock vào mục tiêu di động hay không).
    Khi bay thì AC-130 thường bay ở độ cao tối thiểu là 5200 feet (khoảng 1700m) để nằm ngoài tầm bắn của súng nhỏ. Thường thì có F-105 hoặc F4 bay hỗ trợ, nhưng không phải là thường xuyên. Mỗi chiếc AC-130 thường tuần tiễu trong khoảng 3 - 4 giờ. "Giặc lái" này co nhiệm vụ làm ECM (electronic counter measure) bằng cách liên tục lắng nghe trên các dải tần của SAM-2 và của AAA radar. Theo "giặc lái" thì vũ khí đe doạ nhiều nhất có vẻ như là súng 37mm, nhưng hắn cũng không phân biệt được tốt cho nên không chắc.
    Mỹ có tổng cộng 16 - 18 chiếc AC-130 ở Thái lan. Trung bình một đêm có khoảng 6 - 10 chiếc cất cánh. Tại mỗi thời điểm có 2 đến 4 chiếc trên toàn tuyến. (Không ngờ vài ba chiếc máy bay mà làm ta phải huy động hàng vạn người đối phó như thế này ).
    Thời gian "giặc lái" phục vụ ở VN là khoảng 11 tháng, từ 1971 đến đầu 1972. Theo "giặc lái" trung bình mỗi đêm mỗi chiếc bắn khoảng một vài chục lần, và khong kiểm chứng được trong tất cả các trường hợp khi nào mục tiêu bị trúng đạn. Theo "giặc lái", thời kỳ sau số mục tiêu không giảm đi mà ngược lại, còn tăng lên nhiều.
    (Vậy không biết hiệu quả thực của các biện pháp của ta như thế nào? Ngoài ra thời kỳ đó khối lượng vận chuyển của ta cũng tăng lên nhiều để phục vụ các chiến dịch năm 72).
    Máy bay của giặc lái này cũng bị dính 37mm một lần và hắn phải về Thái lan an dưỡng.

Chia sẻ trang này