1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vũ khí VN trong 2 cuộc kháng chiến

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. levanle2001

    levanle2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/11/2001
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Vừa nói chuyện với một "giặc lái" AC-130. Nói suốt 2 tiếng đồng hồ mà không moi được gì mấy, vì "giặc lái" này rất hay nói lan sang các vấn đề vĩ mô như là Bush cha & con, chiến tranh Iraq, sự suy thoái của nước Mỹ ngày nay, v.v..
    Đại thể là thế này, AC-130 của Mỹ đặt ở Thái lan, bay vào tuần tiễu hàng đêm trên đường mòn HCM. Mỗi chiếc có khoảng 10 người, trong đó có 4 người phụ trách các thiết bị hồng ngoại và nghe trộm qua các cây nhiệt đới. Đây là 2 loại sensor duy nhất để xác định mục tiêu dưới đất. Không có thiết bị nhìn đêm theo nguyên lý khuếch đại ánh sáng. Như vậy là các bác nhà mình đã xác định chính xác 2 nguồn thu thap thông tin của AC-130. Phần lớn (hoặc là toàn bộ) AC130 của Mỹ ở VN được trang bị súng 20mm. Hình như không có loại dùng 105mm. Vũ khí của nó có thể điều khiển bằng tay hoặc có thể "lock" vào mục tiêu và điểu khiển tự động bằng điện tử. (Không rõ là nó có thể lock vào mục tiêu di động hay không).
    Khi bay thì AC-130 thường bay ở độ cao tối thiểu là 5200 feet (khoảng 1700m) để nằm ngoài tầm bắn của súng nhỏ. Thường thì có F-105 hoặc F4 bay hỗ trợ, nhưng không phải là thường xuyên. Mỗi chiếc AC-130 thường tuần tiễu trong khoảng 3 - 4 giờ. "Giặc lái" này co nhiệm vụ làm ECM (electronic counter measure) bằng cách liên tục lắng nghe trên các dải tần của SAM-2 và của AAA radar. Theo "giặc lái" thì vũ khí đe doạ nhiều nhất có vẻ như là súng 37mm, nhưng hắn cũng không phân biệt được tốt cho nên không chắc.
    Mỹ có tổng cộng 16 - 18 chiếc AC-130 ở Thái lan. Trung bình một đêm có khoảng 6 - 10 chiếc cất cánh. Tại mỗi thời điểm có 2 đến 4 chiếc trên toàn tuyến. (Không ngờ vài ba chiếc máy bay mà làm ta phải huy động hàng vạn người đối phó như thế này ).
    Thời gian "giặc lái" phục vụ ở VN là khoảng 11 tháng, từ 1971 đến đầu 1972. Theo "giặc lái" trung bình mỗi đêm mỗi chiếc bắn khoảng một vài chục lần, và khong kiểm chứng được trong tất cả các trường hợp khi nào mục tiêu bị trúng đạn. Theo "giặc lái", thời kỳ sau số mục tiêu không giảm đi mà ngược lại, còn tăng lên nhiều.
    (Vậy không biết hiệu quả thực của các biện pháp của ta như thế nào? Ngoài ra thời kỳ đó khối lượng vận chuyển của ta cũng tăng lên nhiều để phục vụ các chiến dịch năm 72).
    Máy bay của giặc lái này cũng bị dính 37mm một lần và hắn phải về Thái lan an dưỡng.
  2. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Rõ ràng, việc Mỹ sử dụng trên chiến trường Việt Nam các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất với số lượng rất lớn và mức độ tập trung cao đã tạo cho họ sức mạnh hơn về hoả lực không quân và pháo binh; sức cơ động cao bằng đường không, đường bộ và đường thuỷ, khả năng vận chuyển lớn trong bảo đảm vật chất-kỹ thuật, v.v? Những mặt mạnh đó tạo ra tính chất ác liệt của chiến tranh, tình huống chiến đấu phát triển khẩn trương, sự chuyển hóa mau lẹ trong so sánh lực lượng, trong chiến dịch và chiến đấu. Với ưu thế về trang bị, vũ khí như vậy, nếu đối phương được tư do hành động theo cách đánh sở trường của họ thì chắc chắn vũ khí trang bị hiện đại sẽ phát huy tác dụng lớn và có thể tạo ra hiệu quả cao.
    Trên cơ sở làm chủ khai thác tốt ác vũ khí trang bị hiện đại có trong trang bị, nắm vững các chỗ mạnh và điểm yếu trong vũ khí trang bị của địch, chúng ta đã vận dụng kết hợp tất cả các loại vũ khí và trang bị từ thô sơ đến hiện đại, khéo dùng đúng lúc, đúng chỗ, tập trung đúng mức các phương tiện chiến đấu trong các tình huống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật với phương châm dùng vũ khí hiện đại làm nòng cốt để phát huy tác dụng của các loại vũ khí khác.
    Có trường hợp ta dùng vũ khí trang bị hiện đại là chính kết hợp với loại kém hiện đại và thô sơ. Trường hợp khác ta lại lấy loại kém hiện đại là chính kết hợp với loại hiện đại và thô sơ. Ví dụ, pháo phòng không các loại là phương tiện chiến đấu chủ yếu kết hợp với các phương tiện khác để đánh lực lượng không quân hiện đại ở tầm thấp và vừa. Khi đánh máy bay địch ở độ cao lớn, ta lại coi máy bay và tên lửa là phương tiện chiến đấu chủ yếu kết hợp với các phương tiện khác. Ta dùng cả súng bộ binh, mìn bẫy bố trí trên ngọn cây để bắn rơi máy bay và máy bay lên thẳng hiện đại của địch; dùng vật chướng ngại, mìn chống tăng để đối phó với xe tăng hiện đại của địch, v.v? Các phương tiện chiến đấu có tính năng tác dụng khác nhau đặt trên mặt đất, trên không và trên biển, có uy lực cũng như uy lực vừa và nhỏ, có tầm hoạt động xa cũng như gần, có điều khiển cũng như không điều khiển, tự động và nửa tự động, chuyên chở bằng những phương tiện cơ giới, tự hành hoặc thô sơ, v.v? đều được sử dụng phù hợp với tính năng tác dụng của chúng, kết hợp chặt chẽ với nhau. Sức đột kích, sức cơ động và sức mạnh hoả lực cần thiết của lực lượng vũ trang ta được tạo nên bởi tất cả các loại vũ khí có trình độ kỹ thuật và tính năng, tác dụng khác nhau. Có lẽ trong công nghệ sử dụng các phương tiện vật chất nói chung, vũ khí trang bị nói riêng, không có cụm từ nào diễn đạt giản dị hơn, hay hơn, chính xác hơn từ ?okhéo dùng? mà chúng ta thường gặp trong các bài viết và nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác thường viết và nói ?okhéo vận động quần chúng?, ?okhéo tổ chức?, ?okhéo kết hợp?, v.v? Khéo sử dụng các phương tiện vật chất đã trở thành một đặc trưng văn hóa độc đáo của người Việt Nam. Các chiến sĩ trắc thủ rada của ta khéo sử dụng đến mức có thể phát hiện ra dấu vết của máy bay Mỹ, đặc biệt là máy bay B-52, trên màn hình có vô vàn tín hiệu nhiễu dày đặc để bám theo chúng và điều khiển hoả lực phòng không điêu luyện, mang đậm cốt cách văn hóa của người Việt Nam. Các nghệ sỹ của chúng ta thường kể lại câu chuyện cảm động về một nhạc sỹ Việt Nam trong buổi biểu diễn tốt nghiệp khóa học chỉ huy trước một dàn nhạc giao hưởng lớn ở nước ngoài. Trong buổi biểu diễn đó, một nhạc công đã được giáo sư nhạc viện trong ban giám khảo giao hẹn trước là phải chơi sai một vài nốt trong bản nhạc. Vị giáo sư nọ đã phải sửng sốt trước sự thính nhậy của nhạc sỹ trẻ Việt Nam khi anh dùng thước chỉ huy ra hiệu cho cả dàn nhạc ngừng biểu diễn đúng lúc phát ra các nốt nhạc ?ogây nhiễu?. Sự ?okhéo dùng? ở trong hai trường hợp chỉ là một, chỉ khác nhau ở chỗ nhạc sỹ trẻ Việt Nam trong buổi biểu diễn khả năng chỉ huy đã phát hiện ra ?omục tiêu giả? (nốt nhạc sai) trong hàng ngàn ?omục tiêu thật? (nốt nhạc đúng) bằng nhậy cảm đặc biệt của đôi tai.
  3. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Rõ ràng, việc Mỹ sử dụng trên chiến trường Việt Nam các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất với số lượng rất lớn và mức độ tập trung cao đã tạo cho họ sức mạnh hơn về hoả lực không quân và pháo binh; sức cơ động cao bằng đường không, đường bộ và đường thuỷ, khả năng vận chuyển lớn trong bảo đảm vật chất-kỹ thuật, v.v? Những mặt mạnh đó tạo ra tính chất ác liệt của chiến tranh, tình huống chiến đấu phát triển khẩn trương, sự chuyển hóa mau lẹ trong so sánh lực lượng, trong chiến dịch và chiến đấu. Với ưu thế về trang bị, vũ khí như vậy, nếu đối phương được tư do hành động theo cách đánh sở trường của họ thì chắc chắn vũ khí trang bị hiện đại sẽ phát huy tác dụng lớn và có thể tạo ra hiệu quả cao.
    Trên cơ sở làm chủ khai thác tốt ác vũ khí trang bị hiện đại có trong trang bị, nắm vững các chỗ mạnh và điểm yếu trong vũ khí trang bị của địch, chúng ta đã vận dụng kết hợp tất cả các loại vũ khí và trang bị từ thô sơ đến hiện đại, khéo dùng đúng lúc, đúng chỗ, tập trung đúng mức các phương tiện chiến đấu trong các tình huống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật với phương châm dùng vũ khí hiện đại làm nòng cốt để phát huy tác dụng của các loại vũ khí khác.
    Có trường hợp ta dùng vũ khí trang bị hiện đại là chính kết hợp với loại kém hiện đại và thô sơ. Trường hợp khác ta lại lấy loại kém hiện đại là chính kết hợp với loại hiện đại và thô sơ. Ví dụ, pháo phòng không các loại là phương tiện chiến đấu chủ yếu kết hợp với các phương tiện khác để đánh lực lượng không quân hiện đại ở tầm thấp và vừa. Khi đánh máy bay địch ở độ cao lớn, ta lại coi máy bay và tên lửa là phương tiện chiến đấu chủ yếu kết hợp với các phương tiện khác. Ta dùng cả súng bộ binh, mìn bẫy bố trí trên ngọn cây để bắn rơi máy bay và máy bay lên thẳng hiện đại của địch; dùng vật chướng ngại, mìn chống tăng để đối phó với xe tăng hiện đại của địch, v.v? Các phương tiện chiến đấu có tính năng tác dụng khác nhau đặt trên mặt đất, trên không và trên biển, có uy lực cũng như uy lực vừa và nhỏ, có tầm hoạt động xa cũng như gần, có điều khiển cũng như không điều khiển, tự động và nửa tự động, chuyên chở bằng những phương tiện cơ giới, tự hành hoặc thô sơ, v.v? đều được sử dụng phù hợp với tính năng tác dụng của chúng, kết hợp chặt chẽ với nhau. Sức đột kích, sức cơ động và sức mạnh hoả lực cần thiết của lực lượng vũ trang ta được tạo nên bởi tất cả các loại vũ khí có trình độ kỹ thuật và tính năng, tác dụng khác nhau. Có lẽ trong công nghệ sử dụng các phương tiện vật chất nói chung, vũ khí trang bị nói riêng, không có cụm từ nào diễn đạt giản dị hơn, hay hơn, chính xác hơn từ ?okhéo dùng? mà chúng ta thường gặp trong các bài viết và nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác thường viết và nói ?okhéo vận động quần chúng?, ?okhéo tổ chức?, ?okhéo kết hợp?, v.v? Khéo sử dụng các phương tiện vật chất đã trở thành một đặc trưng văn hóa độc đáo của người Việt Nam. Các chiến sĩ trắc thủ rada của ta khéo sử dụng đến mức có thể phát hiện ra dấu vết của máy bay Mỹ, đặc biệt là máy bay B-52, trên màn hình có vô vàn tín hiệu nhiễu dày đặc để bám theo chúng và điều khiển hoả lực phòng không điêu luyện, mang đậm cốt cách văn hóa của người Việt Nam. Các nghệ sỹ của chúng ta thường kể lại câu chuyện cảm động về một nhạc sỹ Việt Nam trong buổi biểu diễn tốt nghiệp khóa học chỉ huy trước một dàn nhạc giao hưởng lớn ở nước ngoài. Trong buổi biểu diễn đó, một nhạc công đã được giáo sư nhạc viện trong ban giám khảo giao hẹn trước là phải chơi sai một vài nốt trong bản nhạc. Vị giáo sư nọ đã phải sửng sốt trước sự thính nhậy của nhạc sỹ trẻ Việt Nam khi anh dùng thước chỉ huy ra hiệu cho cả dàn nhạc ngừng biểu diễn đúng lúc phát ra các nốt nhạc ?ogây nhiễu?. Sự ?okhéo dùng? ở trong hai trường hợp chỉ là một, chỉ khác nhau ở chỗ nhạc sỹ trẻ Việt Nam trong buổi biểu diễn khả năng chỉ huy đã phát hiện ra ?omục tiêu giả? (nốt nhạc sai) trong hàng ngàn ?omục tiêu thật? (nốt nhạc đúng) bằng nhậy cảm đặc biệt của đôi tai.
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thêm một bài báo về Vũ khí VN :
    Nhà máy sản xuất vũ khí đầu tiên

    Ngày 19 tháng 08 năm 2004

    Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, để chiến đấu chống lại quân xâm lược, lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ độc lập của nhân dân Việt Nam có thừa, nhưng vũ khí lại rất thiếu. Lúc bấy giờ có hai thanh niên trí thức là Vũ Đức Toa và Trần Văn Kha bàn nhau xây dựng nhà máy sản xuất vũ khí. Họ không có tiền nhưng có lòng nhiệt tình. Họ kêu gọi các nhà tư sản tại Hà Nội góp vốn, rồi chia nhau đi Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hải Phòng và hầu hết các tỉnh miền Bắc để kêu gọi góp vốn. Khi có tiền họ sẽ tự mua máy móc và thu thập công nhân. Nhiều thợ giỏi ở các xưởng AVIA, nhà máy xe lửa, thợ trong thành của Pháp... tình nguyện đi theo.
    Trong khi đi kêu gọi vốn ở Hà Nam, họ gặp ông Chu Văn Luận có một nhà máy giấy ở cách Phủ Lý hơn 10km, của chủ người Pháp bán lại. Ông Luận tự nguyện hiến nhà xưởng và những thiết bị bên trong. Thế là Công ty vũ khí Phan Đình Phùng được thành lập và địa điểm là nhà máy giấy Chu Văn Luận.
    Ở thời kỳ đó, nhà máy giấy ấy là một cơ sở tương đối hiện đại, các thiết bị động lực khá tốt, trong đó có một lò hơi để chạy máy, lại có hệ thống dẫn nước từ nguồn về, vào mùa mưa, thường chạy bằng tuốc bin thủy lực, mỗi năm có thể chạy được từ 6-8 tháng. Hàng ngày, cán bộ, công nhân từ Phủ Lý qua sông và đi bộ chừng 2km thì đến nhà máy. Tôi theo cha và anh đi sang làm việc ở đó học nghề thợ tiện. Sản phẩm của nhà máy là súng trường, tiểu liên và lựu đạn. Vũ khí sản xuất ra được cung cấp cho Vệ quốc đoàn và tự vệ Hà Nội. Số lượng chưa nhiều, chừng một, hai trăm khẩu súng, nhưng tất cả những ai chiến đấu ở Hà Nội đều biết tiếng vũ khí Phan Đình Phùng thời ấy.
    Giữa năm 1946, khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, nhà máy được chuyển về thị xã Hà Đông. Đây là thời gian sản xuất rầm rộ nhất. Để mở rộng sản xuất, nhà máy áp dụng hình thức gia công cho các cơ sở vệ tinh. Các cơ sở ở Hà Nội có máy móc, thiết bị được nhận gia công một số chi tiết. Tôi còn nhớ gia đình hai anh em ông Hưng và ông Huệ ở Nam Đồng, nhà ở đối diện với Công ty phụ tùng xe đạp Đống Đa bây giờ, nhận làm cho công ty khá nhiều chi tiết. Riêng có nòng súng thì không gia công ở ngoài được, vì nòng súng có hai nguyên công khó, làm rãnh xoắn bên trong lỗ và lỗ lắp đạn. Bấy giờ, có anh Cần là thợ tiện giỏi và rất cần cù, tự làm dao chuốt và kéo trên máy tiện. Để gia công lỗ lắp đạn, anh lấy một nòng súng của Pháp làm mẫu, tiện một phôi dao doa, dùng bột màu rà vào nòng mẫu, bao giờ vết ăn đều là được. Sau đó, anh làm lưới doa và nhiệt luyện. Nhiệt luyện xong, phải kiểm tra, có cái bị cong phải bỏ hoặc làm dao doa thô. Sau nguyên công doa la đánh bóng. Đánh bóng cũng nhiều công, trong khi đánh bóng phải dùng tăm pông mẫu để kiểm tra, khi nào vết ăn đều mới được.
    Về Hà Đông chưa đầy nửa năm, số vũ khí sản xuất được gấp mấy lần thời gian đầu. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhà máy được chuyển về làng Dương Khê-Vân Đình thuộc Hà Đông. Chúng tôi ăn một cái Tết kháng chiến đầu tiên ở đó. Phải nói rằng các anh lãnh đạo công ty rất tháo vát, di chuyển nhà máy toàn dùng ô tô mà lúc đó ô tô cực hiếm, tất nhiên là ô tô chạy bằng than chứ không có xăng. Vào khoảng tháng 4 năm 1947, nhà máy lại di chuyển vào gần chợ Bến, đặt trong hang núi, giáp làng Hanh Lợi. Cán bộ, công nhân thì ở làng Viêm Khê, gần cầu Rậm, thuộc huyện Mỹ Đức.
    Cuối năm 1947, địch mở chiến dịch thu đông, lãnh đạo công ty lại chuyển nhà máy vào Hòa Bình, theo đường chợ Bến. Đi được nửa đường thì gặp địch kéo từ Hòa Bình ra, ô tô chở máy móc vội quay trở ra cầu Rậm, lúc đó khoảng 4 giờ chiều. Lãnh đạo quyết định đánh mìn sập cầu Rậm để hãm bước tiến của địch, anh em kịp cất giấu máy móc. Đến 6 giờ chiều, xe bọc thép của địch đến cầu Rậm, chúng không qua được sông và bộ binh cũng không dám qua. Tranh thủ thời gian đó, chúng tôi giấu máy móc xuống sông, còn một số đưa vào hang núi. Chúng tôi bị bao vây trong khi rút về phía Ba Thá, chỗ nào cũng thấy lửa cháy. Chúng bắn súng cối đuổi theo và đạn súng liên thanh rơi lõm bõm xung quanh chúng tôi. Chúng tôi di chuyển về phía đường 21, để vượt khỏi vòng vây của địch. Trinh sát cho biết, cứ 30 phút có một chuyến xe bọc thép đi tuần đường, muốn qua đường, phải đi dọc 3km mới có lối rẽ ngang. Theo tính toán thì xe đi tuần qua, lập tức chạy dọc 3 km tới lối rẽ và phải thật nhanh, nếu chậm sẽ gặp địch. Chúng tôi tập kết cách đường gần 1km, gần 1 giờ sáng được lệnh di chuyển, mọi người đi thật nhanh trong đêm tối ra đường. Ra đến đường nhựa, chúng tôi chạy bộ đến chỗ rẽ. Khi người cuối cùng cách đường 500m thì chúng tôi nghe tiếng xe địch chạy phía sau. Đi thêm mấy km nữa thì đến chợ Sồ (thuộc Lương Sơn-Hòa Bình), mọi người mệt lử chui cả vào lều chợ ngủ. Đến sáng, thức dậy thấy xung quanh lều toàn vết chân hổ, may sao không ai việc gì. Sau đó, toàn đơn vị leo núi, vượt rừng lên Việt Trì, Phú Thọ và cuối cùng là Tuyên Quang. Sau khi địch rút khỏi Hòa Bình, chúng tôi lại trở về chợ Bến thu thập máy móc, tiếp tục chuyển nhà máy qua Ái Nàng, đặt nhà máy ở Đức Dương.
    Đến khoảng tháng 4 năm 1948, nhà máy không thể hoạt động độc lập được nên sáp nhập vào Ty quân giới Liên khu 3. Nhà máy được đặt tên mật là K4, được phân công sản xuất súng cối và đạn cối 60mm, nay thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.
    Công ty vũ khí Phan Đình Phùng tồn tại được hơn hai năm, nhưng nó thể hiện tấm lòng yêu nước của những người dân Việt Nam, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, góp phần vào công cuộc bảo vệ đất nước trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

    Tiến sĩ Trần Văn Thông



  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Thêm một bài báo về Vũ khí VN :
    Nhà máy sản xuất vũ khí đầu tiên

    Ngày 19 tháng 08 năm 2004

    Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, để chiến đấu chống lại quân xâm lược, lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ độc lập của nhân dân Việt Nam có thừa, nhưng vũ khí lại rất thiếu. Lúc bấy giờ có hai thanh niên trí thức là Vũ Đức Toa và Trần Văn Kha bàn nhau xây dựng nhà máy sản xuất vũ khí. Họ không có tiền nhưng có lòng nhiệt tình. Họ kêu gọi các nhà tư sản tại Hà Nội góp vốn, rồi chia nhau đi Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hải Phòng và hầu hết các tỉnh miền Bắc để kêu gọi góp vốn. Khi có tiền họ sẽ tự mua máy móc và thu thập công nhân. Nhiều thợ giỏi ở các xưởng AVIA, nhà máy xe lửa, thợ trong thành của Pháp... tình nguyện đi theo.
    Trong khi đi kêu gọi vốn ở Hà Nam, họ gặp ông Chu Văn Luận có một nhà máy giấy ở cách Phủ Lý hơn 10km, của chủ người Pháp bán lại. Ông Luận tự nguyện hiến nhà xưởng và những thiết bị bên trong. Thế là Công ty vũ khí Phan Đình Phùng được thành lập và địa điểm là nhà máy giấy Chu Văn Luận.
    Ở thời kỳ đó, nhà máy giấy ấy là một cơ sở tương đối hiện đại, các thiết bị động lực khá tốt, trong đó có một lò hơi để chạy máy, lại có hệ thống dẫn nước từ nguồn về, vào mùa mưa, thường chạy bằng tuốc bin thủy lực, mỗi năm có thể chạy được từ 6-8 tháng. Hàng ngày, cán bộ, công nhân từ Phủ Lý qua sông và đi bộ chừng 2km thì đến nhà máy. Tôi theo cha và anh đi sang làm việc ở đó học nghề thợ tiện. Sản phẩm của nhà máy là súng trường, tiểu liên và lựu đạn. Vũ khí sản xuất ra được cung cấp cho Vệ quốc đoàn và tự vệ Hà Nội. Số lượng chưa nhiều, chừng một, hai trăm khẩu súng, nhưng tất cả những ai chiến đấu ở Hà Nội đều biết tiếng vũ khí Phan Đình Phùng thời ấy.
    Giữa năm 1946, khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, nhà máy được chuyển về thị xã Hà Đông. Đây là thời gian sản xuất rầm rộ nhất. Để mở rộng sản xuất, nhà máy áp dụng hình thức gia công cho các cơ sở vệ tinh. Các cơ sở ở Hà Nội có máy móc, thiết bị được nhận gia công một số chi tiết. Tôi còn nhớ gia đình hai anh em ông Hưng và ông Huệ ở Nam Đồng, nhà ở đối diện với Công ty phụ tùng xe đạp Đống Đa bây giờ, nhận làm cho công ty khá nhiều chi tiết. Riêng có nòng súng thì không gia công ở ngoài được, vì nòng súng có hai nguyên công khó, làm rãnh xoắn bên trong lỗ và lỗ lắp đạn. Bấy giờ, có anh Cần là thợ tiện giỏi và rất cần cù, tự làm dao chuốt và kéo trên máy tiện. Để gia công lỗ lắp đạn, anh lấy một nòng súng của Pháp làm mẫu, tiện một phôi dao doa, dùng bột màu rà vào nòng mẫu, bao giờ vết ăn đều là được. Sau đó, anh làm lưới doa và nhiệt luyện. Nhiệt luyện xong, phải kiểm tra, có cái bị cong phải bỏ hoặc làm dao doa thô. Sau nguyên công doa la đánh bóng. Đánh bóng cũng nhiều công, trong khi đánh bóng phải dùng tăm pông mẫu để kiểm tra, khi nào vết ăn đều mới được.
    Về Hà Đông chưa đầy nửa năm, số vũ khí sản xuất được gấp mấy lần thời gian đầu. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, nhà máy được chuyển về làng Dương Khê-Vân Đình thuộc Hà Đông. Chúng tôi ăn một cái Tết kháng chiến đầu tiên ở đó. Phải nói rằng các anh lãnh đạo công ty rất tháo vát, di chuyển nhà máy toàn dùng ô tô mà lúc đó ô tô cực hiếm, tất nhiên là ô tô chạy bằng than chứ không có xăng. Vào khoảng tháng 4 năm 1947, nhà máy lại di chuyển vào gần chợ Bến, đặt trong hang núi, giáp làng Hanh Lợi. Cán bộ, công nhân thì ở làng Viêm Khê, gần cầu Rậm, thuộc huyện Mỹ Đức.
    Cuối năm 1947, địch mở chiến dịch thu đông, lãnh đạo công ty lại chuyển nhà máy vào Hòa Bình, theo đường chợ Bến. Đi được nửa đường thì gặp địch kéo từ Hòa Bình ra, ô tô chở máy móc vội quay trở ra cầu Rậm, lúc đó khoảng 4 giờ chiều. Lãnh đạo quyết định đánh mìn sập cầu Rậm để hãm bước tiến của địch, anh em kịp cất giấu máy móc. Đến 6 giờ chiều, xe bọc thép của địch đến cầu Rậm, chúng không qua được sông và bộ binh cũng không dám qua. Tranh thủ thời gian đó, chúng tôi giấu máy móc xuống sông, còn một số đưa vào hang núi. Chúng tôi bị bao vây trong khi rút về phía Ba Thá, chỗ nào cũng thấy lửa cháy. Chúng bắn súng cối đuổi theo và đạn súng liên thanh rơi lõm bõm xung quanh chúng tôi. Chúng tôi di chuyển về phía đường 21, để vượt khỏi vòng vây của địch. Trinh sát cho biết, cứ 30 phút có một chuyến xe bọc thép đi tuần đường, muốn qua đường, phải đi dọc 3km mới có lối rẽ ngang. Theo tính toán thì xe đi tuần qua, lập tức chạy dọc 3 km tới lối rẽ và phải thật nhanh, nếu chậm sẽ gặp địch. Chúng tôi tập kết cách đường gần 1km, gần 1 giờ sáng được lệnh di chuyển, mọi người đi thật nhanh trong đêm tối ra đường. Ra đến đường nhựa, chúng tôi chạy bộ đến chỗ rẽ. Khi người cuối cùng cách đường 500m thì chúng tôi nghe tiếng xe địch chạy phía sau. Đi thêm mấy km nữa thì đến chợ Sồ (thuộc Lương Sơn-Hòa Bình), mọi người mệt lử chui cả vào lều chợ ngủ. Đến sáng, thức dậy thấy xung quanh lều toàn vết chân hổ, may sao không ai việc gì. Sau đó, toàn đơn vị leo núi, vượt rừng lên Việt Trì, Phú Thọ và cuối cùng là Tuyên Quang. Sau khi địch rút khỏi Hòa Bình, chúng tôi lại trở về chợ Bến thu thập máy móc, tiếp tục chuyển nhà máy qua Ái Nàng, đặt nhà máy ở Đức Dương.
    Đến khoảng tháng 4 năm 1948, nhà máy không thể hoạt động độc lập được nên sáp nhập vào Ty quân giới Liên khu 3. Nhà máy được đặt tên mật là K4, được phân công sản xuất súng cối và đạn cối 60mm, nay thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.
    Công ty vũ khí Phan Đình Phùng tồn tại được hơn hai năm, nhưng nó thể hiện tấm lòng yêu nước của những người dân Việt Nam, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, góp phần vào công cuộc bảo vệ đất nước trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

    Tiến sĩ Trần Văn Thông



  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Khéo sử dụng mọi khả năng tiềm tàng để đánh địch, ta không chỉ hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu điểm yếu của địch, mà còn biết khai thác ngay những yếu tố công nghệ mạnh nhất của địch để đánh lại chúng. Trường hợp đánh máy bay B-52 là một thí dụ minh chứng. Gây nhiễu là một thủ đoạn của địch, nhưng bộ đội phòng không-không quân ta biết dùng nhiễu đặc trưng của B-52 để bám sát và bắn rơi chúng, từ đó sáng tạo ra một cách độc đáo, rất Việt Nam, trong cuộc đấu trí và đấu lực quyết liệt với tiềm lực không quân mạnh và hiện đại nhất của Mỹ. Đó là cách đánh trong môi trường bị gây nhiễu.
    Một trong những bí quyết của công nghệ sử dụng vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ là sự kết hợp tài tình, khôn khéo giữa kiến thức khoa học kỹ thuật cao với nghệ thuật quân sự độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam.


  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Khéo sử dụng mọi khả năng tiềm tàng để đánh địch, ta không chỉ hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu điểm yếu của địch, mà còn biết khai thác ngay những yếu tố công nghệ mạnh nhất của địch để đánh lại chúng. Trường hợp đánh máy bay B-52 là một thí dụ minh chứng. Gây nhiễu là một thủ đoạn của địch, nhưng bộ đội phòng không-không quân ta biết dùng nhiễu đặc trưng của B-52 để bám sát và bắn rơi chúng, từ đó sáng tạo ra một cách độc đáo, rất Việt Nam, trong cuộc đấu trí và đấu lực quyết liệt với tiềm lực không quân mạnh và hiện đại nhất của Mỹ. Đó là cách đánh trong môi trường bị gây nhiễu.
    Một trong những bí quyết của công nghệ sử dụng vũ khí trang bị của các lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ là sự kết hợp tài tình, khôn khéo giữa kiến thức khoa học kỹ thuật cao với nghệ thuật quân sự độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam.


  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Con này là Su17/22 đấy chứ bác dognadoan !
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Con này là Su17/22 đấy chứ bác dognadoan !
  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Con đấy là Mig21 đời đầu, sản xuất tại Tiệp khắc (cũ) và phục vụ trong không quân Tiệp khắc.
    Bảo tàng Không quân Mỹ ở Dayton, Ohio (bảo tàng không quân lớn nhất thế giới) mua lại và sơn cho nó phù hiệu của Không quân Nhân dân Việt nam. Tớ đã sờ tận tay nó ở Dayton rồi.
    Su22 cánh cụp cánh xoè trông to hơn nhiều. Khác nhau cơ bản là Su22 có hai khẩu cannon ở cánh (giống vị trí cannon của Mig19) và mỗi bên cánh có cái vây rất lớn dùng để ổn định khi thay đổi hình dạng cánh bay và dùng để treo vũ khí.

Chia sẻ trang này