1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vụ thảm sát của Pháp ở Gia Lai??? Sự thật được phơi bày sau hơn nửa thế kỉ!!!

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Voldo, 29/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Vụ thảm sát của Pháp ở Gia Lai??? Sự thật được phơi bày sau hơn nửa thế kỉ!!!

    Nghe nói vụ thảm sát diễn ra vào tháng 3/1947.

    Tại làng Tân Lập, thuộc địa bàn thôn 6, xã Đắk Hlơ, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai ngày nay quân thực dân Pháp đã đã đốt phá hơn 70 ngôi nhà, sát hại hơn 300 người dân vô tội.

    Tội ác đó đã chìm vào quên lãng?

    Hay tội ác đó không có thật?

    Có bác nào biết thêm thông tin về vụ này không?
  2. BearMoscow

    BearMoscow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2004
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    =====
    Nghệ sỹ Phạm Duy - trước là nhân viên của Bộ Thông tin và Chiêu hồi cũ,viết trong Hồi Ký Phạm Duy ( trong thư viện
    http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=W08V2GWEJMKLxY8iDAkXzw%3d%3d
    ) là ông đến làng huyện Gio linh ,bọn Tây vào làng tìm *********. Chúng bảo quẳng trẻ con xuống mương nếu dân làng không nói. Song không ai biết. Thế là chúng quẳng 12 em bé đang bú mẹ xuống. Mẹ các em ôm chặt và chết đuối theo con. Chúng xả súng bắn đến mấy ngày sau Phạm Duy đến vẫn đen kịt máu. Ông sáng tác bài Bà Mẹ Gio linh nổi tiếng từ đây
  3. minhchaupp666

    minhchaupp666 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2004
    Bài viết:
    804
    Đã được thích:
    0
    Cái này ko có ảnh như vụ Mỹ Lai nhỉ ? đau lòng quá
  4. phanbinh21

    phanbinh21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Tôi không nhớ rõ hình như mấy vụ này có được nói bởi đài RFA (Á Châu tự do) ngày 20/4/2003 thì phải.
    Theo đó ngoài đám lính Pháp còn có một đại đội toàn lính ngụy do một tên thiếu uý Pháp là Pierre chỉ huy. Trong nho''m này có mấy thằng nguỵ như Lê Văn Kim, Nguyễn Văn Thiệu, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Là, Trần Thiện Khiêm.
    Các bạn nào muốn biết rõ chi tiết có thể liên lạc với mấy thằng này hay là với con cháu chúng.
  5. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Ôi dào ôi, thời buổi thông tin mạng này mà còn nhiều con cái quan lại triều đình vẫn còn quen mui giở giọng tuyên truyền rẻ tiền sai lạc thế à. Khinh thường dân đen chúng em thế! Các bác lên mạng được thì chúng em cũng lên mạng được. Các bác có hậu phương vững thì chơi mạng DSL thì chúng em chơi mạng thường cũng chỉ chậm hơn một téo thôi mà. Bà mẹ Gio Linh không dính dáng gì tới câu chuyện của bác BearMoscow kể cả. Đó là bài hát Phạm Duy viết cho bà mẹ có anh du kích bị Pháp chặt đầu, cho nên trong bài có các câu sau trong bài hát:
    "...Mẹ già tưới nước trồng rau
    Nghe tin xóm làng kêu gào.
    Quân thù đã bắt được con
    Đem ra giữa chợ cắt đầu.
    Nghẹn ngào không nói một câu
    Mang khăn gói đi lấy đầu.
    Đường về thôn xóm buồn teo,
    Xa xa tiếng chuông chùa gieo..." (Bà mẹ Gio Linh)
    Trong các tên tuổi mà bác Phan Bình bịa trong câu chuyện về vụ thảm sát nào đó vào tháng 3 năm 1947, thì ông Nguyễn Văn Thiệu thời kỳ này còn đang học thương mại hàng hải, mãi tới 1949 ông Thiệu mới phá ngang sang học sĩ quan Đà Lạt. Ông Trần Thiện Khiêm vào thời điểm này còn đang học trong trường hạ sĩ quan Đập Đá. Còn ông Mai Hữu Xuân là Phòng Nhì Pháp sau chuyển sang An Ninh Quân Đội. Ông này chưa bao giờ đi hành quân tác chiến cả. Lần sau muốn giở giọng xuyên tạc lịch sử thì ra phòng thông tin văn hóa phường chứ đừng thò mặt lên diễn đàn LSVH này nhớ!
    Được MDB sửa chữa / chuyển vào 13:04 ngày 31/05/2005
  6. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Bác MDB này, người ta chỉ lầm lẫn thôi bác có cấn phải chuyện bé xé ra to như thế không nhỉ? Chính xác thì cái link trên có dẫn đến một bộ nói là hồi ký của ông Phạm Duy. Tuy nhiên link trên dẫn đến chương 25, trong khi câu chuyện 12 bà mẹ đến tận chương 29 mới được kể lại. Theo lời tác giả thì ông đi đến một làng mới bị Pháp khủng bố, và được kể về câu chuyện 12 bà mẹ, đại khái gần giống bác bearmoscow kể. Nhân đó ông viết bài Mười Hai Lời Ru kể về chuyện này:
    ....
    Miền Trung yêu dấu có một bài ru
    Vọng từ quê mẹ là nơi căm thù.
    . . . . . . . .
    Mười hai người mẹ
    Giặc bắt ôm con
    Thả trôi suôi dòng...
    .........................
    Đoạn sau ông nói chuyện tiếp đó nghe kể thêm về bà mẹ Gio Linh đi nhặt đầu con trai mang về. Do đó ông lại sáng tác thêm bài Ngưòi Mẹ Gio Linh. Đây là bác BM nhầm lẫn thôi. Bác MDB bận sau bơn bớt đanh đá một chút thì hay quá.
    Đây trích lại nguyên văn một đoạn trong cái trang web đó:
    ".... Và một hôm, chúng tôi tới một làng trong huyện Gio Linh.
    Khi chúng tôi tới đầu làng, dân chúng lảng đi không muốn nói chuyện vì lính Pháp vừa tới khủng bố làng này. Họ tưởng chúng tôi là người của Pháp. Nhưng sau khi biết chúng tôi là đoàn văn nghệ được Tỉnh U±y phái tới để nâng cao tinh thần đồng bào thì dân làng niềm nở đón tiếp. Sau khi hỏi thăm tình hình nơi đây, họ kể cho nghe chuyện lính Pháp vừa tới khủng bố làng này và đưa chúng tôi đi coi cái hố chôn tập thể. Khi đi qua một cái cầu tre, tôi thấy nước ở dưới chân cầu hãy còn nhuộm mầu máu đỏ, hỏi ra thì được biết chuyện12 người mẹ vừa bị bắn chết. Chuyện như thế này:
    Sau khi một toán lính Pháp đi tuần tiễu và bị du kích bắn chết hay bị giật mìn gì đó, lính Pháp được phái tới làng này để trả thù. Chúng tập trung dân làng lại và thấy trong đám đông có 12 người mẹ đang bồng trong tay 12 đứa con thơ. Chúng bắt dân làng phải khai ra nơi trú ẩn của những du kích quân vừa gây thiệt hại cho chúng, nếu không chúng sẽ giết 12 người mẹ này. Vì không có ai khai cả cho nên chúng lôi 12 người mẹ đang bồng con thơ đó ra bờ sông, và ra lệnh cho 12 người mẹ đó ném 12 đứa con của mình xuống nước. Lẽ dĩ nhiên là 12 người mẹ đó không làm theo lệnh chúng và bị chúng bắn chết cùng 12 đứa con thơ. Tôi soạn ra một bài có âm hưởng dân ca miền Trung nhan đề Mười Hai Lời Ru để ghi lại tội ác này:
    Miền Trung yêu dấu có một bài ru
    Vọng từ quê mẹ là nơi căm thù.
    . . . . . . . .
    Mười hai người mẹ
    Giặc bắt ôm con
    Thả trôi suôi dòng...
    Bài hát kể lại câu chuyện hãi hùng đó với kết luận là 12 người mẹ ôm con chết đi, nhưng từ đó, hằng đêm, trên con sông đau thương này, người ta vẫn nghe văng vẳng 12 lời ru của 12 người mẹ Việt Nam chết trong kháng chiến:
    Mười hai câu hát đưa tự miền xa
    Để thành lời ca ghi vào lòng ta.
    Ngoài chuyện 12 người mẹ bị hi sinh đó, dân chúng ở trong làng này còn kể cho chúng tôi nghe thêm câu chuyện của một bà mẹ ở trong một làng gần đó, có người con đi dân quân bị lính Pháp bắt rồi bị chặt đầu treo giữa chợ. Không ai dám lấy cái đầu của anh dân quân xuống để đem đi chôn. Rút cuộc bà mẹ lẳng lặng ra chợ lấy đầu con bỏ vào khăn gói mang về. Nghe xong câu chuyện, tôi xin với một anh dân quân đưa tôi tới cái làng đó để gặp bà mẹ. Đây là một người đàn bà với bộ mặt có nhiều nét mặt nhăn nheo nhưng đối với tôi thì bà đẹp như một vị thánh. Gặp bà, tôi lúng túng không biết nói năng gì và đẩy cho người đưa đường nói hộ tôi. Tôi đã rợn người khi nghe bà kể lại câu chuyện của bà bằng một giọng nói rất bình thản. Rồi bà dẫn tôi đi qua một rặng tre để ra tới chợ là nơi ngày nào bà đã tới để lấy đầu con đem đi chôn.
    Tôi không khóc khi đứng ở giữa nơi sân khấu chưa đóng màn của một tấn tuồng bi thảm trong kháng chiến, bên cạnh vai chính của vở bi-hùng- kịch này, nhưng trong đêm đó, tôi trở về nằmlăn trên cái giường nứa ở một cánh rừng không tên trên chiến khu Quảng Trị, rồi tôi đã khóc rưng rức khi ngồi dậy và viết ra những câu ca đầu tiên của bài hát. Lúc đó cũng là lúc tôi nghĩ tới mẹ tôi:
    Mẹ già cuốc đất trồng khoai
    Nuôi con đánh giặc đêm ngày
    Cho dù áo rách sờn vai
    Cơm ăn bát vơi bát đầy...
    . . . . . . . . .
    Mẹ già tưới nước trồng rau
    Nghe tin xóm làng kêu gào.
    Quân thù đã bắt được con
    Đem ra giữa chợ cắt đầu.
    Nghẹn ngào không nói một câu
    Mang khăn gói đi lấy đầu.
    Đường về thôn xóm buồn teo,
    Xa xa tiếng chuông chùa gieo...
    .........."
  7. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    mấy vụ này cũng như vụ Mỹ Lai chỉ để cho dân Tây-Mỹ tự suy ngẫm lại thôi, chứ còn tội ác của chúng phải tính hàng trăm vạn hay hàng triệu, chỉ có điều hoặc quy mô ít hơn hay là diễn ra trong bối cảnh nhẹ nhàng hơn chỉ cần bấm 1 nút ném bom.
  8. NewGod

    NewGod Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    0
    Thực dân Pháp gây ra nhiều thảm sát kinh rợ còn hơn thời Mỹ . nhưng khi đó truyền thông đại chúng còn thuở sơ khai nên không phản ánh hết thôi .
    Chẳng hạn vụ tên linh mục Trần Lục dẫn 5 nghìn giáo dân dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp tấn công căn cứ Ba Đình của anh hùng Phan Đình Phùng , đào mả cụ Phan lên đốt thành tro rồi nhồi thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang cho mất tích .
    Hoặc như mấy địa phận Bùi Chu Phát Diệm do linh mục Hoàng Quỳnh và Lê Hữu Từ cầm đầu , lập ra các đơn vị "Tự vệ Công giáo" giết người như nghoé , bắt được ********* là chúng mổ bụng giữa chợ ăn gan , bảo dân đem bếp than ra cắt gan quạt than nướng ăn để dằn mặt mọi người . Chuyện này được nhiều nhân chứng ghi lại thành sách .
    Bọn ấy tuy mang máu Việt nhưng hồn thì không phải Việt , làm tay sai cho Pháp, cho nên cũng cần phải liệt vào hàng ngũ thực dân Pháp .
  9. A_S

    A_S Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    39
    Bác lộn một chút rồi,cho em mạn phaép nói leo:Đào mả cụ Phan Đình Phùng rồi bắn xuống Lam Giang là Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả ( cha của Ngô Đình Diệm).Hai tên này dẫn giáo dân đi đánh phá và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Văn Thân dưới quyền chỉ huy của cụ Phan Đình Phùng tại căn cứ Ngàn Trươi và Vụ Quang.
    Còn chỉ huy cuộc khởi nghĩa BaĐình là Đinh Công Tráng,và đúng thật là bị Trần Lục dẫn 5000 giáo dân cùng quân Pháp đánh phá.
  10. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Gửi chú Goát
    Hãy nhìn cách mà những vị vua như Minh Mạng, Tự Đức và cảc một số những quan chức triều Nguyễn đối xử với người Công Giáo. Biết bao người công giáo không chịu dẫm chân lên niềm tin của họ đã bị chém đầu. Biết bao người công giáo đã bị khẩu hiệu "bình Tây sát tả" giết hại. Đó có đáng là những vụ thảm sát không? Và khi còn những con rắn độc phun nọc chia rẽ tôn giáo như chú thì anh sợ rằng sẽ còn nhiều vụ thảm sát tôn giáo nữa lắm.
    Làng Phật Giáo Mã Châu, nơi tôi sinh ra, cách làng Công Giáo Trà Kiệu, nơi Th., bạn tôi, sinh ra, khoảng mười cây số và một con sông. Trong làng tôi, ngoài trừ gia đình người chú họ, sau khi đi làm ăn xa trở về làng cũ, trong hành trang của chú còn có thêm một cây Thánh Giá và bức hình Đức Mẹ, tất cả bà con còn lại đều là Phật Tử. Đoạn đường từ trạm Nam Phước lên đến quận Duy Xuyên chỉ dài hơn năm cây số nhưng đã có đến bốn ngôi chùa. Các ngôi chùa làng rất nhỏ, mái ngói cong, thường xây cạnh những cây đa già. Tuổi thơ tôi lớn lên trong một môi trường Phật Giáo và dưới bóng mát của hồn quê hương đơn sơ chất phác đó.
    Phần lớn bạn học các lớp trung học đệ nhất cấp ở trường quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, trong đó có cả Th., và Diệp đều là người Trà Kiệu. Ba của Diệp lái xe Lam ba bánh. Cuối tuần tôi thường ra Chợ Quận đứng chờ xe của bác đi ngang là tôi đi theo lên Trà Kiệu chơi với đám bạn. Từ Mã Châu đi Trà Kiệu không xa nhưng phải qua Cầu Chìm, một chiếc cầu nhỏ bắc ngang một trong những nhánh sông Thu Bồn chảy ra hướng Cửa Đại. Vì được xây quá gần với mặt nước nên mỗi khi trời mưa lớn là xảy ra cảnh nước chảy qua cầu. Đám học sinh bên kia sông buổi sáng đi bộ đến trường nhưng buổi chiều nhiều khi phải đi đò về nhà. Bên chân cầu là một chiếc lô-cốt bằng xi-măng, tàng tích của chế độ Thực Dân còn để lại và cũng là một nhắc nhở của vết thương hằn sâu trên da thịt quê hương tôi, làm nhức nhối bao nhiêu thế hệ đã qua và còn mưng mủ cho đến bây giờ.
    Trà Kiệu, với diện tích khoảng một cây số vuông, đẹp một cách hùng vĩ và linh thiêng. Phía Tây Trà Kiệu là rặng núi Kim Sơn chạy dài, hút sâu vào dải Trường Sơn trùng điệp. Phía Nam là di tích thành lũy và hoàng cung của một thời vàng son trong lịch sử Chiêm Thành. Theo sử sách ghi lại, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu phần lớn từ miền Bắc di cư vào miền Trung, bắt đầu là người ở Kẻ Chợ Hà Đông vào khoảng năm 1684. Họ sống tập trung nhau để dễ bề giữ đạo và giúp đỡ cho nhau. Trong tôi vẫn còn in lại hình ảnh những bậc tam cấp bằng đá của nhà thờ Trà Kiệu, nơi chúng tôi đã ngồi trong những buổi chiều vàng nhìn xuống xóm nhà của các bạn tôi, được dựng bên những thửa ruộng xanh bao vòng quanh chân núi.
    Thế nhưng, không phải ai ở quê tôi cũng đối xử với nhau một cách vô tư, hồn nhiên và hòa đồng như tôi và đám bạn Trà Kiệu của tôi. Không ít người dân Quảng, vốn rất tự hào về truyền thống cách mạng, chống Thực Dân Pháp, Địa Linh Nhân Kiệt, Ngũ Phụng Tề Phi, thường nghĩ về Trà Kiệu như là một làng Công Giáo biệt lập. Càng tự hào với truyền thống chống Thực Dân bao nhiêu thì họ lại càng dễ có thái độ khắt khe, xa cách với đồng bào Trà Kiệu bấy nhiêu. Với những người mang nặng định kiến, hẹp hòi và bảo thủ, đồng bào Trà Kiệu, dù sống trên cùng một quê hương nhưng không cùng chung nhau trọn vẹn một chiều dài lịch sử. Sự xa cách đó không phải tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ đơn giản là sự cách biệt lương giáo chung chung mà thôi, nhưng những chia rẽ giữa những người đã chôn khúc nhau trên cùng mảnh đất, bắt đầu bằng máu, đổ xuống trong đêm 1 tháng 9 năm 1885 và chảy dài suốt thời kỳ thực dân đầy thù hận, khổ đau, tang tóc.
    Đêm đó nghĩa quân thuộc phong trào Văn Thân tỉnh Quảng Nam với khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả đã mở liên tục các cuộc tấn công vào làng Công Giáo Trà Kiệu lúc bấy giờ đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của Linh Mục Bruyere, được gọi bằng tiếng Việt là Cố Nhơn, thuộc Hội Thừa Sai Pháp. Trong làng thời đó chỉ có khoảng 370 thanh niên có thể chiến đấu với vỏn vẹn 5 khẩu súng. Họ phải tự rèn gươm giáo, đúc súng đạn, dành dụm từng chút lương khô trong cuộc chiến tranh tự vệ khó khăn và quyết liệt. Sau lưng là núi, trước mặt là con đường độc nhất dẫn ra tỉnh đã bị bao vây. Họ không có đường lui và cũng không còn đường tiến. Cuộc chiến đấu của họ mang trọn vẹn ý nghĩa của "tự do tôn giáo hay là chết".
    Sau 21 ngày tấn công và chống đỡ đẫm máu giữa người Quảng và người Quảng, giữa người Việt và người Việt, giữa những tín đồ Thiên Chúa Giáo và các đơn vị Văn Thân Bình Tây Sát Tả, đã gây ra rất nhiều thiệt hại, mất mát cho cả hai bên. Máu người dân Quảng đã chảy trên đồi Bửu Châu thiêng liêng, xương người dân Quảng đã phơi trên cố đô Chiêm Thành huyền bí.
    Cuối tháng 9 năm 1885, sau gần một tháng tấn công không thành công, các đơn vị Văn Thân rút lui. Đồng bào Công Giáo Trà Kiệu tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra trong những đêm 10 và 11 tháng 9 năm 1885 để che chở cho con cái của Mẹ và giúp đẩy lui quân đội của cả một phong trào Văn Thân rộng lớn của tỉnh Quảng Nam đông gấp trăm lần. Từ đó, hằng năm vào ngày 31 tháng 5, ngày cuối của tháng Hoa, người dân Công Giáo Trà Kiệu tổ chức lễ cung nghinh Đức Mẹ để ghi ơn Mẹ đã cứu giúp Trà Kiệu thoát khỏi bị tận diệt. Năm nay, dù trong điều kiện khó khăn, hơn 16 ngàn tín đồ Công Giáo khắp nơi đã hành hương về Trà Kiệu để vinh danh Đức Mẹ Trà Kiệu.
    Trong cái nhìn của riêng tôi, đồng bào Trà Kiệu thời bấy giờ không có một chọn lựa nào khác. Họ đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tự vệ, không những để bảo vệ niềm tin Thiên Chúa mà còn vì mạng sống của chính họ và gia đình họ. Nhiều trong số họ đã ngã xuống cho niềm tin mà họ tôn thờ. Nếu họ thua, có thể làng Công Giáo Trà Kiệu không còn hiện diện trên bản đồ như ngày nay nữa. Niềm tin đã giúp Trà Kiệu đứng vững. Ngày 31 tháng 5, trong bình diện tôn giáo, vì thế, phải được hiểu như là ngày của Niềm Tin hơn là một chiến thắng quân sự chống lại Văn Thân. Niềm tin tôn giáo đó vô cùng cao cả và trong sáng. Đồng bào xứ Quảng thời đó đã sống có niềm tin và đã chết vì niềm tin. Những hy sinh của họ xứng đáng được kính trọng và phải được nhìn từ khía cạnh thuần túy tâm linh.
    Dân tộc Việt Nam là một dân tộc ít may mắn. Rất hiếm hoi trong mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta có được một thời bình yên và ổn định đủ dài để xây dựng đất nước hay ít ra đủ kết hợp một tiềm năng, như trường hợp Nhật Bản, đủ sức chống chỏi với các áp lực từ bên ngoài. Sau suốt cả ngàn năm Bắc thuộc là Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi cuộc nội chiến vừa yên thì các chiến hạm Pháp cũng vừa thả neo dòm ngó ngoài cửa biển. Nói ra có vẻ cải lương nhưng quả thật dân tộc Việt Nam đúng là một dân tộc đã trưởng thành trong khói lửa.
    Tôn giáo tại Việt Nam đã chia xẻ trọn vẹn những bất hạnh chung của dân tộc. Phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Theo các quy luật kinh tế đã được các nhà kinh tế thuộc mọi trường phái thừa nhận, chủ nghĩa thực dân là một bệnh chứng tất yếu trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Với hệ thống giáo dục lỗi thời và chính sách đối ngoại vô cùng thiếu ngôn ngoan của triều đình nhà Nguyễn cộng với các kỹ thuật chiến tranh cách biệt quá xa về kỹ thuật giữa tây phương và của các quốc gia khu vực Nam Á thời bấy giờ, dù có hay không có sự xuất hiện của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam trong giai đoạn đó thì nước ta vẫn mất, nhà ta vẫn tan.
    Chỉ tiếc là chúng ta không có những ông vua sáng suốt như Minh Trị Thiên Hoàng (1852-1912) biết nhìn xa hiểu rộng, kịp thời canh tân đất nước. Chúng ta cũng không có được những ông vua như Rama IV (1851-1868) của Thái đủ khôn ngoan để thấy được xu thế chính trị kinh tế của thời đại, ngõ hầu dung hóa các ngoại lực. Thay vào đó, các vua nhà Nguyễn đã theo đuổi chính sách bế môn tỏa cảng để rồi cuối cùng dẫn đến mất nước. Tiếng súng của Đô Đốc Perry đã đánh thức nước Nhật nhưng tiếng đại bác của viên sĩ quan Pháp, Le Lieur, bắn vào Đà Nẵng năm 1856 không lay tỉnh một triều đại ngủ quên trong cái học từ chương, thi phú cung đình. Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều ... chỉ là vài giọt nước tan loãng vào biển hủ nho phong kiến. Tương tự, những lời can gián cương trực của hai danh sĩ Quảng Nam, Phó Sứ Phạm Phú Thứ và Binh Bộ Thượng Thư Lê Đĩnh, chẳng đủ công hiệu để giết hết được loại vi trùng định kiến, hoài nghi, bảo thủ, lo sợ mất quyền, mất nước truyền trong máu từ bao đời trước.
    Thế nhưng, nói như thế, cũng không có nghĩa, tôi đang trách tổ tiên ông bà chúng ta trong phong trào Văn Thân, Cần Vương kháng Pháp. Thảm cảnh, trong đó hàng vạn người Việt Nam được trang bị bằng dao mác, tầm vông, đã gục xuống như rơm rạ trước nòng đại bác thực dân, đã làm sục sôi máu hờn căm của những người dân Việt đang đau vì vận nước. Ông bà chúng ta thời đó, ngoài giặc Pháp, chẳng còn một nơi nào hay một ai để trút lòng phẩn uất, lửa căm thù của họ, khác hơn là các giáo sĩ tây phương và những người theo đạo từ tây phương truyền đến. Và để nghĩ cho cùng, chúng ta cũng không thể trách các vua nhà Nguyễn đã bế quan trong bốn bức tường thành. Làm sao các vị đó hiểu được những gì đang xảy ra trên thế giới và cho vận nước, khi cả đời vùi mài trong tứ thư ngũ kinh. Làm sao các vị đó có được chọn lựa sáng suốt hơn khi mang trong người dòng máu sợ người ngoài như sợ thú dữ, truyền lại từ suốt ngàn năm lệ thuộc Bắc phương.
    Trở lại với Trà Kiệu, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu thời bấy giờ đã dù bị bạc đãi, dù chịu đựng trấn áp nhưng đã không vì thế mà bỏ rơi đất nước. Các tín đồ Thiên Chúa Giáo Quảng Nam đã không nghe lời Giám Mục Pellerin làm nội gián cho quân của tướng Rigault De Genouilly khi viên tướng nầy đem quân đánh Đà Nẵng vào ngày 1 tháng 9 năm 1857. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Phạm Văn Sơn: "Viên Trung Tướng nầy [Rigault De Genouilly] còn thất vọng thêm ở chỗ không thấy có giáo dân nổi lên hưởng ứng nên đã kỳ kèo giám mục Pellerin vì trước đây giám mục đã đoan quyết như vậy. Lúc nầy giám mục cũng theo quân đội (Pháp) và có mặt trên chiếc tàu Némésic. Giám mục vừa xấu hổ vừa tức giận nên bỏ về ở nhà tu Pinang tại Mã Lai".
    Hẳn nhiên không phải ở đâu cũng có những người Việt Nam như thế, không phải nơi nào dân tộc ta cũng may mắn có được nhừng người con biết làm ngơ trước vinh hoa để bảo vệ sự sống còn lâu dài của dân tộc như thế. Trong suốt 40 năm chiến đấu trong gian nan tuyệt vọng để ngăn chận bước chân của thực dân Pháp (1847-1887), bao nhiêu mẫu chuyện đầy bẽ bàng chua xót, bao nhiêu việc làm đáng trách của một số người Việt còn ghi lại trong sử sách.
    Nhắc lại những điều đáng ca ngợi hay nêu lên đôi điều đáng trách đó, tôi không có ý định đào sâu những vết thương đã một thời lở lói trong lòng dân tộc. Nhưng để chúng ta cùng nhìn về quá khứ một cách khách quan, chân thành, bao dung và trân trọng, để từ đó biết tránh xa những ổ gà, những hầm hố, những vết xe đổ, trên đường đi tới một tương lai tươi sáng cho đời sau. Không ai muốn giết nhau. Không ai muốn tàn sát nhau. Định mệnh lịch sử đã bẫy dân tộc ta vào một căn hầm không lối thoát, trong đó, các thành phần dân tộc vừa là nạn nhân, vừa là nhân chứng, vừa là đồng lõa và nhiều khi cũng vừa là tội phạm. Đọc lại lịch sử Việt Nam các thế kỷ 17, 18 để thấy ông bà chúng ta đáng thương và tội nghiệp biết bao nhiêu. Cả dân tộc, thời bấy giờ, như một bầy cừu non, không hề chuẩn bị, trước nanh vuốt của Thực Dân Pháp.
    Tôi chỉ mong có một ngày những người dân Quảng sẽ cùng về lại Trà Kiệu, cùng nhau lau sạch những bậc đá trên đồi Bữu Châu như lau đi những vết thương hằn sâu nhiều thế kỷ. Tôi vẫn mơ có một ngày cùng nhau xây lại đình làng Ngũ Xã Hoàng Châu và các làng mạc chung quanh Trà Kiệu, nơi đã từng là bãi chiến trường, là biên giới của phân ly, hoài nghi, xa cách. Trà Kiệu, Mã Châu, Thi Lai, Hà Mật, Kỳ Lam, Giao Thủy, Đà Nẵng, Hội An....là những phần thân thể đáng yêu và bất khả phân ly của xứ Quảng. Tôi yêu Trà Kiệu như yêu chính ngôi làng Mã Châu nhỏ bé của tôi.
    Chiều hôm qua, đọc bài viết công phu của linh mục Trần Quý Thiện về nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử, tôi xúc động và hãnh diện khi biết rằng mẹ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, cụ bà Nguyễn Thị Duy, sinh năm 1881, là người Trà Kiệu. Thân phụ của tác giả Đây Thôn Vỹ Dạ nổi tiếng, cụ Vinh Sơn Phaolô Phạm Toản (1882-1926) vì chống Pháp phải thay đổi họ từ Phạm sang họ Nguyễn. Giọt sữa mẹ và hùng khí quê ngoại Quảng Nam đã góp phần tạo nên Hàn Mặc Tử, nhà thơ lớn của Việt Nam đầu thế kỷ 20.
    Chúng ta không thể sửa lại quá khứ, chúng ta không thể làm lại lịch sử, chúng ta không thể xoay ngược bánh xe thời gian, chúng ta cũng không thể nào quên đi quá khứ. Nhưng xin hứa với nhau, chúng ta sẽ không sống bằng quá khứ. Chúng ta sẽ học những bài học đắng cay của cha ông chúng ta một cách nghiêm túc, chân thành và trân trọng. Nhưng không phải học để rồi khóc than thương tiếc, mà để từ đó xây dựng một Việt Nam thương yêu, đoàn kết trong tương lai, kính Chúa nếu là con cái Chúa, kính Phật nếu là đệ tử Phật, tương kính đạo của nhau giữa những người khác đạo, và biết vượt qua mọi khó khăn để gìn giữ căn nhà chung của mẹ Việt Nam. Các tôn giáo sẽ mãi mãi là những giòng suối của tình thương, những giòng sông của bác ái, hòa vào mạch sống chung của dân tộc, đem lại dòng sinh khí cho quê hương vốn đã bao năm chìm đắm trong hận thù tang tóc. Các vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo trong Việt Nam tương lai sẽ là những cột kèo, mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức Việt Nam mỗi ngày một thêm bền vững. Các ngài sẽ là những bậc thầy đáng kính dạy dỗ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được lớn lên trong tình đồng bào ruột thịt, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.
    ( tâm bút Trần Trung Ðạo)

Chia sẻ trang này