1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vụ trấn yểm bùa trên sông Tô Lịch

Chủ đề trong 'Hỏi gì đáp nấy' bởi nguoiquansat_6314, 04/11/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngon_nen

    ngon_nen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2006
    Bài viết:
    2.755
    Đã được thích:
    0
    Về link mà bạn cocvangkhe đưa lên, theo thiển ý của tôi, những nhà Địa lý chân chính chỉ đi giúp ích cho đời, tích phúc đức cho con cháu đời sau chứ họ ko bao giờ đi tính toán theo kiểu:
    ''Nào là xoay tại vị trí xalông, giường ngủ cho hợp chủ mệnh giá 1 triệu, chặt bỏ những tác động ám địa, hãm chủ như cành cây chĩa vào nhà giá 2 triệu, chỉnh lại hướng bàn thờ để phát tài giá 3 triệu, đặt mộ đúng hướng, chọn đất tốt để phát số thì giá 5 triệu và hơn nữa.'' .
    Với tôi, đây chỉ là những kẻ trục lợi từ môn Địa lý Phong thủy chứ ko bao giờ được cho là nhà Địa lý theo đúng nghĩa.
    Tác giả của bài báo đó cho rằng:
    ''với trình độ của khoa học kỹ thuật hiện đại thì thuật phong thủy cũng đáng xếp vào kho lưu trữ để ghi nhớ công sức tìm tòi sáng tạo của các bậc tiền nhân suốt quãng dài lịch sử nhằm phục vụ cuộc sống tốt đẹp yên lành hơn cho con người.'' thì rõ ràng tác giả đã cho rằng Phong thủy ko có giá trị trong cuộc sống hiện tại.
    Địa lý Phong thủy là môn khoa học dựa trên các hiện tượng thiên nhiên, các hiện tượng địa chất, vị trí địa lý, kết hợp với Kinh dịch, Thuyết Âm dương Ngũ hành để lý luận. Cùng với tất cả các môn khác như Tử vi, Lý số, Tướng học..., với tớ, tớ cho rằng đây đều là những môn khoa học. Chỉ có điều tất cả chúng ta có thừa nhận nó hay ko?
    Xin dẫn chứng 1 chút về Đông y dùng Thuyết Ngũ hành để cứu người. Đó là GS Nguyễn Tài Thu. Hẳn các bạn ko quên chương trình Người đương thời của VTV, trong đó đã có rất nhiều lần GS Nguyễn Tài Thu cứu những người mà Tây y kết luận là phải đem về chờ chết. Có những người GS chỉ cần nhìn cái thần trong đôi mắt là có thể kết luận là có thể chữa được hay ko.
    Đôi lời như vậy, có gì sai mong bỏ qua!
  2. win_arc

    win_arc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/02/2004
    Bài viết:
    3.483
    Đã được thích:
    0
    Đền Bạch Mã là một trong "Thăng Long tứ trấn" của Hà Nội. Theo một bài báo tôi đã từng đọc được của nhà sử học Trần Quốc Vượng thì ông nói rằng, Hà Nội có 4 vị thần vô cùng linh nghiệm, trấn ở 4 hướng của Hà Nội. Và ông cha chúng ta ngày xưa đã biết điều đó nên đã xây miếu thờ tai những điểm đó. Tôi chỉ nhớ được 3 điểm đó là : Đền Bạch Mã, chùa Kim Liên, chùa Quán Thánh. Ai nhớ được một điểm nữa ở đâu thì bổ sung giúp.
  3. ngon_nen

    ngon_nen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2006
    Bài viết:
    2.755
    Đã được thích:
    0
    Địa điểm còn lại là Đền Voi Phục (trong công viên Thủ Lệ)
  4. h2love4ever

    h2love4ever Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/05/2006
    Bài viết:
    601
    Đã được thích:
    0
    từ trước đến h mình chả baoh tin vào mấy cái này,đọc xong ghê quá
  5. kinhxinysalem

    kinhxinysalem Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/05/2005
    Bài viết:
    1.364
    Đã được thích:
    0
    Lần cuối cùng em đọc nhiều tài liệu liên quan đến lịch sử như vậy cách đây phải 3,4 năm rồi Hay thật đấy
    Được kinhxinysalem sửa chữa / chuyển vào 21:59 ngày 05/11/2006
  6. langtu50022003

    langtu50022003 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2006
    Bài viết:
    3.345
    Đã được thích:
    0
  7. langtu50022003

    langtu50022003 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/04/2006
    Bài viết:
    3.345
    Đã được thích:
    0
    Xin loi *******c_nen nhe
    Em ko ngo minh tra loi the nao no lai paste ca bai của bác vào
    doc bai nây xong ko biet minh co tin vao me ti nua hay ko?
    hix hix
    bac nay ko biet xem boi ko?
  8. hidden_jade

    hidden_jade Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2006
    Bài viết:
    579
    Đã được thích:
    0
    (trích từ 1 tài liệu)
    Từ lâu, nhiều người luôn luôn đặt ra: Tại sao người Tàu thích chiếm Việt Nam như thế ? Tại sao người Tàu thích đánh Việt Nam đến như vậy ? Trong khi đó nếu ta quan sát sự liên hệ lịch sử Việt Nam với Tàu và các quốc gia lân bang, thì người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chuá Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!
    Thật ra lịch sử cũng có lý do tiềm ẩn để cho người Tàu hành động như thế. Lý do tiềm ẩn đó có thể bao gồm những điều sau: Trước hết nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Ðó là lý do thứ nhất mà tôi nghĩ đến. Cho nên tôi mới nói "Người Tàu bị một thứ bệnh mà họ không thể nào từ bỏ được, đó là: Nếu họ không xâm chiếm được Việt Nam thì quyền uy "chính danh" của họ bị thách đố" .Vì nó chứng tỏ là họ vẫn chưa thống nhất được nước Trung Hoa. Cho nên, sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập? nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu.
    Nói về phương diện địa lý phong thủy thì khi nhìn bản đồ Á Châu, đặt biệt là bản đồ Trung Hoa kéo dài đến Việt Nam, thì quí vị sẽ thấy các "vân đất? chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong hay là "trấn yểm phong thủy" của Bắc Việt, có như thế thì người Tàu mới yên lòng.
    Ngoài ra còn những yếu tố khác như những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc (ngoài ra những tướng tài của nhà Minh bị chém đầu như Thượng Thư Trần hạp bị chém trong trận Tuy Động, Chinh lự phó tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng bị chém đầu tại núi Mã Yên, Chi Lăng, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh biết không thể thoát nên cũng tự sát trong đám loạn quân tại chi lăng v.v.v. và còn vài chục tướng khác bị bắt cũng như bị giết không thể kể hết ra đây)
    Nhưng cũng có những chuyện liên quan đến ?ocách thức? thuộc về thời tiết khí hậu (đây cũng là một cuốc chiến tranh về mặt khác nữa, nhưng thời điểm này chúng tôi không tiện tiết lộ). Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm, khi nhà Minh thôn tính Việt Nam, để sau đó nhà Minh bị nhà Lê đánh bại và thống nhất sơn hà. Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách "thiên di" ("thiên di-di dân" là một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu. Họ dung số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nên kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương. "Thiên di" còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng giòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay.
    ..............
    (còn nữa - nhưng hổng dám post)
    Còn nhiều lý luận, dính tới thực tế, quá khứ, hiện tại, về thuật phong thuỷ .... nhưng mang nhiều hơi hướng tư tưởng chính trị, sợ post lên bị dính tới chính trị, chính quyền thì sợ lém.
    Được hidden_jade sửa chữa / chuyển vào 23:15 ngày 05/11/2006
  9. bunrieukomamtom

    bunrieukomamtom Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    277
    Đã được thích:
    0
    Nghe các bác nói hoành tráng quá, e cũng vỡ được ra nhiều .Nhưng vấn còn thắc mắc :
    -Nếu đúng là các bậc tiền bối VN mình đã tài giỏi nghĩ ra kinh dịch thì chẳng nhẽ hậu thế lại chẳng có ai có thể phát triển nó sao:trong khi bên TQ e thấy KD phát triển quá tuyệt vời.Thế thì buồn quá các bác nhỉ????
    Giá mà mình có người giỏi KD như Kim Dung thôi chứ chưa nói j đến Khổng Minh thì hay quá
    Hay tại nưóc mình ko có người chép sử giỏi như bên tàu???
    Buồn quá!giá mà e có cỗ máy thời gian của DORAEMON e sẽ chép lại tất chụp ảnh nữa
  10. Sieuquay_Teppy

    Sieuquay_Teppy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2005
    Bài viết:
    323
    Đã được thích:
    0
    Để hiểu rõ hơn về Thăng Long Tứ Trấn ,các bạn có thể đọc bài viết sau của tác giả Phương Anh
    Đôi nét phác hoạ kinh thành Thăng Long thời Lý
    Kinh đô là trung tâm chính trị. Hoa Lư đã làm được chức năng này. Nhưng với đúng nghĩa thì kinh đô còn phải là trung tâm văn hoá và kinh tế. Điều này Hoa Lư với vị trí địa lý của vùng bán sơn địa không thể thực hiện được, và lịch sử ở thế kỷ X chưa đặt ra với hai triều Đinh và tiền Lê để tập trung củng cố nền độc lập và thống nhất. Vua Lý Thái Tổ vừa nhận trọng trách quản lý đất nước đã thấy Hoa Lư hoàn thành sứ mạng lịch sử rồi, bằng con mắt chiến lược và kinh nghiệm của nhiều năm hoạt động quân sự cũng như nhiều lần đi lại giữa quê hương Cổ Pháp và kinh đô Hoa Lư, ông đã nói với quần thần về miền đất Hà Nội ngày nay: "Ngắm khắp nước Việt ta, duy đó là thắng địa, thật là nơi hội tụ quan yếu bốn phương, là thượng đô của kinh sư muôn đời", có nghĩa có đủ tiền đề để trở thành trung tâm chính trị - văn hoá - kinh tế của cả nước. Được quần thần đồng tình, ngay tháng Bảy năm Canh Tuất (1010) nhà Lý đã chính thức chuyển đô về địa điểm mới và gọi là Thăng Long. Từ đấy, các triều Lý- Trần - Lê đóng đô ở Thăng Long đều thực hiện được việc "mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau" như tờ chiếu dời đô đã tiên đoán.
    Kinh thành Thăng Long ngay đợt đầu xây dựng năm (1010) đã được sử cũ xác nhận một quy mô khá lớn: "Phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả xây điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Vũ. Lại mở cửa phi long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cung Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh... sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thuỵ làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thuỵ làm chỗ ở cho cung nữ. Trong thành làm chùa Hưng Thiên và trinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
    Vua Lý Thái Tông lên ngôi năm trước thì năm sau (1029) cũng xây lại và xây thêm một số cung điện: Trên nền điện Càn Nguyên đổ nát dựng điện mới Thiên An, bên tả dựng điện Tuyên Đức bên hữu dựng điện Diên Phúc, thềm trước gọi là Long Trì. Phía đông Long Trì dựng điện Văn Minh, phía tây dựng điện Quảng Vũ. Hai bên phải trái Long Trì đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng có việc kêu oan thì đánh chuông. Bốn xung quanh Long Trì đều có hành lang. Phía trước Long Trì có điện Phụng Thiên, bên trên dựng lầu chính dương để tính toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân bên trên dựng gác Long Đỗ làm nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Đầu năm sau dựng thềm điện Thiên Khánh lọt vào giữa điện Thiên An và điện Trường Xuân, bắc cầu phượng hoàng nối các điện này với nhau.
    Đến cuối thời Lý, năm 1203 vua Lý Cao Tông lại cho xây nhiều cung điện: ở giữa là điện Thiên Thuỵ,bên trái dựng điện Dương Minh bên phải dựng điện Thiềm Quang, đằng trước xây điện Chính Nghi ở trên là điện Kính Thiên... đằng sau mở điện Thắng Thọ bên trên xây gác Thành Thọ, bên trái xây gác Nhật Kim bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh dựng hành lang, thềm gọi là Kim Tinh. Bên trái Nguyệt Bảo đặt toà Lương Thạch, phía tây gác xây nhà Dục Đường, phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là Phượng Tiên. Đằng sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư, trên ao xây đình Ngoạn Y.
    Rất tiếc tất cả các công trình xây dựng trên đây không còn để lại một dấu vết gì đến ngày nay. Tuy nhiên, dựa vào những ghi chép của sử cũ, chúng ta cũng phần nào mường tượng được diện mạo của hoàng thành xưa.
    - Trước hết là hoàng thành quay mặt về phía nam để vua là "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ văn" (ngồi nhìn về phương nam nghe thiên hạ tâu bày). Phương nam thuộc quẻ Ly gắn với dương khí. Ngay từ trước công nguyên thành Cổ Loa của nhà Thục đã có 3 vòng thành giao tiếp nhau ở mặt nam và các cung điện trong thành nội vừa gần cửa Nam và hướng ra cửa Nam. Kinh thành Tây đô (thành nhà Hồ - Thanh Hoá) và kinh thành Huế cũng đều thế. Đã định hướng rồi thì bên tả (trái) sẽ là phía đông và bên hữu (phải) sẽ là phía tây.

    Đường trục của tổng thể kiến trúc trong hoàng thành là đường Nam - Bắc chạy xuyên tâm, trên đường trục là những cung điện giành cho vua làm việc ở phía trước (Càn Nguyên, Thiên An, Thiên Thuỵ) gắn với quẻ Càn, với trời; tiếp theo phía sau là những cung điện để cho vua nghỉ ngơi và dạo chơi (Long An, Long Thuỵ, Long Đỗ) luôn khẳng định địa vị cao quý của vua là Rồng. Các công trình khác cứ thành từng cặp xây đăng đối ở hai bên, trong đó bên tả dành cho văn quan mang tính dương (Tập Hiền, Nhật Quang, Văn Minh, Nhật Kim) còn bên trái dành cho võ quan mang tính âm (Giảng Vũ, Quảng Vũ, Thiềm Quang, Nguyệt Bảo). Nơi ở của cung nữ là phía sau gần với nơi diễn ra những sinh hoạt đời thường của vua (Thuý Hoa, Long Thuỵ, Trường Xuân) cũng ở phía sau này về sau còn có hệ thống vườn cảnh. Phía trước điện làm việc của vua là Long Trì là nơi các quan văn võ tâu bàn việc nước với vua. ở đó, phía trước có lầu theo dõi thiên văn, tính toán giờ khắc để xem điềm trời, tuân mệnh trời, phân chia thời gian cho các hoạt động của xã hội. Hai bên có lầu chuông để dân kêu kiện, có thể vào tận sân rồng đánh cho thấu đến tai vua chứng tỏ một xã hội dân chủ cởi mở.
    Bao quanh hệ thống cung điện là bức tường thành chữ nhật khép kín, mỗi phía trổ một cửa mang những tên có tính cầu phúc cho dân cho nước: cửa Đại Hưng ở phía Nam, cửa Trường Phù ở phía đông, cửa Quảng Phúc ở phía tây, cửa Diệu Đức ở phía bắc.
    Ngoài hoàng thành được phân bố các khu dân cư cũg rất có ý nghĩa: phía đông dành cho các hoạt động công thương, phía tây là các trại làm nông gnhiệp, phía nam tập trung quan lại trí thức. Thái tử Phật Mã ở cung Long Đức ngoài cửa Nam để gần dân, hiểu dân. Như vậy ở đây nhà Lý đã có ý thức xây dựng một kinh đô phát triển hài hoà như sự tổng kết của nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ XVIII: phi thương bất phú, phi nông bất ổn, phi trí bất hưng. Từng bộ phận dân cư tách bạch nhưng tất cả lại gắn bó với nhau trong một tổng thể trung tâm văn hoá - kinh tế.
    ở đó còn có các hoạt động lễ hội của triều đình như đua thuyền trên sông Hồng ở phía đông, lễ mừng sinh nhật vua ở phía tây, lễ tế trời đất và cầu được mùa ở phía nam, hội thề hiếu trung ở phía bắc. Lễ rất trọng giành cho triều thần, thì hội lại rất vui giành cho toàn dân, hai mặt của hoạt động lễ hội đảm bảo cho nó trường tồn trong sự sống động.
    Sử cũ còn ghi thêm nhiều công trình ở cả trong và ngoài hoàng thành, nó điểm xuyết nhưng cũng là điểm nhấn cho bức tranh kinh thành. Chính những điểm nhấn này ngày nay qua sự biến đổi biển dâu đã thay đổi diện mạo, xong nó vẫn định vị như những dấu son rạng ngời trên mặt đất, những vì sao lấp lánh trên bầu trời. ở đó vẫn còn đọng lắng tâm linh dân tộc với niềm tự hào chính đáng về cha ông. Đó là các di tích làm thành các bộ "Thăng Long tứ trấn", "An Nam tứ đại khí", là Văn Miếu Quốc Tử Giám, là đền Đồng Cổ...
    (còn tiếp)
    Được Sieuquay_Teppy sửa chữa / chuyển vào 23:40 ngày 05/11/2006
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này