1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Waffen SS !

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi totenkopf, 08/08/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. totenkopf

    totenkopf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Được sự đồng ý của Mox Maseo .
    Tớ xin mở Topic về Wafen SS , 1 lực lượng nổi tiếng , mà theo tớ là thuộc hàng đánh nhau giỏi nhất Thế giới , thậm chí còn nhỉnh hơn cả những đơn vị mang danh hiệu cận vệ của Xô Viết .
    Trước đây cũng đã có 1 topic như này rồi , hồi đó tớ đọc thì thấy hình nhiều nhưng ít chữ . Mà hình ảnh thì để lâu nên giờ hỏng gần hết .
    Bỏ qua những yếu tố nhậy cảm ngoài lề , chỉ tập trung vào khả năng đánh đấm những người lính này xứng đáng nhận được sự nể phục ... . Xứng đáng để chúng ta tìm hiểu về họ
    Rất mong mọi người đóng góp những hiểu biết về Waffen SS .

    Để tôn trọng những người đi trước tớ xin post lại bài của bác Spirou hồi xưa :


    " Trong chiến tranh, lực lượng Waffen phát triển từ 4 sư đoàn tinh nhuệ thuần Đức thành binh chủng với nhiều thành phần 900 nghìn quân trong 41 sư đoàn và một số đơn vị khác. Phân nửa là quân tình nguyện nước ngoài và lính nghĩa vụ. Nó có nhiều thành tích trong chiến đấu cũng như tiếng xấu về các hành vi tội ác chiến tranh.

    Lực lượng Waffen khi đạy tới đỉnh cao chỉ đạt có 10% chiến công trong quân lực Đức quốc mặc dù lực lượng thiết giáp SS chiếm 25% lực luợng thiết giáp Đức.

    Tuy nhiên khả năng chiến đấu của quân SS không tương xứng với quy mô của nó. Vào năm 1944 lực lượng SS được thổi phồng thành cấp sư đoàn dù sức mạnh chỉ là cấp tiểu đoàn và quá nhiều lính nghĩa vụ ngoại quốc ghép vào.

    Mặc dù quân SS rất nổi tiếng dũng cảm trong chiến đấu vào cuối cuộc chiến và thường được coi là đội hình quân sự hũu hiệu nhưng Waffen SS chưa bao giờ hoàn toàn kết hợp được việc bảo vệ an ninh trong nước với việc huấn luyện hay thực thi các nhiệm vụ.

    Tuy nhiên tiếng tăm sự hung hãn của lực lượng SS ảnh hưởng tới cái nhìn của công chúng tới quân Waffen SS .

    Có thể được bắt đầu rằng, bằng những gì họ đạt được quân Waffen SS đã chiếm được thiện cảm của quần chúng. Đặc biệt là tinh thần đồng đội, quan hệ tốt giữa sỹ quan, hạ sỹ quan, binh lính .....đã có những điều được nghe rằng Waffen SS có những sỹ quan không được huấn luyện hay lính SS là những vật hy sinh không tiếc bỏ........ Quân SS chỉ là một loại chó canh quân sự..... Lính SS được huấn luyện trở nên hung dữ và tàn nhẫn, hình như để có thể để dùng chống lại những lực lượng Đức khác khi cần thiết. ....Quân Waffen SS là lực lượng tàn nhẫn nhất.

    Heinz Höhne The Order of the Death''''s Head pg. 436

    GROWTH OF THE WAFFEN-SS: GERMAN VOLUNTEERS

    Quân tình nguyện người Đức là lực lượng có số lượng đông đảo, cho dù họ phải trải qua những cuộc sát hạch nghiêm ngặt. Quân SS tích cực tuyển mộ thành phần Hitlerjugend (Hitler Youth) hay Reicharbeitsdiens hay the Reich Labor Service trước khi họ bị Lục quân vồ lấy.

    GROWTH OF THE WAFFEN-SS: FOREIGN VOLUNTEERS

    Tây Âu:

    Sau khi chiến thắng ở Tây Âu năm 1940, SS cố gắng tuyển mộ người ở đây. Họ dùng chiêu bài chống Bolsevik để tuyển mộ. Có khoảng 125 nghìn quân gốc Tây Âu. Tuy nhiên họ vẫn bị coi là công dân hạng hai trong một số trường hợp.

    Việc tuyển chọn còn bị giới hạn về chủng tộc. Quân tình nguyện Flemish (vùng Hoà Lan )được coi là enough Aryan để trở thành SS, trong khi đó người Walloon (vùng Bỉ )thì không được, họ chỉ được lục quân tuyển chọn. Tuy nhiên sau này vấn đề này không còn quan trọng nữa khi quân SS thiếu hụt nguồn nhân lực.

    Volksdeutsche

    Người Đức ở các nước Đông và Trung Âu. Họ cũng là lính có chất lượng tốt, tuy nhiên vẫn không đáng tin cậy và không có tinh thần chiến đấu.

    Quân tình nguyện Trung, Đông Âu, Balkan

    Khi Đức gần sụp đổ thì vấn đề chủng tộc không còn quan trọng nữa. Chỉ còn là sự chung ý thức hệ Nazi. Lực lượng này tuy đông đảo nhưng rất kém. "
  2. totenkopf

    totenkopf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Bác Spirou nói :
    Bốn sư đoàn SS nổi tiếng nhất:
    Một trong những đơn vị đầu tiên của quân Waffen là sư đoàn số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler . Lực lượng này bắt nguồn từ lực lượng cận vệ của Hitler. Một số đơn vị canh gác Berlin và Berchtesgaden, nhưng sư đoàn này gần như không ở Berlin trong giai đoạn 1939-1945.
    Sư đoàn 2 panzer Das Reich là một trong những sư đoàn cơ giới mạnh mẽ nhất của Waffen. Nguyên thuỷ của nó là đơn vị SS đặc biệt SS-Verfungstruppen (special purpose troops).
    Sư đoàn 3 Totenkopf
    Sư đoàn Wiking
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    giới thiệu thì nên hệ thống lại 1 chút bác ợ
    bác viết thấy lung tung thêm
  4. berkut

    berkut Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2008
    Bài viết:
    1.144
    Đã được thích:
    0
    Schutzstaffel (gọi tắt SS, có nghĩa "đội bảo vệ") là tổ chức quân sự của Đảng Đức Quốc xã, mặc đồng phục màu đen nên còn được gọi là "Quân áo đen" để phân biệt với lực lượng SA là "Quân áo nâu". SS khởi đầu là đội cận vệ cho cấp lãnh đạo Quốc xã, chỉ khi được đặt dưới quyền chỉ huy của Heinrich Himmler năm 1929 mới lớn mạnh, có hệ thống quân hàm tương tự như trong quân đội Đức nhưng với tên gọi khác, có đồng phục và quân phù riêng.
    Cơ cấu tổ chức
    Tổ chức của SS trải qua nhiều thay đổi trong từng thời kỳ. Trong giai đoạn Thế chiến II (1939-1945), SS được cho là "nhà nước trong một nhà nước," có cơ cấu như sau:
    ? Thủ lĩnh: Heinrich Himmler (1929?"1945), Karl Hanke (1945).
    ? Thủ lĩnh SS và Cảnh sát: chỉ huy những đơn vị SS khác nhau trên một vùng rộng, tương tự như Xứ ủy của Đảng Quốc xã.
    Lực lượng SS diễu hành
    ? Tổng hành dinh SS: được chia ra thành 12 cơ quan điều hành mọi hoạt động của SS, như Cơ quan Trung ương An ninh Đế chế (RSHA), Cục Kinh tế và Hành chính (WVHA) dưới quyền của Cục Kinh tế và Hành chính.
    ? Thủ lĩnh Danh dự SS: phong cho cấp lãnh đạo chính quyền, như Bormann, Henlein, Ribbentrop, Weizsäcker...
    Theo chiều ngang, SS được chia ra thành từng bộ phận chuyên biệt, như:
    ? SS Tổng quát (Allgemeine SS).
    ? SS Kỵ binh (Reiter-SS).
    ? Liên minh Đầu lâu (Totenkopfverbände, gọi tắt SS-TV), ban đầu gồm những đơn vị cấp trung đoàn phụ trách các trại tập trung, đến năm 1944 gồm có 3 sư đoàn, các trại tập trung được giao lại cho WVHA.
    ? Đội Đặc nhiệm (Einsatzgruppen), gồm 4 đội A, B, C và D.
    ? SS Vũ trang (Waffen-SS): do Heinrich Himmler làm tư lệnh.
    ? Cảnh sát Trật tự (Ordnungspolizei, gọi tắt Orpo): quy tụ cảnh sát các cấp trung ương và địa phương, Cảnh sát Đường sắt, Cảnh sát Đường thủy, bảo vệ tại các cơ quan...
    Vài cơ quan chính yếu thuộc
    Gestapo
    Gestapo là tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei, là lực lượng cảnh sát bí mật (hoặc Mật vụ).
    Tổ chức này khởi đầu được Hermann Göring với tư cách Thống đốc Bang Phổ thành lập vào năm 1933 cho Bang Phổ, là công cụ mà ông sử dụng để giam cầm và sát hại những đối thủ của chế độ Quốc xã. Khi Göring bổ nhiệm Heinrich Himmler làm chỉ huy phó Gestapo Phổ, lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của SS rồi nắm quyền sinh sát trên toàn nước Đức.
    Nhiệm vụ chính của Gestapo là tình báo an ninh, nhưng cũng đảm trách thêm việc thành lập và điều hành trại tập trung. Đặc biệt, Gestapo phụ trách những nhân vật có tiếng tăm trong và ngoài nước như tướng lĩnh, cựu thủ tướng, cựu bộ trưởng... Gestapo thường thi hành nhiệm vụ theo dõi, giam giữ, tra tấn và ?" khi có lệnh của chính Hitler hoặc Himmler ?" thủ tiêu những người này.
    Các chỉ huy trưởng của Gestapo là Rudolf Diels (1933-1934), Hermann Göring (1934-1936), Reinhard Heydrich (1936-1939) và Heinrich Müller (1939-1945).
    Sicherheitsdienst
    Sicherheitsdienst (có nghĩa ?oCơ quan An ninh?), gọi tắt SD, là cơ quan tình báo của SS, được thành lập năm 1931 dưới quyền Heydrich, sau 1939 thuộc cơ quan RSHA, từ năm 1944 nắm luôn Quân báo. Chức năng của SD là rình rập đảng viên và báo cáo hành động khả nghi. Năm 1938, một luật mới giao nhiệm vụ cho SD bao trùm cả Đế chế thứ Ba.
    Dưới bàn tay lão luyện của Heydrich, cựu sĩ quan quân báo trong Hải quân, chẳng bao lâu SD giăng lưới hoạt động toàn quốc, sử dụng 100.000 người làm mật báo viên bán thời gian. Những người này nhận chỉ thị theo dõi dân chúng và báo cáo bất cứ biểu hiện lớn nhỏ cho thấy sự chống đối chế độ. Không một ai ?" nếu không phải là điên rồ ?" nói và làm điều gì có thể bị ghép là ?ochống Quốc xã? mà không kiểm tra trước liệu lời nói có bị thu âm lén hoặc bị nghe trộm hay không. Người dân không biết được liệu con trai, hoặc người cha, người vợ, anh em họ, bạn thân, người chủ hoặc thư ký là mật báo viên cho SD hay không, và tốt hơn là không nên tin ai cả.
    Waffen-SS
    Waffen-SS (SS vũ trang) được phát triển như đội quân thứ hai bên cạnh quân chính quy, gồm 40 sư đoàn tác chiến gồm 800-950 nghìn người (các nguồn khác nhau cho con số khác nhau, có lẽ vì thời điểm khác nhau). Tòa án Nürnberg ghi là lúc chiến tranh kết thúc, Waffen-SS còn 580.000 quân. Tư lệnh của Waffen-SS là Himmler.

    Sư đoàn thứ 28 của Waffen-SS được tái hiện lại ở Sanok, Ba Lan vào tháng 5 năm 2007.
    Waffen-SS quy tụ những binh sĩ thiện chiến nhưng cuồng tín chủ nghĩa Quốc xã. Vì lý do này, họ bị hoen ố thanh danh do việc sát hại tù binh Đồng minh. Ví dụ, 77 lính Mỹ bị bắt làm tù binh đã bị 74 lính SS thuộc Sư đoàn Cận vệ 1 Tăng SS dưới quyền Đại tá Jochen Peiper hành quyết gần Malmédy ngày 17 tháng 12 năm 1944. Dựa trên chứng cứ được trình trước Tòa án Nürnberg, 43 sĩ quan SS (trong đó có Peiper) bị tử hình, 22 bị án tù chung thân và 8 chịu án tù từ 10 năm đến 20 năm. Tư lệnh Tập đoàn quân 6 Tăng SS Sepp Dietrich nhận án chung thân, sau giảm còn 25 năm tù, Tư lệnh Quân đoàn 1 Tăng SS Fritz Kraemer chịu 10 năm tù. Thế rồi Thượng viện Mỹ lớn tiếng phản đối, cho rằng các sĩ quan Waffen-SS đã bị đối xử tàn bạo để chịu cung khai. Các án tử hình lần lượt được giảm thành án tù, rồi cuối cùng tất cả đều được trả tự do. Trong sự ồn ào về việc đối xử tệ hại với sĩ quan Đức, người ta đã quên đi sự kiện là 77 tù binh Mỹ không có vũ khí trong tay bị hành quyết một cách dã man trên một cánh đồng phủ tuyết do lệnh hoặc khuyến khích của vài sĩ quan Waffen-SS.
    RSHA
    RSHA (Reichssicherheitshauptamt ?" ?oCơ quan Trung ương An ninh Đế chế?), được thành lập năm 1939 bằng cách sáp nhập các bộ phận: SD, Mật vụ và Cảnh sát Hình sự. Chức năng chính thức là chiến đấu chống "các kẻ thù của Đế chế" kể cả cộng sản, người Do Thái và những ?othành phần chủng tộc bất hảo." Giám đốc đầu tiên của RSHA là Reinhard Heydrich (1939-1942), kế tiếp là Ernst Kaltenbrunner (1942-1945).
    RSHA được chia ra thành 7 phòng ("mter hoặc Amt):
    Amt I: Nhân viên và Tổ chức, dưới quyền SS Trung tướng Bruno Streckenbach.
    Amt II: Hành chính, Luật và Tài chính, dưới quyền SS Đại tá TS. Hans Nockemann.
    Amt III: Tình báo nội bộ, cũng phụ trách người gốc Đức ở vùng biên giới và các vấn đề văn hóa, dưới quyền Otto Ohlendorf.
    Amt IV: Gestapo (Mật vụ), dưới quyền Heinrich Müller. Trung tá SS Adolf Eichmann đứng đầu Ban Người Do Thái của Amt IV.
    Amt V: Cảnh sát Hình sự phụ trách tội trạng không thuộc lĩnh vực chính trị, dưới quyền Arthur Nebe.
    Amt VI: Tình báo hải ngoại, dưới quyền Heinz Jost, kế tiếp là Walter Schellenberg tiếp quản Quân báo của Đô đốc Wilhelm Franz Canaris.
    Amt VII: Thư khố, phụ trách công tác ?oý thức hệ? và tuyên truyền, dưới quyền GS. Franz Six.
    WVHA
    WVHA (Wirtschafts-Verwaltungshauptamt ?" Cục Kinh tế và Hành chính) là cơ quan đặt trong Tổng hành dinh SS, có nhiệm vụ điều hành những hoạt động sản xuất và cung ứng (như hàng hậu cần và lao động nô lệ) cho Lực lượng SS và Quân đội, cũng phụ trách khai thác nguồn lợi kinh tế ở các trại tập trung và trại thủ tiêu, đến năm 1945 quản lý hơn 500 cơ sở sản xuất trên nước Đức và một số cơ sở sản xuất, hầm mỏ ở vùng chiếm đóng như Liên Xô.
    Một trong những nhiệm vụ của WVHA là khai thác vàng trám trong hốc răng người Do Thái bị tàn sát. Đôi lúc người sống bị cạy vàng trước khi bị hành quyết.
    Ví dụ, một báo cáo mật của quản đốc trại giam tại Minsk cho biết từ khi ông có dịch vụ của một nha sĩ người Do Thái, mọi người Do Thái ?ođều bị cạy vàng từ răng của họ... luôn luôn là 1 hoặc 2 tiếng đồng hồ trước khi thực hiện hành động đặc biệt.? Vàng được nấu chảy rồi được chuyển về Ngân hàng Nhà nước Đức cùng với những món có giá trị khác, được đưa vào tài khoản của SS dưới tên ?oMax Helliger? theo sự thỏa thuận giữa Himmler và TS. Walther Funk, Thống đốc Ngân hàng. Những vật có giá trị gồm đồng hồ bằng vàng, bông tai, vòng đeo tay, nhẫn, dây chuyền, và ngay cả tròng kính ?" vì người Do Thái được khuyến khích mang theo mọi vật có giá trị để được ?otái định cư.? Cũng có nhiều nữ trang, đặc biệt là kim cương, và một lượng lớn các món làm bằng bạc. Và cũng có rất nhiều xấp tiền mặt.
    Đến đầu năm 1942, phẩm vật thuộc tài khoản ?oMax Helliger? đã chiếm đầy các tủ sắt của Ngân hàng Nhà nước. Ban giám đốc Ngân hàng luôn nghĩ đến tạo lợi nhuận, thế nên họ tìm cách chuyển các phẩm vật thành tiền mặt bằng cách đưa đến các hiệu cầm đồ. Một bức thư của Ngân hàng Nhà nước gửi hiệu cầm đồ Thành phố Berlin nói về ?ochuyến vận chuyển thứ hai: và liệt kê số lượng của đồng hồ bằng vàng, bông tai, nhẫn kim cương...
    Đến đầu năm 1944, đến phiên các hiệu cầm đồ cũng đầy ắp các món cướp bóc được và thông báo cho Ngân hàng Nhà nước là họ không thể nhận thêm. Khi quân Đồng minh tiến vào Đức, họ tìm ra trong những mỏ muối, nơi Quốc xã cất giấu hồ sơ và các món cướp bóc được, một lượng dư thừa từ tài khoản ?oMax Helliger? đủ đê chất đầy ba tủ sắt khổng lồ tại chi nhánh Frankfurt của Ngân hàng Nhà nước.
    Các quản trị viên ngân hàng có biết nguồn gốc của ?otài khoản? này không? Quản trị viên Phòng Đá quý của Ngân hàng Nhà nước khai với Tòa án Nürnberg rằng ông và các cộng sự nhận thấy là nhiều đợt giao hàng đến từ Lublin và Auschwitz.
    Tất cả chúng tôi biết rằng những nơi này là vị trí của các trại tập trung. Vàng bắt đầu xuất hiện từ đợt giao hàng lần thứ mười vào tháng 11/1943. Số lượng vàng trám răng là lớn lao một cách bất thường.
    Oswald Pohl, người đứng đầu WVHA và phụ trách các giao dịch, nhấn mạnh rằng TS. Funk cùng các quan chức và giám đốc của Ngân hàng Nhà nước biết rất rõ nguồn gốc các món vật họ cố tìm cách mang đi cầm cố.
    Đội Đặc nhiệm
    Đội Đặc nhiệm (Đức ngữ: Einsatzgruppen): gồm bốn đội bán quân sự (A, B, C và D) gồm quy tụ Gestapo, nhân viên SS... được tuyển chọn đặc biệt, liên quan đến việc sát hại người Do Thái và chính ủy Liên Xô, các dân tộc Slav... ở Đông Âu.
    Ban đầu, Himmler và Heydrich tổ chức các Đội Đặc nhiệm để đi theo Quân đội Đức tiến vào Ba Lan năm 1939, và ở đây họ bắt giữ người Do Thái và đưa vào những khu biệt lập. Đến chiến dịch đánh Liên Xô, theo sự thỏa thuận với Quân đội Đức các Đội Đặc nhiệm đi theo để thực hiện bước đầu của ?ogiải pháp cuối cùng,? tức là thủ tiêu. Việc sát hại tập thể người Do Thái ở Liên Xô và Ba Lan do các Đội Đặc nhiệm đảm trách, gây nên cái chết cho khoảng 750.000 người.
    Số phận của vài chỉ huy SS
    Rudolf Diels là mục tiêu trong vụ thanh trừng đẫm máu vì Quốc xã muốn giết người bịt miệng sau vụ dàn cảnh đốt Tòa nhà Nghị viện, nhưng ông trốn thoát được. Sau chiến tranh, ông không bị truy tố vì chỉ làm chỉ huy trưởng Gestapo trong thời gian ngắn ban đầu, lúc Gestapo chưa phạm tội ác chiến tranh. Nhưng ông được Tòa án Nürnberg gọi ra làm nhân chứng trong các phiên xử.
    Adolf Eichmann bị Do Thái bắt năm 1960 ở Argentina, dẫn về Do Thái bị tuyên án tử hình, nhận thi hành án bằng cách treo cổ năm 1962.
    Karl Hermann Frank, Đại tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Böhmen và Mähren, bị Tiệp Khắc xử treo cổ công khai năm 1946.
    Richard Gluecks, Thượng tướng Waffen-SS, Tổng Thanh tra các trại tập trung, tự tử sau khi đầu hàng năm 1945 để tránh bị đưa ra tòa.
    Hermann Göring bị Tòa án Nürnberg tuyên án tử hình năm 1946. Hai tiếng đồng hồ trước khi đến lượt bị thi hành án bằng cách treo cổ, Göring nuốt thuốc độc trước đấy đã được lén đưa vào nhà tù.
    Karl-August Hanke,, Lãnh tụ SS thay thế Himmler (1945), bị quân kháng chiến Ba Lan hoặc Tiệp Khắc bắt và xử tử năm 1945.
    August HeiYmeyer, Đại tướng cấp cao SS, Trưởng ban Giáo dục của SS, bị án tù 18 tháng (1948), bị Tòa án Bài trừ Quốc xã tuyên thêm án tù 3 năm (1950), qua đời năm 1979.
    Reinhard Heydrich bị quân kháng chiến Tiệp Khắc sát hại năm 1942.
    Heinrich Himmler sau chiến tranh tìm cách liên hệ với Đồng minh để đàm phán hòa bình nhưng bị từ chối, chạy trốn nhưng vẫn bị quân Anh bắt, tự tử năm 1945 trước khi bị xét xử.
    Rudolf HöY, Trung tá SS, chỉ huy trại tập trung Auschwitz, bị Ba Lan xử tử hình1947.
    Friedrich Jeckeln, Đại tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát ở Liên Xô, năm 1946 bị Liên Xô đưa ra xét xử rồi thi hành án tử hình trong vòng một ngày.
    Ernst Kaltenbrunner, Đại tướng SS, Giám đốc Cơ quan RSHA (1942-1945), Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Donau, viên chức SS cao cấp nhất sống sót sau chiến tranh, năm 1946 bị Tòa án Nürnberg xử tử hình.
    Josef Kramer, Đại úy SS, chỉ huy trại tập trung Bergen-Belsen, năm 1945 bị xử tử hình.
    Heinrich Müller, Đại tướng SS, giữ vai trò quan trọng trong việc thủ tiêu người Do Thái, chỉ huy việc truy lùng nhóm âm mưu ám sát Hitler ngày 20 tháng 7, 1944 do Claus von Stauffenberg thực hiện, mất tung tích sau khi Hitler tự sát ngày 30 tháng 4, 1945.
    Otto Ohlendorf, Thượng tướng SS, Trưởng phòng Amt III (Tình báo nội bộ) thuộc RSHA, chỉ huy Đội Đặc nhiệm D ở Ukraina và Crimea, bị Tòa án Nürnberg xử tử hình năm 1951.
    Oswald Pohl, Đại tướng Waffen-SS, Cục trưởng Kinh tế và Hành chính của SS (WVHA), tham gia thủ tiêu người Do Thái trong các trại tập trung, bị Tòa án Nürnberg xử tử hình năm 1951.
    Walther Schellenberg, Thiếu tướng SS, Phó Giám đốc RSHA (1939-1942), thay thế Canaris làm Giám đốc Cục Quân báo (1944), bị án 6 năm tù nhưng được trả tự do sớm (1951) vì lý do sức khỏe, qua đời năm 1952.
    Alfred Six, Trung tướng SS, lên kế hoạch khủng bố và đàn áp chính trị ở Anh nếu Đức đổ bộ được lên đất Anh, bị Tòa án Nürnberg xử 20 năm tù (1948), được giảm án còn 15 năm (1951), qua đời năm 1975.
    Jürgen Stroop, Thượng tướng SS, Thủ lĩnh SS và Cảnh sát Warszawa, Ba Lan, năm 1952 bị Ba Lan xử tử hình.
    Phán quyết của Tòa án Nürnberg
    Tòa án Nürnberg tuyên tổ chức SS (ngoại trừ SS Kỵ binh) phạm tội ác chiến tranh.
    Tòa tuyên là phạm nhân... những người được chính thức chấp nhận là thành viên của SS..., tiếp tục là thành viên với sự hiểu biết là tổ chức này được sử dụng để thi hành những công tác được tuyên là tội ác... ngoại trừ những người bị đưa vào làm thành viên mà không có chọn lựa gì khác hoặc không thực hiện những công tác tội ác ấy...
    From Wiki
  5. totenkopf

    totenkopf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Tớ chỉ biết phiên hiệu của 40 sư đoàn Waffen SS , nhiều tài liệu cũng nói lực lượg này chỉ có 40 sư đoàn . nhưng cũng rất nhiều tài liệu nói có 41 ...
    Tạm thời cứ theo bác Spirou vậy
    Trong 41 sư đoàn đó thì có 2 sư đoàn được " chuyển thẳng " từ bên Weimarch sang . Đó là sư đoàn xe tăng 6 - Bọn này chắc ai cũng biết . Và sư đoàn Armeekommando 11 mang tên " Steiner "
  6. totenkopf

    totenkopf Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Thì đầu tiên tớ cứ post lại mấy bài viết của bác Spirou đã ... Tiếp nối truyền thống mà bác . Bác Spirou là người đi trước , ngày xưa bác ấy đã lập cái topic này
    Các bác đóng góp vào nữa là nó sẽ hệ thống ngay
  7. laviola123

    laviola123 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2006
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    0
    Các anh hùng Waffen SS nằm ở đây
    [​IMG]
    1 số tên tuổi tiêu biểu
    Số 11 Josef Dietrich . Số 33 Fritz Kramer . Số 45 Hermann Preiss . Số 42 Joachim Peiper . Số 8 Manfred Coblenz . Số 13 Arndt Fischer . Số 19 Hans Gruhle . Số 23 Hans Henneck
    Đây là các bị can trong vụ án Malmedi ...Toàn " át " của sư đoàn Waffen SS số 1 lừng danh
    Được laviola123 sửa chữa / chuyển vào 15:14 ngày 08/08/2008
  8. kuteboy22

    kuteboy22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/08/2008
    Bài viết:
    16
    Đã được thích:
    0
    waffen-ss : ss-vũ trang : là tên của một nhánh của lực lượng ss , đứng riêng biệt với wehmacht ( lực lượng phòng vệ)(hay quân đội đức).được thành lập năm 1939.Nhưng cái tên ss-waffen chỉ trở thành chính thức vào năm 1940 bởi thống chế ss heidrich himmler . SS-waffel có 39 sư đoàn gồm nhiều binh đoàn tăng thiết giáp tinh nhuệ và khoảng 1000000 quân.
  9. honglian

    honglian Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2008
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    14
    Em thì không khoái cái đám éc éc này nhưng em khoái bộ quân phục của sĩ quan Đức QX
    Pót tặng các bác cái hình
    [​IMG]
  10. honglian

    honglian Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2008
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    14

    Poster của đám éc éc
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

Chia sẻ trang này