1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Hibbler và Wallenius vẫn chưa được nghỉ. Wallenius nói: ?oChúng tôi bò trở lại và báo rằng Alvarez đã chết. Khi người ta hỏi anh ấy bị trúng đạn vào đâu thì chúng tôi không có câu trả lời. Một vài khuôn mặt nghi ngờ liệu anh ấy đã chết thật hay chưa, hay là chúng tôi thật ra chưa tới được chỗ của anh. Đây là thương vong đầu tiên của trung đội chúng tôi và không ai muốn tin vào điều đó. Ai đó nói rằng nên đặt 1 chiếc gương dưới lỗ mũi và nếu nó bám hơi nước thì chứng tỏ anh ấy vẫn còn sống. Chỉ bấy nhiêu thôi, có người đưa 1 chiếc gương ra, Virgie lại đi trước, và chúng tôi bò 1 lần nữa tới chỗ Alvarez cho chắc chắn. Chiếc gương không bám hơi, nhưng chúng tôi vẫn còn nghi ngờ. Lần này thì khẩu súng máy không thèm để ý tới chúng tôi, vì thế chúng tôi quyết định mang anh ấy về. Anh nặng tới 90 kg; khẩu súng máy ngay lập tức phát hiện ra chúng tôi. Ngay trước khi chúng xác định chính xác vị trí của chúng tôi, thì những đồng đội nhìn thấy chúng tôi quay về lập tức nổ súng vào chúng. Mọi người giờ đều đồng ý là Alvarez đã chết trước đó. Không còn ai cản tầm bắn tới khẩu súng máy nữa, chúng tôi quyết địch tung hết số lựu đạn. Sau quả lựu đạn thứ 2 thì tiếng súng ngừng.? Trung sĩ Elias Alvarez-Buzo, từ Ponce, Puerto Rico, 25 tuổi.
    Lần này viên chỉ huy của quân địch đã tổ chức tấn công khá hơn. Đợt tấn công của ông ta vào đại đội Charlie và Delta được hoạch địch khá tốt và đã gần như đạt được sự bất ngờ hoàn toàn. Và không giống như ngày hôm qua khi ông ta điều quân vào khu chiến 1 cánh từ từ, hôm nay có thể ông ta đã ném tới 1000 quân đánh chúng tôi trong 1 cuộc tấn công kéo dài tới 25 phút nhằm thắt cổ chúng tôi. Lúc này tôi đã mất quá nhiều thời gian để lo lắng cho trung đội của Herrick và tìm cách cứu họ. Giờ tôi cần phải quan tâm nhiều hơn tới số lượng quân địch, nếu vậy tôi phải gọi những chiếc trực thăng scout H-13 lập tức bay thám sát thật thấp, phát hiện quân địch.
    Một điều rõ ràng là suốt đêm qua chỉ huy quân địch đã chuyển quân vào vị trí tấn công. Mục tiêu của ông ta là bố trí quân của mình thật gần, ngay trước mũi chúng tôi, nhằm tránh pháo binh, sau đó đánh thẳng qua hàng quân của đại đội Charlie tiến vào bãi trống. Điều này sẽ cho phép ông ta kéo tới sở chỉ huy của tôi và tấn công vào phía sau của đại đội Alpha và Bravo. Vào sáng sớm chỉ có duy nhất trung đội trinh sát là bố trí ở đó có thể ngăn ngừa được thảm họa.
    Quân địch đã gần như đánh giáp la cà với số quân ít ỏi hơn nhiều của trung đội Geoghegan và Kroger. Hàng tá ngưòi Việt Nam và người Mỹ chết trong cơn bão táp đạn lửa.
    Trong căn hầm ngập máu nơi đặt vị trí chỉ huy của Bob Edwards giờ chứa 1 đống người. Trung sĩ Hermon Hostuttler nằm chết gục trong đám bụi. Binh nhất 4 cúi mình thật thấp, máu chảy ra từ những vết thương do mảnh đạn trên tay trái. Trung sĩ James P. Castleberry, trinh sát pháo binh, điện đài viên của Castleberry, binh nhất Ervin L Brown, Jr., người duy nhất không bị thương, nằm sất cạnh Paolone. Bob Edwards bị trúng đạn từ vai và nách trái, khịu người xuống, không thể di chuyển, ngồi trong tư thế méo mó, vẫn giữ được tay nghe điện đài trên tai phải. ?oTôi cố tiếp tục chỉ huy với tất cả những gì mình có thể,? Edwards nói ?oHố cáo chỉ huy nằm ngay dưới góc chết của 1 khẩu súng tự động, chúng tôi nằm đó nhìn những viên đại bắn tung bụi đất của viền đất nhỏ đắp xung quanh hố.?
    Edwards không biết anh bị thương nặng ở mức nào, chỉ biết rằng anh không thể đứng dậy. Hai trung đội anh có thể liên lạc được báo cáo họ đang bị tấn công dữ dội nhưng vẫn chưa bị thâm nhập vào phòng tuyến. Không có ai trả lời với đại đội trưởng từ 2 trung đội bị đánh mạnh nhất và quân địch đã lọt được vào tầm ném lựu đạn tới hố chỉ huy của Edwards. Tất cả điều này xảy ra chỉ trong khoảng có 10 tới 15 phút kể từ lúc súng nổ.
    Trung đội của trung uý Kroger chịu phần dữ dội nhất của cuộc tấn công. Cho dù pháo binh và không quân đã đánh vào đám quân địch theo sau (thê đội 2), nhưng 1 số lớn quân địch đã tiến vào hàng quân của Kroger và sự chém giết giờ chuyển qua bằng những đôi tay.
    Binh nhất Arthur Viera đang núp dưới 1 hố nhỏ và bắn bằng khẩu M-79. ?oTiếng súng nổ điếc cả tai. Chúng tôi bị tràn ngập phía bên phải. trung úy Kroger vọt tới nhằm bịt cửa mở. Tôi nghĩ điều đó thật tốt. Anh gọi tôi, tôi nhỏm người lên để nghe anh ấy nói gì. Anh hét tôi lên yểm trợ bên trái. Tôi chạy tới và lúc tôi tới được chỗ anh, thì anh đã chết. Anh ấy thoi thóp hơn nửa giờ. Tôi quỳ bên cạnh anh, tháo thẻ bài, đút nó vào túi tôi. Tôi quay sang tiếp tục bắn bằng khẩu M-79 rồi bị trúng đạn vào khỉu tay phải. Khẩu M-79 rơi ra, tôi ngã lên người trung uý.?
    Viera móc khẩu súng ngắn và bắn bằng tay trái. ?oSau đó tôi bị trúng đạn ở cổ, viên đạn chui sâu xuống. Tôi không thể nói chuyện hay thậm chí không thể phát ra 1 âm thanh nào. Tôi đứng dậy cố tiếp tục chiến đấu, và bị trúng viên đạn thứ 3. Nó phạt đứt chân phải tôi, và quật tôi ngã xuống. Cẳng chân của tôi giờ quay ngược trên đầu gối, qua cả háng và cuối cùng đụng vào chỗ thắt lưng. Tiếp ngay sau đó 2 quả lựu đạn nổ tung ngay gần tôi và xé toạc cả 2 chân tôi ra. Tôi mò mẫn xuống bằng tay trái và chạm phải 1 mảnh lựu đạn trên chân trái và nó giống như tôi đụng phải con bài tẩy Poker nóng bỏng. tay tôi cháy xèo xèo.?
    Trung sĩ Jemison ở ngay trên hành quân của trung đội 2 của trung uý Geoghegan. ?oKhẩu súng máy của tôi tiếp tục làm cho bọn chúng sụp xuống. Quân địch chuyển qua bên phải tôi. Ít nhất chúng có 1 tiểu đoàn ngoài đó.?
    Khoảng 33 mét phía sau bên phải của Jemison, trung uý Arrington đã an toàn vượt qua bãi trống để tới được chỗ hàng quân của đại đội Charlie và nhận quyển chỉ huy từ người đại úy bị thương nặng Edwards. ?oArrington tới được hố chỉ huy của tôi? Edwards nói, ?ochỉ sau vài phút nói chuyện với tôi trong lúc đang nằm bên rìa của hố, thì bị thương. Cậu lo rằng mình bị thương quá nặng và nhờ tôi nói với vợ của cậu rằng cậu ta rất yêu cô ấy.?
    ?oTôi nghĩ: Cậu ta có biết tôi cũng đang bị thương không? Arrington bị trúng đạn vào cánh tay, nó xuyên qua ngực, và làm thủng phổi. Cậu ta rất đau, nằm im chịu đựng. Cậu ấy cũng bị trúng 1 vài mảnh đạn M-79 mà rõ ràng quân địch đã cướp được từ tay ai đó và đang bắn vào những cái cây trên đầu chúng tôi.?
    Quân địch giờ tiến sát với trung đội của Geoghegan. Chúng đã tràn vào lẫn lộn với những người sống sót của trung đội Kroger và đang đua tới hố của Edwards.
    Vào lúc 7g45 quân địch đánh vào sườn trái của đại đội Alpha của Nadal, ngay vào chỗ gấp khúc mà 2 đại đội Alpha và Charlie bắt tay với nhau. Giờ chúng tôi bị tấn công trên 3 hướng. Đạn bắn thẳng từ vũ khí tự động và súng máy hạng nặng phạt đứt ngang những đám cỏ voi và quét qua sở chỉ huy tiểu đoàn và trạm cưu thương. Lá cây, vỏ cây và những khúc cây nhỏ vương vãi khắp lên người chúng tôi. Ở sở chỉ huy tiểu đoàn một vài lính bị thương và ít nhất có 1 người bị giết. Điện đài viên của tôi, binh nhất 4 Robert Ouellette, 23 tuổi, cao 1m8, đeo kính cận, người Madawaska, Maine bị trúng đạn và nằm thượt ra, không cử động và trông như đã chết. Tôi vẫn giữ tay nghe điện đài bên tai, tình hình quá nghiêm trọng nên chẳng có thời gian để coi tới Ouellette.
    Khoảng lúc này chừng 15 hoặc hơn viên đạn cối và rocket nổ xung quanh tổ mối chỉ huy. Chúng tôi bị khoá chặt vào 1 trận đánh sống chết, chịu nhiều thương vong nơi đại đội Charlie, và không còn chần chừ để kêu gọi sự giúp đỡ. Tôi điện cho đại tá Brown và yêu cầu ông chuẩn bị 1 đại đội khác để tăng viện, họ phải được đưa tới nhanh chóng khi bãi đáp được bảo đảm. Brown, vốn là người nhìn xa trông rộng, đã báo động cho đại đội Alpha tiểu đoàn 2 và họ đã xếp hàng chờ bên trực thăng chờ lệnh.
    Joe Galloway nhớ lại: ?oNhững viên đạn bay tới thật thấp chỉ cách mặt đất có hơn nửa mét và tôi nằm sát nhất xuống mặt đất mà tôi có thể, lúc đó tôi cảm thấy 1 chiếc giày thúc vào sườn mình. Tôi quay lại và ngước lên. Đứng đó, cao lớn, là thượng sĩ Basil Plumley, nghiêng người và hét lên giữa những tiếng súng nổ: ?~Cậu không thể chụp được 1 tấm ảnh nào nếu nằm dài trên mặt đất đâu, con trai ạ?T Ông bình tĩnh, chẳng hề sợ hãi, và cười ngạo. Tôi nghĩ: ?~Ông ấy đúng, dù sao thì tất cả chúng tôi sẽ chết, vì vậy tại sao tôi không tự đứng dậy và làm gì đó.?T Tôi đứng dậy và bắt đầu chụp vài tấm hình.? Pumley di chuyển tới trạm cứu thương, móc khẩu súng ngắn .45 nhét vào 1 viên đạn và thông báo với bác sĩ Carrara và các y sĩ : ?oCác quý ông, chuẩn bị tự bảo vệ mình đi nhé!?
    Đợt tấn công vào khu vực của đại đội Delta của chỉ huy địch đã không thu được hiệu quả. Thực ra ông ấy có thể thành công hơn nếu tấn công vào bất kỳ khu vực nào khác ngoại trừ Delta. Họ có 6 khẩu M-60 của mình cùng với 3 khẩu M-60 của trung đội trinh sát, rải đều trên tuyến phỏng thủ dài 70 mét. Mỗi khẩu có 1 tổ 4 người và 3 cơ số đạn cơ bản- gồm 6000 viên 7.62mm. Phía sau bên trái những khẩu súng máy là những khẩu cối 81 của tiểu đoàn, những pháo thủ của nó đang bắn yểm trợ cho đại đội Charlie, đồng thời họ cũng dùng tiểu liên và M-79 để nã vào những tên địch ở cự ly gần.
    Binh nhất Willard F Parish, 24 tuổi, người Briston, Oklahoma, là trợ lý tiểu đội trưởng của 1 tiểu đội súng cối của đại đội Charlie. Parish là người đã lắp ráp, sửa chữa những khẩu súng máy và tiểu liên của những người chết và bị thương rồi chuyển đến khu vực của đại đôi Delta. ?oKhi chúng tôi bị tấn công tôi nhớ tất cả những viên đạn vạch qua và tôi tự hỏi làm sao mà những viên đạn này có thể vọt qua cái hàng rào bom pháo đến con kiến cũng không lọt qua được vậy. Ở phía sau bên phải, chúng tôi nghe thấy có ai đó đang thét lên: ?oChúng đang tới!Chúng đang tới!?T tôi ở trong 1 cái hố cùng với 1 gã người Chicago, binh nhất James E. Coleman, anh ta có 1 khẩu M-16. tôi thì giữ khẩu .45 của tôi và khẩu .45 của anh ta luôn, và tôi đang bắn bằng khẩu M-60 của mình. Chúng tôi đã dàn sẵn, đối mặt với những đám cỏ cao.
    ?oTôi đang nhìn ra trước thì thấy một vài cây cỏ bị sụp xuống giống như có ai đang bò trong nó vậy. Tôi hét lên: ?~Ai ngoài đó?T Không có ai trả lời, tôi lại hỏi 1 lần nữa, cũng không có tiếng trả lời. Tôi quay lại Coleman: ?~Quất vào đít chúng đi?T Coleman nói: ?~Súng tôi hóc rồi!?T Tôi nhìn anh và anh ta nhìn tôi. Rồi tôi quay lại phía trước mặt, bọn chúng đang vọt ra từ những đám cỏ. Tôi chỉ còn nhớ mình cứ ôm khẩu súng máy và từ lúc đó trở đi tôi không nhớ gì cả. Tôi đoán là mình đã làm những gì được huấn luyện, đầu óc tôi như để ở 1 nơi nào khác, bởi vì tôi thực sự không nhớ chính xác là tôi đã làm những gì. Tôi hoàn toàn không nhận biết vế thời gian, và không gian.?
    Trên khẩu súng M-60 đó, theo những gì trích ra từ giấy chứng nhận phong huân chương Silver Star, binh nhất Parish đã nổ những làn đạn chết chóc vào hết lớp này tới lớp khác quân địch cho tới khi hết đạn. Tiếp đó, đứng đối mặt với quân địch với 2 khẩu súng ngắn .45 trên 2 hai tay, Parish bắn hết ổ đạn này tới ổ đạn khác vào những tên địch chỉ cách có 20 mét; anh đã chặn đứng đợt tấn công của chúng. Parish nói: ?oTôi cảm thấy mình không làm gì hơn những điều mà những người khác cũng đang làm ngoài đó. Tôi nhớ tiếng ầm ầm, rất nhiều tiếng la hét và rồi tất cả im bặt.? Hơn 100 xác quân Bắc Việt sau đó được tìm thấy nơi họ ngã xuống, quây xung quanh 1 nửa vòng tròn từ hố của Parish.
    Binh nhất 4 Vincent Cantu bị gọi đi quân dịch 1 ngày trước khi Tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas. Anh ấy còn 1 tuần nữa là hết hạn phục vụ và anh đang cầu nguyện được sống sót để quay trở về nhà ở Refugio, Texas, nơi anh là 1 tay guitar lead và là giọng ca chính của 1 ban nhạc địa phương có tên gọi The Rockin?T Dominoes. Cantu nói, ?oTrận đánh không kéo dài quá lâu. Pháo binh dội xuống xung quanh chúng tôi liên tục. Những chiếc phản lực biến những triền núi phía trên thành hỏa ngục. Tôi nhận được 1 tin là 1 người bạn của tôi từ Houston, Hilario De La Paz đã bị giết. Anh ấy chỉ còn 4 ngày nghĩa vụ nữa thôi. Anh ấy có 2 đứa con gái nhỏ ờ quê nhà Houston.? Hilario De La Paz, Jr., bị giết vào buổi sáng hôm đó trên khu vực của đại đội Delta. Anh ấy mới đón sinh nhật lần thứ 26 của mình trước đó 18 ngày.
    Trong lúc cuộc tấn công dữ dội đang đánh vào phòng tuyến của đại đội Charlie và Delta, Cantu nhớ lại: ?oTôi nằm sát xuống mặt đất còn giỏi hơn 1 con rắn, lúc đó tôi nhìn thấy có 1 người lính trong áo nguỵ trang với 2 hoặc 3 chiếc máy ảnh treo lủng lẳng trên cổ. Anh ta tới sau 1 cái cây và bấm 2 hay 3 kiểu ảnh rồi nhảy xuống núp sau 1 tổ mối lớn. Tôi nghĩ: ?~Trời, hắn ta muốn chụp ảnh cho cuốn sổ tang của mình sao.?T Tôi nằm đó, một chút sau bắt đầu nghĩ ngợi: ?~Người này làm tôi nhớ tới ai đó.?T Tôi bò lại cái cây bởi vì tôi muốn nhìn rõ anh ta hơn khi anh ta xuất hiện lần thứ 2- và tôi cũng muốn núp ở cái cây đó. Tôi chẳng phải đợi lâu; và đã không lầm. Trời thì nóng, mặt anh ta đỏ bừng; đó là người bạn cũ của tôi, Joe Galloway. Tôi cảm thấy vui mừng khi thấy 1 người cùng quê Refugio ở đây, cùng lúc đó là sự lo lắng buồn rầu bởi vì tôi không hề muốn người đồng hương bị giết ở đây, còn anh ấy thì dường như sắp bị dính đạn vậy.?
    Galloway và Cantu là bạn cùng lớp; năm 1959 họ tốt nghiệp trường trung học Refugio cùng với 55 người khác. Cantu vượt qua lửa đạn, chạy hết tốc lực vượt qua bãi đáp trống trải, nhào xuống 1 bụi cây, nơi Galloway đang quỳ ở đó. ?oJoe Galloway, Còn nhớ mình không, ông bạn? Vincent Cantu ở Refugio đây.? Hai người ôm chầm lấy nhau và đồng ý rằng đây là chỗ ?othật tệ như cục *** vậy? và trong vài phút rút ra khỏi trận đánh đang ồn áo xung quanh họ, họ nói chuyện về quê nhà, gia đình, và bạn bè. Cantu nói với người phóng viên: ?oNếu tôi sống, tôi sẽ về đón Giáng sinh ở nhà.?. Cantu đã sống sót và quay trở về Refugio, Texas, nơi có 4944 cư dân, vừa kịp lễ giáng sinh.
  2. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    13./ Đạn Thân Thiện
    Dulce bellum inexpetis. ("War is delightful to those who have
    no experience of it.")
    --Erasmus
    Sự thử thách của người lính Arthur Viera, đang nằm co quắp dưới đất bên cạnh xác của trung úy Kroger với những vết thương khủng khiếp, mới chỉ bắt đầu. ?oQuân địch ở khắp nơi, ít nhất phải có 200 tên lục lọi xung quanh trong khoảng 2, 3 phút-mà giống như 2, 3 giờ vậy-bắn và chọc vào xác những người bị thương, chúng cười rúc rích,và nhạo báng chúng tôi,? Viera nhớ lại, ?oTôi biết chúng sẽ giết tôi nếu phát hiện ra tôi còn sống. Khi chúng tới gần, tôi giả chết. Tôi trợn ngược mắt, nhìn không chớp vào 1 cái cây. Tôi nhớ là người chết thì hay mở mắt. Một trong những tên Bắc Việt lại gần, nhìn tôi, rồi đá vào người tôi, và tôi thượt xuống. Tôi đoán là hắn nghĩ tôi đã chết. Máu đang chảy ra từ miệng tôi, tay và chân. Hắn ta lấy chiếc đồng hồ và khẩu .45 của tôi rồi bỏ đi. Tôi trông thấy chúng tước hết vũ khí của chúng tôi, rồi rút đi, trở lại hướng nơi chúng xuất hiện. Tôi còn nhớ pháo, bom đạn, bom napalm, nổ khắp nơi xung quanh tôi. Chúng làm rung chuyển mặt đất dưới lưng tôi, nhưng chúng dội xuống trúng vào đám quân Bắc Việt.?
    Ỡ phía khu vực của trung đội 2, trung sĩ Jemison bị 1 viên đạn trúng bụng. Anh quên đau đớn tiếp tục bắn, và động viên những người còn sống bắn mạnh hơn và cố giữ vị trí. Clinton Poley, 1 cậu bé nông dân vùng Iowa, vẫn còn sống trong cơn bão đạn: ?oKhi tôi nhóm lên có cái gì đó đập rất mạnh vào phía sau cổ tôi, hất tôi chồm tới và làm rơi mũ của tôi xuống đáy hố. Tôi nghĩ có 1 gã nào đó đã lẻn xuống phía sau tôi, rồi dùng báng súng đập vào tôi 1 cú trời giáng. Chẳng có ai cả; đó là 1 viên đạn bay tới từ phía sau hoặc bên sườn. Tôi đặt tấm bông băng vào đó rồi đội mũ lên cố giữ chặt chỗ băng bó. Tôi lại đứng dậy và nhìn ra phía trước, có 4 tên địch đang xách những khẩu Carbines ở bên phải. Tôi nói Comer chĩa súng về bên phải. Chỉ một lúc sau tôi nghe thấy tiếng la hét và tôi nghĩ đó là của trung úy Geoghegan.? Poley và người đang bóp cò súng máy M-60, binh nhất Cormer đã thổi bay 1 lượng lớn quân địch ở ngay trước mặt.
    Trời không có gió, bụi và khói cử treo lơ lửng trên khu chiến và ngày càng mù mịt hơn, càng gây khó khăn cho những chiếc máy bay của Không Lực, Hải Quân, và Thủy quân lục chiến cùng với những chiếc Huey của Lục quân trong việc phân định phòng tuyến của chúng tôi. Theo lệnh của tôi, vào lúc 7g55 tất cả các trung đội ném lựu đạn khói để đánh dấu chu vi của chúng tôi cho những phi công. Rồi sau đó họ tiến hành yểm trợ hỏa lực thật gần.
    Sau khi ném khói màu 1 chút, thì trung sĩ Jemison bị trúng đạn lần thứ 2, 1 viên đạn xé toạc vai trái. Nó cách khoảng 20 phút từ lúc anh bị trúng viên đạn đầu tiên. Một lần nữa anh lại đứng dậy tiếp tục chiến đấu. 30 phút sau Jemison bị trúng đạn lần thứ 3: ?oĐó là súng tự động. Đạn trúng vào tay phải tôi và bẻ gẫy khẩu súng của tôi thành những mảnh nhỏ. Tất cả những gì còn lại là cái báng nhựa. Một viên đạn khác cắt đứt cái khoá kim loại của cái dây buộc quanh cằm tôi và hất tung mũ tôi xuống. Nó đập thật mạnh và tôi nghĩ cái cổ mình dã gãy. Tôi bị ném xuống đất, tôi đứng dậy và không còn gì trong tay. Không vũ khí, không lựu đạn, không có gì hết.?
    Tương tự, Comer và Poley, ở cách Jemison về phía trái 30 mét, cũng bắt đầu gặp khó khăn. Poley nói: ?o1 trái lựu đạn cán dài rơi xuống ngay trước hố. Comer hét lên: ?~Nằm xuống?T và dùng chân đá nó ra xa được 1 chút. Nó không nổ. Tới lúc đó chúng tôi gần sắp hết đạn, và khẩu súng lại bị hóc. Trong đám bụi khói mờ mịt chúng tôi chuyển qua bên trái, cố tìm những vị trí khác của trung đội 2 chúng tôi. Đó là lúc tôi bị bắn trúc ngực và ngã mạnh xuống đất. Tôi đứng dậy và bị trúng đạn vào hông lại ngã xuống. Comer và tôi mất liên lạc với những người khác giữa những đám cỏ voi cao ngất. Chúng tôi đã mất người tiếp đạn, binh nhất Charles H. Collier, người Mount Pleasant, Texas, người đã bị giết ngày hôm trước. Cậu ta mới chỉ 18 tuổi và mới tới VN có vài ngày. Tôi cố chạy khoảng 20 mét 1 lần và chạy đuợc 3 lần thì cuối cùng cũng tới được vị trí đặt trung đội súng cối. Một trung sĩ cho 2 người giúp tôi vượt qua bãi trống để tới trạm cứu thương tiểu đoàn nơi tổ mối, bác sĩ tiểu đoàn, 1 đại uý sơ cứu cho tôi.?
    Đại uý Edwards vẫn còn nằm trong hố cáo của mình: ?oTôi nghĩ hỏa lực yểm trở đã ngăn quân địch tăng viện vào thời điểm chúng có thể tiêu diệt chúng tôi. Quân thâm nhập đã lọt tới những hàng hố đầu tiên của 2 trung đội bị tổn thất nhiều nhất.? Đại uý John Herren của Bravo nói, ?oQuân địch tiến tới trước vị trí chỉ huy của Edwards thì bị chặn lại chủ yếu bởi pháo binh, không quân, rocket và súng máy từ trục thăng mà tiểu đoàn đã gọi tới. Theo tôi đó chính là điểm sâu nhất chúng ta bị chọc qua.?
    Trận chiến của riêng Ewards còn lâu mới kết thúc. Cách chỗ anh khoảng 30 mét là 1 tổ mối lớn có những bụi cây nhỏ và cỏ bao quanh. Trên đỉnh của nó là 1 tên lính Bắc Việt, kẻ đã bắn ra những viên đạn gây chết chóc cho trung đội bằng 1 khẩu tự động. Hắn đã giết trung sĩ Hostuttler; làm bị thương Ewards và trung úy Arrington; và hắn ta vẫn tiếp tục bắn. ?oChúng tôi gần như bị ấn nằm bẹp xuống bởi 1 khẩu súng tự động đặt sau 1 tổ mối ngay phía trước phía trái của trung đội 3. Trung úy Franklin cố tiến tới chỗ chúng tôi nhưng cũng bị trúng đạn. Tôi không rõ là anh bị trước hay sau khi Arrington bị thương. Ít nhất là 4 người trong chúng tôi bị trúng đạn bởi 1 tên địch trong vòng 1 giờ. Rồi trung sĩ Kennedy tới, sau khi Arrington bị thương, và tự mình tiêu diệt mối nguy hiểm bằng lựu đạn và khẩu tiểu liên của anh. Chúng tôi như cất được 1 tảng đá khỏi đầu.?
    Không phải duy nhất khẩu súng máy của Comer và Poley buộc phải im tiếng. George Foxe, 25 tuổi và Nathaniel Byrd, 22 tuổi, nằm vắt qua khẩu súng M-60 im lặng của họ, xung quanh là hàng đống vỏ đạn và những thùng đạn trống rỗng. Họ đã chết cùng với nhau, vai kề vai. Trung sĩ Jemison đã khâm phục họ như là những chiến binh chuyên nghiệp: ?oByrd và Foxe đã làm được 1 việc phi thường. Họ bắn cho tới khi hết đạn và không rời khẩu súng. Họ đã ở lại với nó cho tới chết.?
    Giờ là lúc phải quét sạch số quân địch đã tràn vào phía trái của đại đội Charlie. Dillon và tôi hội ý và đồng ý lúc này phải đưa lực lượng dự bị vào. Tôi nói trung úy James T. Rackstraw chỉ huy trung đội trinh sát và tiến hành phản công ra phía trái khu vực của đại đội Charlie. Tôi chỉ 1 khu vực yếu huyệt anh ta cần phải chiếm và nói anh phối hợp sự di chuyển của mình với trung uý Litton của đại đội Delta. Sau khi trung đội của anh chiếm được phía trái của Charlie. Tôi nói anh cùng với Litton giết hết những tên địch phía sau những khẩu súng cối. Để tiếp tục duy trì lượng dự bị, tôi ra lệnh cho đại uý Myron Diduryk đưa nhóm chỉ huy đại đội cùng 1 trung đội của anh ra khỏi tuyến phòng thủ của đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trở về vùng bị bỏ trống tại sở chỉ huy tiểu đoàn của tôi. Anh phải chờ ở đó để có thể chặn, tăng viện, hoặc phản công tới khu của Edwards hay bất kỳ 1 khu vực nào khác trên phòng tuyến 1 khi bị tấn công dữ dội.
    Diduryk đã chạy dưới mưa đạn theo sau là trung đội của trung úy Rescorla vào lúc 8g15. Trung đội tổn thất 1 người chết, 1 người bị thương bởi những luồng đạn ngang dọc khắp xung quanh LZ.
    Tới lúc này hầu hết những người thuộc 2 trung đội bị đánh mạnh nhất của Ewards đã chết hoặc bị thương. Việc chống chọi lại quân thù giờ được đặt vào tay 1 vài người vẫn còn khả năng chiến đấu. Không biết bằng cách nào mà binh nhất Larry D. Stevenson của đại đội Delta lại ở trong khu vực phòng thủ của trung đội trung uý Geoghegan, anh là người duy nhất còn lại đang chiến đấu để giữ 1 phòng tuyến dài 45 mét. Anh bình tĩnh quỳ 1 chân và bắn vào khoảng 15 tên địch trước khi quân tiếp viện tới kịp. Đó là trung đội trinh sát của tiểu đoàn. Họ quét sạch phía trái của Charlie sau đó chuyển vào trung tâm của hàng quân đại đội và liên kết với toàn đại đội cho tới lúc kết thúc trận đánh. Phần khu vực này của chu vi giờ đã nằm trong tầm kiểm soát. Hành động này đã giảm áp lực lên vùng LZ và chúng tôi ngay lập tức nhận thấy tiếng súng nổ giảm dần, và những viên đạn bắn ngang dọc LZ cũng không còn nữa. Tôi điện cho sở chỉ huy Lữ đoàn gửi cho tôi đại đội Alpha của tiểu đoàn 2, Sư đoàn kỵ binh số 1 bằng trực thăng.
    Trong khoảng thời gian này tôi thấy điện đài viên của tôi, Bob Ouellette, đã ngồi lên được, trông vẫn còn yếu nhưng đã tỉnh táo. Tôi nhìn cậu ấy gần hơn và phát hiện ra rằng cậu ta bị bất tỉnh bởi 1 viên đạn trúng mũ sắt nhưng lại không trúng vào đầu. Tôi nói: ?oOuellettet, đừng bao giờ vứt cái mũ ấy đi, nó cứu sống cậu đấy.? Người trung sĩ già cộc cằn của trung đội quân y, Thomas Keeton, nói: ?oTôi nhớ điện đài viên của trung tá Moore, anh ta bất ngờ đổ xuống. Tôi nghĩ anh ta mệt quá và ngủ gục xuống. Tôi như tức điên lên; chạy tới và đá vào người cậu ta; và nói cậu ta hãy xách đít dậy và đi giúp chúng tôi chuyển những người bị thương. Không có phản ứng gì. Tôi lột mũ cậu ta ra và 1 viên đạn rớt xuống. Nó đã xuyên qua lớp thép và lớp vải lót. Hạ cậu ấy bất tỉnh như 1 khối đá vậy. Đầu cậu ấy sưng lên 1 cục to tướng.?
    Tất cả những người chúng tôi đang ở trong khu vực sở chỉ huy tiểu đoàn phải chứng kiến 1 sự kiện không mong muốn xảy ra, như 1 cuốn phim quay chậm ngay trước những đôi mắt kinh hoàng của mình. Tôi đang quỳ 1 chân hướng mặt về dãy núi. Ouellette vẫn còn choáng, đang quỳ bên cạnh tôi. Mắt tôi thấy có 1 chuyển động từ phía tây bên phải tôi, Tôi ngoảnh đầu nhìn thẳng vào mũi 2 chiếc phản lực F-100 Super Sabre đang hướng thẳng tới chỗ chúng tôi. Ngay vào lúc đó, chiếc đi đầu thả 2 thùng napalm, dài 1,8 mét sáng loáng, nó bắt đầu từ từ rơi theo chiều quán tính mà điểm kết thúc sẽ là ngay chỗ chúng tôi.
    Những hình ảnh khủng khiếp của những thùng napalm này luôn in đậm trong tâm trí tôi. Nó chỉ mất có 3 hoặc 4 giây kể từ lúc được thả cho tới khi chạm đất và phát nổ, nhưng thời gian tưởng dài như vô tận. Nó đuợc thả ra bởi chiếc máy bay đầu tiên và hướng trực tiếp tới bên trái của vị trí chỉ huy tiểu đoàn, nơi trung sĩ George Nye và nhóm công binh của anh đang núp dưới hố trong đám cỏ cao. Những chiếc phản lực đang bay với tốc độc rất chậm. Tôi không thể làm được điều gì với 2 thùng napalm của chiếc đi đầu đã thả ra, nhưng tôi phải làm điều gì đó để ngăn viên phi công của chiếc thứ 2 thả những thùng napalm của hắn, đang hướng vào phía trái của sở chỉ huy. Nếu hắn ta nhấn nút ?~thả?T, hắn ta sẽ thiêu rụi hoàn toàn: Hal Moore, đại úy Carrara, trung sĩ Keeton, đại úy Dillon, Thượng sĩ Plumley, Joe Galloway, đại uý Whiteside, trung úy Hasting, những điện đài viên của chúng tôi, lính liên lạc, trang bị quân, và đạn dược cùng với những người bị thương đang nằm la liệt trong trạm cứu thương. Trung tâm thần kinh trung ương- trung tâm của sự sống- của tiểu đoàn này sẽ ngay lập tức bị tiêu diệt trong lúc trận đánh sống còn này đang ở trong giai đoạn nóng bỏng.
    Tôi hét muốn nổ tung phổi của mình lên với trung úy Charlie Hasting, FAC của Không lực: ?oKêu ********* đẻ ấy thôi ngay! Kêu nó thôi ngay!? Galloway nghe thấy Hasting gào trong điện đài: ?oKéo lên! Kéo Lên!? Matt Dillon nói, ?oTôi có thể thấy những thùng napalm đang rơi thẳng xuống đầu chúng tôi. Tôi nhớ mình đã nghĩ, ?~Quay mặt đi nếu không muốn bị mù?T Tôi úp mặt vào vai 1 phóng viên để giấu đôi mắt mình. Đó là Joe Galloway. Tôi có thể nghe thấy Charlie Hasting ?~Good Time?T hét vào điện đài: ?~Kéo Lên!?T Chiếc máy thứ 2 đã làm như anh nói. Napalm từ chiếc thứ nhất đã trúng vài người và đốt cháy một số đạn. Thượng sĩ Plumley nhảy lên chạy tới dập lửa quanh những hòm đạn. Tôi cũng chạy ra LZ để đặt 1 thanh đánh dấu cho máy bay.?
    Trung sĩ Nye nói: ?oHai người của tôi, binh nhất Jimmy D. Nakayama, và binh nhất 5 James Clark, ở phía bên kia của tôi chỉ cách vài mét. Ai đó hét lên và trung tá Moore đứng đó hét lên giống như là bị lên đồng vậy và tôi nhìn lên. Có 2 chiếc máy bay đang bay tới, 1 chiếc đã thả thùng napalm và mọi thứ như 1 cuộn phim chiếu chậm. Mọi thứ bị thiêu rụi. Nakayama cháy đen thui và cả người Clark bị bỏng và rỉ máu.?
    Galloeay: ?oTrước đó tôi bước qua và nói chuyện với mấy tay công binh trong những hố cáo nhỏ của họ. Giờ chính những người đó đang nhảy múa trong lửa. Tóc của họ bị thiêu cháy ngay lập tức. Quần áo biến thành tro. Một người bị phồng dộp toàn thân; người kia thì không tệ đến thế, nhưng anh hít phải lửa vào bên trong phổi. Khi ngọn lửa yếu đi chúng tôi tất cả chạy ra chỗ đám cỏ đang cháy. Ai đó hét lên với tôi hãy nắm lấy chân 1 trong số người lính đang cháy thành than. Khi tôi nắm chúng, chiếc giày nát vụn ra và da thịt cũng rơi ra theo. Tôi có thể cảm nhận xương đầu gối của anh ấy trơ ra trong bàn tay mình. Chúng tôi mang anh ấy tới trạm cứu thương. Tôi cẫn còn nhớ những tiếng la hét của họ.?
  3. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Binh nhất 4 Thomas E.Burlie, 1 y sĩ của đại đội Bravo của Diduryk, tiểu đoàn 2, chạy nhanh ra bãi trống xách theo túi cứu thương nhằm giúp cho những nạn nhân napalm. Vài phút sau Burlie bị trúng đạn vào đầu và chết trong tay của Rescorla. Là 1 người Oklahoma, anh mới chỉ 23 tuổi bốn ngày trước đó.
    Trung sĩ Ketton, tại trạm cứu thương, nhanh chóng tiêm cho họ những mũi moocphin, nhưng chúng chẳng giúp gì nhiều. Họ bị bỏng quá nặng. Tiếng rên la của họ làm tan nát nhưng trái tim của những người nghe thấy. Cả hai người lính đều được di tản, nhưng binh nhất Nakayama, người vùng Rigby, Idaho, chết sau đó 2 ngày, lúc chỉ còn 2 ngày nữa là sinh nhật lần thứ 23 của anh.
    Trung sĩ Nye: ?oNakayama là người bạn thật sự của tôi. Một cậu nhóc tốt bụng. Thường gọi tôi là China Joe. Một lần cậu ta bắt gặp tôi đi cùng 1 cô gái người Trung quốc và cái tên đó đã dính vào tôi trong suốt thời gian chiến tranh. Tôi gọi cậu ấy là Mizo. Theo tiếng Nhật đó là ?~Thần Mưa?T. Ngày cậu ta chết cũng là lúc vợ cậu sinh em bé. Một tuần sau khi chết việc phong sĩ quan dự bị của cậu được thông qua, 1 thiếu úy. Mỗi người đã từng xuống LZ X-ray đều là những anh hùng, nhưng anh hùng thật sự là những tay như Nakayama. Tôi mất những người bạn tốt ở đó; họ đã cho đi tất cả những gì họ có. Cứ mỗi lần tôi nghe thấy tiếng trực thăng là mắt tôi lại nhoè ướt. Thật khó để giải thích.?
    Quay trở lại sở chỉ huy, FAC không lực của chúng tôi, Hasting đang bị choáng váng bởi tấn thảm kịch do không quân đánh nhầm. Anh nhớ lại: ?oSau khi Napalm cháy trung tá Moore nhìn tôi và nói một điều mà tôi không bao giờ quên: ?~Đừng bận tâm về chuyện đó, cứ gọi họ đến nữa đi?T?
    Một lúc sau khi Napalm dội xuống, 1 lính địch tơi tả và loạng choạng tiến vào bãi trống từ sau sườn trái của Edwards. Hắn không có vũ khí, bị thương
    nặng và từ bộ quần áo màu đen, có thể đoàn được hắn là thành viên của tiểu đoàn H-15 VC. Trung sĩ Ortis J. Hull, 30 tuổi, người Terra Alta, West Virginia, cùng 1 người thuộc trung đội trinh sát của anh chạy tới và đưa tên lính địch vào trạm cứu thương tiểu đoàn để sơ cứu. Hắn ta chết 1 lúc sau đó trước khi chúng tôi có thể chuyển hắn đi, chúng tôi chôn hắn vào 1 nấm mồ nông gần bên cạnh.
    Cơn thịnh nộ trút lên khu vực của đại đội Charlie vẫn chưa kết thúc. Hầu hết người của trung đội Kroger đã ngã xuống. Một số người nhanh trí, giống như Arthur Viera, đã thoát khỏi những tiểu đội hành quyết của quân địch và đang núp dúi dụi trong những hố cáo, họ được pháo bình dựng 1 hàng rào sắt thép bảo vệ. Ở phía xa bên phải, trung đội của trung uý Lane đang bị ảnh hưởng bởi những loạt pháo binh này- có lẽ bởi vì họ ở ngay phía trái của con suối cạn, cái đại lộ hướng tới những vị trí của chúng tôi. Trung sĩ John Setelin: ?oKhông quân và pháo binh bắn gần như vào những hố của chúng tôi trong hơn 40 phút có khi tới 1 giờ. Đó là lúc tôi bị trúng những mảnh phốt pho trắng. Những đợt tấn công đánh vào nhiều phần khác nhau của hàng phòng thủ chúng tôi. Chúng kiên quyết tràn ngập chúng tôi. Tôi nghĩ chúng tôi cũng đủ kiên quyết để không bị chọc thủng. Và chúng tôi đã đứng vững.?
    Khoảng 9 giờ sáng trung uý Dick Tifft, người đang điều khiển những chiếc trực thăng chuyển quân, gửi tới tôi 1 tin tốt lành, đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7, còn vài phút nữa là tới X-Ray. 9g10 đại uý Joel E. Sugdinis, 28 tuổi, West Point khoá 1960, đáp xuống cùng trung đội 3 của anh, chỉ huy bởi trung uý William Sisson. Trung đội đó ngay lập tức tiến ra phía nam, thẳng tới những tiếng súng đang nổ trên khu vực của đại đội Charlie, triển khai trong những bụi cây phía sau vài người sống sót còn lại của trung đội trung úy Geoghegan. Tôi ra lệnh ngắn gọn cho Sugdigis và chỉ cho anh khu vực của Diduryk, và thông báo cho Diduryk rằng Sugdigis đã xuống đây.
    S. Lawrence Larry Gwin Jr., 24 tuổi người Boston, là sĩ quan điều hành của Sugdigis. Được phong sĩ quan từ ROTC của đại học Yale, Gwin đã trải qua 2 năm tại sư đoàn dù 82, hoàn tất huấn luyện Biệt động quân, và anh đã học tiếng Việt 2 tháng tại trường ngôn ngữ quốc phòng ở Monterey, California. ?oLZ rất nóng bỏng, khi tôi nhảy ra khỏi trực thăng có những viên đại bay tới. Ngoài LZ, binh nhất Donald Allfed ngã lăn ra đám cỏ và nói: ?~Trung úy ơi, tôi trúng đạn rồi.?T Chúng tôi băng bó qua loa cho cậu ta. giờ chúng tôi biết rằng mình đang ở trong vùng Zululand. Đại đội Alpha dịch sát vào nhau, ngoại trừ trung đội của Sisson, họ đã được tung vào trận đánh ngay lập tức. Bốn ngày sau chúng tôi mới gặp lại họ.?
    Trung sĩ John Maruhnich, 1 lính chuyên nghiệp 35 tuổi, từ Scraton, Pennsylvania là 1 tiểu đội trưởng trong trung đội súng cối của Sugdigis. ?oChúng tôi hạ cánh ngay khi tiếng súng gia tăng. Lúc đó chúng tôi tạm quên mình là những pháo thủ súng cối để chiến đấu như những tay súng bộ binh. 5 người chúng tôi được lệnh tới 1 khu vực hàng quân vốn chỉ được phòng vệ lỏng lẻo. Chúng tôi phát hiện khoảng 20 quân địch, và giết chúng hết. Một lính Bắc Việt mà tôi giết, chạy lại phía tôi vừa la hét vừa bắn súng. Sau khi giết hắn ta, tôi thấy hắn là 1 sĩ quan. Tôi lấy khẩu súng ngắn trong bao súng của hắn và nhét nó vào túi tôi.?
    Sau 2 tiếng rưỡi đồng hồ trận đánh của đại đội Charlie cuối cùng cũng giảm xuống. Trung sĩ Setelin: ?oTiếng súng ngừng bặt cũng nhanh lúc nó bắt đầu. Quân địch chết xếp thành hàng 2, 3 lớp ngay trước mặt chúng tôi. Trong những lúc ngừng bắn, chúng tôi phải xúc đất đổ lên chúng để ruồi nhặng khỏi bay tới.? Trung úy Lane giờ có thể đi tới hố của đại úy Edwards mà không bị ngăn trở. Tất cả sĩ quan của đại đội Charlie không chết thì cũng bị thương. Đại uý Edwards đã làm tất cả những gì mà nhiệm vụ đòi hỏi, thậm chí còn nhiều, rất nhiều hơn thế nữa. Anh bị mất rất nhiều máu. Chuyển quyền chỉ huy cho trung úy Lane; anh được Lane, trung sĩ Kennedy và trung sĩ Castleberry kéo khỏi hố.
    Tại sở chỉ huy nơi gò mối, tôi gọi Diduryk tới và lệnh cho anh đưa trung đội đang bố trí chờ ở đó tới khu vực của đại đội Charlie, nhận lấy quyền kiểm soát khu vực và những người sống sót của Charlie và trung đội của Lane, rồi quét sạch những tên địch còn lẩn quất trong khu vực và bảo vệ phần phỏng thủ ấy. 9g41 anh và lính của mình tiến ra, một lúc sau, những trung đội khác của anh cũng ra theo, sau khi giao lại khu của mình cho Joel Sugdigis. Tôi điều phối trung đội 3 của Sugdigis chỉ huy bởi trung uý Sisson cho đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, của Diduryk.
    Vào lúc 10 giờ quân sống sót Bắc Việt đang rút lui. Đại đội Charlie đã giữ vững được trận địa của mình trong những nỗ lực của cá nhân và đồng đội dũng cảm. Những người lính dũng cảm của trung đội Geoghegan và Kroger đã đứng đó chiến đấu cho tới chết vì nhau và giữ được vị trí của mình. Cấp hàm cao nhất còn sống sót trong cả 2 trung đội này là trung sĩ trung đội, Jemison. Khi được hỏi tại sao quân địch thất bại trong việc tràn ngập trung đội của anh, Jemison nói: ?oTrước tiên là nhờ vào Byrd và Foxe với khẩu súng máy của họ ở bên trái. Và cuối cùng khẩu súng máy của Comer đã cứu chúng tôi.?
    Đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, Kỵ Binh 7 đón ngày mới với 5 sĩ quan và 106 lính. Tới giữa trưa, nó không còn sĩ quan nào nữa và chỉ còn 49 người không bị thương. Tổng cộng có 42 sĩ quan và binh lính chết cùng với 20 nữa bị thương trong 1 trận đánh giáp la cà dài 2 tiếng rưỡi đồng hồ. Xác của hàng trăm lính Bắc Việt rải đầy máu me khắp trên khu chiến.
    Edwards được binh nhất 54 Paolone giúp dìu qua bãi trống tới trạm cứu thương tiểu đoàn. Y sĩ ở đó lập tức truyền huyết thanh và IV fluids cho anh. Vài phút sau binh nhất Viera được đưa tới trên 1 tấm poncho, máu chảy ra từ rất nhiều chỗ bị thương. Chỗ nặng nhất là nơi viên đạn găm xuyên qua cổ. Đại úy Carrara, bác sĩ phẫu thuật của tiểu đoàn, quỳ kế bên Viera dưới tiếng súng và bình tĩnh thực hiện phẫu thuật mở khí quản ngay tại chiến trường mà không có thuốc gây tê hay thậm chí 1 đôi tay sạch. Trung sĩ Yamaguchi, quay phim chiến trường, quỳ phía trước và thu những hình ảnh không nằm trong kịch bản này vào trong những thước phim. Sau khi những cuộn phim của anh quay về Lầu Năm Góc, Yamaguchi và đồng nghiệp của mình, trung sĩ Schiro bị khiển trách vì đã quay những cảnh hiện thực chiến đấu trần trụi 1 cách quá sinh động. Vượt qua mọi đau khổ, Viera đã sống sót.
    Khi Diduryk và Rescorla tới được khu của đại đội Charlie, họ bị sốc bởi những gì họ nhìn thấy. Diduryk đã viết: ?oKhi tôi tới, chỉ còn 1 nhúm người thuộc C/1/7 và trung đội của tôi mà đã phối thuộc cho họ là sống sót. Đại đội đó đã chịu 1 tổn thất nặng nề. Quân địch đã lọt tới rìa phía nam của LZ X-Ray nhưng đã không chiến thắng được. Vẫn còn những giao tranh lẻ tẻ diễn ra, nhưng trên những mục tiêu thực tế quân địch đã bị đánh bại hoàn toàn.?
    Dillon bố trí những người sống sót tả tơi của Charlie gần gò mối chỉ huy như là lực lượng dự bị mới của tiểu đoàn, cứ tạm coi họ như vậy. Họ lấy đạn dược, nước, và khẩu phần C. Đại đội Charlie đã lao động quần quật 2 ngày qua. Trung sĩ Kennedy người có cấp bậc còn sống sót, tổ chức những người mệt mỏi của mình thành 2 trung đội và chỉ định những người chỉ huy tạm thời.
    Những người của Diduryk bắt đầu làm 1 công việc đau xót, thu hồi xác của những người Mỹ bị chết và bị thương cùng với việc thu thập tài liệu và vũ khí của quân địch. Trung úy Rescorla sẽ không bao giờ quên những hình ảnh đập vào mắt mình khi anh đi vào khu chiến: ?oXác những người Mỹ và VN ở khắp mọi nơi. Khu của tôi là nơi trung đội của Geoghegan chiếm giữ. Có vài tên lính Bắc Việt chết xung quang hầm chỉ huy của anh. Một người lính chết khi đang dính chặt với 1 tên lính NVA, tay của anh bóp chặt lấy cổ họng hắn. Có 2 người lính, 1 da đen, 1 Mỹ La tinh, nằm chết kề bên nhau. Trông giống như họ chết khi đang cố giúp nhau. Rất nhiều lính Bắc Việt chết. Chúng cắt tóc cao, cạo trắng ở dưới, còn để tóc rậm trên đỉnh. Vũ khí của chúng cũng vương vãi đầy xung quanh.?
    Rescorla đã đi hết chiều dài phòng tuyến khi anh nhận lệnh lấy vài người qua giúp đỡ trung úy Lane phía bên phải. ?oQuân NVA nằm khắp nơi. Moore và Plumley cũng ra ngoài này với chúng tôi. Chúng tôi thu thập tất cả vũ khí, quân trang và đạn dược rồi xếp chúng thành 2 đống, 1 của NVA, 1 của quân Mỹ. Dường như NVA đã kéo 1 số người chết và bị thương của chúng đi nơi khác. Đêm đó khi chúng tôi bị đánh, nhiều vũ khí của chúng tôi bị hóc hay hết đạn, chúng tôi sử dụng một vài số vũ khí còn dư của đại đội Charlie. Chúng tôi cũng sử dụng quân trang của họ vì chúng tôi đã để lại quân trang của mình ở phía sau. Sau đó khi chúng tôi tiến ra ngoài 270 mét, lại càng có thêm nhiều xác NVA. Chúng tôi có dư thời gian để dọn quang tầm bắn, đào hầm, lấy điểm chuẩn cho pháo binh rồi sẵn sàng chờ đêm xuống.?
    Cho dù quân địch đã rút lui nhưng chúng vẫn để những tên bắn tỉa ở lại, lính của Diduryk thỉnh thoảng lại bị bắn, cả ở bãi trống và sở chỉ huy của tôi cũng vậy. Có những tên ngụy trang rất kỹ trên những ngọn cây và trên những gò mối. Quân Bắc Việt đã bị đẩy lùi nhưng vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Bên ngoài khu vực của đại đội Charlie thượng sĩ Plumley và tôi bước qua những đống đổ nát kinh hoàng của trận đánh. Chúng tôi tìm thấy xác của trung úy Geoghegan, hai chúng tôi tự mình đưa anh về từ khu chiến. Khi chúng tôi quay lại, phát hiện ra trung sĩ trung đội Luther Gilreath, và đưa anh quay lại LZ, bắt đầu 1 chuyến hành trình dài về nhà.
    Cách xa chúng tôi từ phía đông, 1 sự tăng viện khác cũng đang tới, trung tá Bob Tully và tiểu đoàn 2, Kỵ binh 5 đang hành quân trên vùng đất cao. trước đó Tully đã điện cho tôi hỏi đường tiến quân và cách bố trí đội hình tốt nhất để tới được X-Ray. Vì phải giữ bí mật tối đa trên sóng điện đài nên tôi nói với anh: Đặc biệt chú ý tới sườn bên trái, đi sát theo núi. Tully : ?oTôi đã hành quân như thế nào hả? 1 đại đội hành đi dọc theo sườn núi, 1 đại đội khác đi trước để phát quang bụi rậm. Cứ 2 đại đội tiến trước, 1 đại đội ở phía sau. Lúc đầu sự quan tâm của tôi là quân địch có thể chặn chúng tôi hoặc làm chậm chúng tôi gần điểm cắt nhau giữa phía bắc và phía nam của quả núi. Để ngăn ngừa điều này. Tôi cho đại đội Bravo qua phải và gọi pháo binh dội tập trung xuống khu vực đó. Một khi chúng tôi vượt qua được sườn núi đó tôi biết là chúng tôi có thể tới được X-Ray 1 cách an toàn.?
    Tiểu đoàn của Tully không phải gặp 1 tên địch nào cho tới 10 giờ sáng. Lúc đó đại đội Alpha của đại úy Larry Bennett chạy ngay vào 1 khu vực chiếm giữ của quân Bắc Việt. Bennett, ?oChúng tôi còn cách X-Ray khoảng 700 mét thì 2 trung đội đi đầu của tôi bất ngờ phải nằm bẹp xuống vì đạn từ rất nhiều súng tự động bắn tới. NVA ở trên những cành cây, phía sau và trên đỉnh nhữn gò mối. Chúng tôi dùng hỏa lực mạnh mẽ bắn trả và cơ động 2 trung đội đi đầu. Tôi điều trung đội 3 của mình vòng qua sườn phải và sự kháng cự bị dập tắt nhanh chóng. Trong lúc vận động chiến đấu chúng tôi đã tới được phần phía nam của X-Ray.?
    Với việc LZ đã trở nên tương đối an toàn, chúng tôi gọi Crandall điều trực thăng tới đưa thương binh đi. WO Pop Jekel: ?oChúng tôi được lệnh chờ để đưa hết thương binh lên. Chúng tôi đậu ở LZ ít nhất là bằng thời gian hoàn thành quân dịch, cho tới khi có ai đó tới bên những chiếc trực thăng, 4 chiếc, để nói rằng: Biến khỏi đây thôi, các anh đang là mồi cho bọn chúng đấy.? Chúng tôi bay lên và cũng bị đạn bắn tới.?
    Đại uý Edwards bay trên 1 chiếc trực thăng cấp cứu quá tải của Crandall. Matt Dillon nhớ lại rằng trung úy Franklin bị thương quá nặng ở bụng dưới, bị đặt qua 1 bên, ?ovô vọng?, với vết thương như vậy anh không có cơ hội sống. Chỗ của anh được dành cho người khác mà y sĩ cảm thấy có khả năng sống nhiều hơn. Matt Dillon nhất quyết không chịu: Anh kéo Franklin lại chiếc Huey và một mực cho rằng anh ấy phải được đưa đi. Franklin được kéo lên, đầu anh treo ngoài cửa máy bay. Edwards nói : ?oHọ ném anh ấy ngay trên người tôi.?
    Trực thăng chuyển người xuống ở Falcon, Edwards nhớ rằng anh đã nói chuyện với thiếu tá Herman Wirth, sĩ quan điều hành của tiểu đoàn, và trung uý Bobby Hadaway, trong bộ phận hậu cần của tiểu đoàn. Wirth: ?oBob Edwards bị trúng đạn nghiêm trọng ở vai trái và bị mất nhiều máu. Mặt anh trắng bệch ra, trông như sắp chết. Người ta hỏi anh có thể sống được không. Họ truyền máu cho anh, rồi Bob tỉnh dần lại có thể nói chuyện được. Sự biến đổi kỳ diệu.? Edwards nhớ là bị đặt trên 1 cái cáng để trên mặt đất, cánh tay trái bị thương ?orời ra ngoài cáng đặt trên nền đất bụi?. Anh hét đủ lớn khi ai đó đạp lên cánh tay đó và họ ?olôi nó trở lại cái cáng.? Cho dù Edwarda nói anh đã không bị ngất ở X-Ray hay trên máy bay cứu thương, khi anh tới được viện quân y ở Quy Nhơn thì mọi chuyện lại khác: ?oTôi phải đi đái. Họ đưa cho tôi 1 cái túi nhựa trong để đái vào trong lúc đang nằm. Tôi không muốn làm như thế, vì vậy tôi đứng dậy để đái. Khi vừa đái tôi ngã ngửa ra sàn.? Trung uý Franklin, người đã bay ra ngoài X-Ray trên người Edwards, cũng đã sống sót.
    Trên sóng radio tôi nhận được tin là tiểu đoàn 2, kỵ binh 5 của Tully còn cách khoảng 30 phút nữa là tới X-Ray. Dillon chuyển lệnh cho khu vực đông và nam của chu vi không được nổ súng, rồi khoảng 11g45 những đơn vị đi đầu của tiểu đoàn Tully bắt đầu tới. Trung úy Rscorla đang đứng gần hố chỉ huy của trung úy Geoghegan nhìn ra phía đông nam: ?oHầu hết họ ở phía bên trái tôi, đi thẳng tới chúng tôi theo đội hình khối. Người trung sĩ lại gần tôi và nói: ?~Những chàng trai các anh đã xây cho chúng 1 hỏa ngục ở đây.?T Tôi nói: ?~Không, không phải chúng tôi. Công thuộc vệ họ.?T Tôi chỉ tay vào những người Mỹ đang nằm chết- những lính của đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7.?
  4. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Đại đội Bravo của Tully tiến vào, qua khu vực của đại đội Delta, nơi 9 khẩu súng máy của trung sĩ Warren Adams từng bị thổi bay hai giờ trước đó. Trung uý Litton và trung sĩ Adams vui mừng nhìn quân tăng viện tiến vào. Adams: ?oTôi nhìn người đi đầu tiến vào và những lời đầu tiên của chàng trai trẻ là ?~Chúa ơi, phải có 1 trận đánh dữ dội ở đây. Quỷ tha ma bắt, có rất nhiều xác chết quanh thung lũng trên đường chúng tôi tới đây. 30 phút vừa rồi chúng tôi phải đạp lên xác chết mà đi. Các ông đã thực sự đánh nhau ở đây.?T?
    Binh nhất Vincent Cantu nhìn quân tăng viện tiến vào và lần thứ hai bị bất ngờ. Cantu đã gặp người bạn học cũ, Joe Galloway. Giờ anh lại có 1 sự đoàn tụ gia đình ở đây nữa: ?oNgười đầu tiên tôi thấy bước vào là người em họ của tôi, Joe Fierova, từ Woodsboro, Texas. Cậu ấy nhìn thấy tôi và nói: ?~Chuyện gì xảy ra vậy Cat? Tôi trả lời: ?~Joe, cúi thấp xuống và ở lại đây.?T Chúng tôi thu dọn những người chết.?
    Binh nhất 4 Pat Selleck, 24 tuổi, người Mount Kisco, New York, nói: ?oTôi nhớ có 1 người cắm 1 lá cờ Mỹ ở phía sau ba lô. Khi tôi nhìn thấy, tôi rất tự hào. Nó luôn luôn gây xúc động trong tôi mỗi khi nhớ về nó. Rồi lá cờ này được treo trên 1 cái cây 1 gãy, giống y như là ở Iwo Jima. Lại 1 trận đánh khác mà chúng tôi đã giành chiến thắng cho nước Mỹ.? Lá cờ Mỹ nhỏ bé đó đã được treo trong suốt thời gian còn lại của trận đánh, nó làm nâng cao tinh thần của chúng tôi.
    Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, trước tiên tôi phải xếp đặt các công việc theo thứ tự ưu tiên. Trước tiên và quan trọng nhất là duy trì tình trạng chiến đấu cao nhằm đối phó với những đợt tấn công khác của quân địch. Thứ hai là phải đi cứu trung đội bị chia cắt của Savage. Thứ 3 tôi muốn có 1 thống kê sớm về tên tuổi của số người chết và bị thương. Cuối cùng chúng tôi cần cung cấp thêm đạn, nước và khẩu phần C. Thiếu tá Wirth đã điều trợ lý S-4, trung úy Bobby Hadaway, tới bãi tập kết thương vong của đại đội quân y Charlie ở trại Holloway, nơi anh tự mình kiểm đếm những thương vong được đưa tới và kiểm tra tên tuổi của họ theo danh sách tiểu đoàn. Trung úy Hadaway đã ở đại đội Charlie gần 2 năm. Anh biết hết tất cả mọi người ở đó. Số phận run rủi Hadaway tới những hàng dài xác chết, nhìn vào mặt rất nhiều người từng là bạn và đồng đội của mình rồi đánh dấu ?okill in action.? Đó là 1 công việc đau khổ.
    Lúc 12g03 Tiểu đoàn của Tully đã tới X-Ray. Tôi bắt tay anh ấy và nói các anh được đón chào nồng nhiệt ở đây. Dillon và tôi thảo luận làm cách nào để cứu Savage và những người sống sót, và lúc này chúng tôi có 1 ý tưởng khá rõ ràng. Giờ chúng tôi thông báo ngắn gọn tình hình cho Tully, và vai trò của tiểu đoàn của anh trong kế hoạch giải cứu này. Cùng lúc đó chúng tôi được thông báo rằng Tướng Dick Knowles đã ra lệnh triển khai thêm 2 khẩu đội pháo 105mm gồm 12 khẩu nữa tới LZ Columbus cách chúng tôi 3 dặm. 1 khẩu đội thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn pháo binh 17, chỉ huy bởi người bạn cùng khoá West Point của tôi, trung tá Harry O. Amos, Jr., 42 tuổi, người Alabama. Khẩu đội kia từ tiểu đoàn 1 của trung tá Bob Short trung đoàn pháo binh 21. Chúng tôi sẽ sớm có 4 khẩu đội, 24 khẩu pháo lớn, bắn trực tiếp yểm trợ chúng tôi. Cuối cùng thì mọi việc đã nằm dưới tầm khống chế của chúng tôi.
  5. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Chi tiết này phù hợp với chi tiết của bài của tôi đăng phần đầu :
    Việc trong trận đánh,bộ đội Việt nam bị thiệt hại nặng nề cũng chẳng có gì lạ. Nếu vào box Kỹ thuật quân sự thì mới thấy,trong thời gian từ 1930 đến nay,mỗi trận chiến đều là đánh nhau tổng lực mà phần thua ,thậm chí chưa đánh đã thua,luôn luôn dành cho kẻ yếu hơn. Cái này tôi đã viết nhiều lần,rất rõ về trận này rồi. Trận chiến của Việt nam với Mỹ thực chất là trận chiến giữa người khổng lồ với thằng bé con bé tý. Viện trợ quân+dân sự ,theo tài liệu mật được bạch hoá của CIA đầu năm nay,cho Hà nội của cả Liên xô Trung quốc là 174 triệu USD /năm (năm 1974 giảm còn thực tế là 124 triệu). Mỹ đã rải thảm 3 trận,quét hết tất cả nơi đóng quân của các đơn vị. Trong 3 trận đó có 31 chiếc B52. Mỗi B-52 bao giờ cũng kèm theo ít nhất 6 máy bay chiến thuật
    Kết quả là cái đám người tả tơi,xơ xác như vậy vẫn nện cho quân Mỹ bị thương vong nặng nề (số liệu thương vong hai bên đã dẫn.
    Nhớ lại quân Mỹ khi mở mặt trận tại Normandi rồi,sau đó đơn vị đi đầu tiến gần Bỉ. Quân Hitler hồi lại,cho máy bay ném bom vào những cánh quân đi đầu. Thư viện Lịch sử quân sự tại Moscow còn thu giữ lại từ Đức chụp sỹ quan binh lính Mỹ lũ lượt ra hàng,lính tank thò nửa người ra vứt thompson đầu hàng. Bây giờ lật ngược lại. Giả sử Nga cho ta lúc ấy độ 20 cái Tu-95 hay độ 10cái siêu pháo đài bay Ruslan An-124,mỗi cái mang 104 tons bom, hay là 500 quả bom. Các máy bay này đánh vào các vị trí Mỹ trong vòng 30 '''', sau đó các máy bay tiêm kích Mig23 và Su 22 quét sạch F4 và F105. Các máy bay trực thăng vũ trang tốc độ cao Mi và Kamov quét sạch lũ Cobra lẫn Chinook đổ bộ. Chỉ cần thế,10 cái A n not o v thôi,cũng đủ rải thảm hơn 30 cái B-52 (mỗi cái mang 28 tons bom). Bảo đảm chỉ cần 20 bộ đội tiến vào tiếp quản chiến trường,lính Mỹ còn sống thằng nào phát điên suốt đời thằng đó.
    Đằng này, Nga Mỹ ký với nhau hạn chế vũ khí sau Vụ Vịnh Con lợn nên không cho Miền Bắc bất cứ máy bay ném bom gì >Một dúm máy bay tiêm kích,lúc hoạt động nhiều nhất là 4 phi đội 16 cái mấy bay Mig 21 và Mig 17 loại thiết kế 1948 thì làm sao vào được chiến trường mà hạ B-52. Nên nhà văn cũng thấy lấy 12.7 mm mà làm súng phòng không,lấy vũ khí nửa thế kỷ trước mà chọi máy bay ném bom chiến lược là trò của thằng bé con đánh Mike Tyson bằng con gấu bông.
    Nhớ Nam tư, lò sản xuất vũ khí của Trung Âu,anh hùng chống phát xít,nghe Mỹ dọa đưa trực thăng Apacher vào tham chiến mà vỡ mật,chạy chối chết khỏi Kosovo là đất đai gốc của chính người Nam tư chứ không phải Anbani). Sau đó buông súng đầu hàng trên thực tế.
    Nhớ Iraq có 6,000 xe tank,thiết giáp mà để cho số xe tank Anh Mỹ ít hơn chục lần bắn như bắn đồ chơi. Lính Arập chạy mất mạng nên quân Mỹ vào chỗ không người.
    Thế mà tàn quân Việt nam sau 3 đợt B-52 đánh trúng đội hình còn giết được 1 tiểu đoàn Mỹ. Ông già tôi bảo,đánh giáp lá cà thằng nào nhanh hơn là thắng. Thằng Mỹ to khoẻ,lấy tay gạt băng lê AK ra nhưng không chống lại nổi một dao găm của ta đâm cực nhanh bằng tay trái vào bụng dưới rạch lên. Thế nhưng trận đó,chúng khoẻ lắm. Nhiều thằng bị đâm thủng bụng vẫn đâm lại hay siết cổ đối phuơng tới chết. Mình đứng với nó cũng như mình đánh thằng bé con 10 tuổi. Nói chung đã giáp lá cà thì cả hai cùng chết.
    Tuy nhiên sau trận đó thì bọn Mỹ sợ lính Việt nam đánh cận chiến hơn nhiều. Bôi một ít nhựa độc đã luyện vào lưỡi lê và dao găm,thằng Mỹ có gạt ra được cũng đi đời vì xước tay chân
  6. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    14./ Giải Cứu Trung Đội Bị Bao Vây
    War is fear cloaked in courage.
    -General William C. Westmoreland
    Bây giờ đã gần trưa ngày thứ 2, 15 tháng 11, thời điểm để tiến ra ngoài 1 lần nữa, lần này với đội hình 3 đại đội, nhằm cứu trung đội bị mất tích. Cho dù những ngưòi lính của tiểu đoàn tôi muốn họ là những người đi đưa những đồng đội của họ về, nhưng lý trí bao giờ cũng chiến thắng tình cảm trong những trường hợp như thế này, và tiểu đoàn 2, Kỵ binh 5 mới tới của trung tá Tully, được đại đội Bravo của John Herren dẫn đường, đã được giao nhiệm vụ này. Những người lính Garry Owen của tôi rất cần khoảng yên lặng này để tái tổ chức lại những tiểu đội và trung đội kiệt sức của mình, di tản thương binh, bổ sung đạn dược, nước uống và dọn dẹp khu chiến trước mặt họ. Hai đại đội của Tully đang ở phía nam của bãi trống, có thể dễ dàng tiếp tục di chuyển theo vòng ngoài của phòng tuyến và tới thẳng chỗ những người bị mắc kẹt. Không thể lãng phí thời gian nhằm kéo những đại đội của tôi ra khỏi phòng tuyến, rồi thay thế họ bằng người của Tully, rồi sau đó lại phải bố trí đội hình tiến quân cho họ.
    Tully và tôi cùng đồng ý: Tôi sẽ chuyển cho anh đại đội Bravo của đại úy Herren, họ biết rõ địa hình và lối đi, và anh sẽ để lại cho tôi đại đội Bravo và Delta của anh. Tully có thể tiến hành 1 cuộc tấn công cỡ tiểu đoàn, được hỏa lực bắn chuẩn bị mạnh, với 2 đại đội dàn hàng ngang đi trước và 1 đại đội di chuyển phía sau làm lực lượng dự bị. Tully: ?oĐề nghị của Moore rất thực tế và hợp lý. Đơn vị của tôi vẫn đang cơ động, vẫn đang di chuyển. Thời gian là yếu tố cốt yếu. Tiểu đoàn của tôi sử dụng đội hình đơn giản- 2 trước, 1 sau- A/2/5 phía bên trái, B/1/7 phía bên phải, C/2/5 đi phía sau A/2/5. Lý do để xếp đội hình nghiêng về bên trái là vì những hoạt động chủ yếu của quân địch xuất hiện từ vùng núi phía bên trái chúng tôi. Tất cả những gì cần thiết là đưa Herren vào đội hình và tiến lên. Ngoài những điều lệnh phối hợp, không có gì cần thiết để nói với Herren. Anh biết nơi trung đội bị cô lập và rất nóng lòng giải thoát cho họ.?
    Đại đội Alpha gồm 96 người của Tully, đi phía bên trái, được chỉ huy bởi đại uý Bennett. ?oChúng tôi vượt qua phần phía nam của X-Ray dưới những tiếng súng bắn tỉa khá mạnh từ phía nam, ít nhất chúng cũng làm cho những người bộ hành dựng tóc gáy.? Phía sau Bennett là đại đội Charlie tiểu đoàn 2 kỵ binh 5 chỉ huy bởi đại úy Ed Boyt. Sau khi pháo bắn chuẩn bị, Tully và 3 đại đội của anh xuất phát tiến công vào lúc 1g15.
    Herren: ?oChúng tôi không gặp bất kỳ quân địch nào trên đường. Chúng tôi đã gọi trực thăng phóng rocket liên tục giữa trung đội bị cô lập và chúng tôi. Một lúc sau tôi nhìn thấy 2 lính NVA chạy trốn phía bên phải, xuyên qua những hàng cây gỗ cách khoảng 270 mét. Khi chúng tôi tới được chỗ của trung đội bị chia cắt chúng tôi bị bắn tỉa từ phía sườn núi Chu Pong trên hướng tây nam.? Trung úy Deal và những người lính còn sống của trung đội mình ở sườn trái của đại đội Herren, lần này thì anh rút kinh nghiệm của lần trước: ?oChúng tôi có rất nhiều lựu đạn và ném chúng vào tất cả những gò mối mà chúng tôi nhìn thấy. Chúng tôi ném chúng suốt trên đường cho tới khi tới được chỗ của trung đội 2. Tất cả hóa ra chẳng cần thiết. Chúng tôi không gặp phải 1 sự kháng cự nào. Chúng tôi sử dụng lựu đạn để dò địch và điện cho Savage biết chúng tôi làm như vậy. Chúng tôi chẳng muốn có bất kỳ 1 tên địch nào còn sống giữa chúng tôi và trung đội giống như lần trước. Riêng mình tôi đã ném tới 8 hoặc 10 quả lựu đạn.?
    Mặc dù vậy, đây không phải là 1 đợt tiến quân nhanh chóng. Bob Tully là 1 vị chỉ huy chiến trường nhiều kinh nghiệm, anh thấy không cần thiết phải làm 1 cuộc chạy đua với thời gian. Sỹ quan hành quân của anh là đại úy Ronald W. Crooks, anh nói: ?oHỏa lực yểm trợ hầu như đã bắn những viên đạn lấy chuẩn nhằm xác định vị trí một khi chúng tôi cần hỗ trợ nhanh chóng. Chúng tôi không cố làm bất ngờ quân địch. Chúng biết chúng tôi ở đâu và tôi chắc rằng chúng cũng biết nhiệm vụ của chúng tôi. Chúng tôi bắn thêm vào phía nam như là 1 hỏa lực ?~quấy rối và ngăn chặn?T dọc theo dãy núi nhằm bảo vệ an toàn cho sườn phía trái, và phía trước của A/2/5.?
    Chẳng có gì ở ngoài đó. Không bắn tỉa. Không phục kích. Chẳng có gì ngoài xác chết của NVA và vũ khí của chúng. Tôi phân vân nhưng rất mừng khi nhận những báo cáo qua radio. Trong lúc Tully đang tiến quân tôi ra lệnh cho các đại đội của mình còn trong X-Ray tiến ra ngoài quan sát khoảng 270 mét và tiến hành thu dọn chiến trường. Tôi và thượng sĩ Plumley một lần nữa cùng đi ra ngoài khu vực của đại đội Charlie của Bob Edwards.
    Trong bản báo cáo sau trận đánh của mình, tôi mô tả cảnh tượng như sau: ?oNhững lính PAVN chết, những mảnh cơ thể và vũ khí của PAVN nằm rải vô khối xung quanh rìa và phía trước chu vi phòng thủ. Rất nhiều mảnh cơ thể được nhìn thấy. Có rất nhiều bằng chứng, vệt máu, bông băng v..v.. của nhiều tên PAVN khác đã được kéo đi khỏi khu vực. Có rất nhiều xác chết chất thành đống phía sau các gò mối lớn. Chúng tôi nhìn thấy vài lính của chúng chết với 1 dây thừng quấn quanh đầu gối đầu kia tuột ra nằm trơ trọi. Tôi thấy 2 lính của mình chết cũng có những dây thừng giống như vậy buộc chặt quanh 2 đầu gối. Có thể họ bị bắt sống và khi bị kéo đi thì bị giết. Chúng tôi tìm thấy một vài ví da và thẻ bài của những người mình trong người những tên NVA nằm chết. Pháo binh và không quân chiến thuật đang dội xuống khu rừng cây gỗ kế đó, nơi những con đường mất hút trong đó. Thêm rất nhiều vũ khí của quân địch được thu dọn cùng với 1 số súng pháo khác. Hai tù binh bị bắt và được chuyển đi. Những người chết và bị thương của mình cũng được thu lượm hết. Một vài lính bị giết và bị thương trong quá trình thu dọn chiến trường này.?
    Ở phía xa bên sườn phải khu vực của đại đội Charlie, trung sĩ John Setelin vẫn còn sống sót sau cuộc thảm sát. ?oChúng tôi được lệnh quét sạch khoảng 200 mét phía trước. Chúng tôi có lẽ dàn hàng ngang tiến lên được khoảng 50 mét thì chúng tôi có thể nhìn thấy quân địch ngay phía trước mình. Chúng tôi nổ súng. Chúng bắn trả. Rồi chúng tôi nghe thấy có tiếng ai đó bên sườn phải: ?~Chúng đang tuôn từ trên núi xuống!?T Trung sĩ Charlie McManus, binh nhất Larry Stacey, Lamothe và tôi vượt qua phía tây của suối cạn. Rồi chúng tôi thấy bọn chúng ở sau lưng chúng tôi, giống như chúng muốn bao vây chúng tôi lại vậy. Phần còn lại của trung đội cũg đã tiến tới, lúc này trung sĩ McManus đẩy mạnh Stacey và tôi ra khỏi chỗ đứng. Chúng tôi nghe thấy 1 tiếng nổ, khi nhìn xuống Charlie McManus nằm đó, chết. Anh đã đè lên 1 trái lựu đạn để cứu mạng chúng tôi. Trái lựu đạn bay từ lòng suối tới. Tên địch rõ ràng đã tuồn theo lòng suối cạn để lại gần chúng tôi. Stacey nhanh chóng thổi mấy trái M-79 vào chỗ đó và tiêu diệt hắn ta. Trug sĩ Charles V. McManus, từ Woodland, Alabama, được 32 tuổi khi anh hi sinh thân mình để cứu những người bạn.
    Quay qua phía bắc của chu vi, binh nhất Jon Wallenius đang khám phá sự bí ẩn đằng sau cái chạc cây chứ Y và những mục tiêu nằm trong tầm bắn dễ dàng như rang lạc: ?o1 đơn vị tiến hành càn quét phía trước vị trí của chúng tôi, họ báo rằng có 7 xác chết quân NVA phía sau cái cây, tất cả đều bị bắn vào đầu. Tôi chẳng tới đó để coi.?
    Trong lúc ngừng bắn này nhiệm vụ đau lòng và gây buồn bã nhất chính là việc thụ lượm những người chết và chất họ lên máy bay. Vì có quá nhiều người chết nên Lữ đoàn đã ra lệnh cho những chiếc trực thăng lớn, những chiếc Chinook CH-47, bay tới. 1 chiếc như vậy đã chở tất cả 42 người bị chết của đại đội Charlie. Họ đã xuống đây cùng với nhau, chết cùng nhau và giờ họ được chuyển đi cùng với nhau, được bó trong những tấm poncho màu xanh quân đội.
    Binh nhất Vincent Cantu nói: ?oChúng tôi thu nhặt những người chết và đưa họ lên trực thăng. Một vài người trong số họ tôi đã quen biết trong 2 năm qua, vậy mà tôi chỉ nhận ra họ khi nhìn vào những tấm thẻ bài. Những gương mặt của họ bị thổi bay, biến dạng, méo mó. Thật muốn phát bệnh lên được. Chúng tôi nhìn nhau, không nói một lời nào, chỉ cứ việc tiếp tục xếp người chết của chúng tôi lên trực thăng.?
    Khoảng giữa buổi sáng, trước khi Tully tới, Đại tá Tim Brown đã bay tới thăm. Plumley nhớ lại: ?oTrung tá Moore chào Brown và nói, ?~Tôi đã nói với anh không nên tới đây, ở đây không an toàn đâu.?T Tim giật cái ve áo bên phải và ve vẩy cái phù hiệu đại tá hình đại bàng của mình trước mặt Moore: ?~Xin lỗi nhé!?T Dillon và tôi trình bày báo cáo tình hình cho ông. Brown hỏi liệu ông có thể ở lại X-Ray và thiết lập 1 sở chỉ huy nhỏ của lữ đoàn ở đây không, và điều hành chỉ huy. Chúng tôi đều chống lại việc này. Tôi biết vùng này, chỉ cần Bob Tully và tôi cùng ở đây là ổn rồi. Brown đồng ý. Trung úy Dick Merchant nói: ?oĐại tá Brown tin tưởng vào những thuộc cấp của mình. Tôi nhận thấy cái cảm giác của ông khi muốn xuống X-Ray và thiết lập 1 sở chỉ huy. Tôi không bao giờ chấp nhận điều này. Tiểu đoàn 1, kỵ binh 7 có lẽ là tiểu đoàn tốt nhất ở VN, được huấn luyện tốt, chỉ huy siêu việt với những sĩ quan và hạ sĩ quan xuất sắc toàn đơn vị. Brown nên ở ngoài X-Ray. Bên cạnh đó chẳng còn chỗ trống nào cho 1 sở chỉ huy lữ đoàn đặt ở đây, tôi nhớ là phía sau cái gò mối ấy giờ như là 1 đám đông nhộn nhạo.?
    Trước khi đi, Brown nói rằng chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc công việc nhưng giờ với sự có mặt của tiểu đoàn Tully hoàn toàn sung sức cùng với 2 đại đội của tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 ở đây, ông sẽ rút chúng tôi ra khỏi X-Ray vào ngày hôm sau. Khi chúng tôi bước qua nhưng đống trang bị thu được ngày càng nhiều của quân Bắc Việt, Brown quay lại hỏi ông có thể lấy 1 chiếc mũ làm từ mạt gỗ của quân Bắc Việt hay không. Ông ta đã có chiếc mũ mà mình muốn.
    Khi ngừng bắn kéo dài và Tully tiếp tục báo cáo không gặp phải sự kháng cự nào trong lúc di chuyển, Dillon và tôi cố phán đoán hành động tiếp theo của quân địch. Những tên sống sót của những tiểu đoàn này ở đâu? Chúng mang thương binh tới chỗ nào? Chúng phải lấy nước để uống, nấu nướng và chăm sóc thương binh. Phải có những dòng suối hay khe nước trên những vách núi Chu Pong phía trên chúng tôi, nhưng để mang thương binh vượt qua những sườn núi dốc này là 1 hành trình khó khăn và chậm chạp. Dòng nước gần nhất đang chảy theo bản đồ của chúng tôi là Ia Drang cách đó 2 dặm về phía bắc. Chúng tôi đoán dường như có thể có 1 quân y viện dã chiến trên những sườn núi. Củng cố cho suy đoán này là sự kiện: ngay sau giữa trưa ngày 15 tháng 11 những chiếc pháo đài bay B52 của không lực tầm cao thực hiện ngày đầu tiên trong 6 ngày chiến dịch ?~Ánh hồ quang?T dội bom xuống dãy Chu Pong. Lần đầu tiên trong lịch sử, những chiếc B52 chiến lược được sử dụng trong vai trò yểm trợ chiến thuật cho những người lính Mỹ dưới mặt đất.
    Bản chất của trận đánh này thay đổi 1 cách rất ấn tượng, và người chỉ huy của quân địch không thể là người hài lòng trong buổi trưa nay được. Trung tá Nguyễn Hữu An đang đứng tại 1 đường liên lạc trên những sườn núi của dãy Chu Pong. Ông nhớ là đã thấy và đã đếm, ngay trên đầu mình, 18 chiếc B-52 trước khi ông chui lại vào hầm đào sâu dưới lòng đất của mình. Vài phút sau, những loạt bom đầu của những trái bom 500 pound nổ không cách hầm của ông quá 600 mét, nhưng những tiếng nổ lớn này đã tránh xa trung tá An. Ông phải sống để tiếp tục chiến đấu nhưng luôn luôn nhớ tới những tiếng ầm ĩ đã vọng tới ông ngày hôm đó ở Chu Pong.
    Trên mỏm đất của nhỏ của trung đội bị cô lập, trung sĩ Ernie Savage đã thông báo cho mọi người rằng sự cứu viện đang tới. Điều đó làm tăng tinh thần của mọi người nhưng không làm giảm sự nguy hiểm đang rình rập họ. Savage nói: ?oChúng tôi bị bắn ngay lúc trời sáng. Chúng tôi vẫn nằm sát đất. Bất kỳ lúc nào chúng thấy chúng tôi là chúng nổ súng vào chúng tôi.? Thật không rõ ý định của quân địch đối với những người Mỹ bị bao vây. Đợi họ chạy ra ngoài? Hay lùa họ ra? Hoặc hạ từng người một bằng những phát đạn bắn tỉa?
    Cho dù có những tính toán gì đi nữa, ngay lúc 3g khi những đại đội của Herren và Bennett tới được khe nước nông, họ ngay lập tức bị bắn bằng những khẩu tiểu liên. Tuy nhiên chúng ngay lập tức bị đè bẹp bởi hoả lực vượt trội tuôn ra từ những khẩu súng máy của những người Mỹ. Savage luôn theo dõi sự tiến triển của đoàn quân đi cứu mình: ?oCó những phát súng ngay trước khi quân giải toả đến được chỗ chúng tôi. Họ đụng phải 1 đám quân, không nhiều lắm. Tôi có thể nghe họ nói chuyện trên radio về việc giết được 1 vài tên bắn tỉa nào đó.?
    Những người đi cứu nạn vượt qua khe nước cạn giống như những gì mà người của trung uý Herry Toro Herrick đã làm ngày hôm trước. Từ phía bờ tây của khe nước, tầm nhìn trở nên dẽ dàng vì đất dốc lên tới 1 mỏm đất nhỏ ở phía tây bắc của bãi trống. Nhiệm vụ giải cứu đã hoàn thành, bãi trống đã được chiếm giữ. Bob Tully: ?oChúng tôi bảo vệ trung đội đơn giản bằng cách bao quanh lấy họ sau khi chúng tôi tới được vị trí của họ.? Đại úy Bennett nói: ?oKhi tới bãi trống, tôi được lệnh chiếm giữ nửa phía đông của nó. Bãi trống có hình quả trứng, rộng khoảng 230-250 mét, với cỏ cao và những khóm cây nhỏ khắp xung quanh.?
    Herren nhớ lại: ?oChúng tôi vượt qua những gốc cây bị thổi bay, những gò mối, và những bụi cây rậm rạp cho tới lúc chúng tôi tới được trung đội. Lúc đó một vài lính của Bennett nhìn thấy 1 nhóm nhỏ những người sống sót và gọi họ. Trung sĩ Zallen, ở trên mỏm đất cùng với Savage, biết rằng sự thử thách dài dằng dặc đang kết thúc, nhưng tim anh vẫn thổn thức: ?oTôi không thể chịu đựng được khi nhìn vào trung sĩ Palmer.?
  7. dangnghia

    dangnghia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    1.800
    Đã được thích:
    0
    Chả hỉu lính Mỹ có truyền thống ko để lại xác đồng đội trên chiến trường có thực hiện được trong trận này không, mới đọc đến chỗ ông Taft chết mà bao nhiêu ông chạy ra bưng xác về, thế mà ko hiểu sao lại lấy lại đưọc cái thẻ bài quân sự của ông này chứ, đúng là số nó may.
    Đọc lại thấy đúng là quân mình chú bé tí hon đánh lại người khổng lồ, chưa gì nó đã điều bom na pan ra giết mình rồi, nhớ lại cái hồi năm 1978-1979, VN mang mấy con A-37 chả Napalm na peo gì mà bọn Khơ me đỏ còn chết như ngả rạ, bọn Mí huấn luyện, trang bị tận răng, nào M79, M60, rốc két, LAW như thế mà chịu mấy tràng súng tự động với lại Ba Zô Ca của cụ Trần Đại Nghĩa đã sợ hãi kêu la như vạc, quân mình trong bao nguy hiểm vẫn xông lên, mặc dù thiếu chỉ huy, vẫn đánh rất mưu trí,hixhix, cảm phục các anh.
    Anyway, bác Duong2002 post hay lắm, vote bác 5*
  8. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Moore rất hay mô tả quân ta đội mũ cối. Điều này có vẻ vô lý. Nghe những cựu binh QĐNDVN kể chuyện thì mới thấy mũ cối và giày bất tiện như thế nào khi hành quân trong rừng, nhất là khi gặp mưa. Kể cả khi không có lệnh thay trang phục của quân GPMN (mũ tai bèo) thì gần như 100% vẫn vứt bỏ mũ cối, mãi đến thời kỳ 72-73 cũng vậy. Phim ảnh tư liệu của ta thì ngay những chiến trường gần miền Bắc như Trị-Thiên cũng không thấy có mũ cối.
    Theo hồi ký tướng Nam Khánh thì trung đoàn 66 khi vào tới chiến trường đã vứt bỏ trên 300 lưỡi lê. Rất khó tin là mệt đến mức ấy mà họ lại vẫn còn giữ mũ cối.
  9. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Lúc này những nhóm đi đầu của đại đội Herren tiến tới bãi trống, Herren chính là người dẫn đầu hàng quân vì anh nóng lòng tái ngộ với những người lính còn lại của mình thuộc trung đội 2. Herren: ?oĐó là cảnh tượng tôi không bao giờ quên. Trước tiên chúng tôi tìm thấy những gì còn lại của trung sĩ Hurdle và tiểu đội súng máy của anh, những người đã bị tràn ngập. Có nhiều lính Bắc Việt chết nằm co quắp xung quanh. Kế đó là những nhóm người của Savage và McHenry, một vài người được băng bó quanh người, tất cả họ bị bụi và đất phủ khắp lên người và trông rất mệt mỏi, nhưng rất hồ hởi khi trông thấy chúng tôi.? Trung sĩ William Roland thuộc trung đội 1, đại đội Bravo, nói khoảng cách giữa nới Hurdle và những xạ thủ súng máy của anh chiến đấu và hy sinh cách những người còn lại của trung đội Herrick là khoảng 55-65 mét, điều này cho thấy rõ ràng là những xạ thủ súng máy dũng cảm đã hy sinh thân mình nhằm giúp cho đồng đội có thời gian rút tới vùng đất cao hơn.
    Trong cái vòng nhỏ bé ấy, những người còn lại đều chĩa súng lên trời và bắn hết số đạn còn lại sau 26 giờ chiến đấu. Trung đội 2, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7 có 29 ngưòi khi trận đánh bắt đầu. 29 người này đều được đưa về, 9 chết, 13 bị thương, và 7 người lành lặn. Tất cả thương vong đều xảy ra khoảng 90 phút đầu tiên của trận đánh.
    Đại úy Herren nói đó là điều kỳ diệu khi không 1 người bị thương nào bị chết, và điều kỳ diệu có tên là Doc Lose. Herren: ?oTôi hoàn toàn bị thuyết phục rằng một trong những lý do chính giúp cho trung đội vượt qua được sự thử thách chính là những hành động của binh nhất 5 Charles Lose, người y sĩ. Bất kỳ người nào thuộc trung đội khi tôi nói chuyện đều nhất trí cho rằng Doc Lose đã cứu mạng những người bị thương nặng.?
    Trung uý Dennis Deal là 1 trong những người đầu tiên gặp trung đội. ?oChúng tôi không thể thấy nhau, Tôi gọi: ?~Các anh còn đó không??T Có tiếng trả lời: ?~Có chúng tôi ở đây?T Tôi bước tới nơi người bạn của tôi Henry Herrick nằm, chết, tôi nhìn xuống anh ấy. Trời rất nóng, nóng khủng khiếp, xác anh bắt đầu bốc mùi. Tôi không muốn nhớ về anh ấy bằng những hình ảnh như vậy, vì thế tôi quay đi và tự buộc mình vào những công việc khác. Nhưng hình ảnh đó cứ bám theo tôi.? Trung sĩ Savage nói những người đầu tiên bước vào chu vi của họ không thể nhìn thấy ai trong số những người của anh. ?oPháo binh đá thổi đầy bụi và đất lên người chúng tôi, trông chúng tôi giống như 1 phần của đất vậy.?
    ?oNó thật kỳ dị? Deal nói, ?oNhững người sống sót chẳng thèm đứng dậy. Họ vẫn nằm đó trong những hố nông choẹt mà họ đã cào được trên mặt đất. Họ vẫn trong tình trạng sốc bởi những gì họ đã trải qua.? Binh nhất Galen Bungum: ?oNgười đầu tiên tôi nhìn thấy là trung úy Duncan, sĩ quan điều hành của đại đội Bravo. Tôi hét vào anh ta là nằm xuống. Anh nói, ?~Ổn rồi, thôi nào, chúng ta đi thôi!?T Rồi anh ném cho tôi 1 bình nước của anh. Thêm nhiều người nữa đến xung quanh, tôi nghĩ họ bị mất trí rồi. Chúng tôi không thể tin được. Không ai trong số chúng tôi đứng lên. Sau một vài lời an ủi, chúng tôi mới từ từ đứng dậy.?
    Trung úy Deal thấy rất nhiều lính Bắc Việt nằm chết chỉ cách những người Mỹ có vài tấc và 1 tên vẫn còn sống. ?o1 lính Bắc Việt đang ngồi dựa vào 1 gốc cây, bị bắn tan nát. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục cố rút 1 quả lựu đạn trong túi ra. trước khi chết anh ta vẫn muốn ném trái lựu đạn đó. Tôi bị ấn tượng mạnh bởi toàn bộ cử chỉ ấy. Anh ta cố, cho tới khi chết hoàn toàn, lấy bằng được qua lựu đạn ra khỏi túi, chúng tôi đứng đó và nhìn anh ta. Anh ta không thể kéo nó ra được dù chỉ 1, 2 inch, rồi nó rơi trở lại và anh ta lại tiếp tục bắt đầu 1 lần khác.?
    Trung sĩ trung đội Larry Gilreath nói, ?oĐiều làm tôi nhớ nhất là cái dáng vẻ hiền hòa của trung sĩ Palmer, anh nằm ngửa ra, hai tay cuộn trước ngực. Chúng tôi ở thật gần bên nhau. Rồi mỗi người trong trung đội có một cách xin nước uống. Tôi chỉ còn 1 nửa bình nước tới lúc đó để cho họ, rất nhanh nó hết nhẵn. Tôi giúp 1 người trong số họ, trung sĩ Thompson tôi nghĩ, anh ấy bị thương, đi lại rất khó khăn, và anh ấy xin tôi 1 chút nước. Tôi không nghĩ lúc đó có 1 gallon nước dù là toàn tiểu đoàn. Nước quá ít, tôi không thể cho anh ấy 1 ngụm nước nào.?
    Một trong những người lính gọi trung úy Deal chú ý tới 1 thứ gì đó nằm dưới đất. ?~Người lính nói, ?~Coi kìa, có thứ gì màu đỏ và tôi không biết nó là cái gì.?T Đó là 1 cuốn sổ mà 1 người lính Bắc Việt đã đánh rơi. Nó ghi đầy những dòng chữ với nét chữ đẹp, và trang trí đẹp?. Đó là những đoạn ngắn ghi lại nỗi nhớ nhà của 1 người lính trẻ- gồm thơ, bài viết, và những bức thư. 1 trích đoạn: ?oÔi, Em yêu. Người vợ trẻ của anh. Khi những đoàn quân trở về trong chiến thắng, em sẽ không thấy anh trong đó, em hãy nhìn lên những lá cờ vinh quang. Em sẽ thấy anh ở đó và em sẽ cảm thấy ấm lòng dưới bóng những hàng tre.?
    Khi Deal giúp người và vũ khí chuẩn bị di tản, anh bị ấn tượng sâu sắc bởi 1 hình ảnh: ?oĐó là những hành động cuối cùng trước khi chết của 1 lính Bắc Việt. Trước khi chết anh ta lấy 1 trái lựu đạn giữ chặt lấy nó cùng với cái báng súng của mình. Rồi anh ta kẹp nó vào giữa 2 đầu gối nằm xoay lại. Nếu có ai đó cố lấy vũ khí của anh ta họ sẽ tự khai hỏa trái lựu đạn. Khi tôi thấy sự xả thân này của 2 người lính Bắc Việt với những trái lựu đạn của mình, tôi đã thầm nghĩ: Chúng ta đang phải đánh nhau với 1 kẻ thù sẵn sàng chấp nhận 1 cuộc chiến dài lâu.?
    Cho dù đoàn quân giải toả đã không gặp phải sự kháng cự lớn nào, nhưng giờ họ bắt đầu bị những vũ khí hạng nhẹ bắn nhiều hơn từ những kẻ địch ẩn nấp xung quanh. Đại úy Bennett, chiếm giữ nửa phía đông của bãi trống, nhận lệnh mới, đưa quân dàn rộng ra và bao bọc xung quanh vòng tròn. Trong quá trình thi hành mệnh lệnh, Bennett và 2 người lính của mình bị trúng đạn từ những tên bắn tỉa.
    Những tiếng súng bất ngờ của quân địch khiến cho nhiệm vụ trở nên cấp bách. Bob Tully và tôi đồng ý rằng nhiệm vụ ưu tiên lúc này là đưa Savage và người của anh cùng vũ khí quay về. Không đếm xác, không tìm kiếm vũ khí quân địch. Không cần phải ở quanh ngoài đó. Hãy ra khỏi chỗ khốn kiếp đó, Chúng tôi không muốn đùa giỡn với may mắn của mình. Giờ là 3g30 và có rất nhiều việc phải làm trước khi trời tối: Di tản những người chết và bị thương. Kêu thêm máy bay chở đạn dược và nước uống. Tuần tra bên ngoài chu vi phòng thủ. Xắp xếp tiểu đoàn của Tully vào phòng tuyến. Phát quang tầm bắn, lấy điểm chuẩn pháo binh, cài lựu đạn phát sáng, những trái lựu đạn gắn với những sợi dây làm bẫy sẽ nổ khi có ai vướng vào.
    Tully nói: ?oMối quan tâm của chúng tôi là cách di chuyển những người thuộc trung đội bị chia cắt trở lại X-Ray. Rất nhiều người trong số họ cần phải cáng. Thật là lạ vì di tản những thương vong của họ và một số ít của chúng tôi lại tốn nhiều người hơn, tới 2 đại đội. Cáng những người bị thương và chết không phải là 1 công việc dễ dàng khi phải di chuyển 1 đoạn dài. Và cố duy trì tư thế hành quân tốt trong trường hợp như thế là là rất khó khăn. Lính tráng cứ xoay vần xung quanh; những người khiêng cáng trở nên mỏi mệt và cần thay thế. Tôi tập trung vào việc di chuyển thương vong nhanh nhất và bảo đảm việc lui quân trở lại X-Ray theo 1 đội hình được tổ chức tốt.?
    Trên mỏm đất việc chuẩn bị quay về đang diễn ra. Trung sĩ Larry Gilreath: ?oSau khi thu dọn khu vực, chắc chắn rằng tất cả mọi người đã được thống kê và tất cả các vũ khí đã được lấy lại. tôi khỏi trung sĩ Savage liệu tôi có thể cáng Palmer được không. Anh đồng ý.?
    Trung úy Deal nói, ?oTôi nhớ ai đó nói ?~Giờ chúng ta đã có tất cả họ rồi?T. tôi quay lại. Ngay lúc đó 1 những người cáng Herrick để chiếc cáng xuống, tôi nhìn xuống thấy mặt của Herrick trên nền bụi đỏ. Đầu của anh treo bên rìa của cái cáng. Tôi không hiểu tại sao những hình ảnh kiểu này cứ đọng mãi suốt 1 thời gian dài, bất chấp sự kiện đã lùi xa vào dĩ vãng. Dường nhưng không được tự nhiên cho lắm khi người bạn tôi nằm sấp bụng và gương mặt úp lên bụi đất đỏ. Tôi nhớ lại mình đã nhìn cậu ấy lúc Trung tá Moore cho phép 1 số ít binh lính được rời khỏi tàu khi nó đang thả neo ở Long Beach, California, trên đường đi VN. Trung úy Herrick là 1 trong số rất ít người có gia đình sống ở đó và được cho phép về thăm cha mẹ anh. Khi tôi nhìn anh ấy tôi nhớ là mình đã vui vì anh ấy có thể gặp gia đình lần cuối. Tôi đã tới nấm mộ của Henry Herrick nhiều lần ở Arlington. Nó ngay gần Mộ những người khuyết danh trên 1 sườn đồi rất đẹp. 1 cây lớn mọc ở phía trên và nó rủ bóng lên tấm bia đá. Phía bên kia của Mộ những người khuyết danh là nấm mồ của đại úy Tom Metsker.?
    Trung tá Tully nhìn xung quanh 1 lần cuối rồi ra lệnh rút về X-Ray. Với binh nhất Galen Bungum, sự thử thách cuối cùng cũng kết thúc, anh có 1 trong những ấn tượng mà không dễ gì xoá bỏ trong khi khập khiễng bước về X-Ray: ?oTôi nhớ mình loạng choạng rồi vấp té xuống đất, mặt tôi úp xuống, khi ngoái lên tôi đối mặt với 1 gương mặt của 1 lính địch chết, với đôi mắt mở trừng trừng. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh đó.?
    Ngay trước 4g, Matt Dillon nhận được 1 cuộc điện đài từ sĩ quan hành quân của Tully báo rằng đoàn quân giải toả còn cách X-Ray khoảng 15 phút. Dillon nói với trung úy Tifft gọi trực thăng tới. Rồi máy bay của Tifft tới gần chu vi. Đó là 1 khoảnh khắc ngọt ngào. Hạnh phúc, an ủi, và hài lòng khi đưa được trung đội trở về, tôi bước tới Tully, cảm ơn anh và những người của anh. Tôi bắt tay với Ernie Savage và nói với anh rằng anh và những người lính của mình đã thực hiện 1 công việc vĩ đại trong 1 tình huống tồi tệ nhất. Tiếp đó là cảnh tượng lạnh lẽo và tàn nhẫn của những người bị chết và bị thương lướt qua. Những người chết nằm trên những chiếc cáng poncho, 2 hay 3 người bị thương tự đi được, số còn lại được đồng đội sốc 2 bên nách. Một vài người dù không bị 1 vết xước nhưng quá kiệt sức nên cũng yêu cầu được giúp đỡ.
    Đại uý Carrara, trung sĩ Keeton, trung sĩ Keith nhanh chóng làm việc với những người bị thương. Những người chết được nhẹ nhàng đặt xuống bên rìa của bãi trống, những đôi chân mang giày của họ xiên xẹo, không nhúc nhích, đem lại 1 nỗi buồn sâu nặng. Mắt tôi lướt qua trung sĩ Palmer, và giống như Larry Gilreath, tôi bị ấn tượng bởi nét hiền hoà của anh, gương mặt anh như mỉm cười.
    Trung sĩ Gilreath tham gia bó xác những người chết bằng những tấm poncho rồi bước lại gần thượng sĩ Plumley: ?oTôi nhặt được khẩu .45 ở trên đường và quên bénh đi cho tới khi tôi tới CP. Plumley hỏi tôi có biết rằng khẩu súng đầy đạn và kim hỏa đã kéo ra sau rồi không. Chúng tôi quyết định ngồi xuống và khoá an toàn nó lại.?
    Những chiếc trực thăng bắt đầu tới, trung úy Dick Merchant giờ có nhiệm vụ ở LZ: ?oTôi vẫn còn nhớ việc đưa trung sĩ Palmer và trung sĩ Hurdle lên máy báy. Tôi tranh thủ chạy ra để gặp John Herren và đại đội Bravo. Anh mô tả sự chiến đấu tuyệt vời của trung đội 2. Câu đầu tiên của anh ấy là: ?~Dick, suýt chút nữa là chúng tôi mất trung đội của cậu?T Anh ấy kiệt sức nhưng vẫn còn quyết tâm, khi nghĩ về John Herren tôi vẫn thường coi anh là người chỉ huy đích thực của mình.?
    Khi Savage, Bungum và những người khác bước vào sở chỉ huy, Joe Galloway nói chuyện ngắn với họ: ?oHọ giống như là những người trở về từ cõi chết. Người gợm chúng tôi đã bẩn thỉu, họ thì còn vượt xa sự bẩn thịu. Những bộ quân phục nhàu nát của họ bị xé tả tơi; đôi mắt thì thâm quầng trông như 2 hốc máu bầm tím trên nền của gương mặt là lớp bụi đỏ. Tôi hỏi từng người tên tuổi và quê quán, rồi ghi chép cẩn thận vào cuốn sổ tay, cũng với những gì họ đã trải qua. Những người viết tựa bài đã ghi lại: ?~The Lost Platoon?T giống như tôi gừi về để đăng tin.?
    Bằng cách nào đó, Galen Bungum, Joe F. Mackey, và trung sĩ Wayne M. Anderson, những người không bị thương, đã được đưa lên trực thăng và đưa về căn cứ tại An Khe. 4 người không bị thương còn lại của trung đội 2 được điều lại vào chiến đấu trong chu vi X-Ray. Savage: ?oChúng tôi trở lại hàng quân nơi suối cạn không xa gò mối bao nhiêu. Binh nhất Russell P. Hicks lại xách 1 khẩu súng máy khác. Có rất nhiều tiếng súng trong buổi chiều hôm đó, nhưng không có cuộc tấn công nào cả, việc phải đối phó chính là hạ những tên bắn tỉa.?
    Khoảng nửa tiếng sau khi lực lượng của Tully quay về X-Ray, Chuẩn tướng Richard Knowles điện đài hỏi ông có thể đáp xuống được không. Ông nói: ?oChúng tôi hạ cánh nhanh, tôi nhảy ra thì trực thăng bay lên. Tinh thần binh lính rất cao, tiểu đoàn 1 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tôi đưa cho Hal 1 điếu Cì gà, và anh báo cáo ngắn gọn tình hình chiến trận cho tôi. Trung tá John Stoner, sĩ quan liên lạc Không Quân của chúng tôi, đi theo tôi. Tôi đưa Stoner tới nhằm điều yểm trợ không quân tới gần hơn. Khi Hal kết thúc báo cáo, 1 quả bom rơi sát sở chỉ huy. Mặt đất rung ring, 1 mảnh bom bay vào khu CP, chỉ cách 3-3,5 mét chỗ chúng tôi đứng. John Stoner bước tới, nhặt mảnh bom đang bốc khói đó lên, quay lại và đưa nó cho tôi: ?~Tướng quân, thế này đã đủ gần chưa??T?
    Trước khi đi, Tướng Knowles nói với chúng tôi rằng ông sẽ chỉ đạo Tim Brown rút tiểu đoàn của tôi và các đơn vị phối thuộc ra khỏi X-Ray vào ngày hôm sau rồi cho chúng tôi 2 ngày nghỉ ngơi tại Trại Holloway. Nhưng lúc này chúng tôi phải đối mặt với 1 đêm dự đoán sẽ dài và khó khăn nữa nhằm bảo vệ chu vi này.
    Tôi và Dillon đã tìm ra 1 phương án để bố trí tiểu đoàn của Tully vào trong hàng quân. Chúng tôi xiết chặt hàng quân và đặt người của Tully vào phần đông và bắc của chu vi, nhìn chung là quay lưng lại núi và nhìn hướng vào thung lũng. Tôi vẫn giữ tiểu đoàn của mình cộng với 2 đại đội phối thuộc từ tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 ở nơi họ chiếm đóng, bảo vệ những phần được thu gọn hơn trong hàng quân, nhưng vẫn kiểm soát những khu vực đã diễn ra các trận đánh trước đó. Tới lúc này binh lính đã nắm được địa hình nơi đó, nên không phải là lúc để chuyển quân giữa các đơn vị của người Mỹ chúng tôi.
    Tully thiết lập sở chỉ huy của anh trong 1 lùm cây nhỏ cách chúng tôi khoảng 35 mét. Đạn dược, nước và khẩu phần ăn được phân phối lại, với sự chú trọng việc đưa đạn dược xuống càng nhiều càng tốt cho từng người lính, từng tổ súng máy, và từng khẩu đội cối.
    4 đại đội của tiểu đoàn 1, kỵ binh 7 bây giờ giảm xuống chỉ còn 260 người. Đại đội Charlie ban sáng mất đi 40 bị chết?"2 trung úy, 16 trung sĩ và 24 lính. Họ cũng phải chịu 20 người bị thương--đại úy đại đội trưởng, 2 trung uý nữa, 2 trung sĩ và 15 lính. Charlie giờ không còn là 1 đại đội còn khả năng chiến đấu hiệu quả nữa. Nhưng chúng tôi có 1 tiểu đoàn mới cộng với 2 đại đội bộ binh từ tiểu đoàn 2, kỵ binh 7. Chỉ có 1 vài sự quấy nhiễu không đáng kể suốt buổi chiều, các đại đội đã có dư thời gian để bố trí đội hình chờ đêm xuống.
    hết chương 14
    Do có công việc đột xuất phải đi xa trong 1 thời gian dài, nên phải tạm ngừng, truyện đã được quá nửa, hẹn xong việc sẽ tiếp tục post lên. Phần Albany khi đọc có lẽ sẽ thất nhẹ nhõm hơn nhiều so với X-Ray.
    Bye.

  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Hơi đau cái là quân ta trong trận này toàn quân tinh nhuệ cả. Trong đợt đầu vào nam giai đoạn 1964-1965 quân ta được huấn luyện kỹ về tác chiến cũng như thể lực, được tuyển chọn tốt, tỷ lệ đ.ảng viên cao. Thế nên ko lạ gì quân Mỹ phải phục về tinh thần chiến đấu cao độ. Giai đoạn 1968-1969 tệ hơn nhiều, hôm trước tớ ra nhà sách coi đc 1 cuốn, tựa đề là Sự thảm bại cũa VC giai đoạn 1968-1972, thấy chúng nó túm đc nhiều hàng binh ra phết, có ảnh chụp nguyên 1 trung đội năm mươi mấy ông kéo nhau ra hàng.

Chia sẻ trang này