1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Đơn giản thôi vì thời kỳ này quân ta bị hao hụt nhiều cho nên nhu cầu bổ sung quân số là rất lớn nhiều khi mới nhập ngũ là lên đường liền vừa hành quân vừa huấn luyện cho nên chất lượng và tinh thần không bằng thời kỳ đầu,đó là em nghe ông gìa nhà em nói vậy,Ông già em là lính đòan 559,hồi năm 62-63 học lái xe trên quân khu Tây bắc thì chính quy lắm sau này lính lái xe trường sơn chết nhiều,lái xe mới bổ sung được đào tạo cấp tốc nhiều người chỉ biết lái xe mà không biết sủa(Ông già em đi B từ năm 68 tới năm 75)
  2. nakata04

    nakata04 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    2.982
    Đã được thích:
    0
    ngày nào em cũng vào đây xem mà mãi ko thấy bác duong post tiếp bài lên
  3. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    He he, minh dang o Tau Khua, khong post duoc, sap ve roi, hen vai ngay nua nhe
    Duong2002
  4. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    15./ Những Chiến Binh Đêm
    There is many a boy here today who looks on war as all glory, but, boy, it is all hell.
    -William Tecumseh Sherman
    Đại úy Myron F. Diduryk, chỉ huy đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7, có linh cảm mạnh mẽ rằng anh và người của mình, những người đang giữ những vị trí cũ của đại đội Charlie, sẽ bị tấn công bởi số đông quân địch trong đêm nay. Anh chẳng mất thời gian thuyết phục binh lính rằng quân địch đang tới và họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho trận đánh một cách tốt nhất theo khả năng. Với Myron Diduryk và trung uý Rick Rescorla, đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 có 2 sĩ quan sinh trưởng ngoài nước Mỹ, những người được tổ tiên và dòng họ truyền cho cái tinh thần lê dương. Và định mệnh đã lựa chọn họ, Diduryk gốc Ucraina và Rescorla gốc Anh, trong vòng 70 tiếng sắp tới, trở thành những huyền thoại chiến đấu ở Trung đoàn Kỵ Binh 7 vì những hành động và sự chỉ huy của họ dưới lửa đạn.
    Cả buổi chiều làm công việc chuẩn bị chiến đấu ở trung đội, Rick Rescorla đi lại vị trí chỉ huy của Diduryk-hố cáo cũ của Bob Edwards- ngay lúc chạng vạng tối. Diduryk hỏi: ?oLính của cậu sẵn sàng chưa? Cậu có tin là họ có thể giữ được không??
    Rescorla trả lời: ?oChúng tôi chưa bao giờ sẵn sàng như lúc này. Nhưng nếu chúng chọc qua được chúng tôi, ông sẽ là người đầu tiên biết đấy. Cái CP này chỉ cách sau chúng tôi có 45 mét thôi.? Tay Cossack (Cô-dắc) Khùng chẳng còn vui vẻ với cái cách giễu cợt thường thấy ở Rescorla. ?oMẹ kiếp, Hard Corps, đừng đùa nữa? Diduryk búng tay, ?oLuôn ở trong tình trạng báo động. Chúng tôi dựa hết vào các cậu đấy.?
    Diduryk, lúc đó 27 tuổi, đã nắm đại đội này từ tháng 5. Anh hăng hái và tháo vát, cực kỳ chuyên nghiệp; 3 ngày và đêm kế tiếp anh đã tạo hình ảnh 1 người chỉ huy đại đội chiến đấu tốt nhất mà tôi từng biết, không có ai có thể sánh bằng. Anh hành động trên nguyên tắc cơ bản nhất: gây thiệt hại tối đa cho quân địch với tổn thất thấp nhất.
    Lính của Diduryk có khoảng 3 tới 4 giờ yên lặng vào ban ngày để chuẩn bị cho những gì sắp tới, và họ đã gần như làm xong mọi thứ. Đại đội của anh được tăng cường trung đội 3, đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7, giờ giữ 130 mét thuộc chu vi phòng thủ giống như những người thuộc của Edwards đã từng giữ. Trung úy William Sissin cùng với trung đội của mình nằm ở bên trái; binh nhất John C. Martin, 25 tuổi, người Wichita, Kansas, ở trong số họ.
    Martin nói: ?oChúng tôi thiết lập phòng tuyến, đào những hố chiến đấu chứa được 2 người. Tôi nhớ trung sĩ trung đội Charles L. Eschbach tới từng vị trí nói: ?~Đào sâu hơn và đắp bờ đất lớn vào cao hơn nữa. Làm thông thoáng tầm bắn. Tập trung tối đa!?T Chúng tôi bề ngoài thì chẳng sợ hãi gì, nhưng tất cả đều giấu sự lo lắng trong sâu thẳm tâm trí. Chúng tôi chăm chú làm theo mệnh lệnh, củng cố vị trí cho dù đất ở đó rất cứng. Giống như là chúng tôi đào lỗ trên bề mặt xi măng vậy. Tôi nhớ, tôi sẽ luôn luôn nhớ, trung sĩ nhất Frank Miller đứng đó, không đội mũ, cái đầu hói cháy trong nắng, đang hút 1 điếu cì gà.?
    Myron Diduryk cùng lính của mình chưa được kinh qua chiến đấu thực sự, nhưng họ sẽ sớm được thử thách. Trong suốt thời gian yên lặng, Diduryk đã kiểm tra chắc chắn tầm bắn và tầm quan sát được dọn quang trong vòng hơn 200 mét; những hố chiến đấu đã được chuẩn bị thật tốt, những khẩu súng máy được đặt vào những vị trí có thể đảm bảo bên sườn, kết hợp các tầm bắn của các bộ phận khác; những thiết bị phát hiện xâm nhập và lựu đạn sáng đã được lắp đặt ở khoảng cách 300 mét phía trước; mỗi lính chiến đấu đều có đủ đạn dược và các điểm cung cấp đạn được chỉ định rõ; tất cả các điện đài được kiểm tra và song kiểm. Tiếp đó Diduryk bàn bạc kỹ càng với những quan trắc pháo binh nhằm đo đạc và định vị rõ từng vị trí cần yểm trợ. Sĩ quan quan trắc pháo binh, trung uý William Lund có tới 4 khẩu đội 105mm, với 24 khẩu pháo, đã lấy phần tử bắn và chờ đợi sẵn sàng.
    Bill Lund, 23 tuổi, người Edina, Minnesota, là 1 người tốt nghiệp ROTC từ trường đại học Minnesota. Anh ấy đã trải qua đêm đầu tiên tại LZ X-Ray để biết được cái thế giới thất sự của việc cận yểm trợ hỏa lực. Những năm đó những bài giảng từ trường pháo binh đưa ra khoảng cách 360 mét là tối thiểu để tránh cho quân bộ binh khỏi bị nguy hiểm. Lund khám phá ra ở X-Ray rằng để sống sót thì phải đưa những viên đạn pháo vào gần tới 35 đến 45 mét. Lund nói: ?oMyron Diduryk và tôi ở bên cạnh nhau suốt thời gian, vì vậy tôi có cái nhìn của lính bộ binh về những gì đang diễn ra.?
    Rick Rescorla, chỉ huy trung đội 1, mới chỉ tốt nghiệp OSC tại trường lục quân ở Fort Benning có 6 tháng. Nhưng trong hành trang của anh có những kiến thức huấn luyện tuyệt vời. Anh từng phục vụ trong quân đội Anh ở Cyprus và trong lực lượng Cảnh sát thuộc địa tại Rhodesia, anh ấy biết đời lính là như thế nào. Những gì anh đã làm trong các công việc chuẩn bị chiến đấu cho binh lính nói lên tính chuyên nghiệp mà anh theo đuổi.
    ?oTôi gặp trung uý Bill Sesson, A/2/7, người sẽ ở phía sườn trái của tôi. Sisson, 1 người bạn thân cùng khoá OSC tháng tư năm 1965, nhìn xung quanh những xác chết quân NVA và khịt khịt cái mũi. Chúng bắt đầu bốc mùi lên rồi. ?oCậu có mong trở lại tàu ngầm không đấy??T Tôi hỏi. Sisson đeo huy hiệu 2 con cá heo trên ngực nhận được khi phục vụ trong lực lượng dự bị Hải quân ở Rhode Island. Cùng bị thuyết phục rằng quân NVA sẽ trở lại vào ban đêm, chúng tôi cố thắt chặt mối liên hệ giữa các vị trí của nhau, chúng liền với nhau như những cái đít vịt vậy. Không có bất cứ mối liên kết nào bị bỏ quên.?
    Rescorla bước trên địa hình của vùng đất và cố đặt mình vào vị trí của quân địch nhằm có cái nhìn của những kẻ sắp tấn công. Những bụi cây, bãi cỏ voi, gò mối và những bờ đất kéo dài phía trước. Mặt đất không bẳng phẳng như là mới nhìn qua, mà có những rãnh lồi lõm kéo dài xuống phía nam, với dốc nghiêng nhẹ hướng về vị trí của anh. Những hố nông choẹt mà đại đội Charlie, tiểu đoàn 1 đã đào trong màn đêm dưới sức ép của quân địch, Rescorla lùi quân của mình lại phía sau khoảng 45 mét không chỉ nhằm thu hẹp khu vực chiếm giữ mà còn có tác dụng khiến quân thù phải ra ngoài những hàng cây và phải vượt qua 1 khoảng 36 mét trong 1 khu vực hoàn toàn trống trải để tiến những hố chiến đấu của đại đội Bravo.
    Rescorla nhớ lại: ?oVì hàng quân thu hẹp, tôi giảm số hố chiến đấu. Hố được mở rộng để chứa được 3 người. Những khẩu M-60 được bố trí trên những hướng cơ bản, từ đó chúng có thể đổi hướng bắn, liên hợp với những hỏa lực khác cũng như những khẩu súng máy ở hai bên sườn chúng tôi. Hố chiến đấu và những bờ đất bảo vệ được chăm chút từng chi tiết. Tôi thử chui vào vài hố, có một số sâu đến nỗi người ở dưới thậm chí không nhìn thấy bờ đất bao quanh. Trong những trường hợp này lại phải cho những thứ gì đó làm những bậc thang. Hai giờ trước khi trời tối Trung sĩ Eschbach, A/2/7 và trung sĩ Thompson tổ chức lặp đặt những bẫy mìn. Cẩn thận họ gài những trái lựu đạn, và nhựng viên pháo sáng trên những đường tiếp cận chính vào khu vực. mìn Claymore được chôn rải rác nhưng hiệu quả không cao. Chỉ là 1 hành động lên dây cót nhưng tôi cảm thấy chúng tôi sẵn sàng đập nhau với những tên lính Bắc Việt tinh nhuệ nhất.?
    Tiếp đó, sau khi nói chuyện với đại úy Diduryk về không quân yểm trợ, pháo binh, và súng cối. Rescorla làm 1 chuyến bộ hành cuối cùng trên hàng quân, tới thăm trung đội 2 bên cạnh. Anh nói: ?oJames Lamothe Sứt Răng nằm trong nhóm quân ở bên sườn phải của tôi. Anh là người to mồm nhất ở đại đội, nhưng là 1 người làm việc cật lực và có tinh thần cao. Tôi hỏi: ?~Này khi đánh nhau bắt đầu các cậu tính dính vào đâu vậy? Nếu các cậu định chuồn ra, nhớ cho tôi biết nhá?T Lần này thì họ hiểu cái kiểu đùa của tôi. ?~Thưa ngài, chúng tôi sẽ ở đây tới sáng. chỉ cần bảo đảm rằng Hard Corps [trung đội của Rescorla] không bị chọc thủng và bỏ chạy là được rồi.?T Đám lính truyền tai nhau cái câu chuyện đùa này.
    ?oTrung sĩ Eschbach, 1 người mỏng cơm, cộc cằn, 43 tuổi, NCO từ Detroit, bước tới từ trung đội của trung úy Sisson và nhập bọn. ?~Tôi đang bán vé chuyến bay cuối cùng về Pleiku đây,?T tôi nói với anh. ?~Thối thật, tôi sẽ không bỏ lỡ chuyến này đâu, thưa sếp?T Eschbach nói rồi nhìn xuống con dao Randall trên thắt lưng tôi rồi tiếp: ?~Nhưng nếu tôi quyết định chuồn, tôi sẽ tới và lấy con dao này của ngài đấy.?T Mấy cái kiểu tinh thần này của lính tráng chính là những gì tôi đang tìm kiếm. Trước khi đi tôi khuyên họ 1 vài điều: ?~Chúng sẽ tới vừa nhanh vừa chậm, không có mục tiêu ngon ăn đâu. Bắn ở tầm thấp ngang với người đang bò. Phải tạo 1 bức tường thép trước mặt chúng. Đó là điều duy nhất có thể chặn chúng tiến vào vị trí của chúng ta.?
    Binh nhất Richard Karjer, người Los Angeles, mới 19 là 1 trong những người trẻ nhất trên chiến trường, hỏi Rescorla: ?oĐiều gì sẽ tới nếu chúng chọc thủng chúng ta?? Rescorla trả lời: ?oNếu chúng chọc thủng và tràn ngập chúng ta, hãy ném lựu đạn xung quanh hố của cậu. Hãy xếp lựu đạn xung quanh hào đất và cúi đầu thấp hơn mặt đất. Nằm ngửa trong hố, xả đạn vào mặt chúng. Nếu chúng ta làm tốt công việc của mình thì chúng chẳng tới được gần như thế đâu.? Những người lính quay trở lại những hố của họ, và Rescorla di chuyển về vị trí chỉ huy của mình, 1 gò mối nhỏ đã được trung uý Jack Geoghegan sử dụng vào đêm trước. Xác của Geoghegan đã tìm thấy ở đó. Nó chỉ cách có 20 mét phía sau những hố cáo sâu của phòng tuyến mới.
    Quay lại sở chỉ huy tiểu đoàn tôi cũng kiểm tra lại tình hình lần cuối cùng. Chúng tôi đang trong đội hình được bố trí tuyệt hảo và tinh thần thì rất cao. Chu vi phòng thủ được gia cố; chúng tôi dự trữ nhiều đạn dược và thiết bị y tế, tất cả thương vong đã được di tản; không quân và pháo binh đã chắc chắn về vị trí của chúng tôi. Bắn không ngưng nghỉ, hỏa lực H và I [quấy rối và ngăn chặn] bắt đầu từ lúc chạng vạng kéo dài tới sáng. Điều lệnh chiến đấu yêu cầu hạn chế tối đa việc nổ súng và phát ánh sáng. Không được bắn đạn cối trừ khi có sự chấp thuận của tôi, đặc biệt là những viên đạn phát sáng. Tôi muốn những khẩu súng cối tiết kiệm những viên đạn phát sáng của họ phòng trường hợp không quân và pháo binh xài hết số pháo sáng mà họ có.
    Vào lúc 7g30, trời tối như mực. Chúng tôi mong đợi trăng ló dạng, trời quá tối. Nhưng trong suốt 4 tiếng đồng hồ đầu tiên của buổi tối, ngoại trừ những viên đạn thăm dò đâu đó trên phòng tuyến, quân Bắc Việt không có 1 hành động nào với chúng tôi. Trước nửa đêm tôi có 1 tin nhắn từ sở chỉ huy lữ đoàn: Tiểu đoàn của tôi sẽ được rút ra khỏi X-Ray vào ngày hôm sau và được gửi về Trại Holloway. Mệnh lệnh được truyền tới Dillon thông qua sóng hành quân.
    Trăng sáng và gần như đầy đặn cuối cùng cũng xuất hiện vào lúc 11g20. Khoảng nửa đêm trung tá Edwards C. (Shy) Meyer, sĩ quan hành quân của Lữ đoàn 3, chuyển tới tôi 1 tin tức gây ngạc nhiên: Bộ chỉ huy của tướng William Westmoreland muốn tôi ?orời X-Ray vào sáng sớm hôm sau tới Sài Gòn để báo cáo cho ông và ban tham mưu của ông về trận đánh.? Tôi không thể tin được rằng mình được lệnh rút ra trước khi trận đánh kết thúc! Tôi rất bối rối khi sở chỉ huy sư đoàn đã không phản đối cái mệnh lệnh không thích hợp này trước khi nó tới được tôi. Chỗ của tôi hiển nhiên là ngay bên cạnh lính của mình.
    Ngay lúc tin đó truyền đến, tiếng súng tự động của quân Bắc Việt nổ trước khu vực của trung đội Rescorla, và những chớp sáng xanh lè từ những loạt đạn bâu lấy vị trí của anh ở độ cao 4,5 mét. Rescorla và điện đài viên bò tới trước, lăn xuống 1 hố của binh nhất Curtis Gordon, từ Detroit. Rescorla, nhận địch những khẩu súng của quân địch cách ít nhất là 450 mét, anh nghi ngờ quân địch đang thăm dò phòng tuyến nên ra lệnh không được nổ súng cho quân mình.
    Tiếp đó vào lúc 1g sáng, 1 cuộc tấn công thăm dò gồm 5 lính NVA vào vị trí trung tâm của đại đội Bravo, tiều đoàn 1, của Herren. Hàng quân của Herren chỉ cách sở chỉ huy tiểu đoàn có 40 mét về phía tây. Một vài viên đạn réo trên đầu chúng tôi. Hai trong số 5 tên địch bị giết, số còn lại lủi vào trong bóng tối của rừng rậm. Đợt tấn công thăm dò này cùng với những tiếng súng trên vị trí của Rescorla là những điềm xấu tương tự như đêm hôm trước và chứng tỏ rõ ràng rằng quân Bắc Việt vẫn chưa từ bỏ X-Ray.
    Bị dịnh chặt vào những tình huống này, tôi không có thời gian để trả lời cái lệnh phải tới Sài Gòn. Cuối cùng vào khoảng 1g30, tôi gặp Shy Meyer trên điện đài và báo cáo rằng không chắc tôi có thể tuân theo được mệnh lệnh dựa trên tình hình thực tế. Tôi nói rõ ràng rằng trận đánh vẫn chưa kết thúc và vị trí của tôi là ở bên cạnh lính của mình- rằng tôi là người đầu tiên của tiểu đoàn đặt chân lên mảnh đất chết chóc kinh hoàng này và tôi cương quyết tính rằng mình sẽ là người cuối cùng rời khỏi đây. Chuyện chấm dứt ở đây. Tôi không còn nghe gì thêm về mệnh lệnh này nữa.
    Ngoài hàng quân mọi thứ vẫn bình lặng nhưng sự căng thẳng gia tăng. Diduryk nói: ?oTrong những giờ sau nửa đêm tôi nhận được những báo cáo từ những chỉ huy trung đội về những âm thanh lạ phía trước hàng quân. Thêm nữa có 1 âm thanh cao nghe thấy giữa hai loạt pháo H-I. Những cái còi sau này được tìm thấy trong những xác chết của quân địch đã trả lời cho câu hỏi. Quân địch rõ ràng đã sử dụng những cái còi với những lần thổi dài ngắn khác nhau để tổ chức đội hình và di chuyển binh lính khi họ chuẩn bị cho cuộc tấn công.?
    Rick Rescorla nói trong giai đoạn im lặng đáng sợ đó anh cố tạo sự chuyện trò giữa các hố, nhằm giảm sự căng thẳng. Khi tất cả nỗ lực thất bại, Rescorla chậm rãi và bình tĩnh hát bài ?oWild Colonial Boy? và 1 ca khúc ưa thích của người Cornish [vùng Cornwall, trung nước Anh], ?oGoing Up Camborne Hill?, anh được hưởng ứng lại bằng những tiếng hô ?oHard Corps!? và ?oGarry Owen!?, nó nói lên lính của anh đang vững vàng.
    Ngay trước 4g sáng Diduryk thấy và nghe những dấu hiệu rõ ràng rằng quân địch đang di chuyển về phía hàng quân của mình. ?oVào khoảng 0400 những thiết bị cảnh báo-pháo sáng và thiết bị phát hiện di chuyển- chỉ rõ những chuyển động ngay phía trước của trung đội 3, A/2/7 và trung đội 1 và 3 của tôi. Một vài thiết bị ở cách xa khoảng 270 mét. Nó cho thấy dường như quân địch đang dàn rộng ra theo 1 hàng quân có thể để tấn công. Nó cũng cho thấy quân địch đang tiến hành 1 cuộc tấn công vào ban đêm mà không có hoả lực yểm trợ, kể từ lúc những trái Rocket 40mm không còn được sử dụng.
    Cho dù những bẫy lựu đạn và pháo sáng đã nổ nhưng vẫn chưa thể thấy được 1 tên địch nào. Điều này nhanh chóng thay đổi. Vào lúc 4g22 trung úy Sisson điện cho Diduryk: ?oTôi thấy chúng đang tới. Tôi có thể bắn chúng được chưa?? (Các trung đội được lệnh giới hạn nổ súng nhằm tiết kiệm đạn). Trung úy Lund nhớ lại Diduryk hỏi: ?oChúng gần tới mức nào?? Khi Sisson trả lời, ?oTôi gần như chạm được vào chúng đấy!? Phản ứng ngay tức thời của Myron là ?oBắn! Giết chúng đi?
    Theo trung tá Hoàng Phương, tiểu đoàn 7, trung đoàn 66 quay trở lại với lực lượng tăng viện đang dò dẫm trên vùng phía nam và đông nam của LZ X-Ray. Tiểu đoàn H-15 ********* phụ giúp cuộc tấn công cũng như mang vác đạn dược và tải thương binh.
  5. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Trong cuốn nhật ký của mình Diduryk viết: ?oCác trung đội ở trung tâm và bên trái bị tấn công dữ dội bởi 1 tiểu đoàn địch. Có thể thấy những tên khốn này tràn tới như những đợt sóng, những đợt sóng của biển người. Chúng tôi chào đón chúng bằng 1 bức tường sắt thép. Tôi gọi pháo sáng. Trung úy Lund gọi yểm trợ trực tiếp từ 4 khẩu đội 105mm. Những khẩu pháo này nã đạn liên tục với những viên đạn nổ khi chạm đất và những viên đạn phát nổ trên không. những cành cây và cây lớn ngay phía trước giúp cho cả hai loại đạn này hoạt động tốt. Chúng tôi cũng cho bắn một số đạn photpho trắng.
    Với Bill Lund, đây là giấc mơ hoang đường nhất của 1 quan trắc pháo binh biến thành sự thật. ?oQuân địch trong vùng trống? Anh điện lại cho những pháo thủ. Hàng đàn quân địch đang tràn tới phòng tuyến của Diduryk, chúng bị nhìn thấy rõ ràng trong ánh sáng quái đản của những trái pháo sáng bắn từ những khẩu lựu pháo, đang bay lơ lửng trên không.
    Diduryk và Lund cùng ở trong hố chỉ huy, Diduryk đang kiểm soát tình 1 cách chắc chắn. Diduryk viết: ?oPháo binh không bắn liên tục vào cùng 1 mục tiêu. Trung uý Lund chỉ dẫn mỗi khẩu đội bắn vào 1 mục tiêu tập trung khác nhau và mỗi khi chuyển làn luôn ở khoảng cách 90 mét. Điều tra trận đánh sau này cho thấy kiểu bắn này đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân địch.?
    Đợt tấn công trên thực địa đầu tiên của quân địch diễn ra trên phần của trung úy Sisson sau đó lan sang trung đội của Rescorla. Anh nhớ lại: ?oNhững khẩu M-16 bị hóc, người thứ ba trong hố phải cúi xuống dưới đáy hố dùng những miếng vải để lau sạch khẩu súng. Những vỏ đạn đồng nóng hổi tuôn xuống cổ những người lau súng kém may mắn. Quân NVA tiến công tới theo kiểu chạy ngắn, sụp xuống, bắn, rồi lại tiến gần hơn. Những tiếng còi. Những ám hiệu chói tai đầy dữ tợn của những hạ sĩ quan Bắc Việt xua quân của họ tiến tới. Một viên RPG xe gió bay qua. Những khẩu súng của trung đội Geoghegan bỏ lại giúp chúng tôi không bị ngắt quoãng khi bắn khi những khẩu súng của chúng tôi bị hóc.?
    Cuộc tấn công đầu tiên, có ít nhất 300 quân Bắc Việt, bị đánh tan tác trong vòng chưa tới 10 phút bằng những khẩu súng tiểu liên, súng máy, và pháo binh từ đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, rất cảnh giác và luôn sẵn sàng. Vào lúc 4g31, 20 phút sau, chúng quay lại. Diduryk: ?oMức độ tấn công của chúng gia tăng và tôi bị tấn công vào khu vực của 3 trung đội phía bên trái.?
    Những tiếng la hét, tiếng hô hoán, và những tiếng còi xé toạc màn đêm khi quân Bắc Việt trên núi tràn xuống, thẳng tới vùng chết chóc đầy khói và bụi. Lúc này tất cả các khẩu cối của tiểu đoàn tôi và của Tully đều nhả đạn, góp thêm những tiếng nổ đinh tai vào sự náo động tổng thể. Tay súng John Martin, lính trong hàng quân của Diduryk nói: ?oChúng tôi liên tục xả đạn các loại vào chúng cùng với pháo binh, và chúng bị đánh cho tan nát, rồi rút chạy. Tôi không nghĩ chúng tôi có thương vong nào nhưng quân địch thì như nằm trong hỏa ngục vậy.?
    Lúc này những chiếc C123 ?~Smoky the Bear?T của Không quân đang bay vòng vòng trên đầu, phi hành đoàn đang liên tục thả những trái pháo sáng ra bên ngoài. Chúng tôi ngăn đạn phát sáng của pháo binh lại nhằm dự trữ cho những thời điểm sau nếu cần thiết. Myron Diduryk viết: ?oĐạn pháo sáng chứng tỏ giá trị quan trọng của nó. Nó cho phép chúng tôi khả năng nhìn thấy và nổ cả súng hạng nhẹ vào vị trí của quân địch. Tôi có thể nhìn thấy đội hình của quân địch khi chúng tấn công vào khu vực của tôi. Quan trắc pháo binh của tôi có thể thấy mục tiêu và gọi pháo binh bắn trúng vào đám quân địch. Quân địch phải đợi cho tới lúc những ngọn pháo sáng cháy hết thì mới dám di chuyển về vị trí của chúng tôi. Trong lúc những trái pháo sáng rọi rõ trên khu chiến, quân địch phải tìm nơi ẩn nấp trong những đám cỏ, phía sau các thân cây và gò mối, hoặc bò tới trước. Những loạt đạn bắn tầm thấp ngăn ngừa những tên địch thâm nhập, nhưng một vài tên đã xoay xở để lọt tới gần các hố chỉ cách có 5-10 mét. Chúng bị quét sạch bởi súng tiểu liên và lựu đạn.?
    Trong số những đám pháo sáng này có 1 trái bốc cháy rớt nhanh xuống vì chiếc dù của nó không mở, nó rơi vào 1 bãi chứa đạn dược ngay gần sở chỉ huy tiểu đoàn. Nó đậu ngay trên 1 thùng lựu đạn và cháy dữ dội. Không 1 chút ngần ngại, thượng sĩ Plumley chạy tới đó, hai bàn tay không với lên những thùng lựu đạn và nắm lấy quả pháo đang cháy sáng. Plumley luồn tay xuống được phần đuôi pháo, quay lại và ném nó vào vùng trống bên ngoài. Sau đó anh dập tắt những đám cỏ cháy bởi pháo sáng bên trong và xung quanh khu chứa đạn.
    Bên ngoài phòng tuyến những người lính của Rescorla vẫn tiếp tục chiến đấu. ?oNhững khẩu súng M-79 của chúng tôi bây giờ chuyển qua bắn thẳng trực tiếp và cho viên đạn rơi xuống ở khoảng cách 65 mét cho tới 90 mét.
    Những cành cây yên lặng di chuyển gần hơn. Rồi RPG và súng máy nổ đồng loạt, chúng bắn chúng tôi từ phía mặt tối của bờ đất. Khi vượt qua khu trống đội hình của chúng không đồng đều, nhóm đầu tiên bị hạ gục khi tiến lên được vài mét. Một vài tên khác liền xông tới, chúng nằm trượt dài phía sau những đồng đội chết của mình, dùng họ làm vật cản đạn. 1 kẻ thù đáng kinh ngạc, có kỷ luật cao. Một người lính cao giọng chửi rủa và hô hào: ?oGoddammit, chặn cái bọn khốn này lại?
    Trong khoảng 30 phút kế tiếp pháo binh chiến trường, 4 khẩu đội với 24 khẩu lựu pháo 105mm bắn từ LZ Falcon cách đó chỉ 5 dặm và LZ Columbus cách chỉ 3 dặm, hoàn toàn làm chủ chiến trường. Trung úy Bill Lund chính là nhạc trường tài hoa của dàn pháo này, với những hiệu chỉnh cận yểm trợ ngoài sức tưởng tượng. Có thể trông thấy quân Bắc Việt kéo xác những người chết và bị thương của chúng rút lui. Trong đợt tấn công lần trước vào đại đội Charlie của Bob Edwards, 24 giờ trước đây, chúng đã nhanh chóng lẻn được vào bên trong của hàng rào pháo binh và xiết cổ những người của Edwards trong 1 trận đánh cận chiến tàn nhẫn. Đêm nay chúng bị chặn đứng ở ngoài 1 cách lạnh lùng.
    Vào lúc 4g40 Diduryk gọi tiếp viện đạn dược, dưới làn đạn trung đội trinh sát của tiểu đoàn tôi thực hiện chuyến đầu tiên trong hai chuyến tiếp đạn, chuyển những thùng đạn tiểu liên, đạn súng máy và những trái M-79 từ vị trí sở chỉ huy tiểu đoàn tới những hố cáo.
    Rõ ràng là chỉ huy quân địch đã cho rằng khu vực bên trái của Diduryk là do những ngưòi còn sống sót kiệt quệ của đại đội Charlie đang kiểm soát một cách yếu ớt. Khi ông ta phát hiện tình hình phát triển thuận lợi hơn, ông ta chuyển mũi tấn công chính của mình vào 2 trung đội bên phải của Diduryk. Vào lúc 5g30 đợt tấn công thứ 3 bắt đầu, lần này là vào trung đội của trung úy Lane. Trung sĩ John Setelin nhớ lại: ?oVào buổi chiều chúng tôi đã đặt những bẫy mìn báo động và phát sáng. Những thiết bị đó có kích cỡ của bao thuốc lá và có dây gài bẫy và khí nén. Khi dây đứt có một tiếng báo động nhỏ và ánh sáng phát ra báo cho biết có thứ gì đó ở bên ngoài. Chúng tôi gài rất nhiều. Lúc đó khoảng 4g sáng, tôi nhìn thấy có ánh sáng bùng lên trên 1 thiết bị và có những âm thanh nhỏ kéo dài. Tôi đoàn chừng có thứ gì đó đang tới. Lamothe ra hiệu cho tôi nằm xuống và im lặng.?
    Setelin khe khẽ ra lệnh cho tiểu đội của mình, nhất là với những người ở phía bên của anh không được bắn cho tới khi quân địch lọt vào vùng trống ngay trước mặt. ?oThình lình 1 lựu đạn sáng và 1 bẫy mìn nổ tung, chúng đứng ngay đó trong đám cỏ và bắn vào chúng tôi. Tôi trúng đạn vào phía trên khửu tay, không có gì nghiêm trọng, chỉ là 1 hay 2 vết cắt, sau trận đánh có thể băng chúng bằng 1 miếng gạc. Không ai nổ súng lại. Rồi chúng bước tới bãi trống. Những trái pháo sáng tiếp tục cháy, chúng chiếu sáng rực, mọi thứ dễ dàng được nhìn thấy. Chúng tôi khai hoả và quét sạch bọn chúng. Đó chỉ là 1 cuộc tấn công nhẹ nhàng. Rồi chúng tấn công dữ dội hơn, khoảng 30 phút sau, chúng thổi kèn, thổi còi làm ám hiệu. Chúng tôi giết sạch chúng. Một vài trái đạn pháo phosphorus dội xuống chỉ cách những cái hố chiến đấu có 5 mét, tôi mất gần hết quân trang của mình và cả chiếc áo ngoài nữa. Có tới 8 chỗ bỏng trên 1 cánh tay của tôi.? John Setelin ngồi xuống, dưới ánh sáng của những trái pháo sáng anh dùng mũi lưỡi lê để gạt những mảnh WP đang cháy ra khỏi da thịt của mình.
    Trong vòng 1 tiếng rưỡi đồng hồ cuộc tấn công vào bên phải của Diduryk bị đẩy lùi một cách tàn bạo. Trung đội trinh sát của trung úy Rackstraw thuộc tiểu đoàn 1 thực hiện chuyến tiếp đạn lần thứ 2 cho quân của Diduryk. Vào lúc 5g50, 40 phút trước khi trời sáng, Smoky, máy bay thả pháo sáng, đã xài hết số lượng pháo họ có. Không còn ánh sáng từ trên trời. Tôi liền ra lệnh cho tái sử dụng đạn phát sáng của pháo binh và bãi bỏ lệnh hạn chế dùng đạn phát sáng cho súng cối.
    Vào lúc 6g27 sáng, chỉ huy quân Bắc Việt mở 1 đợt tấn công nữa, lần này trực tiếp nhằm thẳng vào vị trí chỉ huy của Diduryk. Một lần nữa những người lính thuộc trung đội của Rescorla và Sisson nhận trách nhiệm phòng thủ chính. Binh nhất Martin: ?oKhoảng 6g30 chúng lại đánh chúng tôi với kiểu ?~được ăn cả ngã về không?T, nó giống như 1 cuộc triển lãm bắn súng vậy. Từng đợt sóng quân Bắc Việt tràn xuống theo hàng ngang từ núi Chu Pong.? Binh nhất 4 Pat Selleck thuộc trung đội trinh sát đang chuyển đạn cho hàng quân nói: ?oTôi nghe thấy tiếng kèn. Trong ánh sáng của pháo sáng tôi nhìn thấy quân địch dàn hàng ngang tiến xuống từ núi Chu Pong như những đợt sóng. Một tên đội 1 chiếc mũ trắng, trông hắn giống như đang dẫn đầu đội hình tiến công. Hắn đeo vũ khí ngang vai. Chúng cứ tiếp tục tiến xuống giống như chúng không biết sợ hay coi chừng mạng sống. Đại đội trên phòng tuyến bắn chúng giống như là bắn những đám vịt trong đầm lầy vậy.?
    Theo cái nhìn của trung úy Bill Lund, chỉ huy của quân địch không thể lựa chọn được chỗ nào tốt hơn để mở đợt tấn công này. Trong ánh sáng của pháo sáng, số đông quân địch không thể bị phát hiện rõ ràng trong khoảng cách hơn 45 tới 90 mét dọc theo chiêu dài 90 của phòng tuyến. Lund cắt nhỏ từng đơn vị địch theo từng miếng với cơn mưa đạn pháo 105mm và những quả đạn cối nổ không ngừng nghỉ. Với tiểu liên và súng máy, những người lính bộ binh trong những hố cáo phía trước diệt nốt những tên nào thoát được cái bức tường lửa ấy. Chỉ sau có 14 phút đạn lửa, một số ít tên Bắc Việt sống sót bỏ dở cuộc tấn công và rút về nơi chúng xuất phát, phía đông nam, kéo theo một vài đồng đội bị thương.
    Phía trước trung đội của Rescorla, số lượng quân địch di chuyển cứ teo dần lại. ?oBất ngờ có 1 tên NVA vẫn tiếp tục di chuyển, đẩy cái than mập mạp của hắn lên phía trước trong một nỗ lực cuối cùng. Tất cả các khẩu súng đều bắn về phía hắn. Cuối cùng hắn ngã xuống cách 1 hố cáo bên sườn phải của chúng tôi có 3 bước chân. Trong 5 phút tiếp theo lính vẫn cứ bắn vào người hắn, họ chối từ tin rằng hắn đã bất động. Thật là 1 ngưòi lính dũng cảm và kiên cường. ?~Nhìn kìa hắn đeo 1 khẩu súng ngắn,?T trung sĩ Musselwhite hô lên. Tôi bắt đầu bò tới để dành lấy cái chiến lợi phẩm đó, nhưng trung sĩ John Leake ngăn tôi làm chuyện đó. Binh nhất 4 Robert Marks nói to: ?~Này, tôi nghĩ tôi bị trúng đạn rồi.?T Người lính mạnh mẽ đó đến từ Baltomore đã bị trúng đạn vào cổ trước đó, nhưng đã từ chối báo cáo cho tới lúc trận đánh kết thúc.?
    Rescorla nói tiếp, ?oMột sự im lặng bao trùm lên trận địa. chúng tôi tiếp tục bắn vào những hàng xác chết xung quanh hố chiến đấu, để cho chắc. Đạn dược lại được trung đội trinh sát tiếp tế. Hai cơ số đạn đầy đủ đã được tiếp thêm. Chúng tôi nằm lăn ra đất trong binh minh xám xịt. Bất ngờ 1 xác NVA bật lên cao. Quả lựu đạn của hắn phát nổ ngay dưới thân thể. Tự sát hay là tai nạn? Chúng tôi chăm chú nhìn khắp trận tuyến. Những xác chết ngày hôm trước lẫn lộn với những cái xác mới. Mùi thật khó ngửi. Cách khoảng 40 mét 1 tên lính Bắc Việt trẻ nhảy xuống phía sau 1 cái cây, hắn cố chạy ì ạch về hướng xuất phát. Tôi nổ 2 phát súng. Hắn xụp suống. Tôi la lối hàng quân vì đã không nổ súng cho thật nhanh.?
    Đợt tấn công đêm đã thất bại; nó bị đánh bại bởi sức mạnh của hoả lực yểm trợ và sự chuyên nghiệp của Myron Diduryk và binh lính của anh. Thêm hàng trăm lính Bắc Việt nữa đã chết một cách dũng cảm khi đã làm hết khả năng để chọc thủng hàng phòng ngự thép của Diduryk.
    Đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 của Diduryk là nơi chịu mũi dùi chính của cuộc tấn công, nhưng chỉ bị thương nhẹ có 6 người, không ai bị chết, thật giá trị!
    Trong suốt 2,5 tiếng đồng hồ của đợt tấn công vào khu vực Diduryk, phần còn lại của chu vi im ắng, quá im ắng. Dillon và tôi thảo luận khả năng làm một đợt bắn trinh sát nhằm thăm dò sự hiện diện của quân địch ở đâu đó dọc theo hàng quân. Chúng có dư dả đạn dược, và thật khốn kiếp là lúc này quân địch biết được vị trí của chúng tôi giống như là những gì tôi biết vậy. Chúng tôi chuyển mệnh lệnh trên sóng tiểu đoàn: Vào đúng 6g55 mỗi người trên phòng tuyến phải bắn bằng chính vũ khí của mình và tất cả các khẩu súng máy phải xả đạn ở chế độ tự động hoàn toàn trong vòng 2 phút. Yêu cầu là phải bắn vào tất cả các cây, gò mối, bụi rậm, đám cỏ cao ở phía trước và phía trên các vị trí quân Mỹ. Các tay súng có thể bắn vào bất cứ thứ gì làm họ lo ngại. Tới lúc này chúng tôi đã học được những bài học đau đớn về việc quân địch lợi dụng đêm tối để thâm nhập gần tới chỗ chúng tôi, trèo lên những cành cây và sẵn sàng gây tổn thất một khi trời hửng sáng. Giờ là lúc quét sạch phía trước của mình.
    Vào thời điểm được ấn định mọi người trong khu vực bị xé rách màng nhĩ bởi những tiếng súng. Và ngay lúc đó 1 nhóm khoảng 30 tới 50 quân Bắc Việt nhỏm dậy từ chỗ ẩn nấp ngay phía trước đại đội Alpha, tiểu đoàn 2 của Joel Sugdinis, chúng bắt đầu bắn trả lại. ?~Phút điên loạn?T đã buộc chúng bất đặc dĩ khơi mào sớm cuộc tấn công. Pháo binh được gọi tới ngay lập tức và đánh tan chúng. Khi tiếng súng tắt 1 tên bắn tỉa treo lủng lẳng trên 1 chiếc dây thừng buộc vào 1 cái cây ở phía trước trung đội thuộc Diduryk đứng xa nhất về phía trái. Một tên khác rơi xuống từ 1 cây ngay phía trước vị trí chỉ huy đại đội Bravo của Herren. Một tên bắn tỉa Bắc Việt thứ 3 bị giết khoảng 1 giờ sau, khi hắn cố trèo xuống cái cây hắn nấp và bỏ chạy.
    Cánh tay của trung sĩ Setelin, lốm đốm với những mảnh WP cháy, giờ bắt đầu làm anh đau đớn. ?oTôi được gửi trở lại trạm cứu thương, tại đó cánh tay tôi được băng bó, và tôi ngồi đợi trực thăng cứu thương đưa đi. Càng ngồi tôi càng nhận ra là tôi không thể ở trong tình trạng tốt đẹp đó được, bay ra khỏi chỗ này bỏ những đồng đội kia ở lại. Vị vậy tôi tháo dây đeo tay ra và quay trở lại. Ai đó hỏi: ?oAnh đi đâu đó??T Tôi nói: ?~Quay lại hố chiến đấu của tôi.?T Không ai nói thêm điều gì.?
  6. muvlc

    muvlc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    2
    Chào mừng bác Dương đã trở lại, bác chịu khó bớt chút thời gian post đến hết cho bà con tham khảo
    Đọc đến đây thì thấy bọn Hollywood làm phim cũng khá là trung thành với nguyên bản đấy chứ nhỉ
    Nói thêm, tôi được biết là điều lệnh tác chiến của bộ binh Mỹ là 15 phút hỏa lực - lính Mỹ gặp quân ta thì trách nhiệm của nó là duy trì hỏa lực trong 15 phút để kìm chân đối phương, sau đó là dùng hỏa lực của không quân và pháo binh để tiêu diệt! Chứ nói chung là thằng lính bộ của nó không đủ độ lỳ chịu đòn trong các cuộc đấu súng trực xạ như bộ đội ta. Bác nào xem bộ phim "Việt Nam: những hình ảnh chưa được biết đến" mà VTV mới phát mấy tháng trước thì biết, oánh nhau với ta ở Huế dịp Mậu Thân, bọn nó đâu có "phong độ" như trong câu chuyện của bác Moor, tank phối hợp với bộ binh thế quái nào mà còn kẹp chết cả lính nhà cơ mà.
    Trong cuốn bác Dương đang post, có khen ngợi nhiều vai trò pháo binh. Nói về các lực lượng tham chiến ở miền Nam VN, ngoài máy bay , không thể không kể đến pháo. Mỹ và quân đội SG có một mô hình chiến đấu rất có hiệu quả, gọi là "tác xạ miền"! Nó kẻ bản đồ miền Nam thành các khu vực tác chiến cụ thể và bố trí các căn cứ hỏa lực tương ứng, và hiệu chỉnh tọa độ từ trước. Khi gặp chuyện, lính bộ chỉ cần ới một tiếng, thông báo tọa độ là pháo binh bắn được ngay, không mất thời gian tính toán phần tử. Có điều, đây là cách đánh của con nhà giàu, nó có đủ pháo để làm việc đó!
  7. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    16./ Thu Dọn Chiến Trường
    Nothing except a battle lost can be half so melancholy as a battle won
    -The Duke of Wellington, in a dispatch from
    Waterloo, 1985
    Trong ?~phút điên loạn?T chúng tôi đã quét sạch phía ngoài chu vi phòng thủ. Giờ tôi ra lệnh 1 cuộc càn quét bên trong hàng quân. Vào lúc 7g46 những đơn vị dự bị, trung đội trinh sát và những người còn lại của đại đội Charlie bắt đầu 1 cuộc tuần tra rất cẩn trọng trong khu vục bên trong chu vi. Tôi ra lệnh cho họ thực hiện càn quét bằng tay và đầu gối, lật từng ngọn cỏ tìm kiếm những thương vong của quân mình và những kẻ thâm nhập của quân địch. Họ cũng kiểm tra những cái cây bên trong những hố chiến đấu 1 cách cẩn thận. Tới 8g50 họ báo cáo kết quả hoàn toàn khả quan.
    Vào lúc 8g10 các đơn vị trên hàng quân được lệnh phối hợp với những đơn vị bên sườn của mình chuẩn bị di chuyển 450 mét ra phía trước trong 1 đợt càn ?~tìm kiếm và dọn sạch?T, thu gom bất kỳ thương vong nào tìm thấy và thu nhặt tất cả các vũ khí của quân địch. Phải mất 1 thời gian dài trì hoãn trước khi hành động nguy hiểm nhưng cần thiết này có thể bắt đầu. Kiểm tra điện đài, tái bổ sung đạn dược, phối hợp với những đơn vị bên cạnh-tất cả những thứ này làm mất nhiều thời gian cho những người đang suy giảm tinh thần và sức lực sau 48 tiếng chiến đấu căng thẳng và không được ngủ. Lần nghỉ ngơi cuối cùng của tôi là giấc ngủ 5 tiếng vào đêm 13 tháng 11. Tôi vẫn có thể suy nghĩ minh mẫn, nhưng tôi phải nhủ thẩm với bản thân mình định nói gì trước khi mở miệng. Nó giống như việc nói ngoại ngữ trước khi bạn thông thạo hoàn toàn nó vậy. Tôi đang dịch từ tiếng Anh sang tiếng Anh. Tôi phải giữ đầu óc tỉnh táo, tập trung vào những sự kiện đang tiến triển và nghĩ xem những gì sẽ tới.
    Cuộc càn quét bắt đầu lúc 9g55, những người của Diduryk chỉ đi được có 70 mét thì họ gặp phải sự chống trả của quân địch, có cả những trái lựu đạn ném tới. Trung úy James Lane, chỉ huy trung đội 2 của Diduryk bị thương nặng. Ngay lập tức tôi hạ lệnh ngừng mọi di chuyển và ra lệnh cho đại đội của Diduryk quay về hố chiến đấu của họ. Trung sĩ Setelin với cánh tay bị bỏng vẫn đang đau nhức, không hài lòng lắm: ?oSáng đó chúng tôi được lệch càn quét phía trước vị trí. Tôi chẳng thích chút nào. Lúc đêm tôi tôi cảm thấy yên tâm vì Charlie không thể nhìn thấy chúng tôi và chúng tôi ở trong hố không phải ra ngoài. Nhưng khi rời sáng tôi muốn rủa trung tá Moore vì buộc chúng tôi phải chui ra ngoài. Chúng tôi được lệnh rằng phải thực hiện đợt càn quét cuối cùng, kiểm tra xung quanh lần cuối. Trong cuộc càn quét này, Lamothe và tôi đem về 1 trong số những người chết cuối cùng của chúng tôi. Một người cao lớn, tóc đỏ, ria mép rậm. Chúng tôi tìm thấy anh ta gần 1 cái cây, tư thế như đang ngồi ngửa ra, khẩu súng của anh lại chống vào 1 cái cây khác. Một viên đạn trúng ngực, viên khác xuyên qua đáy cổ họng. Chúng tôi đưa anh về, vừa kéo vừa chạy.?
    Trung uý Rescorla, như mọi lần ở ngay trung tâm của sự việc. ?oTôi dẫn trung đội tiến lên khu vực im lìm. Chúng tôi lần theo 1 đường mòn ngoằn ngèo vượt qua hàng đống xác chết của quân địch. Được hơn 45 mét chúng tôi vượt qua 1 bãi trống tiến tới 1 nhóm xạ thủ súng máy nằm chết của quân địch. Còn không đầy 7 thước nữa thì đầu tên địch động đậy. Tôi quăng ngưòi sang 1 bên. Mọi thứ diễn ra như phim chiếu chậm. Một gương mặt cau có của tên địch, đôi mắt mở to, khói tuôn ra từ nòng súng của hắn. Tôi bắn hai lần và nằm cúi xuống, kinh ngạc nhìn vào hộp băng đạn trống rỗng của mình. ?~Lựu đạn?T tôi gọi lại đằng sau cho điện đài viên của tôi, binh nhất Salvatore P. Fantino. Cậy ta tung cho tôi 1 quả. Tôi tóm lấy, kéo chốt và ném đó vào chỗ những cái đầu NVA đang nhấp nhô. Tiếng súng nổ ran dọc theo hàng quân và chúng tôi phải bò về những cái hố cáo của mình. Thêm 7 người nữa bị thương dọc theo hàng quân, bao gồm cả trung úy Lane. Trung sĩ Larry L. Melton và tôi bò ngược trở lại với 1 túi lựu đạn, trong lúc những người khác bắn yểm trợ chúng tôi. Nhóm quân địch, từng người một, bị giết chết, phía sau gò mối.
    Khi tiếng súng nổ ra Diduryk báo cáo qua điện đài. Tôi nắm lấy Charlie Hastings, kiểm soát không quân tiền phương và điện đài viên của tôi, binh nhất Bob Ouellette, cùng với Plumley, chúng tôi chạy hơn 70 mét về hướng vị trí chỉ huy của Diduryk. Rescorla ở phía trước bên trái cách khoảng 30 tới 40 mét đang tái tập hợp quân của mình. Tôi nói với Hastings bãi bỏ mọi lệnh ngừng oanh tạc và gọi xuống tất cả hoả lực không quân anh ta có trong tay, gọi tới ngay tức thì. Đang quần lượn trên đầu là những chiếc A-1E Skyraider từ Phi đội không quân xung kích số 1. Đại úy Bruce Wallace, chỉ huy phi đội, nói: ?oTôi nhớ là nói chuyện với Hasting trên điện đài. ?~X-Ray, đây là Hobo Three-One, 4 chiếc A-1E, bom, napal và súng máy. Hãy trình bày yêu cầu của anh cho rõ ràng.?T Tiếng trả lời: ?~Roger, Hobo Three-One, X-Ray. Mục tiêu của anh là 1 vùng tập trung của 1 nhóm quân địch ngay gần phía đông nam chúng tôi. Muốn các anh trước tiên là dội bom, sau đó là Napal, cuối cùng là súng máy vào bất cứ thứ gì chúng tôi thấy vẫn còn chuyển động xung quanh ngoài đó.?T ?~Xác nhận X-Ray. Chúng tôi sẵn sàng tiến xuống.?T?
    Đợt tấn công của không quân bắt đầu. Hasting cũng gọi thêm những chiếc phản lực cơ chiến đấu và ném bom tới. Trong vòng có vài phút những bụi rậm phía trước hàng quân của Diduryk phải chịu hàng loạt tiếng nổ của rocket, bom 250 và 500 pound, napal, đạn 20m súng máy, bom cluster và bom WP. Peter Arnett, lúc đó là 1 phóng viên của AP, đã nhảy xuống X-Ray sáng hôm đó, anh ở gần với hố của Diduryk và liên tục chụp hình.
    Sau một vài phút oanh tạc, tôi nói với Hastings: ?oThêm 1 đợt 500 pound thật, thật gần để giết sạch bất kỳ tên PAVN nào còn sót lại ngoại đó, rồi kêu họ ngưng.? Tôi nói Diduryk ra lệnh cho lính gắn lê và tiến ra ngoài. Không tới 10 giây chúng tôi nhảy lên xông vào những đám khói đen do những những trái bom 500 pound cuối cùng tạo nên. Ở trên cao, phi đội Spad của đại úy không lực Bruce Wallace đang xắp xếp lại đội hình và nhận đánh giá hiệu quả oanh tạc từ Charlie Hastings: ?oTrong nhiều phi vụ những báo cáo bao gồm ước đoán số lượng xe tải đậu của quân địch hay những lán trại tre bị huỷ diệt hoặc số lượng thương vong có thê gây ra cho quân địch. LZ X-Ray thì khác, Hastings chỉ nói với chúng tôi như là. Khéo léo nếu chúng tôi không chính xác: ?~Roger, Hobo, không có điểm hôm nay, nhưng dù sao cũng cám ơn vì đã giúp.?T Động viên nếu chúng tôi dội chính xác: ?~Roger, Hobo, hoàn toàn chính xác vào những gì chúng tôi muốn. Chỉ huy mặt đất gửi lời biết ơn tới các anh.?T?
    Rescorla và binh lính ngồi nhìn cuộc trình diễn không quân với những đánh giá cao. ?oChúng tôi đang tập hợp cho đợt càn quét cuối cùng. Bất ngờ 1 chiếc ném bom chiến đấu nhào xuống từ trên cao. Chúng tôi nằm chúi mũi xuống đáy hố cáo của mình. Một loạt những tiếng rít ập xuống rồi những tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất. Bom rơi xuống chỉ cách chúng tôi có 30 mét. Chúng tôi đứng lên với bụi và rác phủ đẩy người. Mệnh lệnh tới buộc phải tiến ra ngoài. Mọi người lính có thể, gồm cả trung tá Moore, tiến ra phía ngoài chu vi.?
    Lần này thì chẳng còn 1 trở ngại nào. Chúng tôi giết thêm 27 tên địch và quét sạch mọi sự chống cự. Tôi nhìn 1 vùng phủ đầy với những xác chết quân địch, 1, 2 hoặc từng đống cứ trải dài theo dải đất tan nát và nham nhở. Máu me, mảnh cơ thể người, những bộ quân phục xơ xác, mảnh vũ khí vương vãi đầy trên mặt đất. Những hình ảnh này như làm tôi tỉnh táo lại. Những người này, kẻ thủ của chúng tôi, cũng có cha có mẹ. Nhưng chúng tôi đã làm những việc chúng tôi phải làm.
    Bên cạnh việc muốn cho Diduryk và lính của anh thực hiện nhiệm vụ 1 cách an toàn và chu đáo. Tôi có 1 lý do nữa để buộc tự mình phải tham gia vào cuộc càn quét cuối cùng. Rick Rescorla: ?oTrung tá Moore, trong khu vực của chúng tôi, chạy tới 1 đống xác, kéo từng xác ra một. ?~Ông trung tá làm quái gì ở đây thế??T Trung sĩ Thompson hỏi. Tôi lắc đầu. Lúc sau chúng tôi thấy ông quay lại, đi trước vài người đang được cáng trên ponchos. Vào lúc 10g30 trung tá Moore đã tìm thấy những gì ông ấy đang tìm kiếm. 3 lính Mỹ chết giờ không còn mất tích nữa; giờ họ trên đường trở về nhà với những người thân yêu của mình.?
    Trung tá Robert McDade và phần còn lại của tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7 đã bắt đầu hành quân tới X-Ray từ bãi Columbus, 3 dặm phía đông, vào khoảng 9g30. McDade mang theo tiểu đoàn bộ của ông cùng với đại đội Charlie và Delta của tiểu đoàn 2. Ông cũng được phối thuộc đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, Kỵ Binh 5. Họ tới gần chỗ chúng tôi vào khoảng giữa trưa. Đi đầu hàng quân là binh nhất 4 Jack P. Smith, con trai của 1 phóng viên radio và truyền hình Howard K. Smith. Jack Smith viết những gì anh nhìn thấy trên 1 bài báo cho tờ Saturday Evening Post, vào năm 1967: ?oTiểu đoàn 1 đã chiến đấu liên tục trong hơn 3 hoặc 4 ngày, tôi chưa bao giờ trông thấy đám binh lính nào dơ dáy bẩn thỉu như vậy. Trông họ hầu hết có vẻ bị sốc. Họ nói rất ít, chỉ nhìn ngó xung quanh với đôi mắt thâm quầng và bối rối. Cứ mỗi khi nghe thấy tiếng đạn pháo rít tới là tôi nằm chụp xuống, nhưng họ vẫn cứ đứng. Phải có chừng 1000 xác chết đang mục rữa ở đó, bắt đầu cách từ 20 mét quanh 1 vòng khổng lồ những hố cáo.?
    Những người khác cũng phụ hoạ theo sự kinh ngạc của Smith. Binh nhất Pat Selleck, mệt mỏi bởi 3 ngày ở X-Ray nghe những người mới tới nói: ?oTôi nghe 1 người nói, ?~Jesus Christ, mấy người các anh đã làm gì ở đây? Nó giống như 1 cuộc tắm máu vậy. Tất cả những gì thấy được là xác chết ở khắp nơi khi chúng tôi bước tới đây.?T? Binh nhất 4 Dick Ackerman, người Merced, California, thuộc trung đội trinh sát của McDade khi họ tiến vào X-Ray. ?oTrên đường tiến vào LZ thứ đầu tiên tôi thấy là xác quân địch được xếp như đống củi dọc theo đường đi, từng đống cao ít nhất là 1m8. Tôi không bao giờ quên hình ảnh đó.?
    Vào lúc 10g40 với 2 tiểu đoàn sung sức-tiểu đoàn 2, kỵ binh 5 của Tully và tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 của McDade- giờ đang ở trong hoặc đang tới X-Ray, đại tá Tim Brown ra lệnh cho những người sống sót mệt mỏi của tiểu đoàn 1, kỵ binh 7 của tôi chuẩn bị rút ra nghỉ ngơi. Brown cũng nói với chúng tôi rằng đại đội Bravo củaa Diduryk thuộc tiểu đoàn 2 và trung đội của trung úy Sisson thuộc đại đội Alpha của tiểu đoàn 2, những người đã chiến đấu cùng chúng tôi cũng có cơ hộ được nghỉ ngơi và tái nạp năng lượng. Chúng tôi sẽ bay bằng những chiếc Huey tới LZ Falcon và từ đó sẽ được đưa về Trại Holloway ở Pleiku bằng những chiếc Chinook CH-47.
    Tôi nói với Dillon tổ chức và điều hành cuộc di tản. Những người của Tully và McDade sẽ thực hiện thay phiên, nhận lấy những vị trí của chúng tôi ở X-Ray. Dillon để Merchant thực hiện việc rút quân, trong khi chúng tôi phối hợp thay phiên với Bob Tully và sĩ quan hành quân của anh, đại úy Ron Crooks. Chúng tôi không chỉ rút khỏi X-Ray với lính và vũ khí của mình mà còn mang theo những người chết và bị thương cuối cùng của đơn vị và cả 1 lượng không thể tin được vũ khí và quân trang của địch thu được.
    Lúc này, vào cuối buổi sáng, thứ 3 ngày 16 tháng 11, tính chất của LZ X-Ray đã thay đổi. Những gì trước đây tạo nên vùng chết chóc đã thay đổi thành 1 thứ gì đó khác. Chúng tôi đi đứng tự do, thoải mái trong khu vực chỉ vài giờ trước đây việc di chuyển đồng nghĩa với cái chết. Ngoại trừ tiếng pháo binh và không quân dội bom không còn nghe thất bất cứ thứ gì nữa. Mọi thứ quá im lặng, quá ngỡ ngàng, làm tôi không cảm thấy thoải mái. Một nguyên tắc cũ: Nothing was wrong except that nothing was wrong. Quân địch ở đâu? Quay đầu lại Cambodia? Vẫn còn trên núi, chuẩn bị tấn công nữa? Quay về phía bắc tới sông Drang và nguồn nước quan trọng của chúng? Và lại 1 câu hỏi cũ: Những khẩu súng máy hạng nặng chống máy bay 12.7mm của quân địch ở đâu? Nếu chỉ huy quân địch mang những khẩu súng này chĩa vào chúng tôi từ trên núi phía trên, LZ X-Ray với 3 tiểu đoàn lính Mỹ chen chúc hiện là miếng mồi quá ngon. Tôi nói với Dillon gia tăng hỏa lực pháo binh quấy nhiễu và ngăn chặn và tiếp tục cho không quân dội bom xuống những sườn núi phía trên chúng tôi. Tôi nói với anh rằng tôi muốn có một bản chụp hoàn hảo, vẽ tất cả những vị trí đặt hoả lực mà có thể bắn được vào chỗ chúng tôi.
    Tiếp đến, vẫn còn nỗi lo lắng là chúng tôi đã kiểm kê tất cả mọi người hay chưa. Tôi ra lệnh cho sở chỉ huy hậu phương của tiểu đoàn kiểm kê lại 1 lần nữa tất cả những người chết và bị thương của chúng tôi. Và tôi nói với Diduryk đưa đại đội của anh ra ngoài 1 lần cuối cùng, càn quét phía trước khoảng 150 mét. Khu vực này chính là nơi diễn ra trận đánh giáp la cà dữ dội nhất và tôi muốn nó được kiểm tra lại lần cuối cùng.Tôi kiên quyết giữ lời hứa rằng tiểu đoàn này sẽ không bao giờ bỏ rơi ai lại chiến trường, rằng mọi người đều sẽ được đưa về nhà.
  8. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Trung sĩ trung đội Fred j. Kluge của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, Kỵ binh 5 đang chỉ dẫn người của mình chiếm lĩnh những hố chiến đấu dọc theo chu vi cũ. ?oHai người lính của tôi gọi tôi lại và chỉ xuống. Đó là 1 trung sĩ Mỹ bị chết trong đáy hố cáo. Tôi nhìn anh ấy và cứ bị ám ảnh rằng: Anh ấy trông giống như mình. Tôi nói với hai người lính: ?~Cẩn thận lôi anh ấy lên rồi kéo anh ấy về phía những chiếc trực thăng.?T Có người đến sau lưng tôi và nói: ?~Không, các anh không được làm như vậy, trung sĩ. Anh ấy là người lính của chúng tôi, và các anh phải kính trọng anh ấy. Lấy thêm 2 người nữa và ?~cáng?T anh ấy về bãi đáp.?T Đó là trung tá Moore, đang kiểm tra lần cuối cùng những vị trí của ông. Nếu chúng tôi không tìm thấy người trung sĩ ấy, thì ông ấy cũng sẽ tìm thấy. Tôi có lý do để nhớ tới lời của ông và phải lặp lại những từ đó chỉ hai ngày sau.?
    Gần trưa 1 chiếc Chinook chở nhiều nhà báo, phóng viên ảnh và nhóm quay phim truyền hình đáp xuống X-Ray dưới sự hướng dẫn của đại úy J. D. Coleman, thuộc phòng quan hệ cộng đồng của sư đoàn. Dơ dáy, mệt đến liệt người, và gần như điếc đặc sau 2 ngày đêm chiến trận, Joe Galloway đứng nhìn những đồng nghiệp của mình, họ bày tỏ sự khâm phục với anh và đang cố bắt lấy những hình ảnh của trận đánh này. Frank McCulloch, lúc đó là trưởng văn phòng tạp chí Time tại Sài Gòn nói, ?o1 chiếc trực thăng chở nhóm phóng viên chúng tôi bay tới X-Ray vào ngày thứ 3. Có một vài viên đạn bắn tới và chúng tôi đều phải nhảy vội xuống đất. Chúng tôi nhìn xung quanh và Galloway đứng đó, nói: ?~Thối tha, mấy viên đạn đó không nhằm vào chúng ta đâu.?T?
    Charlie Black của tờ Columbus Ledger-Enquirer, tới ghì chặt Galloway. Hai người cùng bước xa khỏi đám đông, Galloway cố phác họa 1 vài hình ảnh về những gì đã xảy ra ở nơi này, Black cố ghi lại bằng 1 máy đánh chữ xách tay chạy bằng pin cũ kỹ những gì anh có thể hiều được và viết những bài báo dài điện chúng về quê nhà, những thứ đó được đăng trên tờ báo nơi quê nhà của Sư đoàn kỵ binh bay số 1, được vợ và con của những người lính đọc: ?oCharlie, đây là những người lính vĩ đại nhất đã từng tham gia vào 1 cuộc chiến! Chẳng có một thứ gì có thể sánh bằng trận đánh này trước đây. Tôi muốn mọi người Mỹ phải hiểu được những đứa con của họ đã làm những gì. Hãy nhìn khắp nơi kìa, những thứ đó không làm anh cảm thấy tốt đẹp sao?? Người phóng viên trẻ dẫn đồng nghiệp nhiều tuổi hơn mình tới 1 khu vực của chu vi nơi 1 GI đã cắm 1 lá cờ Mỹ nhỏ trên đỉnh của 1 cái cây cụt.
    J. D. Coleman mô tả khoảnh khắc và ý nghĩa của lá cở nhỏ trong cuốn sách của ông ?~Pleiku: Bình Minh của chiến thuật trực thăng vận ở VN?T: ?oThực ra đó chỉ là 1 cảnh quay như trong mọi bộ phim chiến tranh đều có, nhưng khi đó ở X-Ray, giữa những cảnh chết chóc, hủy diệt và chủ nghĩa anh hùng siêu thực, sự hiện diện của nó làm cho cảm xúc dâng trào.?
    Những phóng viên khác giờ bủa vây xung quanh tôi. Tôi nói với họ đây là 1 trận đánh đầy thử thách, khó khăn, rằng rõ ràng chúng tôi đã đánh nhau với 1 quân thù dũng cảm, kiên cường và cực kỳ lợi hại trong hàng quân của Bắc Việt.- nhưng hoả lực của người Mỹ, kỷ luật, sự gan dạ và sự sẵn lòng hy sinh để chiến thắng đã làm nên X-Ray. ?oNhững người lính Mỹ dũng cảm và những khẩu M-16 đã giành chiến thắng ở đây.? Tôi nói. Giọng nói tôi nghẹn lại và mắt tôi ngấn lệ khi tôi nói với các phóng viên rằng rất nhiều người của tôi bị giết ở nơi này chỉ còn vài ngày nữa là hết hạn phục vụ trong quân đội- nhưng họ đã chiến đấu và dũng cảm hy sinh. Khi tôi đứng đó tôi biết rằng điện tin sẽ làm tan nát nhiều trái tim và cuộc sống của nhiều gia đình Mỹ có người thân đăng lính.
    Charlie Black tới chỗ tôi, lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh ta là ở đường băng tại trang trại Catecka 6 ngày trước đây khi chúng tôi thực hiện hành quân trong khu vực Plei Me. Charlie đang trên đường về sau 2 tuần vất vả bám theo những hoạt động của Lữ đoàn 1. Tôi thuyết phục anh ấy đi cùng chúng tôi; Charlie Black được chào đón ở mọi đơn vị trong sư đoàn kỵ binh bay. Anh ấy viết cho tờ báo mà các gia đình chúng tôi đọc. Nhưng anh xin miễn, thay vào đó chọn 1 vài ngày R&R ở Sài Gòn. Giờ tôi trêu chọc Charlie vì đã bỏ lỡ trận đánh lớn nhất của cuộc chiến tranh từ trước tới nay. Anh cười nhe cái răng ánh vàng của mình, rồi thụi tôi 1 cái mạnh vào mạng sườn.
    Tiếp đó phóng viên tờ New York Times Neil Sheehan, người suốt buổi sáng đi vòng quanh chu vi phỏng vấn binh sĩ, đến hỏi chuyện tôi. Tôi biết anh ta là người đã ở VN lâu năm và là người có óc quan sát sắc sảo và nghiêm túc. Đừng gần gò mối chỉ huy của tôi, anh nói: ?oĐây có thể là trận đánh ấn tượng nhất của chiến tranh VN kể từ trận Ấp Bắc.? Anh hoàn toàn đúng.
    Tôi quay trở lại công việc. Sở chỉ huy hậu phương của tiểu đoàn đã điện cho biết tất cả thành viên của tiểu đoàn tôi và các đơn vị phối thuộc từ tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 đã được kiểm đếm và di tản. Không 1 người nào mất tích. Đại đội của Diduryk báo cáo lại sau chuyến càn quét cuối cùng của họ dọc theo chiến trường: Không có thương vong Mỹ nào được tìm thấy. Những báo cáo này thuyết phục lương tâm tôi rằng không có MIA nào nữa, vì vậy tôi đồng ý cho Dillon bắt đầu cuộc chuyển quân ra khỏi X-Ray. Vào lúc 11g55 đơn vị đầu tiên được chuyển đi là đại đội Charlie của Edwards, hay là những gì còn lại của nó. Dick Merchant nói: ?oNhiệm vụ cuối cùng của tôi là điểu khiển bãi đón và chuyển quân cho tiểu đoàn. Công việc dường như kéo dài bất tận. 4 chiếc trực thăng 1 lần với mỗi chiếc chỉ chở có 4 lính.? Tại sao chỉ có 4 người được lên máy bay trong khi khoang có thể chứa tới 10 người? Bởi vì mỗi chiếc trực thăng không chỉ chở có 4 người mà còn chất tới hàng đống vũ khí của quân địch và những vũ khí và trang bị chưa dùng của chúng tôi.
    Trong bản báo cáo sau trận đánh, tôi đề nghị quân đội phải thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ hơn trong cả hai thứ vũ khí của quân ta cũng như quân địch khi được chuyển ra khỏi khu chiến. Chúng tôi đã mất rất nhiều vũ khí của riêng mình, bị lấy đi từ những người bị thương phải vào viện, và rất nhiều vũ khí quân địch tịch thu được và gửi tới bộ phận tình báo để đánh giá, chúng biến mất 1 cách đơn giản, bị dò rỉ như là những món quà tặng bởi những người lính ở tuyến sau, lính quân y và phi hành đoàn trực thăng. Chúng tôi chuyển ra khỏi X-Ray 57 khẩu AK-47, 44 khẩu cạc bin SKS, 17 trung liên tự động Degtyarev, 4 khẩu súng máy hạng nặng Maxim, 5 súng phóng rôc két RPG-2, 2 nòng cối 82mm, 2 súng ngắn 9mm ChiCom và 6 bộ cứu thương. Công binh thu gom và tiêu hủy hàng trăm khẩu súng trường và súng máy khác, 300 tới 400 trái lựu đạn, 7000 viên đạn, 3 thùng đạn RPG, và 150 dụng cụ đào bới.
    Giờ tới lúc đếm xác. Từ lúc bắt đầu trận đánh tôi đã biết rằng bộ chỉ huy cấp cao muốn biết kết quả cuối cùng những gì chúng tôi gây thiệt hại cho quân địch. Vì vậy sau mỗi một đợt giao tranh lớn của trận đánh, dù rất ghét, tôi lại yêu cầu những chỉ huy đại đội đánh giá đúng đắn nhất số quân địch bị giết. Diễn biến, cường độ trận đánh tăng lên sụt xuống liên tục trong suốt 3 ngày 2 đêm, khiến nó có tất cả mọi thứ trừ sự ngăn nắp. Không có ông trọng tại nào thổi ngừng trận đấu để đếm xác. Chúng tôi cố gắng hết sức có thể để giữ được con số xác thực nhất của số quân địch bị giết. Cuối cùng bằng đếm xác nó lên tới 834 chết, cộng thêm khoảng 1215 chết và bị thương theo đánh giá do không quân và pháo binh gây ra. Riêng tôi tôi giảm con số 834 xuống còn 634, phép trừ cần thiết vì những nhầm lẫn cá nhân trong đám khói bụi mờ mịt của trận đánh, và giữ nguyên con số ước lượng 1215. Chúng tôi bắt được và chuyển về 6 tù binh.
    Về phía quân mình, chúng ta mất 79 lính Mỹ KIA và 121 bị thương, không có người mất tích.
    Nhưng việc đếm xác với cả hai bên, dù là đó là điều thảm hại, cũng không phải là cốt lõi của vấn đề. Những gì xảy ra trong 3 ngày này là 1 sự thay đổi lớn lao trong chiến tranh Việt Nam. Lần đầu tiên kể từ Điện Biên Phủ, quân đội Bắc Việt chiến đấu trong đội hình sư đoàn. Những người lính của quân đội Nhân Dân tuôn xuống phía nam theo đường mòn Hồ Chí Minh không ngừng gia tăng, và lúc này họ trực tiếp tác chiến bằng sức mạnh trên chiến trường Nam Việt Nam. 79 người Mỹ chết trong vòng có 3 ngày tại X-Ray. Cái giá phải trả cho sự liên quan của nước Mỹ vào hành động sen đầm mờ mịt này tăng lêb 1 cách chóng mặt. Việt Nam giờ là 1 trò chơi mới bao gồm toàn bộ chính trị, quân sự và ngoại giao. Washington và Hà nội giờ phải ra những quyết định, và họ phải quyết định sớm.
    Tới lúc này, tuy nhiên, ưu tiên hàng đầu của tôi là đưa lính của mình ra khỏi X-Ray nhanh chóng và an toàn, và bàn giao mảnh đất hoàng tàn, phủ đầy máu này cho trung tá Bob Tully.
    Trung sĩ Glenn Kennedy và nhóm 42 người còn sống của đại đội Charlie đáp xuống LZ Falcon vào lúc 12g20. Họ ra khỏi những chiếc Huey và nằm dài ra cỏ trong ánh nắng chói trang, chờ đợi những chiếc Chinook đưa họ về trại Holloway. Đại đội Delta bắt đầu rút khỏi X-Ray vào lúc 12g45.
    Binh nhất Vince Cantu đang đợi tới lượt. Anh nói, ?oHết chiếc này chiếc khác xà xuống rồi bay lên. Dường như nó kéo dài vô tận, chờ đợi làm cho người ta bị Stress. Nhưng chúng tôi phải chờ tới lượt mình. Sau khi chúng tôi lên được trên không tôi nhớ mình đã cầu nguyện: ?~Làm ơn, hỡi đức Ngài, đừng để chúng bắn rơi chúng con.?T Tôi đã thấy 2 chiếc trực thăng và 1 máy bay bị bắn rơi. Tôi nghĩ, ?~Đức Ngài chắc sẽ không để chúng bắn rơi chúng con sau khi Ngài cho chúng con sống sót qua 3 ngày 2 đêm trong Địa ngục.?T Chúa ở trên cao đang dõi theo chúng tôi; Ngài đem chúng tôi về nhà. Khi chúng lôi chúng tôi ra ngoài đó, tôi chỉ còn 6 ngày trong quân ngũ. Cuối cùng tôi cũng về đến nhà hoàn toàn vô sự, không có lấy 1 vết sẹo. Vài người bạn của tôi không được may mắn như vậy. Tôi nghĩ về họ rất nhiều.?
    Binh nhất 4 Willard Parish, 1 người lính khác thuộc đại đội Delta nhớ lại hành động cuối cùng ở X-Ray: ?oCó những thứ bạn nhớ mãi. Chúng tôi chôn những hộp thiếc của khẩu phần C và những thứ giống như vậy, sẵn sàng chờ những chiếc trực thăng tới chở ra khỏi thung lũng. Lúc trước khi chúng tôi đào những hố chiến đấu của mình, có 1 bụi cây nhỏ ở ngay góc trái hố, nó phủ đầy lá xanh. Lúc chúng tôi ngồi chờ ở đó, tôi nhìn vào nó và chỉ còn duy nhất 1 chiếc lá còn sót lại trên cây. Vì lý do nào đó mà tôi không biết, tôi với tay và ngắt chiếc lá cuối cùng đó đi, khiến cho bụi cây hoàn toàn trơ trụi.?
    Trung úy Rescorla: ?oChúng tôi bay ra xa, nhưng cái mùi hôi thối của xác chết cứ ám ảnh tôi nhiều năm sau này. Phía dưới, với những xác chết của quân địch mặt đất trông như đang nổi những hạch đậu mùa. Ai trong trung đội cũng cười. Bất ngờ 1 xạ thủ M-79 ngồi kế nôn thốc vào vạt áo của tôi. Tôi hiểu tâm trạng của cậu ta. Cậu ấy, giống như nhiều người khác, đã chiến đấu thật dũng cảm cho dù họ chưa hề có 1 kinh nghiệm về cảnh đầu rơi máu chảy. Mỗi người lính sẽ nhìn nhận trận đánh qua lăng kính cá nhân của mình. Nói theo kiểu chiến thuật, đây là 1 hành động ?~tìm kiếm, định vị và tiêu diệt địch- đúng như là những gì được dạy cho các chàng trai tại Fort Benning. Một cuộc trình diễn gọn gàng, và quân NVA bị đánh bại 1 cách êm ái lạnh lùng, giống như họ lùa từng đơn vị một của mình vào 1 cái máy xay thịt vậy.?
    Joe Galloway chụp những bức ảnh cuối cùng một nhóm lính mệt mỏi của đại đội Alpha của Tony Nadal xung quanh gò mối, thu dọn vũ khí và đồ dùng của riêng mình rồi tìm tôi để nói lời tạm biệt. Chúng tôi đứng nhìn nhau và bất ngờ, không 1 chút thẹn thùng, những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt đầy bụi đỏ của chúng tôi. Tôi nói trong nghẹn ngào: ?oHãy đi và nói với nước Mỹ về những điều anh hùng mà những người lính này đã thực hiện; hãy nói những đứa con của họ đã chết như thế nào.? Cậu ấy bay về Pleiku, đọc trên đường dây liên lạc của quân đội câu chuyện của mình cho văn phòng UPI ở Sài Gòn; ngày hôm sau câu chuyện của anh về trận đánh dưới chân núi Chu Pong làm kinh ngạc các gia đình của chúng tôi ở Fort Benning và gây sốc cho toàn thế giới. Ở Columbus, Georgia, vợ tôi, Julie, đưa lũ trẻ tới trường học và mua 1 tờ Enquirer vào buổi sáng đó: ?oĐoạn đầu tiên của câu chuyện-được viết bởi Galloway-nói rằng đó là trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh VN. Rồi ở đoạn kế tiếp, anh dẫn lời chồng tôi. Tôi phải hít 1 hơi thật sâu trước khi đọc tiếp phần còn lại.?
    Khi Galloway kết thúc việc đọc bản tin của mình, Bryce Miller, trợ lý trưởng văn phòng UPI hỏi: ?oNày cậu có nghe gì về Dickey Chapelle không? Cô ấy bị giết trong khi hành quân cùng Thủy quân lục chiến đấy.? Galloway bước ra trên những bậc thang của doanh trại đặt trong khu MACV vùng II, và ngồi xuống. Dickey Chapelle, 1 phóng viên chuyên nghiệp kỳ cựu, người đã từng theo dõi đưa tin cả tá các cuộc chiến tranh và xung đột cách mạng, là 1 người bạn tốt và luôn sẵn lòng trợ giúp cho những phóng viên mới tham gia vào trò chơi chiến tranh. Galloway ngồi đó, trong bóng tối, lắc đầu trong im lặng, đưa tay quệt những giọt nước mắt khóc cho người bạn cũ của mình và cho tất cả những người mới biết, chết ngay bên cạnh anh mấy ngày qua. Đây sẽ là 1 cuộc chiến tranh kéo dài. Tưởng thưởng cho công việc anh đã làm ở thung lũng Ia Drang, UPI tăng lương cho anh từ 135 USD lên 150 USD /1tuần. Khi anh báo cho mẹ mình về việc được tăng lương, bà lắc đầu và nói rằng đó là ?ođồng tiền xương máu?. Galloway nghĩ rằng có thể bà đúng, nhưng chắc chắn rằng không có tiền nào có thể so sánh với những giọt máu đã đổ.
    Đại úy Bruce Wallace và những chiếc A-1E của anh bảo vệ chúng tôi rút khỏi X-Ray: ?oRồi cũng tới lúc rút khỏi X-Ray, tôi thấy rõ là việc rút ra cũng nguy hiểm không kém lúc đổ quân. Chúng tôi trút 1 màn bom đạn vào giữa khoảng cách của quân địch với LZ X-Ray nhằm ngăn chặn hoạt động của chúng đủ dài cho đoàn bay chuyển quân bay tới, chất người và vụ khí, rồi bay ra. Tôi nhớ âm thanh của những tiếng súng truyền qua microphone của Charlie Hasting khi anh trèo lên 1 chiếc trực thăng, tôi chỉ cảm thấy thoải mái khi họ đã bay lên trên cao. Tôi chỉ huy chuyến bay cuối cùng đó nhằm bảo vệ cho tiểu đoàn 1 kỵ binh 7, rút ra khỏi thung lũng Ia Drang. Phi vụ đó kết thúc mọi sự liên hệ của tôi với kỵ binh 7 tại X-Ray.?
    Đã gần tới 3 giờ chiếu và chỉ còn lại vài người trong chúng tôi ở sở chỉ huy tiểu đoàn chờ được đưa đi: Matt Dillon, Charlie Hasting, Jerry Whiteside, những điện đài viên của họ, thượng sĩ Plumley, Bob Ouellette và tôi. Plumley, Ouellette và tôi là những người cuối cùng rời khỏi gò mối. Chúng tôi leo lên chiếc Huey thứ 4 của chuyến chuyển quân cuối. Nó đang đậu đó, chờ đợi, cánh quạt xoay phành phạch, mũi hướng về phía tây. Tôi là người cuối cùng ngồi xuống mép cửa bên trái của trực thăng và chúng tôi cất cánh trong 1 cua lượn gấp sang hướng bắc. Khi tôi nhìn xuống mặt đất đầy những vết sẹo của chiến tranh, tôi cảm thấy tự hào về những gì chúng tôi đã làm, đau buồn về những mất mát và cảm thấy có tội rằng tôi vẫn còn sống.
  9. ma_vuong_baby

    ma_vuong_baby Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    342
    Đã được thích:
    0
    Bác Mo này viết hồi ký có vẻ chân thực và cảm động đấy, nhưng khi đến VN sau chiến tranh và thăm lại chiến trường xưa, ông ta đã phải kinh ngạc tột độ khi được biết rằng, đối thủ của ông ta chỉ có một trung đoàn thiếu, chứ không như tưởng tượng của ông ta và trong những tài liệu mà ông ta viết : " quân BV đông hàng ngàn + chiến thuật biển người + quân Mẽo bắn như bắn tập + quân BV teo hàng xâu + thương vong quân Mẽo ít ( vài chục....)"
  10. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Moore sang VN phỏng vấn với đi thị sát chán chê rồi mới viết sách này đấy bác ạ. Kinh ngạc thì có, nhưng sau thì (hồi đó) lão bảo là lão không tin quân ta chỉ có thế. Bây giờ lão đã tin chưa thì tôi không biết.

Chia sẻ trang này