1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Với việc thủy quân lục chiến bắt đầu hành quân chiến đấu tại phía bắc Nam Việt Nam và Lữ đoàn không vận 173 mới tới đang hoạt động tại miền trung Nam Việt Nam, những nhà quân sự tại Hà Nội buộc phải có cái nhìn mới về chiến dịch đông-xuân đã xây dựng cho tỉnh Plei ku. Thiếu tướng Chu Huy Mân, người chỉ huy chiến dịch, nói rằng vào tháng 6 năm 1965 đó bộ chỉ huy quyết định ngừng kế hoạch táo bạo chiếm Cao Nguyên và tấn công dọc đường 19 xuống bờ biển.
    "kế hoạch phải ngừng trong 10 năm" , tướng Mân nói, " nó được hoàn thành vào năm 1975". Kế hoạch mới sẽ tuân theo những bước đầu của kế hoạch ban đầu : Quân Bắc Việt sẽ bao vây trại Lực lượng đặc biệt Plei Me, phục kích đoàn quân giải toả của quân đội Miền Nam Việt Nam khi nó bò ra khỏi tỉnh lỵ Pleiku, và sau đó đợi quân Mỹ khi chúng được ném vào trận đánh để cứu quân Nam Việt Nam.
    " Chúng tôi muốn dụ hổ ra khỏi rừng" Tướng Mân nói, " Chúng tôi sẽ đánh quân Nam Việt Nam- nhưng chúng tôi cũng sẵn sàng để đánh nhau với quân Mỹ." Thiếu tướng Hoàng Phương, giờ là viện trưởng Viện Lịch Sử Quân sự ở Hà Nội và là 1 cựu chiến binh của trận Ia Drang nhớ lại : " Bộ chỉ huy ra lệnh chúng tôi phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng để đánh nhau với quân Mỹ. Vấn đề của chúng tôi là chúng tôi chưa từng đánh nhau với lính Mỹ trước đây, chúng tôi chưa có kinh nghiệm chiến đấu với người Mỹ. Chúng tôi biết cách đánh quân Pháp. Chúng tôi muốn dụ những đơn vị chiến đấu của Mỹ vào trận với mục đích học cách đánh họ. Chúng tôi muốn bất kỳ quân chiến đấu nào; chúng tôi không quan tâm đó là thứ quân nào.
    Những người Mỹ mà Mân và Phương sẽ gặp hiện vẫn chưa rời nứơc Mỹ vào tháng 6 - 1965, nhưng họ đã nghe được những lời đồn đoán nào đó. Vào đầu tháng 5 -1965, những chỉ huy của Sư đoàn không quân xung kích 11 bắt đầu nhận được những bảo sao các báo cáo sau trận đánh trong các cuộc hành quân của Lữ đoàn không vận 173. Cuối tháng 5, chỉ huy các tiểu đoàn, lữ đoàn, sư đoàn và sĩ quan tham mưu được tập trung tại những phòng học được canh gác cẩn mật tại Trường Lục quân trong Fort Benning, Georgia, đễ nghiên cứu những bản đồ tối mật. Địa hình của những tấm bản đồ này chính là Cao Nguyên trung phần của Miền Nam Việt Nam.
    Tới giữa tháng 6 Lầu Năm Góc ra lệnh cho các chỉ huy Sư đoàn bắt đầu 1 trương trình huấn luyện sẵn sàng chiến đấu kéo dài 8 tuần, tập trung vào việc triển khai quân tại Nam Việt Nam. Bộ trưởng quốc phòng McNamara công bố vào ngày 16-06, Sư đoàn cơ động không quân được giao cho Lục quân trở thành 1 thành viên trong lực lượng gồm 16 sư đoàn của nó.
    Đầu tháng 7, Lầu năm góc tuyên bố Sư đoàn xung kích không vận( thử nghiệm) được đổi tên thành Sư đoàn Kỵ Binh số 1 và nó sẽ kế thừa những lá cờ của 1 sư đoàn lịch sử đã từng nổi bật trong chiến tranh Triều Tiên và trong mặt trận Thái Bình Dương thế Chiến thứ 2. Tất nhiên là không đề cập tới những cuộc giao tranh nhỏ với những băng đảng ăn cướp dọc biên giới Mexico bang Texas và bang New Mexico đầu những năm 1920.
    Trong 1 buổi lễ phát trên truyền hình quốc gia, vào sáng 28-07-1965, TT Johnson mô tả tình hình ngày càng tồi tệ ở Nam Việt Nam và tuyên bố : " Hôm nay tôi ra lệnh cho Sư đoàn kỵ binh sang Việt Nam."
    Vào ngày hôm đó, với suy nghĩ rằng việc Tổng thống gia tăng chiến tranh mà không tuyên bố tình trạng khẩn cấp là 1 hành động điên rồ, Tướng Harold K. Johnson, Tham mưu trưởng Lục quân, chạy xe tới Nhà trắng nhằm mục đích từ chức để phản đối. Ông ta đã tháo 8 ngôi sao bạc ở 2 bên cầu vai của bộ quân phục mùa hè ra. Khi chiếc xe tới cổng Nhà Trắng, ông cân nhắc lại cách giải quyết của mình, ông tự thuyết phục rằng ông ta có thể làm được nhiều việc hơn khi tiếp tục giữ chức vụ trong bộ máy hơn là từ chức để phản đối. Vị tướng ra lệnh cho lái xe quay lại và chở ông ta về Lầu Năm góc. Quyết định này đã ám ảnh ông suốt cuộc đời còn lại.
    Tại Miền Nam Việt Nam, trung đoàn 320 của Quân đội Nhân dân VN đang tiến hành được 1 nửa cuộc bao vây kéo dài 2 tháng trại huấn luyện lực lượng đặc biệt Đức Cơ trên Cao Nguyên. 1 thiếu tá lục quân trẻ, H. Norman Schwarzkopf, học viên khoá 1956 trường West Point, là cố vấn cho 1 tiểu đoàn dù miền Nam VN, đang bị lún sâu vào trận đánh bao vây tại Đức Cơ. ( ....)
    Tuần đó, trung đoàn 33 Quân đội Nhân dân VN rời Quảng Ninh bắt đầu cuộc hành quân dài 2 tháng trên đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua Lào và Cambodia để tới Nam VN. Thiếu tướng Chu Huy Mân đã vào Nam đang chỉ huy những chiến dịch chống lại Lính thủy đánh bộ Mỹ tại Chu Lai Đà Nẵng, nhưng ông được lệnh quay lại Cao Nguyên để thanh lập mặt trận B-3, 1 bộ chỉ huy mở rộng và linh hoạt có nhiệm vụ chỉ huy cả quân ********* và quân Bắc Việt trên Cao Nguyên. Sự bổ nhiệm mới này của tướng Mân là để chuẩn bị cho cuộc tiếp đón nồng hậu dành cho người Mỹ ở Pleiku.
    Những bước chân hành quân đầu tiên của 1 sư đoàn mới, công nghệ cao lại chẳng có gì là hiện đại. Bắt đầu từ tháng 8 Sư đoàn kỵ binh số 1 sẽ ra trận trên những chiếc thuyền chở lính có từ thời Thế Chiến Thứ 2 và những chiếc trực thăng của nó sẽ được chở trên những tàu sân bay già cỗi tới 4 thế hệ.
    Lính kỵ binh nhộn nhịp với việc chuẩn bị quân trang, chụp hình, viết thỉnh nguyện, khám sức khoẻ cuối cùng, tìm chỗ ở cho vợ con phải ra ngoài doanh trại. Đầu tháng 8 một bộ phận tiền phương gồm 1100 sĩ quan và lính bay tới Việt Nam để chuẩn bị căn cứ cho Sư đoàn tại An Khê, 1 thị trấn miền núi nằm trên đường 19 giữa Quy Nhơn vùng biển và Pleiku vùng núi.
    Một trong những tiểu đoàn chuẩn bị lên đường là của tôi. Tên tôi là Harold G. Moore, Jr., nhưng chỉ cần gọi "Hal" là đủ. Năm 1957 là 1 thiếu tá trẻ mới tốt nghiệp trường Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth và được bổ nhiệm vào ban nghiên cứu và phát triển của Bộ quốc Phòng. Tôi có mặt ngày từ buổi đầu của sư đoàn cơ động không vận. Tôi là thanh viên duy nhất của ban không vận trong Sư đoàn cơ động không vận suốt 2 năm rưỡi. Tôi làm việc cho Thiếu tướng Gavin, đại tá Norton, đại tá Seneff và đại tá Williams.
  2. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Tôi đã từng làm việc với Hary W. O. Kinnard khi ông là trung tá chỉ huy bộ phận không vận thực nghiệm tại Fort Bragg vào năm 1948. Là 1 chuẩn uý 26 tuổi tôi tình nguyện làm người nhảy dù cho những kiểu dù thử nghiệm cho Kinnard. Có 1 sự việc chắc chắn làm Kinnard luôn luôn nhớ tới tôi : Trong lần nhảy đầu tiên 1 chiếc dù lái mà tôi phải dùng đã vướng vào đuôi chiếc máy bay C-46, tôi bị kéo xoắn tít sau máy bay ở vận tốc 110 dặm/ giờ và ở độ cao 450m. cuối cùng tấm lưới cũng đứt sau vài phút và chiếc dù dự phòng đã giúp tôi xuống đất an toàn. Khi tôi đến báo cáo sự việc cho Kinnard, tất cả những gì ông ấy nói là : " Xin chào , ngưới may mắn".
    Khi tôi đang mòn mỏi hoàn tất nhiệm kỳ 3 năm trong NATO ở Na uy đầu những năm 1960, tôi nghe những lời đồn về việc bộ sậu của Kennedy đang xem xét đặc biệt tới ý tưởng cơ động không quân. Vào tháng 8 -1963 tôi hoàn tất nhiệm kỳ tại NATO và bắt đầu cho 1 năm tại trường Chiến Tranh Hải Quân ( NAval War) ởi Newport, Rhode Island. Tôi đã là trung tá được 4 năm và đang tranh đấu để nhận được 1 tiểu đoàn cho sự bổ nhiệm kế tiếp.
    Lúc này Lục quân đã thành lập sư đoàn Xung kích không vận số 11, với trung tướng Kinnard là tư lệnh. Tôi viết 1 bức thư cho người chủ cũ xin chỉ huy 1 tiểu đoàn bộ binh trong sư đoàn mới của ông. ( Trong thời gian đó 1tư lệnh sư đoàn có thể chọn chỉ huy tiểu đoàn, lữ đoàn đơn giản bằng cách yêu cầu tên tuổi họ với cấp trên. Từ giữa những năm 70 những ch3 huy được lựa chọn thông qua những Ban tuyển lựa dựa vào thành tích cá nhân.). Tháng 4-1964 tôi hoàn thành khoá học, Lầu năm góc thông báo cho tôi biết, Kinnard đã yêu cầu bổ nhiệm tôi là Tiều đoàn trưởng tiểu đoàn 2, trung đoàn 23 bộ binh, đơn vị được tách ra từ sư đoàn bộ binh số 2 và được phân bổ cho sư đoàn Xung kích không vận số 11.
    Thứ 7 ngày 27-06 tôi tới Fort Benning, Georgia. Tôi được bố trí cho 1 lớp bổ túc 5 ngày để tái huấn luyện kỹ năng chỉ huy 1 tiểu đoàn. Nhưng những ý nghĩ về sự bổ túc biết mất ngay khi đại tá Thomas W. (Tim) Brown, tư lệnh Lữ đoàn 3 và là chỉ huy mới của tôi, đến và bảo tôi gấp những cuốn sách lại. " Anh sẽ nhận quyền chỉ huy tiểu đoàn vào 9giờ sáng thứ 2 và chúng ta sẽ có 1 cuộc luyện tập thực binh kéo dài 3 ngày ngay sau đó." Ông đưa cho tôi số điệ thoại của đại uý Gregory ( Matt) Dillon, S-3 tiểu đoàn, ( sĩ quan hành quân). Dillon nói doanh trại và sở chỉ huy tiểu đoàn nằm ở đồi Kelly cách khu doanh trại chính tại Benning 5 dặm. Vợ tôi và 5 đứa trẻ đang ở nhà ông bà ngoại gần Auburn, Alabama, cho tới khi chúng tôi nhận được 1 căn hộ tại khu gia binh.
    Vào thứ 2 ngày 29-06 như kế hoạch tôi nhận quyền chỉ huy tiều đoàn. Tôi đã 42 tuổi, 1 người tốt nghiệp West Point khoá 1945. với 19 năm phục vụ bao gồm 14 tháng chiến đấu ở Triều Tiên. Trong buổi nói chuyện ngắn với binh sĩ tiêu đoàn tôi nói đây là 1 tiểu đoàn tốt nhưng có thể tốt hơn nữa. " Tôi sẽ làm việc hết mình" và " tôi cũng mong điều tương tự với mọi người ở đây".
    Ngay trước khi nhận quyền chỉ huy tôi có cuộc nói chuyện dài với người quan trọng nhất trong bất kỳ 1tiểu đoàn nào: Thượng sỉ. Basil L. Plumley, 44 tuổi, cao 1m85, 1người sù sì xuất thân từ West Virginia. Lính tráng hay gọi anh ta là " Hàm răng sắt già" nhưng chỉ dám gọi ở sau lưng.
    Plumpei là người trải qua 2 cuộc chiến và đeo 2 huy hiệu đôi cánh dù thương hạng với 5 ngôi sao nhảy dù chiến đấu. Anh là người mà những lính dù trẻ gọi là "Những gã 4 lần nhảy". Plumley đã sống sót qua 4 lần nhảy dù chiến đấu ở sư đoàn dù 83 trong Thế chiến thứ 2 : Sicily và Salerno năm 1943, D-day ở Normady và Market-Garden ở Hà Lan năm 1944. Tương tư anh cũng nhảy dù chiến đấu 1 lần trong Chiến trnah Triều
    Tiên với Trung đoàn bộ binh không vận 187. Kết thúc Thế Chiến thứ 2 anh là trung sĩ và được thăng chức thượng sĩ năm 1961.
    Thượng sỉ được mọi người tin ( như tôi tin) là 1người khổ luyện, kỷ luật nghiêm và rắn rỏi. Cho đến ngày hôm nay, nhiều cựu binh của tiểu đoàn bị thuyết phục rằng, Chúa trời có thể trông giống như Thượng sĩ Basil Plumley, nhưng Ngài không thể cứng rắn trước tội lội như là chàng Thượng sĩ. Cá nhân, tôi phải cảm ơn ngôi sao may mắn đã ban cho tôi 1tài sản quý như vậy. Tôi nói với Thượng sĩ Basil Plumley, anh có thể liên hệ với tôi vào bất kỳ lúc nào và vì bất cứ chuyện gì.
    Sau buổi lễ các chỉ huy đại đội và ban tham mưu tiểu đoàn có những hiểu biết đầu tiên về viên tiểu đoàn trưởng mới cũng như các tiêu chuẩn mà tôi đặt ra. Chúng thật đơn giản : Chỉ có những tiểu chuẩn bậc nhất được tồn tại trong tiểu đoàn. Những tiêu chuẩn khác nếu được chấp nhận đồng nghĩa với việc bị đánh bại trên chiến trường và cái chết cho mỗi cá nhân trong chiến đấu. Không có nhưng sĩ quan hay binh linh mập. Quá trình ra quyết định sẽ được mở rộng. Hạ quyền lực xuống, nó sẽ được sử dụng khi chiến tranh. Lònh trung thành cũng đựơc khuyến khích. Tôi kiểm tra mọi thứ. Tôi luôn sẵn sàng cả ngày lẫn đêm để nói chuyện bất kỳ sĩ quan nào trong tiểu đoàn. Và cuối cùng thượng sỉ chỉ làm việc cho tôi và chỉ nhận lệnh từ tôi. Anh ta là cánh tay phải của tôi.
    Những lý lịch cá nhân của các nhân vật chính trong Sư đoàn và trong tiểu đoàn tôi sẽ giúp ích cho người đọc. Những người này sẽ xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện.
    Trung tướng Harry W O. Kinnard, tư lệnh sư đoàn, người Texas, 49 tuổi. Học viên West Point khoá 1939, Tốt nghiệp dù năm 1942. (...). Đại tá năm 29 tuổi.
    Chuẩn tướng Richard T. Knowles, phụ tá tư lệnh sư đoàn, 45 tuổi, người Chicago, ông nhận bằng sỉ quan dự bị trong thời gian học Đại học Illinois. Là lính diệt xe tăng trong WW II(...)
    Đại tá Thomas W. Brown, tư lệnh Lữ đoàn 3, 44 tuổi, cao 183, khóa West Point năm 1943, người New York, lính dù trong WW II. Anh ta và tôi cùng là học viên Khóa Nâng Cao của trường Bộ Binh năm 51-52 và cùng phục vụ trong trung đoàn bộ binh số 7 trong chiến tranh Triều Tiên. Giai đoạn 52-53 anh là tiểu đoàn trưởng trong trung đoàn bộ binh số 32, trong khi tôi chỉ huy 2 đại đội và là sĩ quan hành quân của trung đoàn bộ binh số 17. Brown là người trầm tĩnh, lạnh lùng, sắc sảo và hoàn hảo. Đúng theo kiểu của Kinnard, anh chỉ cho nhưng tiểu đoàn trưởng những hướng dẫn sau đó để họ tự do chỉ huy đơn vị của mình. Anh chỉ huy Lữ đoàn từ đầu năm 1963 và tham gia từ ban đầu những bước phát triển về chiến thuật, kỹ thuật, học thuyết cơ động không vận.
    Những sĩ quan của tiểu đoàn tôi là hỗn hợp những người đến từ West Point, ROTC ( Reserve Officers'' Training Corps), OCS ( Officer candidate School) và những trường quân sự như Citadel. Hầu hết nhưng chuẩn uý đều qua OSC và chương trình ROTC ở đại học. Có 3 đại đội súng trường trong tiểu đoàn- Alpha, Bravo, Charlie- mỗi một đại đội đầy đủ có 6 sĩ quan và 164 lính.
    Mỗi một đại đội có 3 trung đội súng trường cộng với 1 trung đội súng cối gồm 3 khẩu đội cối 81mm yểm trợ. Mỗi trung đội có 3 tiểu đội súng trường công với 1 tiểu đội hỏa lực gồm 2 khẩu đại liên M-60.
    Bên cạnh, tiểu đoàn có 1 đại đội hoả lực hỗ trợ chiến đấu, đại đội Delta, bao gồm 1 trung đội trinh sát, 1 trung đội cối, và 1 trung đội chống tăng. Chúng tôi thay thế trung đội chống tăng không cần thiết bằng trung đội súng máy M-60 chó chiến truờng Việt Nam. Đại đội D có 5 sĩ quan và 118 lính.
    Tiểu đoàn bộ (HHC- headquarters & headquarters company)có 14 sĩ quan và 119 lính. HHC bào gồm những cá nhân chỉ huy, tham mưu, thông tin, quân y, vận tải và sửa chữa, và hậu cần. Trung đội quân y trong HHC bao gồm đội phẫu thuật tiểu đoàn, 1 đại uý và 1 thiếu uý quân y MSC ( medical service Corps) có nhiệm vụ đi cùng các cuộc hành quân. Họ tổ chức trạm y tế trong doanh trại và trên chiến trường và cung cấp cho mỗi trung ở các đại đội khác những y sĩ- những người tận tâm và dũng cảm này vẫn được là Doc.
    Một vài sĩ quan tiểu đoàn :
    Đại uý Gregory P. (Matt) Dillon, sĩ quan hành quân. Matt, 32 tuổi con trai 1 sĩ quan chỉ huy cấp thấp của Hải quân trong WW I, người New York, đã có vợ và 2 con. Anh nhận bằng sĩ quan từ ROTC ở Đại học Alabama, nơi anh là thanh viên chạy tốc độ của đội điền kinh. Anh đã 2 lần chỉ huy đại đội trong đó có cả đại đội B của tiểu đoàn này. Anh được trời phú cho 1 bộ óc sáng suốt và nhanh nhạy và anh là người vì mọi người. S-3, hay sĩ quan hành quân, của bất kỳ đơn vị nào là 1 phần của bộ não của vị chỉ huy, người biến những ý tưởng thành nhữn kế hoạch và sau đó kết hợp tất cả các bộ phận trong 1 cuộc hành quân quân sự. Matt là S-3 của tôi trong 2 năm cả ở tiểu đoàn và lữ đoàn và anh ta đơn giản là tuyệt vời.
    Đại uý Gordon P. (Rosie) Rozanski, đại đội trưởng HHC, Sau này ở VN, anh là sĩ quan hậu cần của tiểu đoàn, S-4. Rosie, 26 tuổi, người Elysian, Minesota, được nhận bằng sĩ quan từ OSC. Anh ta có bằng cử nhân, một người vui tính, thẳng thắn. Anh có trách nhiệm lựa chọn và bảo vệ sở chỉ huy tiểu đoàn trên chiến trường; cơm nước cho sĩ quan và binh lính trong ban chỉ huy và bộ phận trợ giúp và bảo dưỡng bảo vệ cho 1 kho khổng lồ vũ khí, thiết bị thông tin, điện tử.
    Đại úy John D. Herren, đại đội trưởng ĐĐ B, 1 cử nhân 29 tuổi, hút thuốc bằng tẩu, có dòng dõi quân đội- Cha là trung tướng Lục quân- và là người tốt nghiệp West Point khóa 1958. Trầm tính, suy nghĩ chín chắn, hoà đồng và kiên định. Chưa ai trông thấy cậu ấy bị kích động.
    Đại uý Robert H. (Bob) Edwards, đại đội trưởng ĐĐ C. 27 tuổi, có vợ, người New Jersey. Anh là là người tôi nghiệp quân sự xuất sắc của chương trình ROTC tại Đại học Lafayette năm 1960. Mỏng người, cao 1m70. Rất thông minh và rất ít nói, anh nói ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Anh là người có khả năng vượt trội cũng như những sĩ quan và binh lính anh chỉ huy trong ĐĐ C.
  3. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Tôi đã từng làm việc với Hary W. O. Kinnard khi ông là trung tá chỉ huy bộ phận không vận thực nghiệm tại Fort Bragg vào năm 1948. Là 1 chuẩn uý 26 tuổi tôi tình nguyện làm người nhảy dù cho những kiểu dù thử nghiệm cho Kinnard. Có 1 sự việc chắc chắn làm Kinnard luôn luôn nhớ tới tôi : Trong lần nhảy đầu tiên 1 chiếc dù lái mà tôi phải dùng đã vướng vào đuôi chiếc máy bay C-46, tôi bị kéo xoắn tít sau máy bay ở vận tốc 110 dặm/ giờ và ở độ cao 450m. cuối cùng tấm lưới cũng đứt sau vài phút và chiếc dù dự phòng đã giúp tôi xuống đất an toàn. Khi tôi đến báo cáo sự việc cho Kinnard, tất cả những gì ông ấy nói là : " Xin chào , ngưới may mắn".
    Khi tôi đang mòn mỏi hoàn tất nhiệm kỳ 3 năm trong NATO ở Na uy đầu những năm 1960, tôi nghe những lời đồn về việc bộ sậu của Kennedy đang xem xét đặc biệt tới ý tưởng cơ động không quân. Vào tháng 8 -1963 tôi hoàn tất nhiệm kỳ tại NATO và bắt đầu cho 1 năm tại trường Chiến Tranh Hải Quân ( NAval War) ởi Newport, Rhode Island. Tôi đã là trung tá được 4 năm và đang tranh đấu để nhận được 1 tiểu đoàn cho sự bổ nhiệm kế tiếp.
    Lúc này Lục quân đã thành lập sư đoàn Xung kích không vận số 11, với trung tướng Kinnard là tư lệnh. Tôi viết 1 bức thư cho người chủ cũ xin chỉ huy 1 tiểu đoàn bộ binh trong sư đoàn mới của ông. ( Trong thời gian đó 1tư lệnh sư đoàn có thể chọn chỉ huy tiểu đoàn, lữ đoàn đơn giản bằng cách yêu cầu tên tuổi họ với cấp trên. Từ giữa những năm 70 những ch3 huy được lựa chọn thông qua những Ban tuyển lựa dựa vào thành tích cá nhân.). Tháng 4-1964 tôi hoàn thành khoá học, Lầu năm góc thông báo cho tôi biết, Kinnard đã yêu cầu bổ nhiệm tôi là Tiều đoàn trưởng tiểu đoàn 2, trung đoàn 23 bộ binh, đơn vị được tách ra từ sư đoàn bộ binh số 2 và được phân bổ cho sư đoàn Xung kích không vận số 11.
    Thứ 7 ngày 27-06 tôi tới Fort Benning, Georgia. Tôi được bố trí cho 1 lớp bổ túc 5 ngày để tái huấn luyện kỹ năng chỉ huy 1 tiểu đoàn. Nhưng những ý nghĩ về sự bổ túc biết mất ngay khi đại tá Thomas W. (Tim) Brown, tư lệnh Lữ đoàn 3 và là chỉ huy mới của tôi, đến và bảo tôi gấp những cuốn sách lại. " Anh sẽ nhận quyền chỉ huy tiểu đoàn vào 9giờ sáng thứ 2 và chúng ta sẽ có 1 cuộc luyện tập thực binh kéo dài 3 ngày ngay sau đó." Ông đưa cho tôi số điệ thoại của đại uý Gregory ( Matt) Dillon, S-3 tiểu đoàn, ( sĩ quan hành quân). Dillon nói doanh trại và sở chỉ huy tiểu đoàn nằm ở đồi Kelly cách khu doanh trại chính tại Benning 5 dặm. Vợ tôi và 5 đứa trẻ đang ở nhà ông bà ngoại gần Auburn, Alabama, cho tới khi chúng tôi nhận được 1 căn hộ tại khu gia binh.
    Vào thứ 2 ngày 29-06 như kế hoạch tôi nhận quyền chỉ huy tiều đoàn. Tôi đã 42 tuổi, 1 người tốt nghiệp West Point khoá 1945. với 19 năm phục vụ bao gồm 14 tháng chiến đấu ở Triều Tiên. Trong buổi nói chuyện ngắn với binh sĩ tiêu đoàn tôi nói đây là 1 tiểu đoàn tốt nhưng có thể tốt hơn nữa. " Tôi sẽ làm việc hết mình" và " tôi cũng mong điều tương tự với mọi người ở đây".
    Ngay trước khi nhận quyền chỉ huy tôi có cuộc nói chuyện dài với người quan trọng nhất trong bất kỳ 1tiểu đoàn nào: Thượng sỉ. Basil L. Plumley, 44 tuổi, cao 1m85, 1người sù sì xuất thân từ West Virginia. Lính tráng hay gọi anh ta là " Hàm răng sắt già" nhưng chỉ dám gọi ở sau lưng.
    Plumpei là người trải qua 2 cuộc chiến và đeo 2 huy hiệu đôi cánh dù thương hạng với 5 ngôi sao nhảy dù chiến đấu. Anh là người mà những lính dù trẻ gọi là "Những gã 4 lần nhảy". Plumley đã sống sót qua 4 lần nhảy dù chiến đấu ở sư đoàn dù 83 trong Thế chiến thứ 2 : Sicily và Salerno năm 1943, D-day ở Normady và Market-Garden ở Hà Lan năm 1944. Tương tư anh cũng nhảy dù chiến đấu 1 lần trong Chiến trnah Triều
    Tiên với Trung đoàn bộ binh không vận 187. Kết thúc Thế Chiến thứ 2 anh là trung sĩ và được thăng chức thượng sĩ năm 1961.
    Thượng sỉ được mọi người tin ( như tôi tin) là 1người khổ luyện, kỷ luật nghiêm và rắn rỏi. Cho đến ngày hôm nay, nhiều cựu binh của tiểu đoàn bị thuyết phục rằng, Chúa trời có thể trông giống như Thượng sĩ Basil Plumley, nhưng Ngài không thể cứng rắn trước tội lội như là chàng Thượng sĩ. Cá nhân, tôi phải cảm ơn ngôi sao may mắn đã ban cho tôi 1tài sản quý như vậy. Tôi nói với Thượng sĩ Basil Plumley, anh có thể liên hệ với tôi vào bất kỳ lúc nào và vì bất cứ chuyện gì.
    Sau buổi lễ các chỉ huy đại đội và ban tham mưu tiểu đoàn có những hiểu biết đầu tiên về viên tiểu đoàn trưởng mới cũng như các tiêu chuẩn mà tôi đặt ra. Chúng thật đơn giản : Chỉ có những tiểu chuẩn bậc nhất được tồn tại trong tiểu đoàn. Những tiêu chuẩn khác nếu được chấp nhận đồng nghĩa với việc bị đánh bại trên chiến trường và cái chết cho mỗi cá nhân trong chiến đấu. Không có nhưng sĩ quan hay binh linh mập. Quá trình ra quyết định sẽ được mở rộng. Hạ quyền lực xuống, nó sẽ được sử dụng khi chiến tranh. Lònh trung thành cũng đựơc khuyến khích. Tôi kiểm tra mọi thứ. Tôi luôn sẵn sàng cả ngày lẫn đêm để nói chuyện bất kỳ sĩ quan nào trong tiểu đoàn. Và cuối cùng thượng sỉ chỉ làm việc cho tôi và chỉ nhận lệnh từ tôi. Anh ta là cánh tay phải của tôi.
    Những lý lịch cá nhân của các nhân vật chính trong Sư đoàn và trong tiểu đoàn tôi sẽ giúp ích cho người đọc. Những người này sẽ xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện.
    Trung tướng Harry W O. Kinnard, tư lệnh sư đoàn, người Texas, 49 tuổi. Học viên West Point khoá 1939, Tốt nghiệp dù năm 1942. (...). Đại tá năm 29 tuổi.
    Chuẩn tướng Richard T. Knowles, phụ tá tư lệnh sư đoàn, 45 tuổi, người Chicago, ông nhận bằng sỉ quan dự bị trong thời gian học Đại học Illinois. Là lính diệt xe tăng trong WW II(...)
    Đại tá Thomas W. Brown, tư lệnh Lữ đoàn 3, 44 tuổi, cao 183, khóa West Point năm 1943, người New York, lính dù trong WW II. Anh ta và tôi cùng là học viên Khóa Nâng Cao của trường Bộ Binh năm 51-52 và cùng phục vụ trong trung đoàn bộ binh số 7 trong chiến tranh Triều Tiên. Giai đoạn 52-53 anh là tiểu đoàn trưởng trong trung đoàn bộ binh số 32, trong khi tôi chỉ huy 2 đại đội và là sĩ quan hành quân của trung đoàn bộ binh số 17. Brown là người trầm tĩnh, lạnh lùng, sắc sảo và hoàn hảo. Đúng theo kiểu của Kinnard, anh chỉ cho nhưng tiểu đoàn trưởng những hướng dẫn sau đó để họ tự do chỉ huy đơn vị của mình. Anh chỉ huy Lữ đoàn từ đầu năm 1963 và tham gia từ ban đầu những bước phát triển về chiến thuật, kỹ thuật, học thuyết cơ động không vận.
    Những sĩ quan của tiểu đoàn tôi là hỗn hợp những người đến từ West Point, ROTC ( Reserve Officers'' Training Corps), OCS ( Officer candidate School) và những trường quân sự như Citadel. Hầu hết nhưng chuẩn uý đều qua OSC và chương trình ROTC ở đại học. Có 3 đại đội súng trường trong tiểu đoàn- Alpha, Bravo, Charlie- mỗi một đại đội đầy đủ có 6 sĩ quan và 164 lính.
    Mỗi một đại đội có 3 trung đội súng trường cộng với 1 trung đội súng cối gồm 3 khẩu đội cối 81mm yểm trợ. Mỗi trung đội có 3 tiểu đội súng trường công với 1 tiểu đội hỏa lực gồm 2 khẩu đại liên M-60.
    Bên cạnh, tiểu đoàn có 1 đại đội hoả lực hỗ trợ chiến đấu, đại đội Delta, bao gồm 1 trung đội trinh sát, 1 trung đội cối, và 1 trung đội chống tăng. Chúng tôi thay thế trung đội chống tăng không cần thiết bằng trung đội súng máy M-60 chó chiến truờng Việt Nam. Đại đội D có 5 sĩ quan và 118 lính.
    Tiểu đoàn bộ (HHC- headquarters & headquarters company)có 14 sĩ quan và 119 lính. HHC bào gồm những cá nhân chỉ huy, tham mưu, thông tin, quân y, vận tải và sửa chữa, và hậu cần. Trung đội quân y trong HHC bao gồm đội phẫu thuật tiểu đoàn, 1 đại uý và 1 thiếu uý quân y MSC ( medical service Corps) có nhiệm vụ đi cùng các cuộc hành quân. Họ tổ chức trạm y tế trong doanh trại và trên chiến trường và cung cấp cho mỗi trung ở các đại đội khác những y sĩ- những người tận tâm và dũng cảm này vẫn được là Doc.
    Một vài sĩ quan tiểu đoàn :
    Đại uý Gregory P. (Matt) Dillon, sĩ quan hành quân. Matt, 32 tuổi con trai 1 sĩ quan chỉ huy cấp thấp của Hải quân trong WW I, người New York, đã có vợ và 2 con. Anh nhận bằng sĩ quan từ ROTC ở Đại học Alabama, nơi anh là thanh viên chạy tốc độ của đội điền kinh. Anh đã 2 lần chỉ huy đại đội trong đó có cả đại đội B của tiểu đoàn này. Anh được trời phú cho 1 bộ óc sáng suốt và nhanh nhạy và anh là người vì mọi người. S-3, hay sĩ quan hành quân, của bất kỳ đơn vị nào là 1 phần của bộ não của vị chỉ huy, người biến những ý tưởng thành nhữn kế hoạch và sau đó kết hợp tất cả các bộ phận trong 1 cuộc hành quân quân sự. Matt là S-3 của tôi trong 2 năm cả ở tiểu đoàn và lữ đoàn và anh ta đơn giản là tuyệt vời.
    Đại uý Gordon P. (Rosie) Rozanski, đại đội trưởng HHC, Sau này ở VN, anh là sĩ quan hậu cần của tiểu đoàn, S-4. Rosie, 26 tuổi, người Elysian, Minesota, được nhận bằng sĩ quan từ OSC. Anh ta có bằng cử nhân, một người vui tính, thẳng thắn. Anh có trách nhiệm lựa chọn và bảo vệ sở chỉ huy tiểu đoàn trên chiến trường; cơm nước cho sĩ quan và binh lính trong ban chỉ huy và bộ phận trợ giúp và bảo dưỡng bảo vệ cho 1 kho khổng lồ vũ khí, thiết bị thông tin, điện tử.
    Đại úy John D. Herren, đại đội trưởng ĐĐ B, 1 cử nhân 29 tuổi, hút thuốc bằng tẩu, có dòng dõi quân đội- Cha là trung tướng Lục quân- và là người tốt nghiệp West Point khóa 1958. Trầm tính, suy nghĩ chín chắn, hoà đồng và kiên định. Chưa ai trông thấy cậu ấy bị kích động.
    Đại uý Robert H. (Bob) Edwards, đại đội trưởng ĐĐ C. 27 tuổi, có vợ, người New Jersey. Anh là là người tôi nghiệp quân sự xuất sắc của chương trình ROTC tại Đại học Lafayette năm 1960. Mỏng người, cao 1m70. Rất thông minh và rất ít nói, anh nói ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Anh là người có khả năng vượt trội cũng như những sĩ quan và binh lính anh chỉ huy trong ĐĐ C.
  4. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Đại uý Ramon A. (Tony) Nadal, Đại đội trưởng ĐĐ A , lúc đầu Nadal là S-2 của tiểu đoàn, ( sĩ quan tình báo), 29 tuổi, bạn cùng lớp với John Herren ở West Point, con trai của 1 đại tá Lục quân. Cha của Tony, 1 người Puerto Rico, là chuyên gia quân quân đội trong Ban Trung và Nam Mỹ của Bộ Ngoại Giao và Tony lớn lên ở những nơi đó. Anh ta đã có vợ và 1 đứa con. Trong những ngày cuối cùng trước khi lên tàu sang Việt Nam, Tony đến phòng chỉ huy của tôi và thỉnh cầu được chỉ huy 1 đại đội. Anh đã có 1 năm chiến đấu ở VN, chỉ huy 1 nhóm Lực lượng Đặc Biệt, và muốn quay lại đó. Anh đã được bổ nhiệm qua Triều Tiên và đang trên đường nhận nhiệm vụ từ Oklahoma thì 1 người bạn trong ban quân lực Lục quân nói cho biết Sư đoàn kỵ binh số 1 đang chuẩn bị sang VN. Nadal lấy xe của gia đình và lái nửa vòng đất nước. Tới Fort Benning, người đánh máy của phòng quân lực sư đoàn nói anh có thể nhận vị trí sĩ quan thông tin của Lữ đoàn. Anh đã dành 2 ngày để đi khắp Sư đoàn để tìm 1 vị trí chỉ huy quân chiến đấu. Tôi thích những gì đã thấy và được nghe kể về anh ta. Tôi nói với Nadal rằng tôi chưa thể cho anh ta 1 đại đội ngay tức thì, nhưng tôi sẽ nhận anh ta làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn. Trên chuyến tàu, những cuốn sách của Nadal, chật ních trong 1 cái hộp lớn, được yêu cầu đọc trong toàn tiểu đoàn. Và anh ta cũng dạy trong những lớp học về địa hình và kẻ thù.
    Đại uý Louis R. (Ray) Lefebvre, đại đội trưởng ĐĐ D. Giống như Nadal, Ray đến chỗ tôi để tìm 1 vị trí chỉ huy đại đội, và được bổ nhiệm là phụ tá sĩ quan hành quân trước khi được toại nguyện. 32 tuổi, người Bonners Ferry, Idaho, có vợ và 4 con. Nhận bằng sĩ quan từ ROTC tại trường Đại học Gonzaga, Ray cũng đã phục vụ 1 nhiệm kỳ ở VN ( 1963-1964) và rất thông thạo tiếng Việt. Bởi vì khả năng ngoại ngữ, anh được trao cho 1 công việc trong ban quan hệ cộng đồng của Sư đoàn bộ. Ray xin tôi 1 công việc để ra ngoài Sư đoàn bộ, và ra chiến trường với binh lính. " Có điều gì sắp xảy ra và tôi muốn được tham gia với nó", anh ta nói. Tôi nói rằng, nếu anh nhận việc trong S-3 dưới quyền của Matt Dillon, anh sẽ có cơ hội nhận 1 đại đội.
    Thiếu uý không quân Charlie W. Hastings, 26 tuổi, tốt nghiệp ROTC tại trường Đại học Bắc Colorado, và là 1 phi công huấn huyện máy bay F-4, được bổ nhiệm là kiểm soát viên tiền phương không quân của tiểu đoàn 6 tuần trước khi chúng tôi sang VN. Charie nhận nhiều trò đùa của các tay tiếu lâm lục quân nhưng anh ta làm tốt công việc và dễ dàng chứng tỏ sự thành thạo với khẩu M-16.
    Sức mạnh thật sự của tiểu đoàn tôi là những trung sĩ, hầu hết là những cựu binh chiến đấu, đã từng phục vụ trong tiểu đoàn từ 3 tới 5 năm. 1 trong những hạ sĩ quan tiểu biểu này là Trung sĩ nhất Larry M, Gilreath, 1 cựu chiến binh của Chiến tranh Triều Tiên, người hạt Anderson, South Carolina. Anh là trung sĩ trung đội của trung đội 1, ĐĐ Bravo, và đã ở trong tiểu đoàn từ năm 1961. Trong thời gian đó anh ta đã huấn luyện nhiều thiếu uý chỉ huy trẻ , nhiều hơn số ngón tay trên hai bàn tay. Những thiếu uý đến và đi nhưng Gilreath thì ở lại mãi. Anh là sụ ổn định và liên tục của trung đội; anh ta biết mọi người trong trung đội, những điểm mạnh yếu của họ. Luôn có những người như anh trong mỗi trung đội của tiểu đoàn của tôi.
    Một khi tôi nắm tiểu đoàn, mục tiêu của tôi là tạo ra 1 tiểu đoàn xung kích bộ binh không vận tốt nhất trên thế giới và đáng tự hào nhất. Mỗi người trong tiểu đoàn phải biết và tin rằng anh ta là 1 bộ phận quan trọng trong cái tốt nhất đó. Chúng tôi huấn luyện và diễn tập. Nhưng quan chức cấp cao từ toàn quân đội Mỹ và đồng minh thường xuyên tới thăm chúng tôi: 1 mệnh lệnh được phát ra : đây là nơi sáng tạo ra một cái gì đó mới, khác biệt, hủy diệt trong nghệ thuật chiến tranh. Hàng trăm trực thăng được chuyển giao cho chúng tôi, những phi đội không quân và lính bộ binh trở thành 1 đội hình gắn chặt với nhau trong những chuyến bay hành quân trên những cánh rừng và đầm lầy của bang Georgia và Carolinas.
    Nếu hệ thống này được vận hành, những người lính sẽ chỉ lo chiến đấu chứ không phải mất thời gian chờ đợi xe tải hay lo lắng về hậu cẩn có thể tới được hay không. Giống như con hậu trên bàn cờ, bây giờ chúng tôi có thể tấn công bên sườn hay sau lưng quân địch chỉ trong thời gian tính bằng phút. Trực thăng nhanh hơn quân bộ 110 dăm/ giờ.
    Trong 14 tháng trước khi sang VN chúng tôi chủ yếu ở trên bãi tập, thực hành đổ bộ từ trực thăng phối hợp với 1 hệ thống phức tạp pháo binh yểm trợ, không quân chiến thuật, và phi pháo không quân ( aerial rocket artillery) và lộ trình tiến vào và rút ra vùng chiến của trực thăng.
    Những chỉ huy phải học cách nhận biết các địa hình khác nhau để nhanh chóng tìm ra những bãi đáp ( LZ - landing zone), bãi di tản ( PZ- Pickup zone) trong mọi trường hợp. Chúng tôi luyện tập đổ và rút quân cùng với trang thiết bị thật nhanh chóng để giảm thiểu tình trạng nguy hiểm của trực thăng khi đứng yên.
    Có một thực tế tàn khốc mà tôi nhấn mạnh trong mỗi cấp huấn luyện lần này là : Chúng tôi tuyên bố 1trung đội trưởng chết và để trung sĩ của anh ta thay thế và tiếp tục nhiệm vụ. Hoặc tuyên bố trung sĩ chết và cho 1 trong những binh nhất của anh ta nắm quyền tiểu đội. Chúng tôi huấn luyện cho chiến tranh, khi những chỉ huy bị giết trên chiến trường. Tôi muốn mỗi người được huấn luyện khả năng đảm nhiệm các vị trí của người chỉ huy cấp trên.
    Lễ tốt nghiệp của Sư đoàn xung kích không vận 11 là 1 chương trình diễn tập cuối cùng, Air Assault II, diễn ra ở Carolinas trong 2 tháng 10 và 11 năm 1964. Có khoảng 35,000 lính tham dự, Sư đoàn xung kích không vận 11 được tổ chức chống lại quân " xâm lược" , sư đoàn dù 82. Hàng trăm VIP từ Washington nhộn nhịp tới lui để xem chiến thuật trực thăng vận chiến đấu trên chiến trường. Sự hiện diện của họ làm tăng thêm tin đồn chúng tôi huấn luyện cho chiến trường VN.
    Thật mỉa mai, vào 1 đêm khuya ở vị trí chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi nghe được trên máy radio chiến trường mới, PRC-25, 1 kiểm soát viên không quân tiền phương, đang hướng dẫn 1 cuộc dội bom ở VN. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng đạn bắn, tiếng bom nổ, ở cách xa 12 ngàn dặm trên làn sóng radio đứt quãng, điều này mang tới cảm giác của 1 cuộc chiến tranh thật sự trên những cánh rừng thông hoang vắng vùng South Carolina nơi chúng tôi đang chơi trò chơi chiến tranh.
  5. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Đại uý Ramon A. (Tony) Nadal, Đại đội trưởng ĐĐ A , lúc đầu Nadal là S-2 của tiểu đoàn, ( sĩ quan tình báo), 29 tuổi, bạn cùng lớp với John Herren ở West Point, con trai của 1 đại tá Lục quân. Cha của Tony, 1 người Puerto Rico, là chuyên gia quân quân đội trong Ban Trung và Nam Mỹ của Bộ Ngoại Giao và Tony lớn lên ở những nơi đó. Anh ta đã có vợ và 1 đứa con. Trong những ngày cuối cùng trước khi lên tàu sang Việt Nam, Tony đến phòng chỉ huy của tôi và thỉnh cầu được chỉ huy 1 đại đội. Anh đã có 1 năm chiến đấu ở VN, chỉ huy 1 nhóm Lực lượng Đặc Biệt, và muốn quay lại đó. Anh đã được bổ nhiệm qua Triều Tiên và đang trên đường nhận nhiệm vụ từ Oklahoma thì 1 người bạn trong ban quân lực Lục quân nói cho biết Sư đoàn kỵ binh số 1 đang chuẩn bị sang VN. Nadal lấy xe của gia đình và lái nửa vòng đất nước. Tới Fort Benning, người đánh máy của phòng quân lực sư đoàn nói anh có thể nhận vị trí sĩ quan thông tin của Lữ đoàn. Anh đã dành 2 ngày để đi khắp Sư đoàn để tìm 1 vị trí chỉ huy quân chiến đấu. Tôi thích những gì đã thấy và được nghe kể về anh ta. Tôi nói với Nadal rằng tôi chưa thể cho anh ta 1 đại đội ngay tức thì, nhưng tôi sẽ nhận anh ta làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn. Trên chuyến tàu, những cuốn sách của Nadal, chật ních trong 1 cái hộp lớn, được yêu cầu đọc trong toàn tiểu đoàn. Và anh ta cũng dạy trong những lớp học về địa hình và kẻ thù.
    Đại uý Louis R. (Ray) Lefebvre, đại đội trưởng ĐĐ D. Giống như Nadal, Ray đến chỗ tôi để tìm 1 vị trí chỉ huy đại đội, và được bổ nhiệm là phụ tá sĩ quan hành quân trước khi được toại nguyện. 32 tuổi, người Bonners Ferry, Idaho, có vợ và 4 con. Nhận bằng sĩ quan từ ROTC tại trường Đại học Gonzaga, Ray cũng đã phục vụ 1 nhiệm kỳ ở VN ( 1963-1964) và rất thông thạo tiếng Việt. Bởi vì khả năng ngoại ngữ, anh được trao cho 1 công việc trong ban quan hệ cộng đồng của Sư đoàn bộ. Ray xin tôi 1 công việc để ra ngoài Sư đoàn bộ, và ra chiến trường với binh lính. " Có điều gì sắp xảy ra và tôi muốn được tham gia với nó", anh ta nói. Tôi nói rằng, nếu anh nhận việc trong S-3 dưới quyền của Matt Dillon, anh sẽ có cơ hội nhận 1 đại đội.
    Thiếu uý không quân Charlie W. Hastings, 26 tuổi, tốt nghiệp ROTC tại trường Đại học Bắc Colorado, và là 1 phi công huấn huyện máy bay F-4, được bổ nhiệm là kiểm soát viên tiền phương không quân của tiểu đoàn 6 tuần trước khi chúng tôi sang VN. Charie nhận nhiều trò đùa của các tay tiếu lâm lục quân nhưng anh ta làm tốt công việc và dễ dàng chứng tỏ sự thành thạo với khẩu M-16.
    Sức mạnh thật sự của tiểu đoàn tôi là những trung sĩ, hầu hết là những cựu binh chiến đấu, đã từng phục vụ trong tiểu đoàn từ 3 tới 5 năm. 1 trong những hạ sĩ quan tiểu biểu này là Trung sĩ nhất Larry M, Gilreath, 1 cựu chiến binh của Chiến tranh Triều Tiên, người hạt Anderson, South Carolina. Anh là trung sĩ trung đội của trung đội 1, ĐĐ Bravo, và đã ở trong tiểu đoàn từ năm 1961. Trong thời gian đó anh ta đã huấn luyện nhiều thiếu uý chỉ huy trẻ , nhiều hơn số ngón tay trên hai bàn tay. Những thiếu uý đến và đi nhưng Gilreath thì ở lại mãi. Anh là sụ ổn định và liên tục của trung đội; anh ta biết mọi người trong trung đội, những điểm mạnh yếu của họ. Luôn có những người như anh trong mỗi trung đội của tiểu đoàn của tôi.
    Một khi tôi nắm tiểu đoàn, mục tiêu của tôi là tạo ra 1 tiểu đoàn xung kích bộ binh không vận tốt nhất trên thế giới và đáng tự hào nhất. Mỗi người trong tiểu đoàn phải biết và tin rằng anh ta là 1 bộ phận quan trọng trong cái tốt nhất đó. Chúng tôi huấn luyện và diễn tập. Nhưng quan chức cấp cao từ toàn quân đội Mỹ và đồng minh thường xuyên tới thăm chúng tôi: 1 mệnh lệnh được phát ra : đây là nơi sáng tạo ra một cái gì đó mới, khác biệt, hủy diệt trong nghệ thuật chiến tranh. Hàng trăm trực thăng được chuyển giao cho chúng tôi, những phi đội không quân và lính bộ binh trở thành 1 đội hình gắn chặt với nhau trong những chuyến bay hành quân trên những cánh rừng và đầm lầy của bang Georgia và Carolinas.
    Nếu hệ thống này được vận hành, những người lính sẽ chỉ lo chiến đấu chứ không phải mất thời gian chờ đợi xe tải hay lo lắng về hậu cẩn có thể tới được hay không. Giống như con hậu trên bàn cờ, bây giờ chúng tôi có thể tấn công bên sườn hay sau lưng quân địch chỉ trong thời gian tính bằng phút. Trực thăng nhanh hơn quân bộ 110 dăm/ giờ.
    Trong 14 tháng trước khi sang VN chúng tôi chủ yếu ở trên bãi tập, thực hành đổ bộ từ trực thăng phối hợp với 1 hệ thống phức tạp pháo binh yểm trợ, không quân chiến thuật, và phi pháo không quân ( aerial rocket artillery) và lộ trình tiến vào và rút ra vùng chiến của trực thăng.
    Những chỉ huy phải học cách nhận biết các địa hình khác nhau để nhanh chóng tìm ra những bãi đáp ( LZ - landing zone), bãi di tản ( PZ- Pickup zone) trong mọi trường hợp. Chúng tôi luyện tập đổ và rút quân cùng với trang thiết bị thật nhanh chóng để giảm thiểu tình trạng nguy hiểm của trực thăng khi đứng yên.
    Có một thực tế tàn khốc mà tôi nhấn mạnh trong mỗi cấp huấn luyện lần này là : Chúng tôi tuyên bố 1trung đội trưởng chết và để trung sĩ của anh ta thay thế và tiếp tục nhiệm vụ. Hoặc tuyên bố trung sĩ chết và cho 1 trong những binh nhất của anh ta nắm quyền tiểu đội. Chúng tôi huấn luyện cho chiến tranh, khi những chỉ huy bị giết trên chiến trường. Tôi muốn mỗi người được huấn luyện khả năng đảm nhiệm các vị trí của người chỉ huy cấp trên.
    Lễ tốt nghiệp của Sư đoàn xung kích không vận 11 là 1 chương trình diễn tập cuối cùng, Air Assault II, diễn ra ở Carolinas trong 2 tháng 10 và 11 năm 1964. Có khoảng 35,000 lính tham dự, Sư đoàn xung kích không vận 11 được tổ chức chống lại quân " xâm lược" , sư đoàn dù 82. Hàng trăm VIP từ Washington nhộn nhịp tới lui để xem chiến thuật trực thăng vận chiến đấu trên chiến trường. Sự hiện diện của họ làm tăng thêm tin đồn chúng tôi huấn luyện cho chiến trường VN.
    Thật mỉa mai, vào 1 đêm khuya ở vị trí chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi nghe được trên máy radio chiến trường mới, PRC-25, 1 kiểm soát viên không quân tiền phương, đang hướng dẫn 1 cuộc dội bom ở VN. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng đạn bắn, tiếng bom nổ, ở cách xa 12 ngàn dặm trên làn sóng radio đứt quãng, điều này mang tới cảm giác của 1 cuộc chiến tranh thật sự trên những cánh rừng thông hoang vắng vùng South Carolina nơi chúng tôi đang chơi trò chơi chiến tranh.
  6. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Cái gì thế này hả mấy ông Mod???????
    Đây là lần duy nhất tiểu đoàn của tôi có đầy đủ ( hoặc gần như đầy đủ), quân số bao gồm 37 sĩ quan, 1 chuẩn uý, và 729 hạ sĩ quan và binh lính. Số này thay đổi vào mùa xuân năm 1965, khi chúng tôi bị lấy đi 8 trong số 15 trung uý trung đội trưởng. Hầu hết là sĩ quan dự bị những người đã kết thúc thời hạn trực chiến theo luật; những người khác bị thuyên chuyển hoặc tái bổ nhiệm đi nơi khác. Giữa tháng 4 và tháng 10 chúng tôi cũng bị mất người do giải ngũ và tái bổ nhiệm các vị trí : sĩ quan tình báo, phẫu thuật, sĩ quan quân lực, sĩ quan hành quân không quân, phụ tá quân y, cha tuyên uý, và 2 đại đội trưởng.
    Đầu tháng 6 chúng tôi được nhận 6 thiếu úy mới ra trường. Chúng tôi dùng họ lấp vào các vị trí trung đội trưởng súng trường còn trống và dành cho họ 1 khoá huấn luyện 6 tuần ngay tại chức về những chiến thuật cơ động không vận gọi là, " get rich quick". Nhưng đầu tháng 8 ít ngày trước khi chúng tôi lên đường, cả 6 người này được lệnh ở lại Fort Benning để tham dự Khoá học Sĩ quan Bộ binh Cơ bản 6 tháng. Ai đó đã khám phá ra 1 chính sách của Lục quân, những thiếu uý sẽ không được ra trận nếu chưa qua khoá học này. Chính sách nghe rất có lợi, nhưng hậu quả của nó đối với tiểu đoàn tôi là binh lính dưới quyền cứ rối tinh rối mù vì sự thay đổi chỉ huy không cần thiết.
    Mỗi Đại đội súng trường có 3 trung đội trưởng mới, ngoại trừ ĐĐ Alpha có 2. Mỗi 1 đại đội có 1 trung đội súng cối, nhưng chúng tôi không có sĩ quan để chỉ huy nó. ĐĐ Delta có 1 trung đội trưởng trinh sát mới, Trung úy John Arrington, và 1 trung đội trưởng súng cối mới, trung úy Raul E. Taboada- Requera.
    Có rất ít thời gian trong khoá huấn luyện 14 tháng để dạy chiến thuật cơ động không vận cho những trung uý trẻ này. Chúng tôi cố hết sức và họ cũng vậy. Khi họ tới trình diện, tôi gọi tất cả lại cùng với những trung sĩ trung đội của họ, và nói với họ rằng chúng ta đang chuẩn bị cho chiến tranh và thời gian thì gấp. Tôi ra 2 mệnh lệnh : Một, những trung sĩ sẽ dạy cho họ tất cả những gì có thể về chiến thuật cơ động không vận, tác chiến theo đơn vị nhỏ, những binh sĩ dưới quyền và cách thức chỉ huy họ. Hai, trừ khi đặt câu hỏi những trung úy mới này sẽ phải ngậm miệng lại, lắng nghe và ghi nhớ mọi thứ.
    Đầu tháng 7 Lầu Năm Góc công bố Sư đoàn xung kích không vận ( thử nghiệm) sẽ phục vụ cho đất nước; bây giờ được đổi tên thành Sư đoàn Kỵ Binh số 1 ( Cơ động không vận). Đại tá Brown, một người luôn coi trọng truyền thống và di sản quân sự, đã yêu cầu trao những lá cờ lịch sử của Trung đoàn số 7 Kỵ Binh Hoa Kỳ cho 2 tiểu đoàn của ông. Tiểu đoàn của tôi được khai sinh lại thành Tiểu đoàn 1, Trung đoàn số 7 Kỵ Binh. Tiểu đoàn anh em của chúng tôi trở thành Tiểu đoàn 2, Trung đoàn số 7 Kỵ Binh .
    Vào những ngày trung tá George Armstrong Custer chỉ huy Trung đoàn số 7 Kỵ Binh, trung đoàn dùng 1 bài hát của những gã say rượu Ireland ồn ào, có tên là " Garry Owen" làm bài hát vui của trung đoàn. Dònh chữ " Garry Owen" được viết dọc 2 bên đường vào doanh trại trung đoàn và những sĩ quan, binh lính dần dần chào hỏi nhau bằng câu " Garry Owen, sir!". Chúng tôi tiếp nối truyền thống này với sự hồ hởi của binh lính.
    Những sĩ quan và phi công mang dòng máu nóng của phi đoàn 3 trung đoàn kị binh 17 dưới sự chỉ huy của trung tá John B. Stockon giờ trở thành Phi đoàn 1, trung đoàn 9 kỵ binh- họ đã tiếp nhận từng chi tiết của tinh thần kỵ binh năm xưa. Họ để những bộ ria mép lớn và đội những chiếc mũ rộng vành Stetson, họ đựng giấy tờ trong những chiếc túi da mà các kỵ binh năm xưa đeo trên lưng ngựa, bất chấp việc những bộ phận bảo thủ trong Ban chỉ huy sư đoàn làm mọi thứ để ngăn cản họ. Stockon và những người của anh ta thậm chí còn mang lậu con thú biểu tượng vui của họ ( mascot), Con la Maggie, sang VN, bất chấp một lệnh cấm nghiêm nghặt mọi con vật nuôi lên tàu được ban ra nhằm vào việc ngăn cản con la này sang VN.
    Thật không may, tiểu đoàn của tôi và những tiểu đoàn khác trong sư đoàn giờ đây đang phải gánh chịu hậu quả của việc TT Johnson từ chối ban bố quốc gia trong tình trạng khẩn cấp và gia hạn thời gian phục vụ của lính quân dịch và sĩ quan dự bị. Một lệnh được ban xuống, bất cứ ai có thời gian phục vụ còn lại 60 ngày hoặc ít hơn tính từ ngày lên đường sẽ được ở lại.
    Chúng tôi như bị đâm ngay tim. Chúng sắp sửa ra trận mà không có đủ sức mạnh, bị què quặt bởi sự mất đi gần 1 trăm binh lính chỉ trong tiểu đoàn của tôi. Những người rất hiếm hoi có khả năng chiến đấu hữu hiệu- vì được huấn luyện lâu nhất những kỹ thuật mới của chiến tranh trực thăng vận- vì lệnh này bị đưa ra khỏi đội ngũ chúng tôi.
    Đêm cuối cùng của chúng tôi ở Fort Benning là thứ 6 ngày 13 - 8-1965. Tôi về nhà sớm hơn thường lệ, khoảng 7 giờ tối, ăn cơm với Julie, vợ tôi, cùng với 5 đứa con tuổi từ 13 tới 3. Tôi nói với tất cả ngày mai tôi sẽ đi rất sớm, trước khi mọi người thức giấc, và tôi sẽ lên đường tới chiến tranh ở VN. Sau đó tôi ngồi đọc truyện cho con gái của tôi, Celice, 6 tuổi. Nó nhìn vào 1 điểm và hỏi : " Cha ơi, chiến tranh là gì?" Tôi cố hết sức để giải thích, nhưng sự hoang mang vẫn bao trùm trong đôi mắt nó.
    Tôi đặt đồng hồ báo thức lúc 1giờ 30 và vào lúc 3 giờ 30 sáng toàn tiểu đoàn đã ngồi trên những chiếc xe bus hướng về Cảng Charleston, South Carolina, nơi tàu vận tải USNS Maurice Rose đang đợi. Chúng tôi rời Cảng Charleston sáng ngày 16-08-1965 và phải mất gần 1 tháng chiếc "Ramblin'' Rose" vượt qua kênh Panama, Thái Bình Dương để tới VN. Cũng đúng vào ngày đó, 16-08, những đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 66, quân đội nhân dân VN rời căn cứ của họ tại Thanh Hóa, Bắc VN. Họ sẽ mất gần 2 tháng hành quân bằng đôi chân vượt qua chặng đường 500 dặm dọc đường mòn Hồ Chí Minh để đến điểm gặp gỡ với chúng tôi trong Thung lũng Ia Drang.
    Tàu Rose thả neo tại Cảng Qui Nhơn, miền trung Nam VN, vào giữa tháng 9, chúng tôi được chào đón tại bến bởi những bộ phận tiền phương của sư đoàn. Với sự giúp đỡ của sư đoàn dù 101, 1 vùng rộng lớn rừng rậm phía bắc An Khê được phát quang và đảm bảo an ninh. An khê , nằm cách 42 dặm về phía tây Qui Nhơn trên đường 19, sẽ là căn cứ của Sư đoàn kỵ binh số 1. Thật quý giá những gì tướng Kinnard đấu tranh quyết liệt cho lính cơ động không vận của ông : 1 trại huấn luyện nằm giữa Vùng Indian.
    Kinnard vận động hành lang nhiều ở Washington, Saigon, và Bangkok để sư đoàn mới của ông được đặt căn cứ bên trong Thái Lan. Từ đó nó sẽ thực hiện những cuộc hành quân vào Nam VN và những đường tiếp tế của Bắc VN bên trong Lào và Cam pu chia. Những yêu cầu của Kinnard chẳng những không nhận được sự đồng tình nào mà những phản ứng lại thì chẳng lây gì làm lịch sự. Sư đoàn của ông bây giờ phải xây dựng, đóng quân và canh gác trong 1 doanh trại, những công việc này sẽ làm giảm số lượng quân chiến đấu sẵn sàng cho mục đich tìm và diệt quân thù.
    Khi những chiếc trực thăng vận tải Chinook chở tiểu đoàn tới An Khê, chúng tôi bay qua 1 đường băng nhỏ, có 1 toà nhà 3 gian màu vàng nằm phía cuối tây bắc. Khi chiếc tàu còn lênh đêng trên biển, tôi đọc lại cuốn " Street Without Joy" của Bernard Fall và tôi nhận ra đường băng chính là điểm xuất phát của Binh đoàn cơ động 100 của người Pháp, vào ngày 24-06-1954 khi nó tiến lên phía tây trên đường 19, đâm thẳng vào 1 trận phục kích lịch sử của *********, 1 trận đánh góp phần đóng dấu sự lụi tàn của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.
    Chúng tôi bước ra ngoài trực thăng tới 1 khoảng không trước mặt đầy những cây lớn nhỏ, những bụi rậm nối tiếp nhau, đây là nơi sẽ trở thành sân bay của chúng tôi, "sân Golf". Chuẩn tướng John M, Wright, phụ tá tư lệnh sư đoàn, tuyên bố sân bay của 450 trực thăng và máy bay của sư đoàn kỵ binh sẽ " mềm mại như 1 sân golf". Ông không muốn bất cứ 1 chiếc xe ủi đất nào cày xới đất đai của nơi này biến chúng thành những bãi bùn trong mùa mưa và những cơn bão bụi đỏ trong mùa khô.
    Binh lính của sư đoàn cùng với khoảng 2000 lao công VN đã dọn sạch vùng đất bằng tay, với cuốc và xẻng, và Tướng Wright có ngay 1 sân Golf. Họ cũng xây dựng 1 hệ thống vòng chiến hào phòng thủ kiên cố dài 12 dặm và rộng khoảng 100 thước, gọi là đường ngăn chặn ( Barrier Line), xung quanh căn cứ. Chúng tôi sống trong điều kiện dã chiến : dựng lều, khẩu phần C, chỉ tắm khi trời mưa. Các tiểu đoàn thay phiên nhau cử người canh gác những điểm báo động bên ngoài Barrier Line và tuần tra để ngăn chặn ********* từ xa. Tiểu đoàn tôi mất 2 người vì chết đuối khi phải vượt Sông Ba trong các cuộc tuần tra vào tháng đầu tiên.
    Trong những ngày đầu tiên có những đốm sáng ( được phóng ra từ những quả lựu đạn flash cài nhằm phát hiện từ xa sự đột nhậm của đối phương) do du kích địa phương phát ra, và những người lính mất bình tĩnh đã bắn dữ dội vào nhiều hàng cây xanh trước khi 1 kỷ luật nổ súng được ban bố. Trời a, 1 trong những nạn nhân của những người lính mất bình tĩnh này chính là con vật vui của đại tá Stockon, Con la Maggie, nó bị bắn hạ bởi 1 lính thuộc ĐĐ Charlie của tôi khi nó đang lang thang trong 1 đêm tối trời. (...)
    1 lần một ngày mỗi người trong chúng tôi, dưới sự giám sát kỹ lưỡng, phải khó nhọc uống 1 viên thuốc chống sốt rét màu vàng. Nếu ai đó bị bắt gặp ngủ ngoài mùng chống muỗi cũng sẽ bị phạt ( không án), cho dù trời có nóng cỡ nào. Tuy vậy chúng tôi bắt đầu mất người bởi vì sốt rét trong vòng 2, 3 tuần. Trong 6 tuần 56 lính trong tiểu đoàn tôi được chuyển tới Bệnh viện vì bị sốt rét nặng.Vấn đề là có 1 chủng loại vi rút đặc biệt của riêng vùng Cao Nguyên, và khả năng chống sốt rét của các loại thuốc lúc đó cũng hạn chế.
    Sự thất thoát nhân lực của tiểu đoàn vì hết hạn quân dịch vẫn tiếp tục.Cuối tháng 9 tiểu đoàn tôi có 679 sĩ quan và lính so với 767 người khi đầy đủ như yêu cầu. 4 trung sĩ và 17 lính về nhà vào tháng 10. Tháng 11, 6 trung sĩ và 132 người của tiểu đoàn được lên lịch trở về nhà.
  7. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Cái gì thế này hả mấy ông Mod???????
    Đây là lần duy nhất tiểu đoàn của tôi có đầy đủ ( hoặc gần như đầy đủ), quân số bao gồm 37 sĩ quan, 1 chuẩn uý, và 729 hạ sĩ quan và binh lính. Số này thay đổi vào mùa xuân năm 1965, khi chúng tôi bị lấy đi 8 trong số 15 trung uý trung đội trưởng. Hầu hết là sĩ quan dự bị những người đã kết thúc thời hạn trực chiến theo luật; những người khác bị thuyên chuyển hoặc tái bổ nhiệm đi nơi khác. Giữa tháng 4 và tháng 10 chúng tôi cũng bị mất người do giải ngũ và tái bổ nhiệm các vị trí : sĩ quan tình báo, phẫu thuật, sĩ quan quân lực, sĩ quan hành quân không quân, phụ tá quân y, cha tuyên uý, và 2 đại đội trưởng.
    Đầu tháng 6 chúng tôi được nhận 6 thiếu úy mới ra trường. Chúng tôi dùng họ lấp vào các vị trí trung đội trưởng súng trường còn trống và dành cho họ 1 khoá huấn luyện 6 tuần ngay tại chức về những chiến thuật cơ động không vận gọi là, " get rich quick". Nhưng đầu tháng 8 ít ngày trước khi chúng tôi lên đường, cả 6 người này được lệnh ở lại Fort Benning để tham dự Khoá học Sĩ quan Bộ binh Cơ bản 6 tháng. Ai đó đã khám phá ra 1 chính sách của Lục quân, những thiếu uý sẽ không được ra trận nếu chưa qua khoá học này. Chính sách nghe rất có lợi, nhưng hậu quả của nó đối với tiểu đoàn tôi là binh lính dưới quyền cứ rối tinh rối mù vì sự thay đổi chỉ huy không cần thiết.
    Mỗi Đại đội súng trường có 3 trung đội trưởng mới, ngoại trừ ĐĐ Alpha có 2. Mỗi 1 đại đội có 1 trung đội súng cối, nhưng chúng tôi không có sĩ quan để chỉ huy nó. ĐĐ Delta có 1 trung đội trưởng trinh sát mới, Trung úy John Arrington, và 1 trung đội trưởng súng cối mới, trung úy Raul E. Taboada- Requera.
    Có rất ít thời gian trong khoá huấn luyện 14 tháng để dạy chiến thuật cơ động không vận cho những trung uý trẻ này. Chúng tôi cố hết sức và họ cũng vậy. Khi họ tới trình diện, tôi gọi tất cả lại cùng với những trung sĩ trung đội của họ, và nói với họ rằng chúng ta đang chuẩn bị cho chiến tranh và thời gian thì gấp. Tôi ra 2 mệnh lệnh : Một, những trung sĩ sẽ dạy cho họ tất cả những gì có thể về chiến thuật cơ động không vận, tác chiến theo đơn vị nhỏ, những binh sĩ dưới quyền và cách thức chỉ huy họ. Hai, trừ khi đặt câu hỏi những trung úy mới này sẽ phải ngậm miệng lại, lắng nghe và ghi nhớ mọi thứ.
    Đầu tháng 7 Lầu Năm Góc công bố Sư đoàn xung kích không vận ( thử nghiệm) sẽ phục vụ cho đất nước; bây giờ được đổi tên thành Sư đoàn Kỵ Binh số 1 ( Cơ động không vận). Đại tá Brown, một người luôn coi trọng truyền thống và di sản quân sự, đã yêu cầu trao những lá cờ lịch sử của Trung đoàn số 7 Kỵ Binh Hoa Kỳ cho 2 tiểu đoàn của ông. Tiểu đoàn của tôi được khai sinh lại thành Tiểu đoàn 1, Trung đoàn số 7 Kỵ Binh. Tiểu đoàn anh em của chúng tôi trở thành Tiểu đoàn 2, Trung đoàn số 7 Kỵ Binh .
    Vào những ngày trung tá George Armstrong Custer chỉ huy Trung đoàn số 7 Kỵ Binh, trung đoàn dùng 1 bài hát của những gã say rượu Ireland ồn ào, có tên là " Garry Owen" làm bài hát vui của trung đoàn. Dònh chữ " Garry Owen" được viết dọc 2 bên đường vào doanh trại trung đoàn và những sĩ quan, binh lính dần dần chào hỏi nhau bằng câu " Garry Owen, sir!". Chúng tôi tiếp nối truyền thống này với sự hồ hởi của binh lính.
    Những sĩ quan và phi công mang dòng máu nóng của phi đoàn 3 trung đoàn kị binh 17 dưới sự chỉ huy của trung tá John B. Stockon giờ trở thành Phi đoàn 1, trung đoàn 9 kỵ binh- họ đã tiếp nhận từng chi tiết của tinh thần kỵ binh năm xưa. Họ để những bộ ria mép lớn và đội những chiếc mũ rộng vành Stetson, họ đựng giấy tờ trong những chiếc túi da mà các kỵ binh năm xưa đeo trên lưng ngựa, bất chấp việc những bộ phận bảo thủ trong Ban chỉ huy sư đoàn làm mọi thứ để ngăn cản họ. Stockon và những người của anh ta thậm chí còn mang lậu con thú biểu tượng vui của họ ( mascot), Con la Maggie, sang VN, bất chấp một lệnh cấm nghiêm nghặt mọi con vật nuôi lên tàu được ban ra nhằm vào việc ngăn cản con la này sang VN.
    Thật không may, tiểu đoàn của tôi và những tiểu đoàn khác trong sư đoàn giờ đây đang phải gánh chịu hậu quả của việc TT Johnson từ chối ban bố quốc gia trong tình trạng khẩn cấp và gia hạn thời gian phục vụ của lính quân dịch và sĩ quan dự bị. Một lệnh được ban xuống, bất cứ ai có thời gian phục vụ còn lại 60 ngày hoặc ít hơn tính từ ngày lên đường sẽ được ở lại.
    Chúng tôi như bị đâm ngay tim. Chúng sắp sửa ra trận mà không có đủ sức mạnh, bị què quặt bởi sự mất đi gần 1 trăm binh lính chỉ trong tiểu đoàn của tôi. Những người rất hiếm hoi có khả năng chiến đấu hữu hiệu- vì được huấn luyện lâu nhất những kỹ thuật mới của chiến tranh trực thăng vận- vì lệnh này bị đưa ra khỏi đội ngũ chúng tôi.
    Đêm cuối cùng của chúng tôi ở Fort Benning là thứ 6 ngày 13 - 8-1965. Tôi về nhà sớm hơn thường lệ, khoảng 7 giờ tối, ăn cơm với Julie, vợ tôi, cùng với 5 đứa con tuổi từ 13 tới 3. Tôi nói với tất cả ngày mai tôi sẽ đi rất sớm, trước khi mọi người thức giấc, và tôi sẽ lên đường tới chiến tranh ở VN. Sau đó tôi ngồi đọc truyện cho con gái của tôi, Celice, 6 tuổi. Nó nhìn vào 1 điểm và hỏi : " Cha ơi, chiến tranh là gì?" Tôi cố hết sức để giải thích, nhưng sự hoang mang vẫn bao trùm trong đôi mắt nó.
    Tôi đặt đồng hồ báo thức lúc 1giờ 30 và vào lúc 3 giờ 30 sáng toàn tiểu đoàn đã ngồi trên những chiếc xe bus hướng về Cảng Charleston, South Carolina, nơi tàu vận tải USNS Maurice Rose đang đợi. Chúng tôi rời Cảng Charleston sáng ngày 16-08-1965 và phải mất gần 1 tháng chiếc "Ramblin'' Rose" vượt qua kênh Panama, Thái Bình Dương để tới VN. Cũng đúng vào ngày đó, 16-08, những đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 66, quân đội nhân dân VN rời căn cứ của họ tại Thanh Hóa, Bắc VN. Họ sẽ mất gần 2 tháng hành quân bằng đôi chân vượt qua chặng đường 500 dặm dọc đường mòn Hồ Chí Minh để đến điểm gặp gỡ với chúng tôi trong Thung lũng Ia Drang.
    Tàu Rose thả neo tại Cảng Qui Nhơn, miền trung Nam VN, vào giữa tháng 9, chúng tôi được chào đón tại bến bởi những bộ phận tiền phương của sư đoàn. Với sự giúp đỡ của sư đoàn dù 101, 1 vùng rộng lớn rừng rậm phía bắc An Khê được phát quang và đảm bảo an ninh. An khê , nằm cách 42 dặm về phía tây Qui Nhơn trên đường 19, sẽ là căn cứ của Sư đoàn kỵ binh số 1. Thật quý giá những gì tướng Kinnard đấu tranh quyết liệt cho lính cơ động không vận của ông : 1 trại huấn luyện nằm giữa Vùng Indian.
    Kinnard vận động hành lang nhiều ở Washington, Saigon, và Bangkok để sư đoàn mới của ông được đặt căn cứ bên trong Thái Lan. Từ đó nó sẽ thực hiện những cuộc hành quân vào Nam VN và những đường tiếp tế của Bắc VN bên trong Lào và Cam pu chia. Những yêu cầu của Kinnard chẳng những không nhận được sự đồng tình nào mà những phản ứng lại thì chẳng lây gì làm lịch sự. Sư đoàn của ông bây giờ phải xây dựng, đóng quân và canh gác trong 1 doanh trại, những công việc này sẽ làm giảm số lượng quân chiến đấu sẵn sàng cho mục đich tìm và diệt quân thù.
    Khi những chiếc trực thăng vận tải Chinook chở tiểu đoàn tới An Khê, chúng tôi bay qua 1 đường băng nhỏ, có 1 toà nhà 3 gian màu vàng nằm phía cuối tây bắc. Khi chiếc tàu còn lênh đêng trên biển, tôi đọc lại cuốn " Street Without Joy" của Bernard Fall và tôi nhận ra đường băng chính là điểm xuất phát của Binh đoàn cơ động 100 của người Pháp, vào ngày 24-06-1954 khi nó tiến lên phía tây trên đường 19, đâm thẳng vào 1 trận phục kích lịch sử của *********, 1 trận đánh góp phần đóng dấu sự lụi tàn của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.
    Chúng tôi bước ra ngoài trực thăng tới 1 khoảng không trước mặt đầy những cây lớn nhỏ, những bụi rậm nối tiếp nhau, đây là nơi sẽ trở thành sân bay của chúng tôi, "sân Golf". Chuẩn tướng John M, Wright, phụ tá tư lệnh sư đoàn, tuyên bố sân bay của 450 trực thăng và máy bay của sư đoàn kỵ binh sẽ " mềm mại như 1 sân golf". Ông không muốn bất cứ 1 chiếc xe ủi đất nào cày xới đất đai của nơi này biến chúng thành những bãi bùn trong mùa mưa và những cơn bão bụi đỏ trong mùa khô.
    Binh lính của sư đoàn cùng với khoảng 2000 lao công VN đã dọn sạch vùng đất bằng tay, với cuốc và xẻng, và Tướng Wright có ngay 1 sân Golf. Họ cũng xây dựng 1 hệ thống vòng chiến hào phòng thủ kiên cố dài 12 dặm và rộng khoảng 100 thước, gọi là đường ngăn chặn ( Barrier Line), xung quanh căn cứ. Chúng tôi sống trong điều kiện dã chiến : dựng lều, khẩu phần C, chỉ tắm khi trời mưa. Các tiểu đoàn thay phiên nhau cử người canh gác những điểm báo động bên ngoài Barrier Line và tuần tra để ngăn chặn ********* từ xa. Tiểu đoàn tôi mất 2 người vì chết đuối khi phải vượt Sông Ba trong các cuộc tuần tra vào tháng đầu tiên.
    Trong những ngày đầu tiên có những đốm sáng ( được phóng ra từ những quả lựu đạn flash cài nhằm phát hiện từ xa sự đột nhậm của đối phương) do du kích địa phương phát ra, và những người lính mất bình tĩnh đã bắn dữ dội vào nhiều hàng cây xanh trước khi 1 kỷ luật nổ súng được ban bố. Trời a, 1 trong những nạn nhân của những người lính mất bình tĩnh này chính là con vật vui của đại tá Stockon, Con la Maggie, nó bị bắn hạ bởi 1 lính thuộc ĐĐ Charlie của tôi khi nó đang lang thang trong 1 đêm tối trời. (...)
    1 lần một ngày mỗi người trong chúng tôi, dưới sự giám sát kỹ lưỡng, phải khó nhọc uống 1 viên thuốc chống sốt rét màu vàng. Nếu ai đó bị bắt gặp ngủ ngoài mùng chống muỗi cũng sẽ bị phạt ( không án), cho dù trời có nóng cỡ nào. Tuy vậy chúng tôi bắt đầu mất người bởi vì sốt rét trong vòng 2, 3 tuần. Trong 6 tuần 56 lính trong tiểu đoàn tôi được chuyển tới Bệnh viện vì bị sốt rét nặng.Vấn đề là có 1 chủng loại vi rút đặc biệt của riêng vùng Cao Nguyên, và khả năng chống sốt rét của các loại thuốc lúc đó cũng hạn chế.
    Sự thất thoát nhân lực của tiểu đoàn vì hết hạn quân dịch vẫn tiếp tục.Cuối tháng 9 tiểu đoàn tôi có 679 sĩ quan và lính so với 767 người khi đầy đủ như yêu cầu. 4 trung sĩ và 17 lính về nhà vào tháng 10. Tháng 11, 6 trung sĩ và 132 người của tiểu đoàn được lên lịch trở về nhà.
  8. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Tháng 10 chúng tôi nhận được 2 sĩ quan, 2 hay 3 hạ sĩ quan thông qua chương trình " Infusion Program", chương trình này chuyển giao cho chúng tôi những quân nhân đã từng phục vụ ở VN trong những đơn vị khác, những người có thể coi là có kiến thức về đất nước và kẻ thù nơi này. Một trong những sĩ quan này là đại uý Thomas C. Metsker, 1 người lực lưỡng cao tới 1m80, là sĩ quan lực lượng đặc biệt, tốt nghiệp Citadel khoá 1961(...)
    Tony Nadal giờ chỉ huy ĐĐ Alpha; tôi đưa Metsker lên làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn và để tên anh ta đầu tiên trong danh sách cho vị trí chỉ huy 1 đại đội nếu có dịp. Metsker thường cùng tôi chạy 5 dặm thể dục buổi sáng trong doanh trại.
    Một người mới đến khác là thiếu uý William J. Lyons, 25 tuổi, người California, tốt nghiệp cao đẳng Ripon. Giống như Metsker, Lyons tốt nghiệp lính dù và lính biệt động, anh ta đến với chúng tôi từ vị trí cố vấn cho tiểu đoàn biệt động quân số 41 quân Nam VN. Anh thông thạo tiếng Việt. Tôi bổ nhiệm anh vào vị trí sĩ quan hành quân đại đội C của Bob Edwards. Vào cuối buổi chiều ngày 4-11, Lyons và trung sĩ Roy Hitt, 1 người Alabama 33 tuổi, bị chết trong 1 vụ đụng 2 trực thăng Huey trong khi nhận thư và thức ăn cho ĐĐ C trên đường băng.
    Tiểu đoàn của tôi thực hiện 2 cuộc hành quân càn quét quanh khu vực căn cứ An khê trong thời kỳ này, chúng tôi có vài người bị thương vì bắn tỉa và thu được 1 lá cờ ********* khổng lồ.
    Cuối tháng 10 Lữ đoàn 1 của Sư đoàn kỵ binh di chuyển lên Trại Holloway ở Pleiku và bắt đầu truy kích những đơn vị quân địch đã tham gia cuộc tấn công vào Trại Lực lượng đạc biệt Plei Me và đang phục kích đoàn quân giải tỏa Nam VN.
    Đại tá Stockton và phi đội trực thăng vũ trang nhanh chóng theo dấu 1 đoàn quân Bắc VN đang rút lui. Ngày 1 -11, 1 nhóm lính kỵ binh phát hiện khoảng 1 tá quân địch cách Plei Me 8 dặm về phía tây. Họ( quân Bắc VN) bị bắn và bỏ chạy, ít phút sau thêm nhiều quân địch bị phát hiện. Stockton cho quân đổ bộ xuống đất và trong vòng vài phút họ chiếm được 1 bệnh viện dã chiến của Trung đoàn 33 Quân đội nhân dân VN. 15 quân địch bị giết, 44 người bao gồm nhân viên bệnh viện và bệnh nhân bị bắt sống cùng với hàng tấn trang bị y tế, tài liệu, gạo và vũ khí. Chiều hôm đó quân Bắc Việt phản công; trận đánh diễn ra trong nhiều giờ trước khi tiểu đoàn 2, trung đoàn kỵ binh 12 ( lữ đoàn 1), đến tăng viện cho Stockton. Có 11 lính Mỹ bị chết, 51 bị thương, so với thươg vong khoảng 250 người của quân địch.
    Cũng trong ngày đó, 1-11, những đơn vị đi đầu của Trung đoàn 66 Bắc VN, bắt đầu vượt qua biên giới Cambodia tiến vào Miền Nam VN, họ di chuyển dọc theo sông Drang. Trong số những tài liệu lấy được ở bệnh viện có 1 tấm bản đồ thung lũng Ia Drang của quân địch chỉ rõ những đường đi mà quân Bắc Việt sử dụng. Ngày 3-11, tướng Dick Knowles chỉ dẫn cho Stockton bay trinh sát 1 con đường đặc biệt chạy dọc theo Ia Drang bên trong biên giới khoảng 2 dặm.
    Stockton chuyển sở chỉ huy hành quân lên Trại Lực lượng đặc biệt Đức Cơ và khi thấy rằng Lữ đoàn 1 đã hành động quá chậm khi tới tăng viện cho anh trong trận đánh Bệnh viện, Stockton thuyết phục Knowles điều động ĐĐ Alpha tiểu đoàn 1 trung đoàn kỵ binh 8 của đại úy Theodore S. Danielsen cùng lên Đức Cơ.
    Tối đó Stockton đặt ba điểm phục kích cỡ trung đội, 1 dọc theo đường mòn Ia Drang, các vị trí còn lại ở phía bắc cách khoảng 1 dặm. Trung đội ở xa nhất phía nam trông thấy 1 đại đội tiếp viện lại gần họ trên đường mòn, 2,2 dặm bên trong biên giới. Những người lính Bắc Việt ngừng lại nghỉ trong chốc lát chỉ cách vị trí phục kích có 110 mét và sau đó lúc 9giờ tối tiếp tục hành quân về phía tây.
    Những người Mỹ để cho các bộ phận đầu đi qua, nhưng khi những đơn vị vũ khí nặng tiến vào tầm đạn, lính Mỹ cho nổ 8 quả lựu đạn Claymore tạo ra 1 vùng chết chóc với hàng ngàn mảng đạn bi nhỏ, cùng lúc đó bắn xối xả đạn đại liên và tiểu liên vào những người sống sót trong bãi mìn. Đại úy Charles S. Knowlen sau đó ra lệnh rút tất cả các toán phục kích rút về bãi trống bao quanh chốt tuần tra tiền phương, trong vòng nửa giờ họ phải chịu 1 đợt tấn công dữ dội của 1 lực lượng lớn quân Bắc Việt đang rất giận dữ. Khi người của anh báo họ đang gặp nguy hiểm có thể bị tràn ngập, đại tá Stockton ra lệnh cho ĐĐ của đại úy Danielsen tiến vào tiếp viện bằng trực thăng.
    Hành động này đã cứu nguy cho lính Mỹ, nhưng cũng làm cho Stockton bị "mất đầu". Tướng Knowles nói rằng ông đã ra lệnh cho Stockton phải có sự cho phép trực tiếp của ông mới được đưa ĐĐ Alpha của đại úy Ted Danielsen vào chiến đấu. Vụ việc kết thúc với việc Stockton bị thuyên chuyển sang 1 công việc tham mưu ở Sài Gòn, vậy là sư đoàn mất đi 1 trong những chỉ huy tiểu đoàn thành công nhất nhưng cũng gây tranh cãi nhất.
    Cho dù có bất cứ điều gì xảy ra sau đó, ban chỉ huy sư đoàn đã không khai thác những thành công khi đó của cuộc phục kích của Stockton và truy đuổi lực lượng địch được xem là quân tiếp viện vừa mới đến từ đường mòn Hồ Chí Minh. Thay vào đó, ngày 6-11, họ ra lệnh cho Lữ đoàn 1 trở về An Khê và Lữ đoàn 3 lên tiếp quản chiến trường Pleiku, hoàn tất viếc thay quân này vào ngày 10-11.
    Những tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 là : Tiểu đoàn 1, Kỵ Binh 7 của tôi, Tiểu đoàn 2, Kỵ Binh 7 của trung tá Robert McDade và Tiểu đoàn 2, Kỵ Binh 5 của trung tá Robert Tully. McDade 1 cựu binh chiến tranh Triều Tiên, đã từng là sĩ quan quân lực của sư đoàn(G-1), gần 2 năm và mới được giao chỉ huy tiểu đoàn anh em của tôi vào cuối tháng 10.
    Ngày 9-11 Đại tá Brown và tôi tới sở chỉ huy tiền phương sư đoàn ở Pleiku để nhận chỉ thị về tình hình chiến trường. Bản đồ tình báo treo trên tường có 1 ngôi sao lớn trên vị trí dãy núi Chu Pong phía trên thung lũng Ia Drang, phía tây Plei Me. Tôi hỏi 1 người thuyết trình Ngôi sao đầy ấn tượng đó là gì?, anh ta trả lời : " Căn cứ quân địch." Ngày hôm sau tiểu đoàn tôi bay tới sở chỉ huy dã chiến của Lữ đoàn nằm trong đồn điền chè Catecka, nơi ban tham mưu của Brown báo cáo tình huống cho chúng tôi và giao nhiệm vụ : tấn công đổ bộ xuống 1 vị trí cách Plei Me 5 dăm về phía đông, tìm và diệt quân địch ở đó. Tôi bất ngờ và bối rối. Tất cả những giao tranh của Lữ đoàn 1 với quân thù đều nằm ở phía tây của Plei Me, vậy mà họ ra lệnh cho chúng tôi đánh vào những bụi cây ở phía ngược lại. Thế mà vẫn có 1 ngôi sao lớn màu đỏ trên bản đồ tình báo, chỉ rõ mục tiêu lớn nhất nằm ở phí tây.
  9. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Tháng 10 chúng tôi nhận được 2 sĩ quan, 2 hay 3 hạ sĩ quan thông qua chương trình " Infusion Program", chương trình này chuyển giao cho chúng tôi những quân nhân đã từng phục vụ ở VN trong những đơn vị khác, những người có thể coi là có kiến thức về đất nước và kẻ thù nơi này. Một trong những sĩ quan này là đại uý Thomas C. Metsker, 1 người lực lưỡng cao tới 1m80, là sĩ quan lực lượng đặc biệt, tốt nghiệp Citadel khoá 1961(...)
    Tony Nadal giờ chỉ huy ĐĐ Alpha; tôi đưa Metsker lên làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn và để tên anh ta đầu tiên trong danh sách cho vị trí chỉ huy 1 đại đội nếu có dịp. Metsker thường cùng tôi chạy 5 dặm thể dục buổi sáng trong doanh trại.
    Một người mới đến khác là thiếu uý William J. Lyons, 25 tuổi, người California, tốt nghiệp cao đẳng Ripon. Giống như Metsker, Lyons tốt nghiệp lính dù và lính biệt động, anh ta đến với chúng tôi từ vị trí cố vấn cho tiểu đoàn biệt động quân số 41 quân Nam VN. Anh thông thạo tiếng Việt. Tôi bổ nhiệm anh vào vị trí sĩ quan hành quân đại đội C của Bob Edwards. Vào cuối buổi chiều ngày 4-11, Lyons và trung sĩ Roy Hitt, 1 người Alabama 33 tuổi, bị chết trong 1 vụ đụng 2 trực thăng Huey trong khi nhận thư và thức ăn cho ĐĐ C trên đường băng.
    Tiểu đoàn của tôi thực hiện 2 cuộc hành quân càn quét quanh khu vực căn cứ An khê trong thời kỳ này, chúng tôi có vài người bị thương vì bắn tỉa và thu được 1 lá cờ ********* khổng lồ.
    Cuối tháng 10 Lữ đoàn 1 của Sư đoàn kỵ binh di chuyển lên Trại Holloway ở Pleiku và bắt đầu truy kích những đơn vị quân địch đã tham gia cuộc tấn công vào Trại Lực lượng đạc biệt Plei Me và đang phục kích đoàn quân giải tỏa Nam VN.
    Đại tá Stockton và phi đội trực thăng vũ trang nhanh chóng theo dấu 1 đoàn quân Bắc VN đang rút lui. Ngày 1 -11, 1 nhóm lính kỵ binh phát hiện khoảng 1 tá quân địch cách Plei Me 8 dặm về phía tây. Họ( quân Bắc VN) bị bắn và bỏ chạy, ít phút sau thêm nhiều quân địch bị phát hiện. Stockton cho quân đổ bộ xuống đất và trong vòng vài phút họ chiếm được 1 bệnh viện dã chiến của Trung đoàn 33 Quân đội nhân dân VN. 15 quân địch bị giết, 44 người bao gồm nhân viên bệnh viện và bệnh nhân bị bắt sống cùng với hàng tấn trang bị y tế, tài liệu, gạo và vũ khí. Chiều hôm đó quân Bắc Việt phản công; trận đánh diễn ra trong nhiều giờ trước khi tiểu đoàn 2, trung đoàn kỵ binh 12 ( lữ đoàn 1), đến tăng viện cho Stockton. Có 11 lính Mỹ bị chết, 51 bị thương, so với thươg vong khoảng 250 người của quân địch.
    Cũng trong ngày đó, 1-11, những đơn vị đi đầu của Trung đoàn 66 Bắc VN, bắt đầu vượt qua biên giới Cambodia tiến vào Miền Nam VN, họ di chuyển dọc theo sông Drang. Trong số những tài liệu lấy được ở bệnh viện có 1 tấm bản đồ thung lũng Ia Drang của quân địch chỉ rõ những đường đi mà quân Bắc Việt sử dụng. Ngày 3-11, tướng Dick Knowles chỉ dẫn cho Stockton bay trinh sát 1 con đường đặc biệt chạy dọc theo Ia Drang bên trong biên giới khoảng 2 dặm.
    Stockton chuyển sở chỉ huy hành quân lên Trại Lực lượng đặc biệt Đức Cơ và khi thấy rằng Lữ đoàn 1 đã hành động quá chậm khi tới tăng viện cho anh trong trận đánh Bệnh viện, Stockton thuyết phục Knowles điều động ĐĐ Alpha tiểu đoàn 1 trung đoàn kỵ binh 8 của đại úy Theodore S. Danielsen cùng lên Đức Cơ.
    Tối đó Stockton đặt ba điểm phục kích cỡ trung đội, 1 dọc theo đường mòn Ia Drang, các vị trí còn lại ở phía bắc cách khoảng 1 dặm. Trung đội ở xa nhất phía nam trông thấy 1 đại đội tiếp viện lại gần họ trên đường mòn, 2,2 dặm bên trong biên giới. Những người lính Bắc Việt ngừng lại nghỉ trong chốc lát chỉ cách vị trí phục kích có 110 mét và sau đó lúc 9giờ tối tiếp tục hành quân về phía tây.
    Những người Mỹ để cho các bộ phận đầu đi qua, nhưng khi những đơn vị vũ khí nặng tiến vào tầm đạn, lính Mỹ cho nổ 8 quả lựu đạn Claymore tạo ra 1 vùng chết chóc với hàng ngàn mảng đạn bi nhỏ, cùng lúc đó bắn xối xả đạn đại liên và tiểu liên vào những người sống sót trong bãi mìn. Đại úy Charles S. Knowlen sau đó ra lệnh rút tất cả các toán phục kích rút về bãi trống bao quanh chốt tuần tra tiền phương, trong vòng nửa giờ họ phải chịu 1 đợt tấn công dữ dội của 1 lực lượng lớn quân Bắc Việt đang rất giận dữ. Khi người của anh báo họ đang gặp nguy hiểm có thể bị tràn ngập, đại tá Stockton ra lệnh cho ĐĐ của đại úy Danielsen tiến vào tiếp viện bằng trực thăng.
    Hành động này đã cứu nguy cho lính Mỹ, nhưng cũng làm cho Stockton bị "mất đầu". Tướng Knowles nói rằng ông đã ra lệnh cho Stockton phải có sự cho phép trực tiếp của ông mới được đưa ĐĐ Alpha của đại úy Ted Danielsen vào chiến đấu. Vụ việc kết thúc với việc Stockton bị thuyên chuyển sang 1 công việc tham mưu ở Sài Gòn, vậy là sư đoàn mất đi 1 trong những chỉ huy tiểu đoàn thành công nhất nhưng cũng gây tranh cãi nhất.
    Cho dù có bất cứ điều gì xảy ra sau đó, ban chỉ huy sư đoàn đã không khai thác những thành công khi đó của cuộc phục kích của Stockton và truy đuổi lực lượng địch được xem là quân tiếp viện vừa mới đến từ đường mòn Hồ Chí Minh. Thay vào đó, ngày 6-11, họ ra lệnh cho Lữ đoàn 1 trở về An Khê và Lữ đoàn 3 lên tiếp quản chiến trường Pleiku, hoàn tất viếc thay quân này vào ngày 10-11.
    Những tiểu đoàn của Lữ đoàn 3 là : Tiểu đoàn 1, Kỵ Binh 7 của tôi, Tiểu đoàn 2, Kỵ Binh 7 của trung tá Robert McDade và Tiểu đoàn 2, Kỵ Binh 5 của trung tá Robert Tully. McDade 1 cựu binh chiến tranh Triều Tiên, đã từng là sĩ quan quân lực của sư đoàn(G-1), gần 2 năm và mới được giao chỉ huy tiểu đoàn anh em của tôi vào cuối tháng 10.
    Ngày 9-11 Đại tá Brown và tôi tới sở chỉ huy tiền phương sư đoàn ở Pleiku để nhận chỉ thị về tình hình chiến trường. Bản đồ tình báo treo trên tường có 1 ngôi sao lớn trên vị trí dãy núi Chu Pong phía trên thung lũng Ia Drang, phía tây Plei Me. Tôi hỏi 1 người thuyết trình Ngôi sao đầy ấn tượng đó là gì?, anh ta trả lời : " Căn cứ quân địch." Ngày hôm sau tiểu đoàn tôi bay tới sở chỉ huy dã chiến của Lữ đoàn nằm trong đồn điền chè Catecka, nơi ban tham mưu của Brown báo cáo tình huống cho chúng tôi và giao nhiệm vụ : tấn công đổ bộ xuống 1 vị trí cách Plei Me 5 dăm về phía đông, tìm và diệt quân địch ở đó. Tôi bất ngờ và bối rối. Tất cả những giao tranh của Lữ đoàn 1 với quân thù đều nằm ở phía tây của Plei Me, vậy mà họ ra lệnh cho chúng tôi đánh vào những bụi cây ở phía ngược lại. Thế mà vẫn có 1 ngôi sao lớn màu đỏ trên bản đồ tình báo, chỉ rõ mục tiêu lớn nhất nằm ở phí tây.
  10. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    BOOTS AND SADDLESCome on, boys, and grab your sabers
    Come on, boys, and ride with me.
    Give the cry of "Garry Owen",
    Make your place in history.
    - author unknown, Viet Nam 1965
    Trước cuộc tấn công, Đại úy Matt Dillon và tôi bay 1 chuyến trinh sát ngắn, lực chọn bãi đáp và lên kế hoạch hành quân. Trong chuyến bay chúng tôi phát hiện 1 ngôi làng nhỏ của người Thượng Jarai, và tôi đã đánh dấu cho binh lính biết có sự hiện diện của người dân trong vùng. Và tôi quyết định không dùng pháo hay không quân bắn chuẩn bị trước khi đổ bộ. Hầu hết những bãi trống trong vùng này đều là những nương rẫy đốt của người dân Jarai. Những bãi sắn và khoai nhỏ xíu này sẽ tan nát khi chúng tôi giẫm đạp lên khi đổ bộ; chúng tôi không cần thiết phải thổi tung chúng lên bằng những cơn mưa đạn pháo, hơn nữa nó cũng có thể gây thương vong cho người dân.
    Chúng tôi dùng 16 chiếc trực thăng vận tải Huey, gọi là "slick" để phân biệt với những chiếc Huey vũ trang được trang bị súng máy và tên lửa, để chuyển quân con thoi. Plumley và tôi cùng đổ xuống cùng những đơn vị đầu tiên của ĐĐ Alpha của đại uý Nadal. Không có 1 hành động thù nghịch nào hết. Nhưng những bãi trống thì có người, khoảng nửa tá người Thượng trần trụi đang phát quang bụi cỏ. Tất cả họ biến mất vào trong rừng rậm 1 cách nhanh chóng. Tôi vui mừng vì đã không cho bắn pháo chuẩn bị.
    Trong 2 ngày rưỡi kế tiếp chúng tôi điều những đội tuần tra các vùng xung quanh. Joe Galloway, phóng viên UPI, 23 tuổi, người Refugio, Texas, gia nhập chúng tôi. Mấy ngày trước Joe đã trèo lên 1 trực thăng bay tới Trại Lực lượng đặc biệt Plei Me trong lúc nó đang bị bao vây, vì thiếu người cậu ta đã tự nguyện trở thành 1 tay súng máy hạng nhẹ. Khi anh nhảy xuống chỗ chúng tôi, anh khóac trên vai 1 khẩu M-16 do chỉ huy Lực lượng đặc biệt , thiếu tá Charles Beckwith, trao cho lúc trận đánh Plei Me kết thúc. Galloway nói với Beckwith 1 cách nghiêm chỉnh rằng, theo Hiệp định Geneva anh ta là 1 người dân sự phi vũ trang ( a civilian noncombatant). Beckwith trả lời " không có cái thứ đó ở vùng núi này đâu, cầm lấy súng đi, con trai".
    Galloway nhớ lại : " Lần đầu tiên tôi " ba cùng" với tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7 của Hal Moore, là chuyến dã ngoại tới 1 ngôi làng nhỏ xa xôi của người Thượng. Tôi nhảy xuống đúng ngay vào 1 vùng đầy bụi cây trên đất bùn, chúng rậm rạp và nhiều gai đến nỗi phải dùng dao để mở đường. Chúng tôi vượt qua 1 quãng đường chỉ khoảng 300 mét mất tới 4 giờ, và lội qua 1 dòng suối nước sâu tới ngực, chảy rất xiết khi trời bắt đầu tối. Sau đó chui vào những ponchos ( túi cá nhân dùng để ngủ ngoài trời và đựng xác khi chết), ướt và lạnh suốt đêm."
    " Khi sáng ra, tôi véo 1 mẩu nhỏ thuốc nổ dẻo C-4 từ trong bộ đồ khẩn cấp trong ba lô, và dùng nó để nấu nước sôi trong 1 lon thiếc pha cà phê. Nếu bạn đốt C-4 1 cách rất cẩn trọng bạn có thể uống 1 ly cà phê nóng trong 30 giây, nhưng nếu bạn bất cẩn nó sẽ thổi bay cánh tay của bạn. Hút xong điếu thuốc tôi bắt đầu quan sát lính của Moore. Trước tiên họ cạo râu. Cạo râu? Ngay ở đây? Tôi sửng sốt. Sau đó tới lượt vị trung tá, tóc vàng, hàm răng bạnh ra, rất sôi nổi, 1 người vùng Bardstown, Kentucky và học viên West Point, đang đi kiểm tra mỗi sáng cùng với thượng sĩ Plumley. Moore nhìn tôi từ trên xuống dưới và nói: " Tất cả chúng tôi đều cạo râu mỗi sáng- phóng viên cũng vậy". Nước suối pha cà phê của tôi được dùng để cạo râu và rửa mặt và tôi nhận được 1 bài học về sự kính trọng con người."
    Ngày hôm đó chúng tôi đi vào 1 làng của người Thượng, nằm sâu trong những dãy núi. Một ông già móm mém hiện ra từ 1 ngôi nhà dài, lóng ngóng trong chiếc áo chẽn của quân đội Pháp, cũ kỹ và vá víu khắp nơi, ông đang tự hào vẫy lá cờ tam tài của nước Pháp, nghĩ rằng những đồng đội của thời trai trẻ cuối cùng cũng đã trở lại. Tôi không chắc có thể giải thích được cho ông ta về sự thay đổi của thời cuộc cũng như quốc tịch của chúng tôi.
    Nhân viên quân y chữa trị cho những người bị thương và bị bệnh, trong khi Tom Mestker và người thông dịch tìm kiếm thông tin về quân địch trong vùng. Họ nhận được thông tin về 1 đoàn quân có thể có quân địch trong vùng. Nhân viên quân y phát hiện 1 cậu bé có 1 cánh tay bị bỏng nặng cần được chữa trị tại bệnh viện. Già làng và cha cậu bé cuối cùng cũng đồng ý cho đưa cậu bé đi. Chúng tôi 1 chiếc trực thăng để chuyển đứa bé đi , vết thương của nó là do 1 chiếc trực thăng khác gây nên.
    Cậu bé và người cha mang theo 1ống nước, 1 miếng thịt sống lớn gói trong những chiếc lá xanh, và 1 cái nỏ trèo lên máy bay với đôi chút sợ hãi. Họ vừa mới bước từ thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 trong có 1 phút.. Galloway vừa quan sát vừa chụp ảnh sự việc và suy nghĩ : " Không có gì đơn giản trong cuộc chiến tranh này; và có thể trong bất cứ 1 cuộc chiến tranh nào."
    Chúng tôi tiếp tục tuần tra xuống phía Nam và phía Tây, chẳng có thứ gì và càng lúc càng thất vọng, chán nản.
    Nhưng chúng tôi không phải là những người duy nhất. Tướng Dick Knowles thật sự thất vọng về chuyến hành quân không kết quả: " Có những tranh cãi về việc quân thù đã chuyển xuống 1 vùng trong khu vực tây nam Pleiku và chúng tôi được chỉ thị thực hiện những cuôc hành quân ở nơi đó. Ngay sau khi cuộc hành quân bắt đầu, Thiếu tướng Stanley (Swede) Larsen, Tư lệnh vùng, tới chỗ chúng tôi hỏi về sự tiến triển của nó. Tôi báo cáo không phát hiện gì và cũng không thể trông đợi được gì. Larsen hỏi liền : " tại sao các anh hành quân ở đó", tôi trả lời : " Đó là lệnh bằng giấy của ông chỉ thị cho chúng tôi". Ông tướng trả lời rằng nhiệm vụ chung của chúng tôi là : Tìm kiếm quân địch và truy đuổi chúng."
    Knowles biết phải làm gì với những mệnh lệnh kiểu đó.Cuối buổi chiều ngày 12-11, ông bay xuống phía Nam Pleiku trên chiếc trực thăng chỉ huy để tìm đại lá Tim Brown, người đang ở chỗ chúng tôi. Ông trèo ra ngoài trực thăng, tay cầm cì gà, và hỏi tình hình. Brown, người vốn rất tiết kiệm lời nói, trả lời : "rống rỗng,thưa ngài". Knowles quay sang tôi : " Anh nghĩ sao?" . " không phát hiện được gì thưa Tướng quân; Chúng ta đang làm hao sức quân lính." Ông quay lại Brown : " Tim anh nghĩ sao nếu quay lại phía tây, nhảy xuống Thung Lũng IaDrang?" Brown nói rằng nó sẽ tốt hơn ở đây: " Tôi nhớ, ban S-2 của Ngài nói về 1 căn cứ của địch ở nơi đó".
    Knowles bật đèn xanh cho chúng tôi. Sau đó ông nói rằng ông ra lệnh "dựa trên những tin tình báo chắc chắn và tin tưởng". Vài phút sau Knowles và Brown lên trực thăng của họ và bay đi. Tôi nói với ban tham mưu của mình nghiên cứu bản đồ vùng thung lũng Ia Drang và bắt đầu hoặch định 1 cuộc hành quân. Tôi tin là tiểu đoàn tôi sẽ được chọn để tấn công xuống Thung Lũng Ia Drang. Cho tới lúc này, Brown vẫn giao những nhiệm vụ có khả năng phải đánh nhau với quân địch cho tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7. Tiểu đoàn 2 , Kỵ binh 7 , 1 tiểu đoàn khác của ông, có 1chỉ huy và ban tham mưu mới, và Brown cố gắng để họ quen thuộc với công việc.

Chia sẻ trang này