1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    BOOTS AND SADDLESCome on, boys, and grab your sabers
    Come on, boys, and ride with me.
    Give the cry of "Garry Owen",
    Make your place in history.
    - author unknown, Viet Nam 1965
    Trước cuộc tấn công, Đại úy Matt Dillon và tôi bay 1 chuyến trinh sát ngắn, lực chọn bãi đáp và lên kế hoạch hành quân. Trong chuyến bay chúng tôi phát hiện 1 ngôi làng nhỏ của người Thượng Jarai, và tôi đã đánh dấu cho binh lính biết có sự hiện diện của người dân trong vùng. Và tôi quyết định không dùng pháo hay không quân bắn chuẩn bị trước khi đổ bộ. Hầu hết những bãi trống trong vùng này đều là những nương rẫy đốt của người dân Jarai. Những bãi sắn và khoai nhỏ xíu này sẽ tan nát khi chúng tôi giẫm đạp lên khi đổ bộ; chúng tôi không cần thiết phải thổi tung chúng lên bằng những cơn mưa đạn pháo, hơn nữa nó cũng có thể gây thương vong cho người dân.
    Chúng tôi dùng 16 chiếc trực thăng vận tải Huey, gọi là "slick" để phân biệt với những chiếc Huey vũ trang được trang bị súng máy và tên lửa, để chuyển quân con thoi. Plumley và tôi cùng đổ xuống cùng những đơn vị đầu tiên của ĐĐ Alpha của đại uý Nadal. Không có 1 hành động thù nghịch nào hết. Nhưng những bãi trống thì có người, khoảng nửa tá người Thượng trần trụi đang phát quang bụi cỏ. Tất cả họ biến mất vào trong rừng rậm 1 cách nhanh chóng. Tôi vui mừng vì đã không cho bắn pháo chuẩn bị.
    Trong 2 ngày rưỡi kế tiếp chúng tôi điều những đội tuần tra các vùng xung quanh. Joe Galloway, phóng viên UPI, 23 tuổi, người Refugio, Texas, gia nhập chúng tôi. Mấy ngày trước Joe đã trèo lên 1 trực thăng bay tới Trại Lực lượng đặc biệt Plei Me trong lúc nó đang bị bao vây, vì thiếu người cậu ta đã tự nguyện trở thành 1 tay súng máy hạng nhẹ. Khi anh nhảy xuống chỗ chúng tôi, anh khóac trên vai 1 khẩu M-16 do chỉ huy Lực lượng đặc biệt , thiếu tá Charles Beckwith, trao cho lúc trận đánh Plei Me kết thúc. Galloway nói với Beckwith 1 cách nghiêm chỉnh rằng, theo Hiệp định Geneva anh ta là 1 người dân sự phi vũ trang ( a civilian noncombatant). Beckwith trả lời " không có cái thứ đó ở vùng núi này đâu, cầm lấy súng đi, con trai".
    Galloway nhớ lại : " Lần đầu tiên tôi " ba cùng" với tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7 của Hal Moore, là chuyến dã ngoại tới 1 ngôi làng nhỏ xa xôi của người Thượng. Tôi nhảy xuống đúng ngay vào 1 vùng đầy bụi cây trên đất bùn, chúng rậm rạp và nhiều gai đến nỗi phải dùng dao để mở đường. Chúng tôi vượt qua 1 quãng đường chỉ khoảng 300 mét mất tới 4 giờ, và lội qua 1 dòng suối nước sâu tới ngực, chảy rất xiết khi trời bắt đầu tối. Sau đó chui vào những ponchos ( túi cá nhân dùng để ngủ ngoài trời và đựng xác khi chết), ướt và lạnh suốt đêm."
    " Khi sáng ra, tôi véo 1 mẩu nhỏ thuốc nổ dẻo C-4 từ trong bộ đồ khẩn cấp trong ba lô, và dùng nó để nấu nước sôi trong 1 lon thiếc pha cà phê. Nếu bạn đốt C-4 1 cách rất cẩn trọng bạn có thể uống 1 ly cà phê nóng trong 30 giây, nhưng nếu bạn bất cẩn nó sẽ thổi bay cánh tay của bạn. Hút xong điếu thuốc tôi bắt đầu quan sát lính của Moore. Trước tiên họ cạo râu. Cạo râu? Ngay ở đây? Tôi sửng sốt. Sau đó tới lượt vị trung tá, tóc vàng, hàm răng bạnh ra, rất sôi nổi, 1 người vùng Bardstown, Kentucky và học viên West Point, đang đi kiểm tra mỗi sáng cùng với thượng sĩ Plumley. Moore nhìn tôi từ trên xuống dưới và nói: " Tất cả chúng tôi đều cạo râu mỗi sáng- phóng viên cũng vậy". Nước suối pha cà phê của tôi được dùng để cạo râu và rửa mặt và tôi nhận được 1 bài học về sự kính trọng con người."
    Ngày hôm đó chúng tôi đi vào 1 làng của người Thượng, nằm sâu trong những dãy núi. Một ông già móm mém hiện ra từ 1 ngôi nhà dài, lóng ngóng trong chiếc áo chẽn của quân đội Pháp, cũ kỹ và vá víu khắp nơi, ông đang tự hào vẫy lá cờ tam tài của nước Pháp, nghĩ rằng những đồng đội của thời trai trẻ cuối cùng cũng đã trở lại. Tôi không chắc có thể giải thích được cho ông ta về sự thay đổi của thời cuộc cũng như quốc tịch của chúng tôi.
    Nhân viên quân y chữa trị cho những người bị thương và bị bệnh, trong khi Tom Mestker và người thông dịch tìm kiếm thông tin về quân địch trong vùng. Họ nhận được thông tin về 1 đoàn quân có thể có quân địch trong vùng. Nhân viên quân y phát hiện 1 cậu bé có 1 cánh tay bị bỏng nặng cần được chữa trị tại bệnh viện. Già làng và cha cậu bé cuối cùng cũng đồng ý cho đưa cậu bé đi. Chúng tôi 1 chiếc trực thăng để chuyển đứa bé đi , vết thương của nó là do 1 chiếc trực thăng khác gây nên.
    Cậu bé và người cha mang theo 1ống nước, 1 miếng thịt sống lớn gói trong những chiếc lá xanh, và 1 cái nỏ trèo lên máy bay với đôi chút sợ hãi. Họ vừa mới bước từ thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 trong có 1 phút.. Galloway vừa quan sát vừa chụp ảnh sự việc và suy nghĩ : " Không có gì đơn giản trong cuộc chiến tranh này; và có thể trong bất cứ 1 cuộc chiến tranh nào."
    Chúng tôi tiếp tục tuần tra xuống phía Nam và phía Tây, chẳng có thứ gì và càng lúc càng thất vọng, chán nản.
    Nhưng chúng tôi không phải là những người duy nhất. Tướng Dick Knowles thật sự thất vọng về chuyến hành quân không kết quả: " Có những tranh cãi về việc quân thù đã chuyển xuống 1 vùng trong khu vực tây nam Pleiku và chúng tôi được chỉ thị thực hiện những cuôc hành quân ở nơi đó. Ngay sau khi cuộc hành quân bắt đầu, Thiếu tướng Stanley (Swede) Larsen, Tư lệnh vùng, tới chỗ chúng tôi hỏi về sự tiến triển của nó. Tôi báo cáo không phát hiện gì và cũng không thể trông đợi được gì. Larsen hỏi liền : " tại sao các anh hành quân ở đó", tôi trả lời : " Đó là lệnh bằng giấy của ông chỉ thị cho chúng tôi". Ông tướng trả lời rằng nhiệm vụ chung của chúng tôi là : Tìm kiếm quân địch và truy đuổi chúng."
    Knowles biết phải làm gì với những mệnh lệnh kiểu đó.Cuối buổi chiều ngày 12-11, ông bay xuống phía Nam Pleiku trên chiếc trực thăng chỉ huy để tìm đại lá Tim Brown, người đang ở chỗ chúng tôi. Ông trèo ra ngoài trực thăng, tay cầm cì gà, và hỏi tình hình. Brown, người vốn rất tiết kiệm lời nói, trả lời : "rống rỗng,thưa ngài". Knowles quay sang tôi : " Anh nghĩ sao?" . " không phát hiện được gì thưa Tướng quân; Chúng ta đang làm hao sức quân lính." Ông quay lại Brown : " Tim anh nghĩ sao nếu quay lại phía tây, nhảy xuống Thung Lũng IaDrang?" Brown nói rằng nó sẽ tốt hơn ở đây: " Tôi nhớ, ban S-2 của Ngài nói về 1 căn cứ của địch ở nơi đó".
    Knowles bật đèn xanh cho chúng tôi. Sau đó ông nói rằng ông ra lệnh "dựa trên những tin tình báo chắc chắn và tin tưởng". Vài phút sau Knowles và Brown lên trực thăng của họ và bay đi. Tôi nói với ban tham mưu của mình nghiên cứu bản đồ vùng thung lũng Ia Drang và bắt đầu hoặch định 1 cuộc hành quân. Tôi tin là tiểu đoàn tôi sẽ được chọn để tấn công xuống Thung Lũng Ia Drang. Cho tới lúc này, Brown vẫn giao những nhiệm vụ có khả năng phải đánh nhau với quân địch cho tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7. Tiểu đoàn 2 , Kỵ binh 7 , 1 tiểu đoàn khác của ông, có 1chỉ huy và ban tham mưu mới, và Brown cố gắng để họ quen thuộc với công việc.
  2. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Knowles, Brown, và tôi rất hiểu nhau, chúng tôi đã làm việc cùng nhau suốt 18 tháng qua. Họ có sự hiểu biết thông thạo về cơ động không quân và chiến thuật trực thăng vận và tôi phải học hỏi những thứ ấy ở nơi họ. Họ biết có thể dựa vào tôi và tôi biết họ sẽ cung cấp toàn bộ những yểm trợ cần thiết cho tôi, ngay cả trước khi tôi biết tôi cần chúng. Tướng Harry Kinnard đã khuyến khích kiểu chỉ huy đó trong toàn Sư đoàn kỵ binh số 1. Kinnard đến từ 1 trường Nhảy dù vĩ đại với suy nghĩ quyền hành phải được trao cho những người đang ở ngay trên điểm nóng, bởi vì bạn sẽ không bao giờ biết những chỉ huy sẽ hạ dù xuống đâu 1 khi các đơn vị của họ nhảy ra khỏi máy bay. Những gì thực tế xảy ra cho lính dù cũng tương tự như những đơn vị cơ động không vận di chuyển nhanh nhảy qua những địa hình phức tạp.
    Sáng thứ 7, 13-11, Đại tá Brown, chuyển tiểu đoàn của tôi tới vùng mới ở phía nam và tây nam Plei Me, chúng tôi cũng thực hiện những cuộc tuần tra rộng cách xa doanh trại. Chúng tôi thiết lập sở chỉ huy tiểu đoàn tại 1 trại lính Pháp cũ bên ngoài hàng rào của trại Lực lượng đặc biệt Plei Me. Lực lượng đặc biệt Hoa kỳ thường đặt vị trí trại của họ dựa trên những doanh trại quân đội cũ của người Pháp, thường được đặt 1 có chủ ý trên những đường thâm nhập của những người Cộng sản.
    Quân thù vẫn không thay đổi hoặc nhận thấy không cần thiết phải thay đổi những đường di chuyển quân này. Trong hầu hết các trường hợp người Pháp đã lựa chọn trí đúng, đặt những vị trí tai mắt để có thể kiểm soát được tất cả những đường tiếp tế của quân thù trong những vùng núi lởm chởm này. Nhưng đối với người Pháp, cũng như với những người Mỹ tới thay thế, Những căn cứ tuần tra này rất xa và cô lập, rất khó nhận sự tiếp ứng vì đường xá quá tệ. Chúng là những vị trí dễ kích thích, thường bị tấn công và đôi khi bị san phẳng.
    Mỗi bề của cái trại hình tam giác này là 1 bờ tường được đắp bằng đất cao từ 1m8 cho tới 2m4 và dài khoảng 80 mét. Nhiều năm bị bỏ hoang dưới mưa nắng bức tường bị sụp đổ nhiều chỗ nhất là ở những vị trí đặt súng, các bậc thang. Trại Lực lượng đặc biệt kề sát trông cũng chẳng khá hơn. Trong cuộc bao vây hồi cuối tháng 10, trại bị bắn phá bởi súng cối, bộc phá của đặc công, và súng máy cùng với các loại súng hạng nhẹ khác. Một vài mái nhà và một số cột kèo mỏng manh mà quân thù không bắn phá được thì lại bị đổ sụp vì những hòm pallet chứa đồ tiếp tế ném xuống từ những máy báy vận tải bằng dù.
    Chiều hôm đó, Đại tá Brown ra lệnh cho tôi điều 1 đại đội trở lại Trang trại chè Catecca để giúp bảo vệ vùng xung quanh Sở chỉ huy Lữ đoàn 3 của ông. ĐĐ Bravo của đại úy John nhận nhiệm vụ này. Đêm trước khoảng 2 đại đội du kích Việt Công đã tấn công sở chỉ huy Lữ đoàn và kho nhiên liệu cùng thiết bị công binh gần đó. Cuộc tấn công bị đánh bại sau 1 giờ nhưng có tới 7 lính Mỹ chết và 23 người bị thương. Sáu xác chết trong bộ đồ bà ba màu đen của quân địch được tìm thấy.
    Cách lều dã chiến của Brown không quá 1/4 dặm vượt qua các gốc cây chè là 1 căn nhà xinh xắn theo kiểu thuộc địa màu trắng. Người quản lý trang trại người Pháp sống ở đó và nếu bạn đứng ở bên kia đường chạy ngang qua ngôi nhà, nhìn qua bạn có thể bắt gặp 1 người phụ nữ trẻ trong bộ Bikini đang tắm nắng cạnh 1 cái hồ bơi. Ngôi nhà chẳng bị tấn công hay bị dội dù là 1 quả đạn cối trong cuộc tấn công đêm trước. Tình báo quân đội nói rằng những người chủ Pháp trả cho ********* 1 triệu đồng mỗi năm để nhận sự bảo vệ và trả cho chính quyền Sài Gòn 3 triệu tiền thuế mỗi năm. Các trang trại yêu cầu chính phủ Mỹ trả 50 USD cho mỗi cây chè và 250 USD cho mỗi cây cao su bị phá huỷ trong các cuộc hành quân. Lại thêm 1 điều phi lí nữa ở đây.
    Chiều đó, thứ 7, 13-11, Joe Galloway quá giang 1 trực thăng từ Pleiku để tới Catecka Sở chỉ huy của Brown. Anh nói : " 2 phóng viên người Pháp đi cùng với tôi đã khôn khéo để nhận được lời mời qua đêm trong ngôi nhà của những người đồng hương. Tôi đào 1 cái hố cáo dưới 1 gốc chè có giá 50 USD đó ngay bên ngoài vòng sở chĩ huy lữ đoàn cùng với ĐĐ Bravo. Đào thật sâu, đặt 1 vài băng đạn bên cạnh khẩu súng, và tự mừng sinh nhật lần thứ 24 của mình với 1 lon nước đào trong khẩu phần C cùng 1 vài cái bánh. Có lệnh tiểu đoàn của Moore sẽ tiến vào rừng sáng hôm sau."
    Có thể Galloway nhận được mệnh lệnh này trước cả tôi. Vào khoảng 4 giờ chiều Đại uý Tony Nadal và đại đội A đang hành quân tuần tra thì gặp 1 dòng sông nhỏ nước trong vắt có tên là Glae. Nadal đồng ý yêu cầu của lính cho từng nhóm nhỏ thay nhau xuống sông tắm rửa dưới sự canh gác chặt chẽ." Khi tôi đang quay trở lại cùng với trung sĩ nhất Newton cùng 1 vài lính khác thì nghe tiếng rocket nổ" Nadal nhớ lại, " Chúng tôi chạy trở lại và nhìn thấy trực thăng của mình đang phóng 1 chùm rocket xuống tôi. Tôi vồ lấy radio và hét lên : Get this goddamn thing away from me"
    Thượng sĩ Plumley và tôi bay tới để quan sát và gặp Nadal cùng thiếu tá Roger ( Black Bart) Bartholomew, chỉ huy của đại đội trực thăng vũ trang đó, người bay tới để điều tra. Dường như 1 đơn vị của tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 đã nhầm lẫn bản đồ khi gọi yểm trợ hoả lực. 4 người của Nadal bị thương và được di tản bằng trực thăng cứu thương.
    Không lâu sau đó, đại tá Brown bay tới kiểm tra tình hình ở ĐĐ Alpha và gọi tôi tới bên cạnh." Hal, Tôi sẽ chuyển tiểu đoàn của cậu sang phía tây sáng ngày mai", ông nói , trải tấm bản đồ của mình ra. " Đây là vùng hành quân của cậu- bắc Chu Pong trong Thung lũng Ia Drang. Nhiệm vụ của cậu cũng giống như từ trước tới giờ : Tìm và diệt quân thù." Ông nhanh chóng đề ra những nhiệm vụ của cuộc hành quân và những hỗ trợ ông có thể cấp cho chúng tôi. : 16 chiếc Huey UH-1D để chuyển quân, 2 khẩu đội pháo 105 trong tầm bắn yểm trợ, và ít nhất 2 ngày tuần tra dưới mặt đất.
    Ông nói thêm, ĐĐ Alpha của tiểu đoàn trực thăng xung kích 229 sẽ cung cấp trực thăng; chỉ huy ĐĐ, thiếu tá Bruce Crandall đang trên đường tới đây. " Còn 1 điều nữa Hal, Trong vùng đó phải bố trí các đại đội thật gần nhau để có thể hỗ trợ lẫn nhau được". Sau khi ông đi, tôi báo cho đại úy Nanal những gì sắp diễn ra và bay trở lại trại lính Pháp. Trên trực thăng tôi đánh dấu những việc cần làm và điện cho Matt Dillon, sĩ quan hành quân của tôi, nói anh báo động cho những chỉ huy đại đội khác và những đơn vị hỗ trợ cùng ban tham mưu tập hợp lại. Chúng tôi có nhiều việc phải làm mà thời gian còn rất ít.
  3. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Knowles, Brown, và tôi rất hiểu nhau, chúng tôi đã làm việc cùng nhau suốt 18 tháng qua. Họ có sự hiểu biết thông thạo về cơ động không quân và chiến thuật trực thăng vận và tôi phải học hỏi những thứ ấy ở nơi họ. Họ biết có thể dựa vào tôi và tôi biết họ sẽ cung cấp toàn bộ những yểm trợ cần thiết cho tôi, ngay cả trước khi tôi biết tôi cần chúng. Tướng Harry Kinnard đã khuyến khích kiểu chỉ huy đó trong toàn Sư đoàn kỵ binh số 1. Kinnard đến từ 1 trường Nhảy dù vĩ đại với suy nghĩ quyền hành phải được trao cho những người đang ở ngay trên điểm nóng, bởi vì bạn sẽ không bao giờ biết những chỉ huy sẽ hạ dù xuống đâu 1 khi các đơn vị của họ nhảy ra khỏi máy bay. Những gì thực tế xảy ra cho lính dù cũng tương tự như những đơn vị cơ động không vận di chuyển nhanh nhảy qua những địa hình phức tạp.
    Sáng thứ 7, 13-11, Đại tá Brown, chuyển tiểu đoàn của tôi tới vùng mới ở phía nam và tây nam Plei Me, chúng tôi cũng thực hiện những cuộc tuần tra rộng cách xa doanh trại. Chúng tôi thiết lập sở chỉ huy tiểu đoàn tại 1 trại lính Pháp cũ bên ngoài hàng rào của trại Lực lượng đặc biệt Plei Me. Lực lượng đặc biệt Hoa kỳ thường đặt vị trí trại của họ dựa trên những doanh trại quân đội cũ của người Pháp, thường được đặt 1 có chủ ý trên những đường thâm nhập của những người Cộng sản.
    Quân thù vẫn không thay đổi hoặc nhận thấy không cần thiết phải thay đổi những đường di chuyển quân này. Trong hầu hết các trường hợp người Pháp đã lựa chọn trí đúng, đặt những vị trí tai mắt để có thể kiểm soát được tất cả những đường tiếp tế của quân thù trong những vùng núi lởm chởm này. Nhưng đối với người Pháp, cũng như với những người Mỹ tới thay thế, Những căn cứ tuần tra này rất xa và cô lập, rất khó nhận sự tiếp ứng vì đường xá quá tệ. Chúng là những vị trí dễ kích thích, thường bị tấn công và đôi khi bị san phẳng.
    Mỗi bề của cái trại hình tam giác này là 1 bờ tường được đắp bằng đất cao từ 1m8 cho tới 2m4 và dài khoảng 80 mét. Nhiều năm bị bỏ hoang dưới mưa nắng bức tường bị sụp đổ nhiều chỗ nhất là ở những vị trí đặt súng, các bậc thang. Trại Lực lượng đặc biệt kề sát trông cũng chẳng khá hơn. Trong cuộc bao vây hồi cuối tháng 10, trại bị bắn phá bởi súng cối, bộc phá của đặc công, và súng máy cùng với các loại súng hạng nhẹ khác. Một vài mái nhà và một số cột kèo mỏng manh mà quân thù không bắn phá được thì lại bị đổ sụp vì những hòm pallet chứa đồ tiếp tế ném xuống từ những máy báy vận tải bằng dù.
    Chiều hôm đó, Đại tá Brown ra lệnh cho tôi điều 1 đại đội trở lại Trang trại chè Catecca để giúp bảo vệ vùng xung quanh Sở chỉ huy Lữ đoàn 3 của ông. ĐĐ Bravo của đại úy John nhận nhiệm vụ này. Đêm trước khoảng 2 đại đội du kích Việt Công đã tấn công sở chỉ huy Lữ đoàn và kho nhiên liệu cùng thiết bị công binh gần đó. Cuộc tấn công bị đánh bại sau 1 giờ nhưng có tới 7 lính Mỹ chết và 23 người bị thương. Sáu xác chết trong bộ đồ bà ba màu đen của quân địch được tìm thấy.
    Cách lều dã chiến của Brown không quá 1/4 dặm vượt qua các gốc cây chè là 1 căn nhà xinh xắn theo kiểu thuộc địa màu trắng. Người quản lý trang trại người Pháp sống ở đó và nếu bạn đứng ở bên kia đường chạy ngang qua ngôi nhà, nhìn qua bạn có thể bắt gặp 1 người phụ nữ trẻ trong bộ Bikini đang tắm nắng cạnh 1 cái hồ bơi. Ngôi nhà chẳng bị tấn công hay bị dội dù là 1 quả đạn cối trong cuộc tấn công đêm trước. Tình báo quân đội nói rằng những người chủ Pháp trả cho ********* 1 triệu đồng mỗi năm để nhận sự bảo vệ và trả cho chính quyền Sài Gòn 3 triệu tiền thuế mỗi năm. Các trang trại yêu cầu chính phủ Mỹ trả 50 USD cho mỗi cây chè và 250 USD cho mỗi cây cao su bị phá huỷ trong các cuộc hành quân. Lại thêm 1 điều phi lí nữa ở đây.
    Chiều đó, thứ 7, 13-11, Joe Galloway quá giang 1 trực thăng từ Pleiku để tới Catecka Sở chỉ huy của Brown. Anh nói : " 2 phóng viên người Pháp đi cùng với tôi đã khôn khéo để nhận được lời mời qua đêm trong ngôi nhà của những người đồng hương. Tôi đào 1 cái hố cáo dưới 1 gốc chè có giá 50 USD đó ngay bên ngoài vòng sở chĩ huy lữ đoàn cùng với ĐĐ Bravo. Đào thật sâu, đặt 1 vài băng đạn bên cạnh khẩu súng, và tự mừng sinh nhật lần thứ 24 của mình với 1 lon nước đào trong khẩu phần C cùng 1 vài cái bánh. Có lệnh tiểu đoàn của Moore sẽ tiến vào rừng sáng hôm sau."
    Có thể Galloway nhận được mệnh lệnh này trước cả tôi. Vào khoảng 4 giờ chiều Đại uý Tony Nadal và đại đội A đang hành quân tuần tra thì gặp 1 dòng sông nhỏ nước trong vắt có tên là Glae. Nadal đồng ý yêu cầu của lính cho từng nhóm nhỏ thay nhau xuống sông tắm rửa dưới sự canh gác chặt chẽ." Khi tôi đang quay trở lại cùng với trung sĩ nhất Newton cùng 1 vài lính khác thì nghe tiếng rocket nổ" Nadal nhớ lại, " Chúng tôi chạy trở lại và nhìn thấy trực thăng của mình đang phóng 1 chùm rocket xuống tôi. Tôi vồ lấy radio và hét lên : Get this goddamn thing away from me"
    Thượng sĩ Plumley và tôi bay tới để quan sát và gặp Nadal cùng thiếu tá Roger ( Black Bart) Bartholomew, chỉ huy của đại đội trực thăng vũ trang đó, người bay tới để điều tra. Dường như 1 đơn vị của tiểu đoàn 2, kỵ binh 7 đã nhầm lẫn bản đồ khi gọi yểm trợ hoả lực. 4 người của Nadal bị thương và được di tản bằng trực thăng cứu thương.
    Không lâu sau đó, đại tá Brown bay tới kiểm tra tình hình ở ĐĐ Alpha và gọi tôi tới bên cạnh." Hal, Tôi sẽ chuyển tiểu đoàn của cậu sang phía tây sáng ngày mai", ông nói , trải tấm bản đồ của mình ra. " Đây là vùng hành quân của cậu- bắc Chu Pong trong Thung lũng Ia Drang. Nhiệm vụ của cậu cũng giống như từ trước tới giờ : Tìm và diệt quân thù." Ông nhanh chóng đề ra những nhiệm vụ của cuộc hành quân và những hỗ trợ ông có thể cấp cho chúng tôi. : 16 chiếc Huey UH-1D để chuyển quân, 2 khẩu đội pháo 105 trong tầm bắn yểm trợ, và ít nhất 2 ngày tuần tra dưới mặt đất.
    Ông nói thêm, ĐĐ Alpha của tiểu đoàn trực thăng xung kích 229 sẽ cung cấp trực thăng; chỉ huy ĐĐ, thiếu tá Bruce Crandall đang trên đường tới đây. " Còn 1 điều nữa Hal, Trong vùng đó phải bố trí các đại đội thật gần nhau để có thể hỗ trợ lẫn nhau được". Sau khi ông đi, tôi báo cho đại úy Nanal những gì sắp diễn ra và bay trở lại trại lính Pháp. Trên trực thăng tôi đánh dấu những việc cần làm và điện cho Matt Dillon, sĩ quan hành quân của tôi, nói anh báo động cho những chỉ huy đại đội khác và những đơn vị hỗ trợ cùng ban tham mưu tập hợp lại. Chúng tôi có nhiều việc phải làm mà thời gian còn rất ít.
  4. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Bruce Crandall, 34 tuổi, từng là 1 ngôi sao bóng chày trong trường trung học, người Olympia, Washington. Anh sử dụng biệt danh riêng biệt trên radio gọi là " Ancient Serpent 6". Crandall tới cùng sĩ quan liên lạc trực thăng, Mickey Parrish, người sẽ ở cùng chúng tôi trong suốt cuộc hành quân để điều phối các hoạt động trực thăng. Đây là 1 quy trình hành quân tiêu chuẩn của Sư đoàn kỵ binh số 1: Lên kế hoạch chi tiết cho sự kết hợp giữa đơn vị trực thăng chuyên chở và lính bộ binh.
    Tất cả chúng tôi cùng những phi công trực thăng chưa từng đổ máu của Bruce Crandall sắp phải thử nghiệm điều chưa từng có ở VN, đánh nhau ở cấp tiểu đoàn. Crandall là kiểu người mà tôi thích : luôn cố làm tốt công việc của mình, nói thẳng, và chân thật nhất. Anh ta biết người của mình giỏi- và anh ta mong muốn những người làm việc cùng cũng phải giỏi tương đương. Thật không sai khi gọi Ancient Serpent 6 hay " Old Snake" hay " Snake**** 6" là người vui tính nhất còn sống. Những phi công và phi hành đoàn lấy làm tự hào khi chịu những ảnh hưởng về tinh thần phục vụ và tính chuyên nghiệp của anh, và Crandall yêu quí họ.
    Chúng tôi có 16 chiếc trực thăng bay được trong tổng số 20 chiếc phân bổ cho đơn vị" Crandall nói." Chúng tôi thiếu kinh nghiệm chiến đấu nhưng bù lại chúng tôi có nhiều giờ bay. Những phi công trẻ có khoảng 700 giờ bay trực thăng. Hầu hết được huấn luyện bay cả trực thăng lẫn máy bay. Hầu hết chúng tôi đều có mặt ở tiểu đoàn khi bắt đầu huấn luyện cơ động không vận, thêm nữa đại đội của tôi đã từng bay cùng lực lượng tinh nhuệ được gửi tới Công Hòa Dominica giữa năm 1965".
    Crandall tiếp tục :" ngày 13-11 tôi tham dự buổi họp của trung tá Moore. chúng tôi cùng thống nhất những vấn đề về cách thức thực hiện cuộc tấn công, vị trí pháo binh, không quân yểm trợ chiến thuật...và chuẩn bị 1 chuyến bay trinh sát vào sáng sớm hôm sau. Moore muốn chúng tôi, những đơn vị không quân, có mặt lúc lên kế hoạch và giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn, và là 1 bộ phận của ban tham mưu và các chỉ huy của ông. Khi nằm trong 1 đội ngũ chúng tôi cho thấy sự kết hợp với nhau bao giờ cũng tốt hơn là từng bộ phận hoạt động riêng lẻ.
    Đại úy Paul Patton Winkel, có người ông cố từng cưỡi ngựa cùng với William Tecumseh Sherman, là 1trung đội trưởng của đại đội Bravo, tiểu đoàn 229 biệt phái cho Crandall trong cuộc hành quân Ia Drang. Anh nói về những điều đã làm nên thế hệ phi công cơ động không vận đầu tiên : " Chúng tôi được huấn luyện từ tháng 7 -1964, cho tới khi chúng tôi tới VN với Sư đoàn Kỵ binh số, cách bay đặc biệt bốn chiếc theo hình chữ V ở tốc độ 80 - 120 Knots và chỉ ở độ cao bằng với những ngọn cây , theo hướng tiến quân của bộ binh. Huấn luyện Radio, liên lạc hàng không, bay trong mọi thời tiết, (....)
    Lúc này đã có lệnh cho Tony Nadal và Bob Edwards rút quân ra khỏi những hàng cây và bố trí họ ở những khoảng trống lớn nhất có thể trong khu vực của họ để trực thăng bốc đi vào sáng sớm ngày mai. Cả 2 đại đội đều đang hoạt động cách Plei Me 6 dặm về phía nam. ĐĐ Bravo của John Herren đã bố trí sẵn sàng ở sở chỉ huy Lữ đoàn.
    Ban tham mưu và tôi cùng với những sĩ quan liên lạc thảo luận hàng trăm lần từng chi tiết trong kế hoạch hành quân: địa hình, những bãi đổ bộ có thể có trong vùng rừng đầy bụi rậm đó, dự báo thời tiết, quân địch, quân số trong từng đại đội, hỏa lực yểm trợ, và khả năng chuyên chở của trực thăng.
    Những chiếc trực thăng chuyên trở của Bruce Crandall, 16 chiếc Huey, sẽ tới Trại Plei Me lúc 9giờ 30 sáng. Năm chiếc trực thăng Chinook khổng lồ sẽ tới sớm hơn để chuyển 1 khẩu đội 6 khẩu pháo 105mm tới Falcon, tới đó chúng sẽ kết hợp với 1 khẩu đội khác đã ở sẵn đó. Tôi yêu cầu 1 chuyến bay trinh sát trên vùng Thung Lũng Ia Drang vào sáng sớm, gồm 2 chiếc Huey Slick và 2 chiếc vũ trang. Matt Dillon; Bruce Candall; John Herren; chỉ huy pháo binh, đại uý Don Davis; chỉ huy bộ phận trực thăng vũ trang, đại uý Rickard; điều phối hỏa lực hỗ trợ, đại uý Jerry Whiteside; kiểm soát không quân tiền phương, trung úy Charlie Hastings và tôi sẽ cùng bay trong chuyến này.
    " Khi ĐĐ Bravo sẵn sàng nó sẽ được bốc đi, nó sẽ là đại đội tấn công đầu tiên", tôi nói với những người có mặt." Theo kế hoạch 1đợt bắn chuẩn bị kéo dài 20 phút của pháo binh, tiếp đó là 30 giây của phi pháo không quân, cuối cùng là 30 giây của trực thăng vũ trang. ĐĐ Bravo sẽ tiếp đất ngay sau khi trực thăng vũ trang bay ra. Tôi sẽ đi cùng ĐĐ B trong chuyến đổ bộ đầu tiên. Hãy nói với các chỉ huy ra lệnh cho binh lính mang cơ số đạn tối đa, 1 khẩu phần ăn C, và 2 bi đông nước mỗi người. Có thắc mắc gì không?" Không có 1 câu hỏi nào cả.
    Giờ là 8 giờ tối và mọi việc đang nhộn nhịp trong Sở chỉ huy tiểu đoàn, nơi có 4 chiếc lều nhỏ - 1 cho trạm quân y và phẫu thuật tiểu đoàn, 1 cho S-2 và S-3 ( tình báo và hành quân), 1 cho S-1 và S-4 ( quân lực và hậu cần ) và 1 cho chỉ huy tiểu đoàn bộ.
    Những người còn lại ngủ ngoài trời, cuộn tròn trong những túi Ponchos. Thức ăn dã chiến thường là khẩu phần C, 1 hộp gồm đậu Lima và giăm bông, hoặc mì Spaghetti và thịt viên, mở với 1 cái đồ mở hộp P-38, chúng tôi luôn đeo sợi giây xích có gắn thẻ bài trên cổ.
    Thượng sĩ Plumley và tôi ăn tối, sau đó đi 1 vòng quanh trại lính Pháp. Sở chỉ huy được canh gác bằng trung đội trinh sát và trung đội súng máy của ĐĐ Delta. Thỉnh thoảng chúng tôi ngừng lại nói chuyện với 1 vài người lính trên đường đi. Đêm thật tĩnh lặng, tiếng chim kêu và tiếng tắc kè hoà quyện với tiếng hút gió của những cây đèn Hoa Kỳ đang chiếu sáng bên trong những ngôi lều tạo nên 1 âm thanh ma quái.
    Tôi lại nghĩ tới những người lính Pháp ngày trước, những người đã xây dựng và đứng gác trong những chốt hoang tàn này, để bảo vệ cho 1 đế quốc nay đã chết. Mọi thứ đổi thay, nhưng đời lính thì không. Không biết tay chỉ huy người Pháp nghĩ gì khi chuẩn bị cho 1 cuộc hành quân 15 năm về trước.
    Những suy nghĩ tôi lại quay về với cuộc hành quân ngày mai. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng quân địch đã sử dụng Thung lũng Ia Drang làm bàn đạp cho cuộc tấn công vào trại Plei Me và dường như đã quay trở lại đó để tái tổ chức và chữa trị cho những người bị thương. Sông Drang có nhiều nước để nấu nướng. Đây là vị trí tốt nhất cho quân Bắc Việt vì nó nằm trên biên giới với Cambodia. Những người Cộng Sản VN qua lại biên giới bất cứ khi nào họ muốn còn chúng tôi bị cấm vượt qua.
    Tôi biết rằng Lữ đoàn 1 của Sư đoàn, trại Plei Me, phi đoàn trực thăng kỵ binh của sư đoàn và hỏa lực không quân và pháo binh của chúng tôi đã làm cho quân Bắc Việt thiệt hại nặng nề trong suốt 3 tuần qua. Bên tình báo nói với tôi rằng họ đoán chắc có 1tiểu đoàn ở căn cứ trong dãy Chu Pong cách chỗ chúng tôi sẽ đổ quân 2 dặm về phía tây-bắc, có khả năng quân thù sẽ ở rất gần bãi trống mà chúng tôi định dùng làm bãi đổ bộ, và có khả nằng tồn tại 1 căn cứ bí mật cách vùng mục tiêu khoảng nửa dặm về phía đông. Chỉ cần 1 trong những khả năng này là hiện thực chúng tôi sẽ gặp phải sự phản kháng mãng liệt.
    Tiểu đoàn của tôi đã sẵn sàng cho chiến đấu hay chưa? Chúng tôi chưa bao giờ vận động cả tiểu đoàn trong chiến đấu, cho dù tất cả 3 đại đội súng trường đều đã có những trận đánh nhỏ. Hầu hết binh lính thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy 1 người lính đối phương, sống hoặc chết. Chúng tôi mới chỉ giết dưới 10 địch quân, trong những bộ bà ba màu đen, trong các cuộc tuần tra và hành quân càn quét nhỏ từ khi tới An Khê.
    Bốn đại đội trong đội hình có 20 trong tổng số 23 sĩ quan thuộc biên chế, nhưng binh lính chiến đấu thì bị thiếu nghiêm trọng vì hết hạn quân dịch, sốt rét, và yêu cầu của việc canh phòng và làm việc ở căn cứ dưới An Khê. ĐĐ Alpha có 115 người, ít hơn 49 so với biên chế. ĐĐ Bravo có 114 người, thiếu 50 người. ĐĐ Charlie còn có 106 người giảm tới 58 người. Và đại đội hoả lực Delta chỉ có 76 người, 42 người ít hơn so với biên chế. Tiểu đoàn bộ cũng bị thiếu lực lượng và tôi buộc phải cắt giảm người nhiều hơn nữa bằng việc gửi những y sĩ hay lính thông tin lấp vào những chỗ bị bỏ trống thiết yếu trong 4 đại đội kia.
    Tôi không thích bị thiếu người, nhưng mọi chuyện cũng chẳng khác mấy so với thời chiến tranh Triều Tiên, và cách chúng tôi xoay sở, bạn phải chấp nhận và đương đầu với nó. Những sĩ quan và hạ sĩ quan phải làm những gì có thể để thay thế sự thiếu hụt. Đó là những gì chúng tôi đã làm ở Triều Tiên.
    Tôi chỉ có thể hy vọng rằng quân địch, bị thương vong nặng nề trong những trận đánh trước đó, cũng suy giảm sức mạnh. Và ít ra tôi cũng có thể dựa vào hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ để giảm đi phần nào sự thiếu hụt quân số. Dự báo thời tiết cho biết ngày nắng và đêm có sáng trăng sẽ đảm bảo cho không quân và 2 khẩu đội 12 khẩu 105 ly yểm hộ chính xác cho chúng tôi.
    Nhưng mối bận tâm nhất của tôi là việc chúng tôi chỉ có 16 chiếc Huey để vận chuyển tiểu đoàn tới khu vực đổ bộ. 1 lần bay trung bình khoảng 15 dặm từ nhiều điểm bốc quân khác nhau.
    Điều đó có nghĩa là có chưa tới 80 người - không đủ 1 đại đội- sẽ tiếp đất trong đợt đầu tiên và sẽ là những người lính duy nhất trên mặt đất cho tới lúc những chiếc trực thăng trở lại Plei Me, bốc khoảng 80 người khác và quay lại. Sau đó những chiếc trực thăng sẽ có thể chở nhiều lính hơn - khoảng 90 tới 100 - vì đã nhẹ hơn do đốt đi 1 phần nhiên liệu.
    Đó là 1 hành trình kéo dài 30 phút mỗi lần, và nếu được như tính toán ban đầu sẽ mất hơn 4 giờ đồng hồ để chuyển hết tiểu đoàn. Những chiếc Huey cũng cần phải tiếp nhiên liệu trong suốt hành trình nên thậm chí sẽ phải mất nhiều thời gian hơn nữa; và nếu bãi đỗ quân trở nên nguy hiểm và bất cứ 1trong những chiếc Huey bị bắn rơi cũng sẽ ảnh hưởng tới thời gian đã tính toán.
    Suốt đêm đó khi nằm trên những bờ đất của trại lính Pháp, đầu óc tôi luôn đầy ắp những câu hỏi " Nếu.." dường như vô tận. Và việc mất thời gian với chúng không bao giờ lãng phí : Nếu chỉ cần 1 trong số những cái " Nếu.." đó thành hiện thực người chỉ huy sẽ có những khoảnh khắc quý giá để đối phó với trận chiến. Kịch bản tồi tệ nhất của tôi là 1 bãi đáp nguy hiểm- trận đánh bắt đầu trong khi hoặc ngay sau khi đổ bộ- và tôi chắc rằng quân thù sẽ làm như vậy. Trong bất kỳ 1 cuộc tấn công nào vào vùng quân địch kiểm soát- dù đó là bãi biển hay bãi nhảy dù, dù có phải vượt sông hay trong trường hợp của chúng tôi , đổ bộ xuống căn cứ của quân thù- thời gian nguy hiểm nhất chính là giai đoạn trước khi quân lính được bố trí và tổ chức ổn định và tiến lên.
    Tôi lại nghĩ tới những gì mình có thể làm được nếu điều tồi tệ nhất xảy ra. Trước tiên tôi sẽ nhảy xuống đất từ chiếc trực thăng dẫn đầu, được điều khiển bởi Crandall. Điều này cho phép tôi có được cái nhìn ở mức gần nhất về bãi đổ quân và địa hình xung quanh. Cùng với Crandall ngồi phía trước chúng tôi có thể bàn với nhau những thay đổi vào phút chót, nếu cần thiết, về 1 bãi đổ quân thay thế và kiểm soát những vấn đề của chuyến bay.
    Trong cuộc nội chiến của nước Mỹ, có 1nguyên tắc là 1 chỉ huy giỏi phải hạn chế tối đa việc cưỡi trên lưng ngựa. Có những lý do của nó, nếu bạn cưỡi ngựa và quân lính của bạn hành quân bộ theo sau, làm sao bạn đánh giá được họ mệt mỏi đến đâu, họ khát nước hay không, hay quân trang họ mang nặng đến mức nào?
    Tôi cũng áp dụng nguyên lý đó ở VN, nơi mà mỗi vị chỉ huy tiểu đoàn đều có trực thăng chỉ huy riêng. Một vài chỉ huy tiểu đoàn sử dụng trực thăng như giống như việc cưỡi ngữa. Tôi không bao giờ thích chuyện đó. Bạn phải ở cùng với binh lính dưới mặt đất để nghe và thấy những gì đang diễn ra. Bạn phải tiếp nhận những thông tin nóng bỏng để có thể ra những quyết định chính xác. Thêm nữa thật dễ dàng tách ra ngồi trên trực thăng ở độ cao 450 mét an toàn, mát mẻ để ra những mệnh lệnh ngoài khả năng của quân lính, để dễ dàng phạm những sai lầm gây nên cái chết cho nhưng con người đang vật lộn dưới bùn đất, máu me, và hoảng loạn phía dưới.
    Cùng với tôi trong chiếc trực thăng dẫn đầu sẽ là thượng sĩ Plumley; đại úy Tom Metsker; người điều khiển radio của tôi, hạ sĩ Bob Ouellette; và người thông dịch, ông Nik 1 người Thượng.
    Bước thứ hai của kế hoạch của tôi để giải quyết bất kỳ 1 vấn đề nào xảy ra tại khu vực đổ bộ sẽ diễn ra như sau. Tôi sẽ để đội hỗ trợ hỏa lực ngay ở phía trên, trong trực thăng chỉ huy của tiểu đoàn với sự điều phối của Matt Dillon. từ độ cao 750 mét ngay trên đầu chúng tôi, Dillon sẽ giữ liên lạc với Sở chỉ huy Lữ đoàn 3, với sở chỉ huy cơ bản của tiểu đoàn ở Plei Me và với các đại đội đang tập trung tại những điểm bốc quân. Anh có thể theo dõi tất cả những gì nói trên sóng radio chỉ huy của tiểu đoàn. Jerry Whiteside sẻ hướng dẫn cho pháo binh và trực thăng phóng hỏa tiễn. Charlie Hastings sẽ làm việc với không quân yểm trợ. Và Mickey Parrish sẽ kết hợp với Bruce Crandall và phi hành đoàn trực thăng.
    Bước thứ 3, tôi phải sử dụng tối đa khả năng của 80 người có mặt trên chiến trường trong nửa giờ rất quan trọng đầu tiên. Quy trình hành quân tiêu chuẩn của chiến thuật cơ động không vận mới quy định rằng đơn vị dẫn đầu phải trải rộng 360 độ và tiến hành tấn công ra ngoài toàn chu vi. Lần này thì không, tôi nghĩ tới 1 kỹ thuật mới dường như được thiết kế duy nhất cho tình huống này. ĐĐ Bravo sẽ bố trí ở trung tâm bãi đổ bộ như là 1 lực lượng dự bị và tấn công. Bốn tiểu đội 7 người sẽ được điều ra 4 hướng khác nhau để kiểm tra chu vi và vùng xung quanh. Nếu 1 trong bốn tiểu đội này gặp địch tôi sẽ lập tức cho cả đại đội di chuyển theo hướng đó, và đẩy trận đánh và quân địch ra xa bãi đổ quân càng xa càng tốt.
    Khoảng 10giờ 30 tối Plumley và tôi quay trở lại lều hành quân để kiểm tra mọi sự chuẩn bị. Mọi thứ đều tiến triển tốt. Plumley đề nghị chúng tôi nên đi ngủ, nói rằng sẽ rất lâu chúng tôi mới có cơ hội ngủ lại. Chúng tôi quay trở lại nơi để quân trang, lấy túi Ponchos, cuộn tròn trong đó, dưới đất, vũ khí để sát bên, và rơi vào giấc ngủ.
  5. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Bruce Crandall, 34 tuổi, từng là 1 ngôi sao bóng chày trong trường trung học, người Olympia, Washington. Anh sử dụng biệt danh riêng biệt trên radio gọi là " Ancient Serpent 6". Crandall tới cùng sĩ quan liên lạc trực thăng, Mickey Parrish, người sẽ ở cùng chúng tôi trong suốt cuộc hành quân để điều phối các hoạt động trực thăng. Đây là 1 quy trình hành quân tiêu chuẩn của Sư đoàn kỵ binh số 1: Lên kế hoạch chi tiết cho sự kết hợp giữa đơn vị trực thăng chuyên chở và lính bộ binh.
    Tất cả chúng tôi cùng những phi công trực thăng chưa từng đổ máu của Bruce Crandall sắp phải thử nghiệm điều chưa từng có ở VN, đánh nhau ở cấp tiểu đoàn. Crandall là kiểu người mà tôi thích : luôn cố làm tốt công việc của mình, nói thẳng, và chân thật nhất. Anh ta biết người của mình giỏi- và anh ta mong muốn những người làm việc cùng cũng phải giỏi tương đương. Thật không sai khi gọi Ancient Serpent 6 hay " Old Snake" hay " Snake**** 6" là người vui tính nhất còn sống. Những phi công và phi hành đoàn lấy làm tự hào khi chịu những ảnh hưởng về tinh thần phục vụ và tính chuyên nghiệp của anh, và Crandall yêu quí họ.
    Chúng tôi có 16 chiếc trực thăng bay được trong tổng số 20 chiếc phân bổ cho đơn vị" Crandall nói." Chúng tôi thiếu kinh nghiệm chiến đấu nhưng bù lại chúng tôi có nhiều giờ bay. Những phi công trẻ có khoảng 700 giờ bay trực thăng. Hầu hết được huấn luyện bay cả trực thăng lẫn máy bay. Hầu hết chúng tôi đều có mặt ở tiểu đoàn khi bắt đầu huấn luyện cơ động không vận, thêm nữa đại đội của tôi đã từng bay cùng lực lượng tinh nhuệ được gửi tới Công Hòa Dominica giữa năm 1965".
    Crandall tiếp tục :" ngày 13-11 tôi tham dự buổi họp của trung tá Moore. chúng tôi cùng thống nhất những vấn đề về cách thức thực hiện cuộc tấn công, vị trí pháo binh, không quân yểm trợ chiến thuật...và chuẩn bị 1 chuyến bay trinh sát vào sáng sớm hôm sau. Moore muốn chúng tôi, những đơn vị không quân, có mặt lúc lên kế hoạch và giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn, và là 1 bộ phận của ban tham mưu và các chỉ huy của ông. Khi nằm trong 1 đội ngũ chúng tôi cho thấy sự kết hợp với nhau bao giờ cũng tốt hơn là từng bộ phận hoạt động riêng lẻ.
    Đại úy Paul Patton Winkel, có người ông cố từng cưỡi ngựa cùng với William Tecumseh Sherman, là 1trung đội trưởng của đại đội Bravo, tiểu đoàn 229 biệt phái cho Crandall trong cuộc hành quân Ia Drang. Anh nói về những điều đã làm nên thế hệ phi công cơ động không vận đầu tiên : " Chúng tôi được huấn luyện từ tháng 7 -1964, cho tới khi chúng tôi tới VN với Sư đoàn Kỵ binh số, cách bay đặc biệt bốn chiếc theo hình chữ V ở tốc độ 80 - 120 Knots và chỉ ở độ cao bằng với những ngọn cây , theo hướng tiến quân của bộ binh. Huấn luyện Radio, liên lạc hàng không, bay trong mọi thời tiết, (....)
    Lúc này đã có lệnh cho Tony Nadal và Bob Edwards rút quân ra khỏi những hàng cây và bố trí họ ở những khoảng trống lớn nhất có thể trong khu vực của họ để trực thăng bốc đi vào sáng sớm ngày mai. Cả 2 đại đội đều đang hoạt động cách Plei Me 6 dặm về phía nam. ĐĐ Bravo của John Herren đã bố trí sẵn sàng ở sở chỉ huy Lữ đoàn.
    Ban tham mưu và tôi cùng với những sĩ quan liên lạc thảo luận hàng trăm lần từng chi tiết trong kế hoạch hành quân: địa hình, những bãi đổ bộ có thể có trong vùng rừng đầy bụi rậm đó, dự báo thời tiết, quân địch, quân số trong từng đại đội, hỏa lực yểm trợ, và khả năng chuyên chở của trực thăng.
    Những chiếc trực thăng chuyên trở của Bruce Crandall, 16 chiếc Huey, sẽ tới Trại Plei Me lúc 9giờ 30 sáng. Năm chiếc trực thăng Chinook khổng lồ sẽ tới sớm hơn để chuyển 1 khẩu đội 6 khẩu pháo 105mm tới Falcon, tới đó chúng sẽ kết hợp với 1 khẩu đội khác đã ở sẵn đó. Tôi yêu cầu 1 chuyến bay trinh sát trên vùng Thung Lũng Ia Drang vào sáng sớm, gồm 2 chiếc Huey Slick và 2 chiếc vũ trang. Matt Dillon; Bruce Candall; John Herren; chỉ huy pháo binh, đại uý Don Davis; chỉ huy bộ phận trực thăng vũ trang, đại uý Rickard; điều phối hỏa lực hỗ trợ, đại uý Jerry Whiteside; kiểm soát không quân tiền phương, trung úy Charlie Hastings và tôi sẽ cùng bay trong chuyến này.
    " Khi ĐĐ Bravo sẵn sàng nó sẽ được bốc đi, nó sẽ là đại đội tấn công đầu tiên", tôi nói với những người có mặt." Theo kế hoạch 1đợt bắn chuẩn bị kéo dài 20 phút của pháo binh, tiếp đó là 30 giây của phi pháo không quân, cuối cùng là 30 giây của trực thăng vũ trang. ĐĐ Bravo sẽ tiếp đất ngay sau khi trực thăng vũ trang bay ra. Tôi sẽ đi cùng ĐĐ B trong chuyến đổ bộ đầu tiên. Hãy nói với các chỉ huy ra lệnh cho binh lính mang cơ số đạn tối đa, 1 khẩu phần ăn C, và 2 bi đông nước mỗi người. Có thắc mắc gì không?" Không có 1 câu hỏi nào cả.
    Giờ là 8 giờ tối và mọi việc đang nhộn nhịp trong Sở chỉ huy tiểu đoàn, nơi có 4 chiếc lều nhỏ - 1 cho trạm quân y và phẫu thuật tiểu đoàn, 1 cho S-2 và S-3 ( tình báo và hành quân), 1 cho S-1 và S-4 ( quân lực và hậu cần ) và 1 cho chỉ huy tiểu đoàn bộ.
    Những người còn lại ngủ ngoài trời, cuộn tròn trong những túi Ponchos. Thức ăn dã chiến thường là khẩu phần C, 1 hộp gồm đậu Lima và giăm bông, hoặc mì Spaghetti và thịt viên, mở với 1 cái đồ mở hộp P-38, chúng tôi luôn đeo sợi giây xích có gắn thẻ bài trên cổ.
    Thượng sĩ Plumley và tôi ăn tối, sau đó đi 1 vòng quanh trại lính Pháp. Sở chỉ huy được canh gác bằng trung đội trinh sát và trung đội súng máy của ĐĐ Delta. Thỉnh thoảng chúng tôi ngừng lại nói chuyện với 1 vài người lính trên đường đi. Đêm thật tĩnh lặng, tiếng chim kêu và tiếng tắc kè hoà quyện với tiếng hút gió của những cây đèn Hoa Kỳ đang chiếu sáng bên trong những ngôi lều tạo nên 1 âm thanh ma quái.
    Tôi lại nghĩ tới những người lính Pháp ngày trước, những người đã xây dựng và đứng gác trong những chốt hoang tàn này, để bảo vệ cho 1 đế quốc nay đã chết. Mọi thứ đổi thay, nhưng đời lính thì không. Không biết tay chỉ huy người Pháp nghĩ gì khi chuẩn bị cho 1 cuộc hành quân 15 năm về trước.
    Những suy nghĩ tôi lại quay về với cuộc hành quân ngày mai. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng quân địch đã sử dụng Thung lũng Ia Drang làm bàn đạp cho cuộc tấn công vào trại Plei Me và dường như đã quay trở lại đó để tái tổ chức và chữa trị cho những người bị thương. Sông Drang có nhiều nước để nấu nướng. Đây là vị trí tốt nhất cho quân Bắc Việt vì nó nằm trên biên giới với Cambodia. Những người Cộng Sản VN qua lại biên giới bất cứ khi nào họ muốn còn chúng tôi bị cấm vượt qua.
    Tôi biết rằng Lữ đoàn 1 của Sư đoàn, trại Plei Me, phi đoàn trực thăng kỵ binh của sư đoàn và hỏa lực không quân và pháo binh của chúng tôi đã làm cho quân Bắc Việt thiệt hại nặng nề trong suốt 3 tuần qua. Bên tình báo nói với tôi rằng họ đoán chắc có 1tiểu đoàn ở căn cứ trong dãy Chu Pong cách chỗ chúng tôi sẽ đổ quân 2 dặm về phía tây-bắc, có khả năng quân thù sẽ ở rất gần bãi trống mà chúng tôi định dùng làm bãi đổ bộ, và có khả nằng tồn tại 1 căn cứ bí mật cách vùng mục tiêu khoảng nửa dặm về phía đông. Chỉ cần 1 trong những khả năng này là hiện thực chúng tôi sẽ gặp phải sự phản kháng mãng liệt.
    Tiểu đoàn của tôi đã sẵn sàng cho chiến đấu hay chưa? Chúng tôi chưa bao giờ vận động cả tiểu đoàn trong chiến đấu, cho dù tất cả 3 đại đội súng trường đều đã có những trận đánh nhỏ. Hầu hết binh lính thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy 1 người lính đối phương, sống hoặc chết. Chúng tôi mới chỉ giết dưới 10 địch quân, trong những bộ bà ba màu đen, trong các cuộc tuần tra và hành quân càn quét nhỏ từ khi tới An Khê.
    Bốn đại đội trong đội hình có 20 trong tổng số 23 sĩ quan thuộc biên chế, nhưng binh lính chiến đấu thì bị thiếu nghiêm trọng vì hết hạn quân dịch, sốt rét, và yêu cầu của việc canh phòng và làm việc ở căn cứ dưới An Khê. ĐĐ Alpha có 115 người, ít hơn 49 so với biên chế. ĐĐ Bravo có 114 người, thiếu 50 người. ĐĐ Charlie còn có 106 người giảm tới 58 người. Và đại đội hoả lực Delta chỉ có 76 người, 42 người ít hơn so với biên chế. Tiểu đoàn bộ cũng bị thiếu lực lượng và tôi buộc phải cắt giảm người nhiều hơn nữa bằng việc gửi những y sĩ hay lính thông tin lấp vào những chỗ bị bỏ trống thiết yếu trong 4 đại đội kia.
    Tôi không thích bị thiếu người, nhưng mọi chuyện cũng chẳng khác mấy so với thời chiến tranh Triều Tiên, và cách chúng tôi xoay sở, bạn phải chấp nhận và đương đầu với nó. Những sĩ quan và hạ sĩ quan phải làm những gì có thể để thay thế sự thiếu hụt. Đó là những gì chúng tôi đã làm ở Triều Tiên.
    Tôi chỉ có thể hy vọng rằng quân địch, bị thương vong nặng nề trong những trận đánh trước đó, cũng suy giảm sức mạnh. Và ít ra tôi cũng có thể dựa vào hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ để giảm đi phần nào sự thiếu hụt quân số. Dự báo thời tiết cho biết ngày nắng và đêm có sáng trăng sẽ đảm bảo cho không quân và 2 khẩu đội 12 khẩu 105 ly yểm hộ chính xác cho chúng tôi.
    Nhưng mối bận tâm nhất của tôi là việc chúng tôi chỉ có 16 chiếc Huey để vận chuyển tiểu đoàn tới khu vực đổ bộ. 1 lần bay trung bình khoảng 15 dặm từ nhiều điểm bốc quân khác nhau.
    Điều đó có nghĩa là có chưa tới 80 người - không đủ 1 đại đội- sẽ tiếp đất trong đợt đầu tiên và sẽ là những người lính duy nhất trên mặt đất cho tới lúc những chiếc trực thăng trở lại Plei Me, bốc khoảng 80 người khác và quay lại. Sau đó những chiếc trực thăng sẽ có thể chở nhiều lính hơn - khoảng 90 tới 100 - vì đã nhẹ hơn do đốt đi 1 phần nhiên liệu.
    Đó là 1 hành trình kéo dài 30 phút mỗi lần, và nếu được như tính toán ban đầu sẽ mất hơn 4 giờ đồng hồ để chuyển hết tiểu đoàn. Những chiếc Huey cũng cần phải tiếp nhiên liệu trong suốt hành trình nên thậm chí sẽ phải mất nhiều thời gian hơn nữa; và nếu bãi đỗ quân trở nên nguy hiểm và bất cứ 1trong những chiếc Huey bị bắn rơi cũng sẽ ảnh hưởng tới thời gian đã tính toán.
    Suốt đêm đó khi nằm trên những bờ đất của trại lính Pháp, đầu óc tôi luôn đầy ắp những câu hỏi " Nếu.." dường như vô tận. Và việc mất thời gian với chúng không bao giờ lãng phí : Nếu chỉ cần 1 trong số những cái " Nếu.." đó thành hiện thực người chỉ huy sẽ có những khoảnh khắc quý giá để đối phó với trận chiến. Kịch bản tồi tệ nhất của tôi là 1 bãi đáp nguy hiểm- trận đánh bắt đầu trong khi hoặc ngay sau khi đổ bộ- và tôi chắc rằng quân thù sẽ làm như vậy. Trong bất kỳ 1 cuộc tấn công nào vào vùng quân địch kiểm soát- dù đó là bãi biển hay bãi nhảy dù, dù có phải vượt sông hay trong trường hợp của chúng tôi , đổ bộ xuống căn cứ của quân thù- thời gian nguy hiểm nhất chính là giai đoạn trước khi quân lính được bố trí và tổ chức ổn định và tiến lên.
    Tôi lại nghĩ tới những gì mình có thể làm được nếu điều tồi tệ nhất xảy ra. Trước tiên tôi sẽ nhảy xuống đất từ chiếc trực thăng dẫn đầu, được điều khiển bởi Crandall. Điều này cho phép tôi có được cái nhìn ở mức gần nhất về bãi đổ quân và địa hình xung quanh. Cùng với Crandall ngồi phía trước chúng tôi có thể bàn với nhau những thay đổi vào phút chót, nếu cần thiết, về 1 bãi đổ quân thay thế và kiểm soát những vấn đề của chuyến bay.
    Trong cuộc nội chiến của nước Mỹ, có 1nguyên tắc là 1 chỉ huy giỏi phải hạn chế tối đa việc cưỡi trên lưng ngựa. Có những lý do của nó, nếu bạn cưỡi ngựa và quân lính của bạn hành quân bộ theo sau, làm sao bạn đánh giá được họ mệt mỏi đến đâu, họ khát nước hay không, hay quân trang họ mang nặng đến mức nào?
    Tôi cũng áp dụng nguyên lý đó ở VN, nơi mà mỗi vị chỉ huy tiểu đoàn đều có trực thăng chỉ huy riêng. Một vài chỉ huy tiểu đoàn sử dụng trực thăng như giống như việc cưỡi ngữa. Tôi không bao giờ thích chuyện đó. Bạn phải ở cùng với binh lính dưới mặt đất để nghe và thấy những gì đang diễn ra. Bạn phải tiếp nhận những thông tin nóng bỏng để có thể ra những quyết định chính xác. Thêm nữa thật dễ dàng tách ra ngồi trên trực thăng ở độ cao 450 mét an toàn, mát mẻ để ra những mệnh lệnh ngoài khả năng của quân lính, để dễ dàng phạm những sai lầm gây nên cái chết cho nhưng con người đang vật lộn dưới bùn đất, máu me, và hoảng loạn phía dưới.
    Cùng với tôi trong chiếc trực thăng dẫn đầu sẽ là thượng sĩ Plumley; đại úy Tom Metsker; người điều khiển radio của tôi, hạ sĩ Bob Ouellette; và người thông dịch, ông Nik 1 người Thượng.
    Bước thứ hai của kế hoạch của tôi để giải quyết bất kỳ 1 vấn đề nào xảy ra tại khu vực đổ bộ sẽ diễn ra như sau. Tôi sẽ để đội hỗ trợ hỏa lực ngay ở phía trên, trong trực thăng chỉ huy của tiểu đoàn với sự điều phối của Matt Dillon. từ độ cao 750 mét ngay trên đầu chúng tôi, Dillon sẽ giữ liên lạc với Sở chỉ huy Lữ đoàn 3, với sở chỉ huy cơ bản của tiểu đoàn ở Plei Me và với các đại đội đang tập trung tại những điểm bốc quân. Anh có thể theo dõi tất cả những gì nói trên sóng radio chỉ huy của tiểu đoàn. Jerry Whiteside sẻ hướng dẫn cho pháo binh và trực thăng phóng hỏa tiễn. Charlie Hastings sẽ làm việc với không quân yểm trợ. Và Mickey Parrish sẽ kết hợp với Bruce Crandall và phi hành đoàn trực thăng.
    Bước thứ 3, tôi phải sử dụng tối đa khả năng của 80 người có mặt trên chiến trường trong nửa giờ rất quan trọng đầu tiên. Quy trình hành quân tiêu chuẩn của chiến thuật cơ động không vận mới quy định rằng đơn vị dẫn đầu phải trải rộng 360 độ và tiến hành tấn công ra ngoài toàn chu vi. Lần này thì không, tôi nghĩ tới 1 kỹ thuật mới dường như được thiết kế duy nhất cho tình huống này. ĐĐ Bravo sẽ bố trí ở trung tâm bãi đổ bộ như là 1 lực lượng dự bị và tấn công. Bốn tiểu đội 7 người sẽ được điều ra 4 hướng khác nhau để kiểm tra chu vi và vùng xung quanh. Nếu 1 trong bốn tiểu đội này gặp địch tôi sẽ lập tức cho cả đại đội di chuyển theo hướng đó, và đẩy trận đánh và quân địch ra xa bãi đổ quân càng xa càng tốt.
    Khoảng 10giờ 30 tối Plumley và tôi quay trở lại lều hành quân để kiểm tra mọi sự chuẩn bị. Mọi thứ đều tiến triển tốt. Plumley đề nghị chúng tôi nên đi ngủ, nói rằng sẽ rất lâu chúng tôi mới có cơ hội ngủ lại. Chúng tôi quay trở lại nơi để quân trang, lấy túi Ponchos, cuộn tròn trong đó, dưới đất, vũ khí để sát bên, và rơi vào giấc ngủ.
  6. xuan5nam

    xuan5nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2004
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    "We are soldiers once... and young" do Harold G. Moore viết rất nên tham khảo. Qua đó chúng ta có thể thấy suy nghĩ của đối phương. Và có thể kiểm chứng sự xuyên tạc của 1 bộ phim tai tiếng cùng tên hoặc nếu cuốn sách đó cũng... hư cấu quá mức thì cũng là 1 dịp để hiểu thực sự con người Mỹ!
    Tôi ủng hộ bạn Duong!
  7. xuan5nam

    xuan5nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2004
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    "We are soldiers once... and young" do Harold G. Moore viết rất nên tham khảo. Qua đó chúng ta có thể thấy suy nghĩ của đối phương. Và có thể kiểm chứng sự xuyên tạc của 1 bộ phim tai tiếng cùng tên hoặc nếu cuốn sách đó cũng... hư cấu quá mức thì cũng là 1 dịp để hiểu thực sự con người Mỹ!
    Tôi ủng hộ bạn Duong!
  8. xuan5nam

    xuan5nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2004
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Một "khảo dị" để tiện so sánh, đề nghị bạn Duong2002 tiếp tục!
    Trích: phần VI, Tập 2 cuốn ?oSự lừa dối hào nhoáng?-?oA bright shining lie John Paul Vann and America in Vietnam? của Neil Sheehan, 1988. NXB TP HCM in lần đầu 1990.
    Nhiều chuyện huyền hoặc đã được thêu dệt chung quanh sự ra đời của sư đoàn không kỵ. Binh lính, sĩ quan và hạ sĩ quan đều quen biết và tin cậy lẫn nhau. Đa số đã cùng tham gia huấn luyện với nhau hơn một năm ở Fort Benning để thành lập sư đoàn không quân tấn công thứ 11 dày dạn kinh nghiệm. Các phi công thuộc các đội hình trực thăng khác nhau đã học được cách thể hiện vai trò cá nhân và làm cho các đường bay của mình hòa vào một vũ điệu phức tạp. ?oKhi tổng thống Johnson chấp nhận đề nghị của Westmoreland vào tháng Bảy 1965, sư đoàn dày dặn kinh nghiệm này được mang tên sư đoàn kỵ binh chính quy số 1 được tăng cường một số tiểu đoàn đã lên đường sang Việt Nam vào tháng Chín, tạo thành một căn cứ lớn cho ba Lữ đoàn và 435 trực thăng tại thung lũng An Khê ở phía đông các dãy núi cách Qui Nhơn ở miền Trung Việt Nam không bao xa.
    Tôi nghe nói về trận đánh đầu tiên của sư đoàn kỵ binh bay và quân chính quy thuộc quân đội Bắc Việt vào giữa tháng Mười Một năm 1965 trong khi tôi đang ở miền Trung để điều tra về người tị nạn. Tôi thấy có năm căn nhà nằm phía trong dọc một đoạn bờ biển tỉnh Quảng Ngãi thuộc một làng chài giàu có với khoảng 15.000 cư dân tính từ mùa hè năm trước. Đây không phải là những căn nhà tranh vách liếp thông thường mà là những nhầ xây bằng gạch có tường dày, công trình của bao thế hệ tiết kiệm qua nghề làm biển. Tất cả đã biến thành đống gạch vụn hoặc còn lại những cái sườn chỏng chơ hai tháng sau ngày bị máy bay và những quả đạn pháo bẳn thẳng từ hạm đội bảy. Làng này được tuyên bố là một căn cứ của ********* và bị san bằng. Đơn giản là vì làng này nằm trong vùng kiểm soát của quân du kích. Các viên chức ở trung tâm thị xã nói rằng những cuộc điều tra cho thấy hơn 180 thường dân đã bị giết trước khi phần lớn dân chúng chạy thoát. Người khác ước lượng có vẻ có lý là con số lên đến 600. Các sĩ quan trẻ thuộc phân đội cố vấn quân sự của tỉnh nói là họ biết ít nhất là mười làng khác đã bị san bằng hoàn toàn theo cùng một cách lập luận mập mờ như thế và hai mươi lăm làng khác đã bị tàn phá nặng nề. Họ nói là sơ đồ bắn phá tiêu diệt đang mở rộng.
    Chiều hôm đó tôi goi điện đến văn phòng báo Times tại Sài Gòn tả lại câu chuyện tôi đã viết. Chariie Moher, phụ trách văn phòng nói với tôi là nên chờ đã. Một trận đụng độ lớn với quân Bắc Việt đã bắt đầu gần Pleiku, thành phố chính ở trung tâm cao nguyên, và tốt hơn là tôi nhanh chóng bay lên trên đó.
    Một viên đại uý tốt bụng dẫn tôi ra đường băng của tỉnh và khi đêm đã muộn, tôi đi nhờ máy bay dọc bờ biển tới Qui Nhơn và sau đó vượt qua đồi núi tới Pleiku. Tôi làm quen với sự lộn xộn ở một chốt chỉ huy của quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi chiều xuống. Pleiku đêm đó thật là sôi động và ồn ào. Các máy gọi rè rè liên tục hoạt động với nào là những yêu cầu rồi lệnh và báo cáo. Những chiếc trực thăng Chinook lớn như những cái hộp, đáp xuống, chất đạn pháo lên rồi lại bay lên để tiếp viện cho các khẩu pháo. Rực sáng qua mán đêm ở phía tây-nam nơi xảy ra trận đánh.
    Hai tuần trước lễ Tạ ơn, đại tá Thomas ?oTim? Brown, dòng dõi gia đình truyền thống quân đội (anh George của ông là một tướng không quân, chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng kiên quân vào giữa thập niên 70), thuộc bộ tham mưu trung tâm II Việt Nam đóng trên đồi gần Pleiku đang nghe viên sĩ quan bộ phận tình báo tường trình. Brown chỉ huy Lữ đoàn 3 kỵ binh bay. Sĩ quan thường trực của ông là trung tá Edward ?oShy? Meyer, người đầu tiên thuộc thế lực sĩ quan tham chíên ở Việt Nam trở thành tham mưu trưởng vào cuối thập niên 70. Lữ đoàn 3 được đưa lên cao nguyên đầu tháng Mười Một để tìm hai trung đoàn Bắc Việt đang có ý đồ đánh chiếm một trại lực lượng đặc biệt tại làng ngừơi Thượng Pleiku, cách thành phố 40 km về phía nam. Ba tiểu đoàn của Brown đã tìm khắp phía Nam và Đông nam căn cứ trong nhiều ngày mà không có kết quả. Ông đã quần mệt lữ đoàn quân thám báo của mình. Westmoreland đã chuyển lời qua trung tướng Harry Kinard, chỉ huy sư đoàn là ông muốn Brown lùng sục ở phía Tây hướng về biên giới Campuchia, nhưng Brown không biết bắt đàu hành quân từ chỗ vào ở phía Tây. Ông đã đến bộ tham mưu quân đoàn II nhờ hướng dẫn.
    Brown nghĩ rằng viên sĩ quan thám báo của quân đội Nam Việt Nam không có gì nhiều để nói nên ông để ý đến một ngôi sao màu đỏ được vễ trên bản đồ chỉ dẫn gần biên giới Campuchia phía tây nam Pleiku. Ngôi sao lôi kéo sự chú ý đến một vùng đồi núi, một cụm núi được bao quanh do hai lớp rừng rậm. Rừng này đột ngột vươn ra thung lũng sông Drang phía tây trại Pleiku và tỏa rộng về phía sau trên biên giới hơn 11 km về hướng tây. Brown đã thấy vùng đồi núi này từ trên cao. Vùng vày có vẻ ghê gớm được gọi là Chu Prong (Núi Prong) theo ngọn núi cao nhất trong vùng đó.
    Brown hỏi: ?oNgôi sao màu đỏ này có ý nghĩa gì??
    Viên sĩ quan thám báo trả lời:?Thưa ngài, đó là một mật khu của *********?.
    Brown hỏi: ?oCó cái gì trong đó??
    Viên sĩ quan trả lời: ?oThưa ngài, chúng tôi không biết, chúng tôi chưa bao giờ vào trong đó?.
    Brown quyết định Chu Prong là chỗ tốt hơn bất kỳ nơi nào để bắt đầu. Ông báo cho vị chỉ huy tiểu đoàn khá nhất của ông là trung tá Harold ?oHal? Moore, Jr., bốn mươi ba tuổi, tốt nghiệp trường võ bị West Point, xuất thân từ một thành phố nhỏ gần Fort Knox phía tây Kentucky, chọn một địa điểm đổ bộ gần vùng đồi núi và thám sát xung quanh địa điểm đó. Moore chưa phải thọc sâu Chu Prong, khu vực có thể làm tiêu tan một tiểu đoàn. Brown cũng lưu ý ông giữ các sư đoàn(?) ở trong khoảng cách có thể hỗ trợ cho nhau được. Trong thời gian huấn luyện, tiểu đoàn 1 của Moore, tiểu đoàn 7 kỵ binh và hai tiểu đoàn khác thuộc lữ đoàn 3 đang còn thử thách trong chiến đấu. Các bộ đội này chỉ mới đụng độ lẻ tẻ trong vòng hai tháng ở Việt Nam. Brown lo lắng đến việc một tiểu đoàn bất ngờ đụng độ với một lực lượng lớn của Bắc Việt.
    Bốn lăm phút sau khi đổ bộ không gặp sự kháng cự nào vào sáng thứ bảy 14 tháng Mười Một 1965, một trung đội thuộc sư đoàn(?) mở đường của Moore bắt được một lính Bắc Việt Nam đang tìm cách trốn trong một lùm cây. Người lính mặc bộ đồ ka ki dơ bẩn, không có vũ khí, chỉ mang một bi đông không. Moore hỏi người lính qua một thông dịch. Hóa ra đây là kẻ đào ngũ. Người này nói ăn chuối để sống trong suốt năm ngày qua. Moore hỏi có quân Bắc Việt trong vùng phụ cận đây không. Người đó nói có và chỉ về phía Chu Prong. Ngọn núi thứ nhất như một ngón tay ló lên khỏi thung lũng, hiện ra lờ mờ khoảng 180 mét từ khoảng rừng trống Moore dùng làm điểm đổ quân. Kẻ đào ngũ nói có ba tiểu đoàn tại Chu Prong đang sẵn sàng để tiêu diệt quân Mỹ.
  9. xuan5nam

    xuan5nam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2004
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Một "khảo dị" để tiện so sánh, đề nghị bạn Duong2002 tiếp tục!
    Trích: phần VI, Tập 2 cuốn ?oSự lừa dối hào nhoáng?-?oA bright shining lie John Paul Vann and America in Vietnam? của Neil Sheehan, 1988. NXB TP HCM in lần đầu 1990.
    Nhiều chuyện huyền hoặc đã được thêu dệt chung quanh sự ra đời của sư đoàn không kỵ. Binh lính, sĩ quan và hạ sĩ quan đều quen biết và tin cậy lẫn nhau. Đa số đã cùng tham gia huấn luyện với nhau hơn một năm ở Fort Benning để thành lập sư đoàn không quân tấn công thứ 11 dày dạn kinh nghiệm. Các phi công thuộc các đội hình trực thăng khác nhau đã học được cách thể hiện vai trò cá nhân và làm cho các đường bay của mình hòa vào một vũ điệu phức tạp. ?oKhi tổng thống Johnson chấp nhận đề nghị của Westmoreland vào tháng Bảy 1965, sư đoàn dày dặn kinh nghiệm này được mang tên sư đoàn kỵ binh chính quy số 1 được tăng cường một số tiểu đoàn đã lên đường sang Việt Nam vào tháng Chín, tạo thành một căn cứ lớn cho ba Lữ đoàn và 435 trực thăng tại thung lũng An Khê ở phía đông các dãy núi cách Qui Nhơn ở miền Trung Việt Nam không bao xa.
    Tôi nghe nói về trận đánh đầu tiên của sư đoàn kỵ binh bay và quân chính quy thuộc quân đội Bắc Việt vào giữa tháng Mười Một năm 1965 trong khi tôi đang ở miền Trung để điều tra về người tị nạn. Tôi thấy có năm căn nhà nằm phía trong dọc một đoạn bờ biển tỉnh Quảng Ngãi thuộc một làng chài giàu có với khoảng 15.000 cư dân tính từ mùa hè năm trước. Đây không phải là những căn nhà tranh vách liếp thông thường mà là những nhầ xây bằng gạch có tường dày, công trình của bao thế hệ tiết kiệm qua nghề làm biển. Tất cả đã biến thành đống gạch vụn hoặc còn lại những cái sườn chỏng chơ hai tháng sau ngày bị máy bay và những quả đạn pháo bẳn thẳng từ hạm đội bảy. Làng này được tuyên bố là một căn cứ của ********* và bị san bằng. Đơn giản là vì làng này nằm trong vùng kiểm soát của quân du kích. Các viên chức ở trung tâm thị xã nói rằng những cuộc điều tra cho thấy hơn 180 thường dân đã bị giết trước khi phần lớn dân chúng chạy thoát. Người khác ước lượng có vẻ có lý là con số lên đến 600. Các sĩ quan trẻ thuộc phân đội cố vấn quân sự của tỉnh nói là họ biết ít nhất là mười làng khác đã bị san bằng hoàn toàn theo cùng một cách lập luận mập mờ như thế và hai mươi lăm làng khác đã bị tàn phá nặng nề. Họ nói là sơ đồ bắn phá tiêu diệt đang mở rộng.
    Chiều hôm đó tôi goi điện đến văn phòng báo Times tại Sài Gòn tả lại câu chuyện tôi đã viết. Chariie Moher, phụ trách văn phòng nói với tôi là nên chờ đã. Một trận đụng độ lớn với quân Bắc Việt đã bắt đầu gần Pleiku, thành phố chính ở trung tâm cao nguyên, và tốt hơn là tôi nhanh chóng bay lên trên đó.
    Một viên đại uý tốt bụng dẫn tôi ra đường băng của tỉnh và khi đêm đã muộn, tôi đi nhờ máy bay dọc bờ biển tới Qui Nhơn và sau đó vượt qua đồi núi tới Pleiku. Tôi làm quen với sự lộn xộn ở một chốt chỉ huy của quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi chiều xuống. Pleiku đêm đó thật là sôi động và ồn ào. Các máy gọi rè rè liên tục hoạt động với nào là những yêu cầu rồi lệnh và báo cáo. Những chiếc trực thăng Chinook lớn như những cái hộp, đáp xuống, chất đạn pháo lên rồi lại bay lên để tiếp viện cho các khẩu pháo. Rực sáng qua mán đêm ở phía tây-nam nơi xảy ra trận đánh.
    Hai tuần trước lễ Tạ ơn, đại tá Thomas ?oTim? Brown, dòng dõi gia đình truyền thống quân đội (anh George của ông là một tướng không quân, chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng kiên quân vào giữa thập niên 70), thuộc bộ tham mưu trung tâm II Việt Nam đóng trên đồi gần Pleiku đang nghe viên sĩ quan bộ phận tình báo tường trình. Brown chỉ huy Lữ đoàn 3 kỵ binh bay. Sĩ quan thường trực của ông là trung tá Edward ?oShy? Meyer, người đầu tiên thuộc thế lực sĩ quan tham chíên ở Việt Nam trở thành tham mưu trưởng vào cuối thập niên 70. Lữ đoàn 3 được đưa lên cao nguyên đầu tháng Mười Một để tìm hai trung đoàn Bắc Việt đang có ý đồ đánh chiếm một trại lực lượng đặc biệt tại làng ngừơi Thượng Pleiku, cách thành phố 40 km về phía nam. Ba tiểu đoàn của Brown đã tìm khắp phía Nam và Đông nam căn cứ trong nhiều ngày mà không có kết quả. Ông đã quần mệt lữ đoàn quân thám báo của mình. Westmoreland đã chuyển lời qua trung tướng Harry Kinard, chỉ huy sư đoàn là ông muốn Brown lùng sục ở phía Tây hướng về biên giới Campuchia, nhưng Brown không biết bắt đàu hành quân từ chỗ vào ở phía Tây. Ông đã đến bộ tham mưu quân đoàn II nhờ hướng dẫn.
    Brown nghĩ rằng viên sĩ quan thám báo của quân đội Nam Việt Nam không có gì nhiều để nói nên ông để ý đến một ngôi sao màu đỏ được vễ trên bản đồ chỉ dẫn gần biên giới Campuchia phía tây nam Pleiku. Ngôi sao lôi kéo sự chú ý đến một vùng đồi núi, một cụm núi được bao quanh do hai lớp rừng rậm. Rừng này đột ngột vươn ra thung lũng sông Drang phía tây trại Pleiku và tỏa rộng về phía sau trên biên giới hơn 11 km về hướng tây. Brown đã thấy vùng đồi núi này từ trên cao. Vùng vày có vẻ ghê gớm được gọi là Chu Prong (Núi Prong) theo ngọn núi cao nhất trong vùng đó.
    Brown hỏi: ?oNgôi sao màu đỏ này có ý nghĩa gì??
    Viên sĩ quan thám báo trả lời:?Thưa ngài, đó là một mật khu của *********?.
    Brown hỏi: ?oCó cái gì trong đó??
    Viên sĩ quan trả lời: ?oThưa ngài, chúng tôi không biết, chúng tôi chưa bao giờ vào trong đó?.
    Brown quyết định Chu Prong là chỗ tốt hơn bất kỳ nơi nào để bắt đầu. Ông báo cho vị chỉ huy tiểu đoàn khá nhất của ông là trung tá Harold ?oHal? Moore, Jr., bốn mươi ba tuổi, tốt nghiệp trường võ bị West Point, xuất thân từ một thành phố nhỏ gần Fort Knox phía tây Kentucky, chọn một địa điểm đổ bộ gần vùng đồi núi và thám sát xung quanh địa điểm đó. Moore chưa phải thọc sâu Chu Prong, khu vực có thể làm tiêu tan một tiểu đoàn. Brown cũng lưu ý ông giữ các sư đoàn(?) ở trong khoảng cách có thể hỗ trợ cho nhau được. Trong thời gian huấn luyện, tiểu đoàn 1 của Moore, tiểu đoàn 7 kỵ binh và hai tiểu đoàn khác thuộc lữ đoàn 3 đang còn thử thách trong chiến đấu. Các bộ đội này chỉ mới đụng độ lẻ tẻ trong vòng hai tháng ở Việt Nam. Brown lo lắng đến việc một tiểu đoàn bất ngờ đụng độ với một lực lượng lớn của Bắc Việt.
    Bốn lăm phút sau khi đổ bộ không gặp sự kháng cự nào vào sáng thứ bảy 14 tháng Mười Một 1965, một trung đội thuộc sư đoàn(?) mở đường của Moore bắt được một lính Bắc Việt Nam đang tìm cách trốn trong một lùm cây. Người lính mặc bộ đồ ka ki dơ bẩn, không có vũ khí, chỉ mang một bi đông không. Moore hỏi người lính qua một thông dịch. Hóa ra đây là kẻ đào ngũ. Người này nói ăn chuối để sống trong suốt năm ngày qua. Moore hỏi có quân Bắc Việt trong vùng phụ cận đây không. Người đó nói có và chỉ về phía Chu Prong. Ngọn núi thứ nhất như một ngón tay ló lên khỏi thung lũng, hiện ra lờ mờ khoảng 180 mét từ khoảng rừng trống Moore dùng làm điểm đổ quân. Kẻ đào ngũ nói có ba tiểu đoàn tại Chu Prong đang sẵn sàng để tiêu diệt quân Mỹ.
  10. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    sozy các bro nhe,
    giờ tiếp tục.

    Vùng đất và kè thù
    He who controls the Central Highlands controls South Vietnam.
    -Vietnamese military maxim.
    Cao nguyên Trung Phần là 1 vùng đất đẹp; từ những vùng ven biển đông đúc dân cư với những bãi biển cát trắng và những cánh đồng lúa gạo bằng phẳng bao quanh bởi những bờ đất, đất đai cao dần lên tới những vùng đồi núi, cắt ngang dọc bởi những dòng suối, sông và cuối cùng tới 1 vùng núi cao từ 700 tới 1000 mét, nơi đây người Pháp đã xây dựng những đồn điền chè và cà phê. Năm 1965 Cao nguyên là lãnh địa của lính Mũ Nồi Xanh, Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ. Nhưng trước khi lính Mỹ và trước cả người Pháp đặt chân tới, đây là vùng đất của những bộ tộc người Thượng khác nhau, mỗi bộ tộc có 1 ngôn ngữ và vùng đất riêng, họ sống 1cuộc sống không mấy thay đổi từ thời kỳ đồ Đồng, khi họ bị buộc phải rời bỏ miền nam Trung Hoa để định cư tại những rặng núi vùng Đông Dương, quần đảo MaLay và thậm chí tới những hoang đảo Indonesia.
    Họ đốt nương làm rẫy, trồng những loại cây như ngô, sắn, khoai trên lớp đất mỏng của đồi núi, khoảng 2-3 năm đất sẽ cằn cỗi và họ sẽ tìm 1 nơi khác. Những người Thượng sống trên những căn nhà sàn dài có mái dốc. Họ vẫn luôn luôn tránh xa những người Việt Nam sống ở vùng thấp phía dưới, những người gọi họ là man di và đối xử với họ 1 cánh tàn nhẫn và khinh bỉ họ. Sự căm hờn là hậu quả ngược lại, những người Thượng sẵn sàng đi lính cho người Pháp, sau đó cho người Mỹ, để chống lại người Việt Nam. Họ là những lính đánh thuê dũng cảm, trung thành đến chết, và luôn là những người đầy hiệu quả trên những lãnh địa của họ.
    Con đường chuyên chở và thông tin chiến lược dọc Cao Nguyên là Đường 19 được làm từ thời thực dân, chạy từ cảng Quy Nhơn theo phía tây tới Pleiku, thành phố lớn nhất Cao Nguyên, và tiếp tục chạy sang Cambodia. Căn cứ của Sư đoàn Kỵ Binh số 1 tại An Khê nằm giữa quãng đường từ Qui Nhơn tới Pleiku, cách mỗi nơi 40 dặm.
    Không lâu sau khi tới VN, thượng sĩ Plumley và tôi lái 1 chiếc xe Jeep, súng trong tay, chạy qua 10 dặm về phía tây An Khê trên đường 19, tới 1 vùng đất không người ở, có 1 cột mốc PK15. Ở đó, ********* đã tiêu diệt gần như toàn bộ Binh đoàn Cơ động 100 của Pháp trong 1 cuộc phục kích ngoạn mục 11 năm về trước. Chúng tôi bước đi trên nơi đã từng là bãi chiến trường, tại đó có 1 đài tưởng niệm làm bằng 1 hòn đá tảng cao 1m8 chi chit vết đạn ghi rõ bằng tiếng Pháp và Việt: " Tại đây ngày 24-6-1954, những người lính Pháp và Việt Nam đã chết cho tổ quốc họ." Trong tay tôi là cuốn sách ?oStreet Without Joy" của Bernard Falls, nó mô tả chi tiết trận đánh. Plumley và tôi thăm dò nơi đó hơn 2 giờ đồng hồ. Những mảnh xương, những mảnh vũ khí, xe cộ, mâm xe, những vỏ đạn, thùng đạn vẫn còn vương vãi trên mặt đất. Chuyến đi đó cho tôi 1 bài học : Cái giá phải trả cho sự xem thường đối thủ lợi hại này là Cái chết.
    Phía bắc đường 19 và phía tây của đèo Mang Yang, chỉ toàn đồi và núi cùng với những khoẳnh rừng rậm và 1 vài đoạn đất bằng. Một vài con đường đất không thể đi lại được trong mùa mưa. Trong tam giác biên giới Lào- Cambodia- Nam VN có những rừng rập 3 tầng cây, dầy đến nỗi ánh nắng mặt trời không thể lọt qua, đất phía dưới thì luôn luôn ẩm ướt, phải rất khó nhọc mới rút chân ra được những đoạn đường rừng đầy bùn đất này. Phía nam Pleiku và đường 19, phía bắc Buôn Ma Thuật và trại Plei Me là rừng cây đầy các bụi rậm cùng với những cây gỗ cứng. Chỉ có những con suối, đường đi của các con thú, và các lối mòn của người Thượng đan xen nhau trong cánh rừng này.
    Đặc điểm nổi bất nhất của địa hình nơi đây chính là dãy núi Chu Pong. nằm trên độ cao 720 mét, một vùng đầy núi, thung lũng, hẻm núi, chạy dọc về phía tây hơn 15 dặm, năm dặm cuối cùng nằm trong lãnh thổ Cambodia. Từ phía bắc xuống phía nam dãy núi dài khoảng 10 tới 13 dặm. Bao quanh vùng núi Chu Pong là những khe suối, và các hang động. Dọc theo mạn bắc của dãy núi là Ia Drang ( Ia có nghĩa là sông trong 1 thổ ngữ của người Thượng). Ia Drang được hình thành bởi hai con sông nhỏ hơn gặp nhau ở 1 điểm gần trang trại chè Catecka trên đường 14 giữa Pleiku và trại Plei Me. Khi nó chạy qua Chu Pong nước chảy xiết và sâu hơn. Nó chảy về hướng tây vào đất Cambodia, tại đó nó hòa vào sông Me Kong và quay trở lại VN xa dưới phía Nam trong đồng bằng sông Cửu Long.
    Những người lính của Thiếu tướng Chu Huy Mân đã được huấn luyện trong 18 tháng. Khi họ gia nhập Quân đội nhân dân, mỗi tân binh được phát 2 bộ đồ Ka-ki, 1 bộ kim chỉ, và 1 đội dép cao su ?oHồ Chí Minh" được làm từ vỏ xe tải cũ. Những quân phục này được dùng trong 5 năm. Thời kỳ huấn luyện cơ bản kéo dài 13 tuần, 6 ngày 1 tuần, từ 6 giờ sáng tới 9 giờ 30 tối. Những huấn luyện viên chú trọng tới sử dụng vũ khí và chiến thuật, trong khi những chính trị viên mỗi ngày lên lớp về chiến tranh, tại sao phải chiến đấu chống Mỹ. Những tân binh được nhắc nhở liên tục rằng cha anh họ đã đánh thắng Thực dân Pháp, và bây giờ nhiệm vụ của họ là đánh bại đế quốc Mỹ. Họ được thấm nhầm bởi khẩu hiệu của Hồ Chí Minh : Không có gì quý hơn độc lập tự do. Sau huấn luyện cơ bản, một số người được lựa chọn đi học ở trường Hạ sĩ quan, đào tạo thành những hạ sĩ mới. Những người còn lại được huấn luyện bộ binh nâng cao bao gồm huấn luyện thành thạo với tất cả các loại vũ khí, sử dụng chất nổ, chiến thuật phục kích, kỹ năng trinh sát, điều chỉnh đạn cối và kỹ thuật tuần tra. Vào tháng 6-1964 những ngưới lính của Mân di chuyển lên vùng núi Miền Bắc VN, có địa hình tương tự như Tây Nguyên của Nam VN. Tại đây việc huấn luyện thể lực được chú trọng; họ leo trèo lên xuống những sườn dốc với 1 ba lô chất đầy đá, nặng khoảng 25-30 kg. Giờ đây việc huấn luyện nâng cao tập trung vào nghệ thuật ngụy trang. Họ cũng nhận được những huấn luyện quan trọng về chống máy bay. Bắn thẳng ở chế độ tự động hoàn toàn ngay phía trước đường bay của máy bay, máy bay hay trực thăng sẽ bay vào 1 bức tường đạn. Khi bắt đầu 2 tháng gian khổ hành quân trên đường mòn Hồ Chí Minh, những Trung đoàn của tướng Mân sẽ được chia nhỏ thành những tiểu đoàn vì mục đích giữ bí mật, mỗi tiểu đoàn sẽ hành quân cách nhau ít nhất 3 ngày . Mỗi người lính sẽ mang theo 2 kg gạo- khẩu phần ăn trong 7 ngày- cộng với 4 ký thục phẩm khác, đây là số thực phẩm sẽ dùng cho toàn cuộc hành quân: 1 kg muối, 1 kg kem nước mắm, và 2 kg thịt muối. Một người trong mỗi một tiểu đội mang theo 1 nồi nhôm để nấu cơm. Mỗi người cũng đem theo 50 viên thuốc chống sốt rét, uống dọc đường mỗi viên 1 ngày , và 100 viên B1 được uống 3 viên 1 tuần. Cho dù có những viên thuốc, hầu như tất cả mọi người đều bị sốt rét trên đường hành quân và trung bình 3 đến 4 lính chết trong mỗi đại đội 160 người. Sốt rét, tiêu chảy, tai nạn, rắn độc, và những trận bom Mỹ là nguyên nhân dẫn đến những cái chết đó.
    Dọc đường những người lính sẽ gặp những đội công binh xây dựng, rất nhiều trong số họ là những cô gái trẻ những người tình nguyện ra tuyến đường nhằm phát triển và bảo dưỡng nó, đồng thời xây dựng những lán trại-mỗi lán trại được dựng cách nhau 9 dặm- làm trạm nghỉ chân cho bộ đội hành quân. Mỗi trạm có thể chứa được khoảng 1đại đội trong những lán làm bằng tre nứa, nằm cách mặt đường khoảng nửa dặm nhằm tránh máy bay oanh tạc. Mỗi người lính mang theo 1 chiếc võng dùng để ngủ cùng với 1 tấm nylon màu xanh dùng làm màn che chắn. Đêm trên rừng lạnh giá, ban ngày thì thoải mái hơn. Những người lính của tướng Mân hành quân 9 dặm mỗi ngày, từ trạm này tới binh trạm kế tiếp, nghỉ đêm ở đó. Cứ mỗi bốn ngày hành quân họ được nghỉ 1 ngày để hồi sức, giặt giữ quần áo, và chữa trị những bệnh nhẹ.
    Những dân công đẩy những chiếc xe thổ, được gia cố với 1 cây gỗ buộc chặt ở tay lái và 1 cái khác ở phía sau. Hàng hóa nặng tới hơn 180 kg gồm gạo, vũ khí, thuốc men được buộc chặt vào thành xe. Người dân công đi bên cạnh và đẩy chiếc xe cho tới nơi được yêu cầu. Thô sơ, không có khoa học kỹ thuật, giản đơn tối đa, nhưng những chiếc xe này vận chuyển được nhiều hàng hoá hơn người ta tưởng rất nhiều. Ngữa thồ cũng đượng sử dụng để vận chuyển hàng hóa trên tuyến đường này.
    Bên cạnh lương thực và thuốc men, người lính cũng phải mang theo vũ khí và cơ số đạn cơ bản. Những vũ khí họ đã từng được huấn luyện sử dụng trong suốt thời gian trước, là sản phẩm của những nhà máy của Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc, và Albania. Trong số đó là khẩu tiểu liên Kalasnhikov AK-47, 1 vũ khí bộ binh siêu hạng; súng trường SKS ( CKC) Siminov bán tự động với 1lưỡi lê sắc bén; trung liên Degtyarev, đại liên Maxim; các loại cối 60mm, 82mm, và 120mm; súng máy 12,7 ly bắn may bay, lựu đạn có cán và 1 khẩu súng ngắn 9mm dành cho sĩ quan do Trung Quốc sản xuất.
    Những người lính của Quân đội nhân dân, cả già và trẻ, đều rất thích viết nhật ký tới mức say mê. Hầu như ai cũng mang theo 1 cuốn sổ tay nhỏ, anh ta chép vào đó những bài thơ tình, lời của những bài hát nổi tiếng, và những dòng riêng của anh. Họ luôn mong ngóng tới quê nhà và gia đình. Những cuốn sổ tay và một vài tấm hình của người yêu hoặc vợ con được bọc vào trong những miếng ny-lông.
    Lúc này, vào cuối tháng 9, khi những người lính kỵ binh bay đang gián mình dưới căn cứ mới của mình bên ngoài những cánh rừng An Khê, một trong những trung đoàn của tướng Mân, trung đoàn 320 đã bố trí xong trên đất Nam VN; trung đoàn thứ 2, trung đoàn 33, thì mới tới vùng biên giới VN-CPC; và trung đoàn thứ 3, trung đoàn 66, vẫn còn trên đường mòn với những tiểu đoàn bị trải dài ngoãng. Địa hình mà họ sẽ hoạt động trong vòng 2 tháng tới, từ trại Plei Me hướng ra phía tây tới biên giới CPC, là những trảng cỏ voi cao tới 1,3m với những bụi cây rậm rạp, không giống như những bụi sồi nước Mỹ, và những loại cây cỏ khác cao hơn và dày hơn, đặc biết là dọc theo những khe nước và lòng suối cạn. Trong vùng này không có đường đi, chỉ có 1 vài đường mòn. Vùng đất này được tưới bởi hai con sông, Ia Meur về phía Tây, và Ia Tea về phía đông. Cho dù trên tấm bản đồ địa hình chúng tôi mang theo có những chấm đen đánh dấu khoảng 20 làng người Thượng, nhưng chúng tôi không thấy 1 ngôi làng hay 1 người Thuợng nào ở đó.
    Nhà lịch sử quân đội nhân dân VN, trung tướng Hoàng Phương, khi còn là trung tá được điều đến tới thung lũng Ia Drang mùa thu 1965 để nghiên cứu vể trận đánh và viết 1 bản báo cáo sau trận đánh cho bộ chỉ huy tối cao, nói: ?o Khi chúng tôi nhận được tin Sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đã tới VN, các chỉ huy của các sư đoàn chúng tôi rất bối rối, rất lo lắng bởi những gì họ được nghe về đơn vị rất mạnh, rất cơ động được vũ trang tối tân cùng với sự yểm trợ của trực thăng. Quân giải phóng di chuyển chủ yếu bằng chân, được trang bị kém. Quân y và quân lương của chúng tôi không được tốt lắm. Làm sao chúng tôi chiến đấu và chiến thắng lính kỵ binh bay??
    Trung tướng Phương nói thêm: ?o Vào tháng 9 năm 1965, khi các anh đáp xuống An Khê, các chỉ huy của chúng tôi nghiên cứu cách đối phó. Chúng tôi tiên liệu cuộc chiến sắp tới sẽ rất ác liệt. Trước tiên chúng tôi cho di tản dân thường và những trại huấn luyện. Chúng tôi củng cố vị trí, đào hầm và dự trữ lương thực, đưa bệnh viện xuống hầm. Chúng tôi biết sớm muộn gì các ông cũng tấn công vùng của chúng tôi và chúng tôi cố gắng chuẩn bị công sự có thể vô hiệu hoá các ông. Chúng tôi biết nó sẽ không đủ dù chỉ là tuyên truyền rằng chúng tôi là người chiến thắng. Chúng tôi phải nghiên cứu cách đánh lại người Mỹ.?
    Phương tiếp tục: ?o Ngày 19 tháng 10 chúng tôi bắt đầu cuộc tấn công vào Plei Me lúc 11g50 tối. Chúng tôi đánh từ 3 hướng. Đây là trung đoàn 33. Họ đánh đi đánh lại nhiều lần. Khi chúng tôi bao vây Plei Me quân đội VNCH điều 1 trung đoàn đến giải tỏa. Ngày 23-10, những bộ phận quân tăng viện đầu tiên lọt vào ổ phục kích. Trung đoàn 320 đặt ổ phục kích này. Trận đánh trải dài 4km dọc theo tỉnh lộ 5. Quân địch dùng nhiều đợt máy bay thả bom dữ dội vào những vị trí của chúng tôi. Trận đánh kéo dài tới ngày 25-10. Chúng tôi tiêu diệt nhóm đầu quân VNCH nhưng những nhóm khác chiếm được vùng đất cao và tiếp tục chống trả. Chúng tôi không thể tiêu diệt toàn bộ quân giải toả. Có rất nhiều trong số chúng còn sống. Trung đoàn 320 bị tổn thất nặng bởi không kích và lúc 5 giờ chiều ngày 25-10 chúng tôi ra lệnh rút quân ra khỏi vùng chiến sự kể cả quân đang bao vây Plei Me. Họ được lệnh rút lui thật nhanh và chuẩn bị để đánh nhau với quân Mỹ. Đến đây kết thúc giai đoạn I của chiến dịch.
    ?oHai trung đoàn tham gia vào trận đánh này vừa mới tới đây từ miền Bắc, và họ không có nhiều hiểu biết vể vùng này. Những chỉ huy hai trung đoàn này cũng là những người mới. Trong kháng chiến chống Pháp họ là những chỉ huy đại đội. Chỉ huy của trung đoàn 320 là trung tá Mã Văn Minh. Chỉ huy của trung đoàn 66 là thiếu tá Lã Ngọc Châu. Ngày 28-10 quân Mỹ thả một vài nhóm quân xuống phía sau căn cứ của chúng tôi. Lúc này sở chỉ huy của tướng Chu Huy Mân, mặt trận B-3, đặt ở Plei Bong Klo.
    ?o Chùng tôi bắt đầu giai đoạn II của chiến dịch từ ngày 29-10 tới ngày 9-11. Lúc này binh lính chúng tôi rất lộn xộn. Chúng tôi gặp nhiều khó khăn. Các ông đã ném quân xuống gần sở chỉ huy của chúng tôi và rất gần với những đơn vị chúng tôi. Các đơn vị bị chia cắt, tan tác và sau đó lính Mỹ nhảy xuống Plei The gần biên giới CPC vào ngày 3-11. Các ông đã phá huỷ rất nhiều hầm lương thực cùng với bệnh viện của chúng tôi. Chúng tôi mất vũ khí, lương thực, phương tiện chiến tranh, và thông tin lien lạc. Khi chúng tôi rút lui các ông thả quân xuống chia cắt các đơn vị. Chúng tôi mất liên lạc với những đơn vị đang rút lui. Trong 10 ngày này các ông đã khiến chúng tôi kiệt quệ và tan tác. Lính chúng tôi không có thời gian nghỉ ngơi và tái tổ chức. Khi chúng tôi rút tới đây[Chu Pong], chúng tôi phải gửi lính đi lấy gạo và nồi nấu ở những chỗ rất xa về dùng cho đơn vị họ. Thông thường phải mất hai ngày cả đi lẫn về. Chúng tôi thiếu thốn các phương tiện thông tin. Chúng tôi có rât ít radio, nếu có thì ở trong tình trạng rất tồi tệ. Cuộc tấn công của các ông rất hiệu quả. Chúng tôi lợi dụng ưu thế địa hình tránh đụng độ, và tránh thương vong. Sở chỉ huy của tướng Mân hiện đang ở Plei The. Ông ấy phải chuyển gần hơn tới biên giới, tới phía nam của Chu Pong.?

Chia sẻ trang này