1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Gmail1234

    Gmail1234 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/10/2005
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Rất cám ơn loạt bài này của bạn. Tôi có bản tiếng anh của cuốn sách này và cũng định đề cập tới trận đánh này mà chưa có dịp. Không rõ bản tiếng việc mà bạn đưa là do bạn dịch hay là của dịch ra nào khác.
    Nếu đó là công trình của bạn thì tôi thực sự khâm phục.
    Trân trọng và thân ái.
  2. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Trung tướng Nguyễn Hữu An, giờ là giám đốc Học viện quân sự cao cấp, mùa thu 1965 là thượng tá, phó tư lệnh mặt trận B-3. Từ vị trí chỉ huy tiền phương gần địa điểm phục kích, ông đã chỉ huy cuộc phục kích quân VNCH giải cứu cho Plei Me bị thất bại. Trong quá trình rút lui ông phải rút vị trí chỉ huy quay lại 1 điểm trên sườn dãy Chu Pong.
    Trong hàng thập kỷ, hình ảnh những chỉ huy cao cấp của Bắc Việt có tính biểu tượng bí ẩn và xuất hiện như những cái bóng. Họ che dấu danh tính qua những cái bí danh dùng cho chiến tranh. Không có nhiều hiểu biết về họ từ xuất thân cho tới tiểu sử; thậm chí trong những hồ sơ mật của CIA hay Tình báo quan đội cũng không có nhiều thông tin. Tiểu sử của An là 1 người lính với hơn 40 năm quân ngũ, chủ yếu trên chiến trường trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại:
    "Tôi sinh năm 1926 tại Hà Nội. Cha tôi là 1 kỹ sư làm việc trong sân bay Bach Mai. Ông tham gia vào các hoạt động chống Pháp từ năm 1937 và bị người Pháp bỏ tù năm 1939. Vì vậy tôi có được sự ảnh hưởng từ cha tôi và đó là 1 đam mê của tôi từ thời trai trẻ. Khi Cách Mạng tháng 8 thành công năm 1945, tôi gia nhập quân đội. Cấp bậc đầu tiên của tôi là lính trơn. Sau đó tôi được cho đi học trường huấn luyện tiểu đội trưởng. Tôi cũng xin học trường chính trị và trở thành 1 chính trị viên đại đội. Vì vậy tôi đã trải qua hết các cấp bậc trong quân đội: hạ sỹ, trung sĩ, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng. Tôi trở thành trung đoàn phó rôi trung đoàn trưởng ở Điện Biên Phủ. Trung đoàn của tôi chiến đấu trên đồi Eliane I (A1), ngay trên đầu hầm chỉ huy của Pháp, tướng Castries. Khi kháng chiến chống Pháp kết thúc tôi trở thành sĩ quan tham mưu sau đó là Sư đoàn trưởng. Tôi đã từng chỉ huy 4 sư đoàn khác nhau: 325, 1, 308, 1sư đoàn rất nổi tiếng với lịch sử vẻ vang. Tôi nhận chức giám đốc học viện quân sự cao cấp này cách nay 4 năm. Trước đó tôi là giám đốc học viện quân sự trung cấp, nơi huấn luyện chỉ huy cấp trung đoàn. Tôi có 3 con, con gái tôi là 1 trung uý và nó cưới 1 trung uý. Con trai thứ của tôi là 1 kỹ sư. Thằng con trai khác của tôi là kiến trúc sư thiết kế công trình thuỷ. Tôi có 3 đứa cháu, toàn gái. Vợ tôi là giáo viên dạy hóa, đã về hưu".
    Về chiến dịch Ia Drang, An nói: ?o khi chúng tôi tấn công trại Plei Me, giai đoạn I, chúng tôi bao vây, để nhử quân tiếp viện lên và tiêu diệt chúng. Mục đích của chúng tôi là buộc quân Sài Gòn ra ngoài vị trí. Chúng tôi có 1 lực lượng mạnh, nhưng không có ý định giải phóng đất đai. Chúng tôi muốn tiêu diệt sinh lực quân địch. Khi chúng tôi tiến hành chiến dịch này chúng tôi biết quân Mỹ đã vào VN. Chúng tôi tin rằng ở giai đoạn I nếu chúng tôi tấn công Plei Me, quan VNCH sẽ tới và chúng tôi sẽ phục kích quân tiếp viện. Trong giai đoạn II chúng tôi tin rằng quân Mỹ sẽ tới và chúng tôi sẽ tấn công chúng. Chúng tôi cũng biết rằng người Mỹ có thể đổ quân sâu phía sau lưng chúng tôi. Vì vậy trong giai đoạn III chúng tôi phải sẵn sang đánh quân Mỹ ngay trong hậu phương của chúng tôi. Chúng tôi lập 1 sở chỉ huy tiền phương gần nơi phục kích, do chính tôi, phó tư lệnh B-3 và thượng tá Vũ Đức Hiệp phó chính ủy mặt trận B-3 chỉ huy, bây giờ ông ấy cũng là 1 trung tướng. Chúng tôi chỉ có 1 nhóm lính hộ tống rất nhỏ chỉ vào khoảng 40 người. Một vài sỹ quan tình báo và tác chiến. Đó là 1 ban chỉ huy rất ngọn và rất cơ động.
    Đại tướng Chu Huy Mân nguyên chủ nhiệm tổng cục chính trị QĐND VN và gần đây vẫn còn là Ủy viên TW ĐCS, giờ đã bước vào tuổi 80. Ông mới chỉ nghỉ hưu năm 1990 với quân hàm Đại tướng, bậc hàm cao nhất trong quân đội VN, tương đương với tướng 5 sao trong quân đội Mỹ; chỉ có 5 người kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến lúc này đạt được cấp bậc này. Câu chuyện của Mân: ?oTôi gia nhập phong trào cách mạng năm 1930 ngay sau khi Đảng CS Đông Dương thành lập. Tôi bị Pháp bắt đi tù ở Kontum. Năm 1945, trong Cách mạng Mùa thu, tôi gia nhập quân đội và trở thành trung đoàn trưởng. Tôi chỉ huy 1 số trung đoàn và tham dự vào hầu hết các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp. Ở Điện Biên Phủ, tôi là chính ủy đại đoàn 316. Tướng Nguyễn Hữu An là 1 trong số trung đoàn trưởng của tôi tham gia đánh Điện Biên Phủ. Tôi vào Miền Nam năm 1964. Lúc đầu tôi ở đồng bẳng miền trung VN sau đó di chuyển lên Cao ngyên trung phần vào năm 1965.?
    Tướng Mân nói sự có mặt của quân chiến đấu Mỹ ở Nam VN, đặc biệt là sư đoàn kỵ binh bay, đã buộc phải thay đổi kế hoạch tác chiến thu đông ban đầu được đề ra sớm vào tháng 6-1965: ?o Chúng tôi sử dụng kế hoạch mới dụ hổ ra khỏi rừng. Trước tiên chúng tôi tấn công Plei Me, sau đó là quân tăng viện VNCH rơi vào ổ phục kích. Sau đó, tôi tin chắc rằng quân Mỹ sử dụng trực thăng đổ quân vào phía sau chúng tôi, vùng Ia Drang. Đó là kế hoạch của chúng tôi nhằm kéo quân Mỹ ra khỏi An Khê. Chúng tôi không có dự đinh giải phóng đất đai; chỉ có mục tiêu là tiêu diệt quân thù.? Mân nói ông đã dùng 5 tiểu đoàn cho giai đoạn I- 1 tấn công và bao vây Plei Me, 4 chuẩn bị phục kích trên đường số 5- trong khi 1 tiểu đoàn thứ 6 được dùng làm dự bị. ?o Chúng tôi không đủ quân? Mân giải thích cho sự thất bại của cuộc phục kích.
    Tính chất của chiến dịch thay đổi hoàn toàn khi quân Bắc Việt bãi bỏ cuộc tấn công vào Plei Me và bỏ dở nỗ lực phục kích. Tướng Mân ra lệnh cho trung đoàn 320 và 33 rút về vùng căn cứ Chu Pong để nghỉ ngơi và tái tổ chức. Trung đoàn 320 giữ 1 vị trí dọc theo biên giới CPC phía nam dãy Chu Pong, thực tế là nơi không thể đụng tới [ với quân Mỹ], nhưng trung đoàn kém may mắn 33, dù đã chịu thương vong nặng nề và hiện kém sức chiến đấu lại phải chịu những cú đánh bồi thêm không thương xót của lính kỵ binh bay Lữ đoàn 1 trên đường rút lui về phía tây.
    Những tài liệu thu được và việc thẩm vấn tù binh cho thấy lúc về tới căn cứ Chu Pong trung đoàn 33 Bắc Việt báo cáo khoảng 40% sỹ quan và binh lính đã bị giết trong đó có 2 trên 3 tiểu đoàn trưởng. Trung đoàn 33 mất toàn bộ 18 khẩu 12ly7 bằn máy bay và 11 khẩu cối 81, và tiểu đoàn 1 trung đoàn 33, tiểu đoàn đã bao vây Plei Me chỉ còn sức chiến đấu bằng 1 đại đội. Tướng Mân nói rằng trung đoàn 33 được bổ sung một vài quân và hồi phục thành đoàn quân với khoảng 900 người khi nó về tới căn cứ. Nhưng hy vọng và kế hoạch của vị tướng bây giờ dồn vào trung đoàn 66 mới tới, nó không tham gia cuộc tấn công Plei Me. Ba trung đoàn của tướng Mân đang tái tổ chức trong vùng căn cứ Ia Drang- Chu Pong. Vùng này đã trở thành căn cứ vững chắc của ********* trong suốt cuộc kháng chiến dài với người Pháp. Những người kế thừa *********, *********, rất ít khi sử dụng Ia Drang là nơi trú náu trong những năm qua từ 1954. Tướng Mân không thể nghĩ ra 1 nơi lý tưởng hơn để lập căn cư bí mật và vùng chuyển tiếp cho chiến dịch 1965-1966. Nó có nguồn nước phong phú cho nấu nướng, tắm giặt và chăm sóc thương binh. Nó có những hẻm núi sâu được che phủ bởi nhiểu cây cối và những thung lũng được bao bọc bởi rừng nhiệt đới rậm rạp thật lý tưởng để làm doanh trại, dựng bệnh viện, và dự trữ lương thực. Dưới tấm màn rừng rậm là những bãi huấn luyện tuyệt vời và những đường mòn trên đó quân lính có thể di chuyển mà không sợ bị phát hiện từ trên không. Trên hết thung lũng Ia Drang là nơi thuận tiện để lập căn cứ bất khả xâm phạm dọc theo biên giới CPC.
    Các dân công Bắc Việt đã vận chuyển, trên những chiếc xe đạp được gia cố thành xe thồ và trên lưng ngựa một số lượng khổng lồ gạo, lạc, và muối cùng với những can dầu nấu ăn lớn, để cung cấp cho binh sĩ. Những người khác thì chở hàng tấn vũ khí, đạn dược, điện thoại chiến trường EE-8, dây điện thoại WD30. Một điểm hậu cần khổng lồ của Bắc Việt trải rộng 1dặm vuông dọc theo Ia Drang. Chỉ cách không quá 3 dặm về phía bắc 1 bãi trống lớn dưới chân núi Chu Pong.
    Trung đoàn 66 của mặt trận B-3 gồm các tiểu đoàn 7, 8, 9, mỗi tiểu đoàn có hoặc gần có đủ sức mạnh với 40 sĩ quan và 515 lính. Vẫn còn trên đường mòn và dự trù sẽ tới vào khoảng giữa tháng 11 là tiểu đoàn súng cối 120mm và 1 tiểu đoàn súng máy 12ly7 chống máy bay rất cần thiết. Tướng Mân cũng có thể huy động tiểu đoàn chủ lực địa phương H-15, 600 người, cho nhiệm vụ vận chuyển, liên lạc, và chiến đấu.
    Tháng 10 và đầu tháng 11 không phải là thời gian tốt nhất cho tướng Mân. Nếu kế hoạch cũ chiếm Pleyku và tấn công dọc đường 19 xuống vùng ven biển đã bị bãi bỏ do lệnh của Hà Nội, và kế hoạch mới tập trung vào việc tìm hiểu cách đánh bại quân chiến đấu Mỹ, những bài học phải trả giá rất đắt. Trò chơi giữa cáo và chó săn, do phi đội 1thuộc phi đoàn 9 của John B. Stockton thủ vai, kết thúc với phần thắng của chó săn.
    Nhưng tướng Mân dường như đã nhận được những gì mà ông ấy nói ông ấy muốn: 1 cuộc đụng độ với 1 tiểu đoàn kỵ binh bay Mĩ ngay tại sân sau của mình. Và địch quân ở đâu khi tiểu đoàn 1 kỵ binh số 7 đến đáp lại lời thách đấu? Thật gần 1 cách bất tiện. Theo lời của Mân, An, và Phương hầu hết trung đoàn 33 đang nằm rải rác trên một quãng dài 2 dặm dọc theo bề mặt phía tây của dãy Chu Pong. Tiểu đoàn 9, trung đoàn 66 ở cách 500m về phía nam và tây của 1 bãi trống lớn dưới chân núi Chu Pong. Tiểu đoàn 7, trung đoàn 66 đang ở trên triền núi ngay trên bãi trống đó, không xa hơn 90 phút đi bộ. Tiểu đoàn 8, trung đoàn 66 vẫn còn cách nửa ngày đường về hướng đông bắc dọc theo Ia Drang. Tiểu đoàn H-15 ********* cách khoảng 8 giờ đi bộ. Trung đoàn 320 ở cách đó 10 dặm về phía tây bắc trên biên giới CPC.
    Tướng An nói: ?o khi các ông đổ bộ xuống đây, các ông nhảy xuống ngay giữa 3 tiểu đoàn của trung đoàn 66, lực lượng dự bị của chúng tôi. Đây là quân mạnh nhất mà chúng tôi có. Sức mạnh đầy đủ của mỗi tiều đoàn khi có đủ 450 người, cùng với trung đoàn bộ có sức mạnh tương đương 1 tiểu đoàn. Lực lượng toàn bộ của trung đoàn vào khoảng 1600 người.?
    Tới lúc cần phải lập 1 tên mật mã, để hiệu chỉnh bản đổ và thông tin liên lạc, cho bãi trống trên, mà cuối cùng chúng tôi chọn làm bãi đáp cho cuộc đổ bộ xuống chân núi Chu Pong, đại uý Dillon, sĩ quan hành quân của tôi, đã được vinh dự thục hiện. Anh thường chọn những từ ngằn- tên của con thú hoặc chim chóc; 1 chữ số; 1 chữ cái Aphabet như được hướng dẫn trong hệ thống ngữ âm NATO. Hôm đó anh ta chọn chữ ?oX?- hay ?oX-Ray?, trong bảng chữ cái của NATO. Bắc Việt năm 1965 đó cũng chọn mật mã, để mã hóa trung đoàn của mình. Tướng An nói rằng mật mã của trung đoàn 66 là ?oX.?
    Vậy là sân khấu đã kéo màn.
    to gmail1234: cảm ơn, tôi cũng có 1bản do ông Moore đề tặng... người xa lạ nào đó.
  3. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Việc trong trận đánh,bộ đội Việt nam bị thiệt hại nặng nề cũng chẳng có gì lạ. Nếu vào box Kỹ thuật quân sự thì mới thấy,trong thời gian từ 1930 đến nay,mỗi trận chiến đều là đánh nhau tổng lực mà phần thua ,thậm chí chưa đánh đã thua,luôn luôn dành cho kẻ yếu hơn. Cái này tôi đã viết nhiều lần,rất rõ về trận này rồi. Trận chiến của Việt nam với Mỹ thực chất là trận chiến giữa người khổng lồ với thằng bé con bé tý. Viện trợ quân+dân sự ,theo tài liệu mật được bạch hoá của CIA đầu năm nay,cho Hà nội của cả Liên xô Trung quốc là 174 triệu USD /năm (năm 1974 giảm còn thực tế là 124 triệu). Mỹ đã rải thảm 3 trận,quét hết tất cả nơi đóng quân của các đơn vị. Trong 3 trận đó có 31 chiếc B52. Mỗi B-52 bao giờ cũng kèm theo ít nhất 6 máy bay chiến thuật
    Kết quả là cái đám người tả tơi,xơ xác như vậy vẫn nện cho quân Mỹ bị thương vong nặng nề (số liệu thương vong hai bên đã dẫn.
    Nhớ lại quân Mỹ khi mở mặt trận tại Normandi rồi,sau đó đơn vị đi đầu tiến gần Bỉ. Quân Hitler hồi lại,cho máy bay ném bom vào những cánh quân đi đầu. Thư viện Lịch sử quân sự tại Moscow còn thu giữ lại từ Đức chụp sỹ quan binh lính Mỹ lũ lượt ra hàng,lính tank thò nửa người ra vứt thompson đầu hàng. Bây giờ lật ngược lại. Giả sử Nga cho ta lúc ấy độ 20 cái Tu-95 hay độ 10cái siêu pháo đài bay Ruslan An-124,mỗi cái mang 104 tons bom, hay là 500 quả bom. Các máy bay này đánh vào các vị trí Mỹ trong vòng 30 '', sau đó các máy bay tiêm kích Mig23 và Su 22 quét sạch F4 và F105. Các máy bay trực thăng vũ trang tốc độ cao Mi và Kamov quét sạch lũ Cobra lẫn Chinook đổ bộ. Chỉ cần thế,10 cái A n not o v thôi,cũng đủ rải thảm hơn 30 cái B-52 (mỗi cái mang 28 tons bom). Bảo đảm chỉ cần 20 bộ đội tiến vào tiếp quản chiến trường,lính Mỹ còn sống thằng nào phát điên suốt đời thằng đó.
    Đằng này, Nga Mỹ ký với nhau hạn chế vũ khí sau Vụ Vịnh Con lợn nên không cho Miền Bắc bất cứ máy bay ném bom gì >Một dúm máy bay tiêm kích,lúc hoạt động nhiều nhất là 4 phi đội 16 cái mấy bay Mig 21 và Mig 17 loại thiết kế 1948 thì làm sao vào được chiến trường mà hạ B-52. Nên nhà văn cũng thấy lấy 12.7 mm mà làm súng phòng không,lấy vũ khí nửa thế kỷ trước mà chọi máy bay ném bom chiến lược là trò của thằng bé con đánh Mike Tyson bằng con gấu bông.
    Nhớ Nam tư, lò sản xuất vũ khí của Trung Âu,anh hùng chống phát xít,nghe Mỹ dọa đưa trực thăng Apacher vào tham chiến mà vỡ mật,chạy chối chết khỏi Kosovo là đất đai gốc của chính người Nam tư chứ không phải Anbani). Sau đó buông súng đầu hàng trên thực tế.
    Nhớ Iraq có 6,000 xe tank,thiết giáp mà để cho số xe tank Anh Mỹ ít hơn chục lần bắn như bắn đồ chơi. Lính Arập chạy mất mạng nên quân Mỹ vào chỗ không người.
    Thế mà tàn quân Việt nam sau 3 đợt B-52 đánh trúng đội hình còn giết được 1 tiểu đoàn Mỹ. Ông già tôi bảo,đánh giáp lá cà thằng nào nhanh hơn là thắng. Thằng Mỹ to khoẻ,lấy tay gạt băng lê AK ra nhưng không chống lại nổi một dao găm của ta đâm cực nhanh bằng tay trái vào bụng dưới rạch lên. Thế nhưng trận đó,chúng khoẻ lắm. Nhiều thằng bị đâm thủng bụng vẫn đâm lại hay siết cổ đối phuơng tới chết. Mình đứng với nó cũng như mình đánh thằng bé con 10 tuổi. Nói chung đã giáp lá cà thì cả hai cùng chết.
    Tuy nhiên sau trận đó thì bọn Mỹ sợ lính Việt nam đánh cận chiến hơn nhiều. Bôi một ít nhựa độc đã luyện vào lưỡi lê và dao găm,thằng Mỹ có gạt ra được cũng đi đời vì xước tay chân
  4. Gmail1234

    Gmail1234 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/10/2005
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Hỏi vui bác chút. Không hiểu bôi nhựa độc lên vũ khí có vi phạm luật chiến tranh có quy ước không nhỉ. Nhựa độc có được hiểu và vũ khí sinh học hay hoá học không vậy.
  5. m42

    m42 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/11/2003
    Bài viết:
    450
    Đã được thích:
    0
    Nhựa độc thì đọ thế nào đwợc với napan và chất độc da cam mà ông cứ lôi ra để nói là vi phạm cái luật khỉ gió của kẻ mạnh. Nó giết thương binh của mình các ông chẳng thấy kêu là phạm luật gì cả nhỉ. Nó phóng napan mà cứ như không, chẳng ai kêu.
  6. bulubuloa

    bulubuloa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    4.189
    Đã được thích:
    5.423
    Sao tớ thấy có người bảo là ai bảo chui chui rúc rúc làm gì cho nó ném với rải! Cứ dàn hàng ngang đi lên có phải là nó đỡ rải da cam với napam rồi kô!
  7. qthang2006

    qthang2006 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    1 quyển sách rất lý thú. Không biết đây là bạn dịch hay là ai khác ? Nếu là NXB tổ chức dịch và bán thì bạn có thể cho tôi biết tên NXB - năm xuất bản được không ?
    Cảm ơn bạn đã đưa lên
  8. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Nhưng còn nước giải cuả chính mình mới là vị thuốc cực hay.Bố tôi bảo nhiều trận bọn Mỹ nó bắn pháo chưá chất độc hoá học. Việc đầu tiên là cởi ngay quần hay áo ra,đái vào đó rồi bịt lên mặt. Việc thứ hai là ném lựu đạn ra ngay ngoài công sự để sức nổ xua tan khói hoá học. Đánh giáp lá cà,bôi một tý nhưạ cây đen luyện với cây mang dang vào lê 5 tác dụng,chỉ xước một tý,là thằng Mỹ đi tong.
  9. Gmail1234

    Gmail1234 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/10/2005
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Nếu bạn có cuốn sách này thì thấy là ông Moore cũng kể tới nhiều trường hợp mà tử sĩ người Mỹ có vết đạn ngay giữa trán khi thu nhặt xác. Những người này thường là bị thương và mất sức chiến đấu trước đó khi vị trí của họ bị overrun. Tôi cũng nghe kể về nhiều trường hợp như vậy từ phía người Mỹ.
    Ông Moore cũng kể trong cuốn sách là họ có bắt được tù bình của mình trước trận đánh và ông ta kể (đại loại) là chắc là những họ đã giết những người tù binh này khi cuộc chạm trán bắt đầu.
    Họ công bằng như vậy khi nói về một trận đánh thì ta cũng nên có thái độ công bằng với họ.
  10. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    PHẦN II - X-RAY
    5./ Bay vào thung lũng
    The great joy of theCavalry was to be so far away, out in the clear air, the open spaces, away from those damned councils. Buford...felt the beautiful absence of a commander, a silence above him, a windy freedom.
    -Michael, Shaara, The Killer AngelsThượng sỹ Plumley và tôi lăn ra khỏi túi ponchos trong ngôi trại cũ kỹ của người Pháp bên ngoài lớp hàng rào thép gai của trại lực lượng đặc biệt Plei Me. Bây giờ là 4g30 sáng chủ nhật, ngày 14-11, và tiểu đoàn 1 kỵ binh 7 có việc làm ngày hôm nay. Chúng tôi quay vào lều hành quân, trong đêm không có thay đổi cho những mệnh lệnh trước đó. Nhưng sau 1 ly cà phê, Matt Dillon chuyển tới 1 thông tin thú vị rằng đơn vị dò tìm sóng radio phối thuộc cho sở chỉ huy chúng tôi đã đến. Dillon nói: ?oHọ chặn được 1 bản tin được mã hoá nói bằng tiếng Quan thoại, giống như 1 bản báo cáo tình huống, từ 1 nơi nào đó trên trục đường từ trại Plei Me thẳng tới bãi trống dưới chân núi Chu Pong. Viên trung uý tình báo với 1 tấm bản đồ kẻ 1đường thẳng. Anh nói máy điện đài ở đâu đó trên đường thẳng này. Tôi không nhớ bản tin dài bao lâu, nó không làm phiền tới tôi. Điều quan trọng là cái hướng mà nó tới. Trung uý nói anh ta nghĩ rằng có thể có 1 trung đoàn Bắc Việt ở đâu đó ngoài kia gần núi Chu Pong.?
    Plumley và tôi cạo râu và ăn sáng bằng khẩu phần C và uống 1 chút cà phê đen. Sau đó tôi chuẩn bị ba-lô và đạn dược sẵng sang, và lau sạch khẩu M-16 cùng khẩu colt 45. Buổi sáng đó Plei Me trời lạnh và trong lành với vài đám sương mù dưới gót chân. Lúc này là giữa mùa khô và mặt trời vừa mới ngoi lên trên đường chân trời báo hiệu 1 ngày thật nóng.
    John Herren và đại đội của anh đang bay tới tù sở chỉ huy lữ đoàn trên những chiếc Chinook. Tôi bước ra ngoài đường băng bụi mịt mờ để gặp anh và nhóm trinh sát trên không. Những chiếc Chinook này khi chở đại đội Bravo xong, sẽ chở những khẩu pháo lớn của khẩu đội Alpha, tiểu đoàn 1, pháo binh 21 tới bãi Falcon nơi họ có thể yểm trợ chúng tôi sâu hơn vào trong thung lũng. Quân của Herren kéo tới nghỉ ngơi trên những bãi đất phía nam đường băng. Họ cần thời gian để ăn, hứng đầy nước, kiểm tra và làm sạch vũ khí. Thật không may, họ không thật tỉnh táo như cần thiết. Lữ đoàn đã đặt họ vào tình trạng báo động 100% suốt đêm qua.
    Tôi bước tới chiếc Huey của Bruce Crandall và nhanh chóng hội ý những người đi cùng tôi trên chuyến bay trinh sát trên khu vực thung lũng Ia Drang. Đại tá Tim Brown đã nói một cách tổng quát nơi ông ấy muốn chúng tôi phải hoạt động ngay sau khi đổ bộ, nhưng bây giờ chúng tôi phải chọn được 1 bãi đáp tốt nhất có thể, để có thể đậu được cùng 1 lúc tối đa số 16 chiếc Huey của chúng tôi.
    Tất cả chúng tôi đều không muốn bay trinh sát 1 chút nào, chúng tôi không muốn đánh động quân địch trong vùng và có thể báo động cho chúng về 1 cuộc tấn công sắp xảy ra. Nhưng chúng tôi không thể lựa chọn bãi đáp đơn giản bằng 1 bản đổ tỷ lệ 1/50.000, chúng tôi phải bay thám sát trên vùng đổ quân. Chúng tôi giảm thiểu khả năng bị phát hiện bằng cách bay thật cao, khoảng 1500 mét, và vượt qua phía đông nam núi Chu Pong theo đường bay thẳng thông thường tới vùng căn cứ trại lực lượng đặc biệt Đức Cơ. Sau khi bay vòng quang trại khoảng 5 phút chúng tôi sẽ quay lại theo 1 đường khác. Chúng tôi hy vọng rằng nếu có chỉ huy nào của địch quân thấy được 2 chiếc trực thăng chở quân và 2 chiếc trực thăng vũ trang này sẽ nghĩ chúng đang bay đi đâu đó làm nhiệm vụ ở nơi khác. Với ống nhòm chúng tôi sẽ tìm bãi đáp có ít chướng ngại nhất và có không gian rộng nhất.
    Chuyến bay tiến hành tuyệt như kế hoạch. Chúng tôi không bị bắn và không thấy bất kỳ 1 địch quân nào; trong lúc bay về chúng tôi nhanh chóng quyết định 3 bãi đãp có thể chọn: X-Ray, Tango, và Yankee. Thiếu tá Henri (Pete) Mallet, sĩ quan hành quân của Lữ đoàn 3 bay tới với 1 mẩu giấy ghi lệnh của Đại tá Brown. Một trong những bãi đáp mà chúng tôi chọn, Yankee ở cách khoảng 1 dặm về phía nam của vùng chỉ định hoạt động. Mặt đất hơi dốc nhưng có thể nhận được 6 hoặc 8 chiếc Huey. Tango ở giữa thung lũng gần với Ia Drang hơn chỉ cách khoảng 1 dặm, điều này rất tốt, nhưng nó quá nhỏ chỉ có thể bố trí từ 2 tới 3 chiếc Huey 1 lần, tệ hơn nữa nó như 1 cái giếng, bao quanh bởi những cây cổ thụ rất to. Những phi công rất ghét những cái giếng. Để hạ cánh, họ phải bay chậm gần như lơ lửng, sau đó rơi xuống cái giếng đó. Những chiếc trực thăng đang lơ lửng là những miếng mồi ngon. Chúng tôi gạch bỏ Tango. Còn lại X-Ray. Nó bằng phẳng; cây cối xung quanh không phải tât cả đều cao; và nó dường như có thể nhận được tới 8 chiếc Huey đáp cùng 1 lúc.
    Tôi nói với nhóm chỉ huy rằng tôi đã nhắm chọn X-Ray trước nhưng muốn có thêm nhiều thông tin hơn. Bật liên lạc với đại uý Rickard, chỉ huy phi đội 1 trực thăng scout (2 chỗ), kỵ binh số 9, tôi yêu cầu anh dùng chiếc trực thăng quan sát H-13 nhỏ bé của mình làm 1 chuyến bay nhanh tới khu vực mục tiêu để lấy thêm thông tin về X-Ray, Yankee và vùng xung quanh.
    Lúc này tất cả các chỉ huy đại đội đã tập trung ở sở chỉ huy tiểu đoàn. Trong lúc đợi những chiếc Scout quay về với những thông tin mới, tôi yêu cầu các đại đội trưởng phải chắc chắn rằng lính của họ phải mang ít nhất cơ số đạn tối thiểu là 300 viên, 2 dây lựu đạn cùng với số quân trang mà anh cảm thấy có thể đem theo được. Mỗi xạ thủ M-79 cần đem ít nhất 36 trái đạn 40mm tròn. Mỗi tiểu đội phải mang theo 2 trái rocket LAW (light antitank weapon) mới, dùng để phá boong ke và kèm theo khẩu đội súng máy. Tôi nhắc nhở các đại đội trưởng phải theo sát các đơn vị, chờ tới lượt họ để được chở tới bãi đáp, phải luôn mở làn sóng chỉ huy lắng nghe những gì đang xảy ra để không mù mờ về những gì bên dưới X-Ray cho tới khi họ đáp được xuống đất.
    Lúc này những phi công Scout đã quay về và báo cáo. Yankee có thể dùng được nhưng nó sẽ có rủi ro vì nó được bao bọc bởi những gốc cây cổ thụ. X-Ray hoàn toàn có thể tiếp nhận 8 tới 10 chiếc Huey 1 lần. Cuối cùng họ nói đã phát hiện 1đường dây điện trần- 1 đường dây điện thoại- chạy từ đông sang tây trên 1 đường mòn phía bắc X-Ray. Điều này củng cố thêm quyết tâm chọn X-Ray bởi vì nó cho thấy bằng chứng rõ ràng về sự hiện diện của quân địch ngay trong vùng. X-Ray sẽ là bãi đổ bộ chính, Tango và Yankee là những giải pháp dự bị.
    Vào lúc 8g50 sáng, tại góc trái của trại Plei Me tôi ra lệnh cho những chỉ huy đại đội, sĩ quan liên lạc, phi công, và ban tham mưu: Tấn công xuống bãi X-Ray để tìm và diệt quân địch. Đại đội Bravo đổ bộ đầu tiên cùng với nhóm chỉ huy của tôi, tiếp đó là Alpha, tới Charlie, và tới đại đội Delta. Bravo và Alpha sẽ di chuyển theo hướng tây bắc theo hướng của tôi. Đại đội Charlie sẽ di chuyển hướng tây nam thẳng tới ngọn núi cũng theo hướng của tôi. Đại đội Delta sẽ sử dụng tất cả súng cối. Các trung đội trinh sát và súng máy là lực lượng dự bị của tiểu đoàn. Pháo binh sẽ bắn 8 phút vào Yankee và Tango để nghi binh, sau đó là 20 phút bắn chuẩn bị vào X-Ray và vùng lân cận. 30 giây cho máy bay phóng rocket và 30 giây cho trực thăng vũ trang sẽ bắn dọn đường theo sau. Sở chỉ huy hậu quân [sở chỉ huy cơ bản] được chỉ huy bởi sĩ quan điểu hành của tôi, thiếu tá Herman Wirth, cùng với điểm hậu cần và trạm quân y được chuyển tới bãi Falcon nơi có 2 khẩu đội pháo 105 ở đó.
    Đại tá Brown tới, tôi trình bày kế hoạch. Ông đồng ý với mọi thứ, kể cả việc lựa chọn X-Ray là bãi đáp cho cuộc tấn công. Ông nói chuyện ít phút với 1 vài sĩ quan và binh lính. Sau đó, ngay trước khi ông rời đi, ông đã làm 1 việc rất khác bình thường. Matt Dillon nói: ?oĐại tá Brown gọi Moore và tôi tới. Ông nói với chúng tôi: ?oTôi muốn hai anh đặc biệt chú ý tới cuộc hành quân này?. Trông ông ấy rất nghiêm trang. Khi chúng tôi đi cùng với Brown ra trực thăng ông lặp lại lời chỉ dẫn: ?oLuôn tập trung? và ?oĐừng để các đại đội của anh tách rời nhau?. Vào lúc 9g15 2 khẩu đội pháo báo cáo họ sắp vào vị trí và sẽ sẵn sàng nhả đạn sớm. Tôi đặt thời điểm nhảy xuống là 10g30. Các chỉ huy trở về đại đội của mình, ban tham mưu quay về sở chỉ huy. Các phi hành đoàn trực thăng đang nhận chỉ thị từ phi công của họ.
    Sau đó chúng tôi nhận được tin báo vì di chuyển bị chậm trễ, pháo binh vẫn chưa vào vị trí tại bãi Falcon và không thể bắn chuẩn bị vào các mục tiêu ở Ia Drang trước 10g17. Theo đó giờ H cũng bị lùi lại, và lệnh cũng đã truyển xuống tất cả các đơn vị liên quan. Dillon bay trên chiếc trực thăng chỉ huy của tiểu đoàn cùng với nhóm yểm trợ hỏa lực và nhóm điều phối trực thăng. Bruce Crandall và tôi đứng cạnh trực thăng của anh và thảo luận những chi tiết cuối cùng. Thời gian bay từ điểm bốc quan tại Plei Me tới điểm đổ bộ ở X-Ray được tính toán. Phi công phụ của Crandall, đại uý Jon Mills, 25 tuổi người vùng kênh đào Panama, tính toán vài phút và nhìn lên nói: ?o 13 phút 50 giây?. Tôi cá với anh ta 1 ly bia là anh ta không thể bay nhanh như vậy được. Anh chấp nhận cược, và 3 ngày sau anh nhận ly bia thắng cược tại Trại Holloway, gần Pleiku.
    Chúng tôi lên máy bay, Crandall và Mill làm công việc chuẩn bị bay. Sau đó Crandall khởi động động cơ và châm 1 điếu cì gà to tướng. Chúng tôi bị bao phủ bởi 1 lớp bụi đỏ đặc quánh khi tất cả 16 chiếc Huey nổ máy xếp hàng chờ tới lượt cất cánh. Crandall, ngồi ghế bên trái, quay lại. Tôi giơ ngón tay cái lên báo hiệu mọi thứ đều ổn. Anh ta kéo cần lái và cất cánh, chúng tôi đang chuẩn bị lao tới X-Ray.
    Chúng tôi bay qua 1 vùng đất bằng rộng bao la có những gờ đất nhỏ được điểm chấm bằng những cây cao từ 10 tới 15 mét, xen kẽ vào đó là rải rác những bãi nương rẫy của người Thượng, những dòng suối uốn lượn, và những rãnh cạn nước. Chúng tôi không thấy 1 bản làng nào cũng không thấy 1 bóng người quanh đó. Hôm nay là chủ nhật nhưng tôi không hề nhận ra điểu đó: ở đây chúng tôi không chú ý tới ngày tháng. Trên chiến trường VN tất cả mọi ngày đều giống nhau: nắng và ướt, hoặc nằng và khô, nhưng luôn luôn nguy hiểm. Lúc này ở Columbus, Georgia, là đêm thứ 7. Vợ tôi chắc đã cho đám trẻ đi ngủ và đang xem bản tin buổi tối. Bộ trưởng quốc phòng Mcnamara công bố kế hoạch giải tán các đơn vị dự bị Lục quân, bao gồm 6 sư đoàn quân dự bị. Chiếc tàu khách sang trọng Yarmouth Castle bị cháy và đắm xuống biển, 91 hành khách mất tích. Tờ New York Times giật tít : Washington: War on the installment plan, 1 bài báo của James Reston. Joe Natmath, người được trả 1 khoản thưởng không thể tưởng tượng nổi 400.000 USD cho việc ký hợp đồng với New York Jets, đang có 1 mùa bóng tuyệt vời đầu tiên ở giải bóng đá nhà nghề Mỹ.
    Cánh của dành cho phi hành đoàn ở phía sau của chiếc Huey mở toang. Chúng tôi bay ở độ cao 650 mét để giảm thiểu khả năng bị bắn bởi vũ khí hạng nhẹ, bởi lúc này chúng tôi đang bay 1 khoảng 14,3 dặm trong vùng địch kiểm soát. Chúng tôi chia ra làm 4 nhóm, mỗi nhóm 4 chiếc Huey. Mỗi nhóm bay theo đội hình nặng về phía trái và có 4 chiếc trực thăng vũ trang bảo vệ 2 bên sườn chúng tôi, 2 chiếc mỗi bên bay trước chúng tôi không xa. Đại uý John Herren, nhớ lại : ?oĐó là 1 buổi sáng lạnh và có sương mù bao quanh khi chúng tôi cất cánh, nhưng khi lên cao 1 ít phút sau trời quang đãng và có thể thấy pháo 105mm đang giã vào khu vực xung quanh bãi đáp chúng tôi phải đổ xuống. Việt Nam ngay cả trong chiến tranh, rất gợi sắc với những rừng cây xanh, những dãy núi cây cối bao phủ rậm rạp, và những con sông hoang dã chảy uốn lượn khắp vùng.?
    Cách X-Ray khoảng 4 dặm, Bruce Crandall ra hiệu, và các phi công hạ thấp độ cao xuống, bằng với các ngọn cây để bay kiểu nap-on-the-earth trong đoạn cuối cùng. Những con chim nháo nhắc khi chúng tôi lướt vèo vèo ở tốc độ 110 dặm/giờ ồn ào ngay trên tổ của chúng. Lệnh tập trung cao đến từ trực thăng chỉ huy, Matt Dillon đang cho bắn hoả lực chuẩn bị: ?oThời điểm khó khăn nhất của bất kỳ cuộc hành quân nào là lúc đổ bộ từ trên không xuống. Chúng ta phải tính toán thời gian của máy bay và pháo binh thật khớp. Những chiếc Huey có 1 phút ngay sau viên đạn pháo cuối cùng để đến đúng vị trí nếu không nó ăn đạn khi hạ cánh. Chúng như là tình nhân của nhau, bởi vì nếu pháo binh ngừng quá sớm quân địch có thể ngóc đầu dậy và chờ những chiếc máy bay trờ tới. Thời gian là yếu tố sống chết ở đây.?
    Lúc này chúng tôi còn cách 2 phút bay và có thể thấy khói và bụi bay xung quanh bãi trống. Người ta giảm thiểu hướng pháo bắn vào bãi trống; nếu ở đó có quân địch họ sẽ không ở trên bãi trống mà ở những điểm được ngụy trang xung quanh rìa của nó. Tới lượt những chiếc trực thăng vũ trang phóng rocket(ARA), chúng ngốn hết chu vi đó bằng rocket, lựu đạn, súng máy, chúng bắn khoảng 24 trên tổng số 48 rocket mà mỗi chiếc mang theo. Họ giữ lại 1 nửa phòng trường hợp chúng tôi cần yểm trở khi chúng tôi đã ở dưới đất. Khi những chiếc ARA lượn vòng qua bên sườn để chờ đợi gần đó, 4 chiếc vũ trang hộ tống bỏ chúng tôi lại và xông tới tiếp tục xả đạn để ngăn quân địch ngóc đầu dậy khi chúng tôi sà xuống đất.
    Thiếu tá Bruce Crandall nhớ lại: ?oChúng tôi bay thấp và tới đúng lúc tại điểm thả quân trong bãi đáp. Bãi đáp không thật trống trải như chúng tôi thích, chúng tôi đưa máy bay vào đúng chỗ mà không gặp 1 trở ngại thật sự nào. 1 chuyển động duy nhất mà chúng tôi phát hiện được trong bãi đáp là thứ gì đó giống như 1 con chó chạy nhoắng vào 1 bụi rậm ở phía xa. Nó có thể là 1 lính địch.? Bây giờ những khẩu súng máy hai bên hông của những chiếc Huey chở quân bắn xối xả vào những hàng cây khi chúng tôi nhảy xuống bãi đáp. Tôi tháo dây đai an toàn, đặt chế độ tự động hoàn toàn cho khẩu M-16- rock?Tn?Troll ?" và bắn hàng băng đạn vào những bụi cây phía bên trái, hướng về phía ngọn núi, là lúc Crandall in hot and flared [phi công nâng đầu và hạ đuôi trực thăng giảm đột ngột tốc độ trước khi hạ cánh] trên đầu những ngọn cỏ voi cao tới 1,5 mét. Khi những thanh đỡ chạm mặt đất tôi hô, ?otiến lên!? và nhảy ra, chạy tới 1 cái cây nằm trên sườn phía tây của bãi trống, xả đạn rào rào.
    Được duong2002 sửa chữa / chuyển vào 14:14 ngày 29/11/2005

Chia sẻ trang này