1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Chắc do lúc chiến đấu hỗn loạn nên nhìn nhầm thôi. Ví dụ như lính Mẽo quét 1 tràng súng mày, bộ đội ta nhào xuống đất nấp thì tay Mẽo này cũng có thể tưởng là đã quét gục 1 trung đội Bắc Việt lắm
  2. muvlc

    muvlc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    2
    Bạn nói có lý, lối kể của ông Moore làm cho người đọc hình dung ra một cuộc tấn công biển người của quân ta vào lính Mỹ. Tôi nghĩ điều đó không đúng với thực tế chiến trường: trong khi quân Mỹ phòng thủ trong điều kiện có hỏa lực mạnh yểm trợ, đạn bay khắp nơi như vậy thì những người lính của ta khi tiến công cũng phải vận động từng chặng ngắn theo địa hình chứ không thể cứ thẳng lưng chạy để M60 của Mỹ quét như ngả rạ thế được.
    Dù sao ông Moore cũng thừa nhận một sự thật là trong trận này, hỏa lực yểm trợ cho bộ binh Mỹ là rất mạnh, trong khi phía VN thì giỏi lắm cũng chỉ là mấy khẩu cối thôi.
  3. U18

    U18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2003
    Bài viết:
    307
    Đã được thích:
    0
    Bộ phim Sodiers của ông ĐD này tui được coi trong một dịp cũng khá ngộ . Bữa đó cái lớp tui được nhà trường cho du hoc xuat ngoai (hehe..nói cho oách chứ thực ra chở từ trường bên này biên giới qua trường bên kia biên giới học thui). Tụi tui được tống lên một cái xe bus, có ông tài xế rất dễ thương. Đồng chí ấy sau khi mở đủ thể loại radio nhạc nhẽo các trò, tự dưng chuyển sang tiết mục vi déo ..hé hé.. lúc đó tui đang ngủ khò khò, tự dưng bị một thằng Rệp lay dậy chỉ chỉ vô cái mần hình..hà hà..dụi mắt mấy lần nhận ra chú Đơn Dương và mấy chú anamit nữa đang bùm chéo. Mấy thằng Phi với Rệp khoái chí lắm, bảo VN là number one.. Hế hế, mình thì cười rất.. ngoại giao đểu giả bảo nó là bây giờ nhà tao hòa bình lâu rồi..hehe.. Di trên đường tự dưng nghe được tiếng Việt Nam, dù tren video cũng thấy khác khác. Mỗi tội bọn nó dịch chuối dã man, nghe buồn cười lắm
  4. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn bác Duong2002 đã dịch cuốn này. Sách này Moore viết năm 1992 nên chắc vẫn còn thiếu thông tin dẫn đến nhiều chỗ bất cập. Tôi cũng nghĩ là nằm ở ngay trận địa thì lúc nước sôi lửa bỏng, súng nổ rát tai thì cũng khó đánh giá thật chính xác được quân số của đối phương. Nhưng cũng nên tôn trọng tinh thần của ông ta và Galloway, đã sang tận VN tìm ông An, quay trở lại bãi chiến trường để nghiên cứu lại trận đánh. Tôi nghe nói một bác từng là cựu thành viên của TTVNOL (cũng khá nổi tiếng) đã làm phiên dịch cho Moore và ông An.
    Không biết bác đã đọc bài này, của M. Pribbenow đăng trên Military Review năm 2001 so sánh các nguồn của Mỹ (trong đó có WWSOAY của Moore) với các tài liệu của ta chưa? Ông này cũng viết là hai bên khi giao chiến đều thiếu thông tin về địch thủ (fog of war).
    http://usacac.leavenworth.army.mil/CAC/milreview/download/English/JanFeb01/bob.pdf
    Tôi thấy bọn Mỹ thỉnh thỏang cũng phê bình sách của Moore viết nhiều chỗ cường điệu. Cuốn Pleiku của Coleman thường được giới thiệu như là một nguồn bổ sung cho sách của Moore về trận Ia Drang.
  5. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Hết cả sao để vote cho mọi người roài. Thú thực hồi xem cái phim đó bên này mình thấy tức anh ách, nói với thằng cha cựu chiến binh Mỹ bạn mình là cha Moore nói xạo quá. VC làm gì có nhiều quân như vậy để mà đánh. Đưa một lượng người lớn tập trung vào một chiến trường không lớn như Ia Đrang đâu phải là dễ dàng. Hơn nữa phần hậu cần cũng như khả năng tái tổ chức lại các đơn vị cấp đại đội đã rất khó khăn huống chi đến cấp trung đoàn. Trong chiến tranh VN nhiều khi có những đơn vị chỉ còn cái tên hoặc có vài người thôi. Thằng cha CCB kia gật gù, cười.
    Tụi hollywood thường là chuối rồi nhưng mấy bác lính Mỹ cũng nổ không kém đâu. Xem History Channel thì rõ. Hết ca ngợi D-day, Philippines... rồi lại bào chữa cho Chân Châu Cảng. Bao giờ quân ta cũng là nhất. Chẳng có chú nào đủ cam đảm nói thua trận trong chiến tranh VN cả.
    ATB,
  6. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Hì hì cái này thì bên nào cũng na ná nhau thôi. Bên ta cũng ít người lên TV hay đài báo khen địch lắm, có nói thì nói kiểu như ''bọn nó ngoan cố, điên cuồng chống cự'' thôi.
    Nói chuyện TV, tôi nhớ ra mấy năm trước xem một cái phim, hình như là ''The making of WWS", có quay Moore phát biểu (không nhớ thật chính xác nguyên văn) là ''The North Vietnamese were a professional army. They knew very well how to fight. It was very hard for us to fight them..." Bài tường thuật hội thảo về Ia Drang ở Washington hôm vừa rồi cũng có viết là có người Mỹ có vẻ bức xúc hỏi tại sao Moore lại hay đi khen quân địch như vậy
  7. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    9./ Những phi công dũng cảm
    I knew wherever I was that you thought of me, and if I got in a tight place you would come-if alive.
    -William Tecumseh Sherman, in a letter to Ulysses S. Grant
    Trong suốt 20 tháng huấn luyện cơ động không vận, 1 giao kèo đã được đóng dấu giữa những người lính bộ binh và những người chuyên chở họ, những phi công và phi hành đoàn trực thăng Huey. Giờ mối cam kết của giao kèo đang được thử thách tại nơi chiến địa nóng bỏng nhất. Nếu cầu không vận này thất bại, những người bị kẹt của tiểu đoàn 1, Kỵ binh 7 chắc chắn sẽ chết giống như cách những kỵ binh của George Armstrong Custer chết trong thung lũng Little Bighorn?"bị chia cắt, bao vây bởi 1 địch thủ vượt trội về số lượng, bị tràn ngập và làm thịt tới người cuối cùng.
    Tôi đã yêu cầu những sự hiến thân tận cùng, sự phục vụ vượt xa những giới hạn của trách nhiệm và nhiệm vụ của những phi đội anh dũng của Bruce Crandall, và họ đã đáp ứng hoàn toàn như tôi biết họ sẽ như vậy. Trong cách nhìn của nhiều người chúng tôi, đây là lần đầu tiên nhiều nhiệm vụ khó khăn nhất phải được thực hiện cùng với nhau trong 1 trận chiến. Đạn dược cũng như nước và trang bị y tế là những thứ vô cùng cần thiết với chúng tôi- những chiếc Huey của Crandall đem chúng lại cho chúng tôi. Những thương binh, đang gào thét vì đau đớn, âm thầm rên rỉ trong cái sốc, phải được di tản nếu không họ sẽ chết trên những chiếc poncho sau tổ mối.
    Rút người bị thương ra không phải là việc của những phi đội trực thăng slick. Người của Crandall là phi hành đoàn của phi đội trực thăng tấn công đổ bộ, được huấn luyện để chở bộ binh vào trận đánh. Chở thương binh ra khỏi khu chiến là nhiệm vụ của những chiếc trực thăng di tản quân y. Nhưng đây là thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh, những người chỉ huy quân y tuyên bố rằng trực thăng của họ sẽ không hạ cánh xuống 1 bãi đáp nóng bỏng-hoặc nói cách khác họ sẽ không xuống chỗ cần họ vào lúc mà người ta cần họ nhiểu nhất. Ngay cả trước khi tôi yêu cầu, Crandall đã quyết định bắt đầu làm tất cả mọi thứ mà anh thấy cần phải làm.
    Khi chiếc Huey bay lên, với đầy thương binh, quay về hướng đông, Old Snake nghĩ tới tình hình nguy hiểm trên mặt đất tại LZ X-Ray. Crandall nhớ lại: ?oThời gian quay trở lại Plei Me tưởng như kéo dài vô tận, cho dù chúng tôi đã bay nhanh nhất có thể. Tôi tự xác định rằng trong trận này nếu như tiểu đoàn 1 bị thua thì đó sẽ không phải lỗi của trực thăng hỗ trợ. Tôi biết binh lính và sĩ quan dưới mặt đất là những người giỏi nhất trong công việc của họ, và giờ là lúc chúng tôi phải chứng tỏ mình tương đương với họ trên không.
    ?oTrước khi hạ cánh xuống Plei Me tôi quả quyết rằng lúc này Moore cần nhiều đạn dược hơn là thêm nhân lực. Kế hoạch của tôi là thay những chiếc trực thăng, 2 chiếc sẽ chất đầy đạn dược quay lại X-Ray. Thả đạn xuống và đưa thương binh ra. Tôi cảm thấy chúng tôi có thể xuống được LZ nếu chúng tôi cố bay theo cao độ bằng những ngọn cây. Nếu chúng tôi không thể quay trở lại, thì ít ra số đạn dược cũng sẽ ở đó và những người lính bộ binh sẽ bảo vệ chúng tôi.?
    Crandall điện cho Orange 1 Lead, đại úy Paul Winkel, đang ngồi đợi tại đường băng ở Plei Me, nói với anh ta điều 2 chiếc Huey thuộc quyền anh tới Trại Holloway lấy vũ khí nhiều tới hết mức máy bay có thể chuyên chở. Winkel điều 2 chiếc Huey Orange 3 và 4, lái bởi CWO Dallas và CWO Ken Faba. Thời gian bay cộng với xếp đạn dược vào khoảng 1 giờ.
    Lúc này Crandall hạ cánh xuống đường bay đầy bụi đỏ ở Plei Me. ?oKhi chúng tôi chạm đất ở Plei Me thì gặp những người lính bộ binh và cứu thương vẫn đang chờ được bốc tới X-Ray. Họ chuyển những người chết và bị thương ra khỏi trực thăng của tôi- hình ảnh này ăn sâu vào tôi hơn bất kỳ thứ gì khác mà tôi đã gặp trong suốt 2 nhiệm kỳ phục vụ tại VN. Một người lính da đen cao lớn, chỉ mặc chiếc áo thun GI và đi giày boots, đôi bàn tay còn lớn hơn 1 chiếc đĩa ăn, trèo lên máy bay để đưa 1 trong những người lính da trắng chết xuống. Nước mắt rơi dài trên má, anh dịu dàng ôm người lính chết vào lòng bước xuống máy bay chậm chạm đi tới trạm quân y. Tôi không hề biết người chết đó có phải là bạn thân của anh lính hay không. Tôi nghĩ là không. Đó là sự đau buồn của anh dành cho người đồng đội bị ngã xuống và cũng là do sụ tàn bạo của những cái chết trước mặt những người phải chứng kiến nó.?
    Crandall gọi những phi công lại cùng nhau hội ý về tình hình nguy hiểm trên mặt đất vùng X-Ray. Anh vặch 1 kế hoạch quay lại đó với 2 chiếc trực thăng chở đạn dược, và hỏi xem có ai tình nguyện đi không. Anh nói: ?oĐại uý Freeman, người bạn cả chục năm nay của tôi, người chỉ huy những đợt bay thứ 2 suốt buổi sáng, nói anh sẽ bay chuyến đó. Big Ed đã không hiểu tôi. Tôi chỉ muốn 1 phi đội tình nguyện cho chiếc thứ 2. Tôi dự định chính bản than mình sẽ dẫn đầu chuyến này. Tôi tính để Ed lại phía sau với nhiệm vụ tái tiến hành chuyên chở lính ngay khi Moore đảm bảo được hành lang an toàn từ LZ.?
    Đại úy Ed Freeman, 36 tuổi, đã từng chiến đấu trên Port Chop Hill ở Triều tiên như là 1 lính quân dịch và đã được phong sĩ quan ngay ở đó. Với chiều cao 1m95, Freeman cao hơn 10 cm giới hạn tối đa cho phép đối với phi công Lục Quân khi anh tới học tại trường huấn luyện bay, vì vậy anh có nickname: ?oToo Tall to Fly?. Crandall và Freeman ở trong 1 đội đã nhiều năm, cùng chia sẻ những phi vụ bay trên những vùng khó khăn nhất trên thế giới. Cùng nhau họ đã bay qua những vùng hoang vu Bắc Cực, những sa mạc ở Trung Đông và Bắc Phi, và những cánh rừng bạt ngàn vùng Trung và Nam Mỹ trên những phi vụ vẽ bản đồ cho Quân đội. Điều duy nhất mà họ chưa bao giờ tranh luận với nhau là ai trong 2 người họ là phi công trực thăng giỏi thứ 2 trên thế giới. Pop Jekel mô tả về Too Tall Ed vào thời điểm đó như là ?o1 tay đảo mả tổ [****-kicker] lọc lõi, số tiền ăn bài poker của gã có thể trả được phân nửa số dư nợ quốc gia.?
    Crandall hiểu Freeman quyết tâm như thế nào. ?oBig Ed và tôi thảo luận về chuyến bay trong vài giây và biết rằng tranh cãi với anh ấy chỉ lãng phí thời gian. Tôi quyết định cả 2 chúng tôi đều bay phi vụ này.
    Cho tới trước khi LZ trở nên nóng bỏng, Matt Dillon và Mickey Parrish đã kiểm soát tất cả các chuyến bay ra vào X-Ray trên chiếc trực thăng chỉ huy ở phía trên. Không được nữa. Tôi giành lấy quyền kiểm soát bởi vì chỉ có tôi biết lính của tôi ở đâu, đạn địch bắn từ hướng nào tới, và điểm nào an toàn nhất để hạ cánh cũng như thời khắc của nó. Từ lúc này trở đi, mỗi chiếc trực thăng bay tới X-Ray phải điện cho tôi để nhận được những hướng dẫn hạ cánh.
    Những phi đội Huey đã làm việc 1 cách tuyệt vời, chấp nhận đạn địch bắn vào hết lần này tới lần khác. Họ không bao giờ từ chối khi được gọi. Ngược lại, chúng tôi cố hết sức gọi họ chỉ khi tiếng súng giảm thiểu nhất, và chúng tôi có những đội chờ sẵn để dỡ đồ tiếp tế xuống cũng như xếp thương binh lên trong thời gian nhanh nhất, giảm thiểu sự nguy hiểm cho trực thăng khi phải đậu dưới đất.
    Quay lại đường băng đầy bụi ở Plei Me, Crandall và phi công của anh, Jon Mills, chuyển đồ bay từ trực thăng bị thương của họ sang chiếc của Lombardo; chiếc trực thăng mới và chiếc của Freeman được chất đầy đạn dược từ dự trữ của đoàn Kỵ Binh 7 tại sân bay. Sau đó Crandall chỉ định 1 trong những chỉ huy tổ phi đội làm chỉ huy đội bay 8 chiếc đã bị xua khỏi X-Ray lúc nãy. Anh nói họ chờ đợi và chở phần còn lại của đại đội Delta khi tôi ra lệnh.
    Crandall nói: ?oBig Ed và tôi cất cánh và bay vể hướng X-Ray. Chúng tôi mở sóng thông tin, biết rằng mọi chuyện vẫn chẳng khá hơn. Bay được khoảng 5 phút tôi liên lạc với trung tá Moore, giải thích tại sao chúng tôi đang tới, và ông ấy cho biết họ rất cần đạn dược. Điều này như 1 sự thôi thúc chúng tôi bay tới, cho dù phải gặp tình cảnh tồi tệ nào đi nữa. Moore hiểu được vấn đề và hướng dẫn chúng tôi hướng tiếp cận và nơi đáp xuống. Chúng tôi bắt đầu bị đạn bắn tới rất rát trong lúc tiếp cận. Tôi báo cho Ed và cậu ta trả lời lại 1 cách bình tĩnh: ?oRoger. Cậu muốn tớ làm gì khi nói vậy. Chuồn hả? Tớ *** nghĩ tới nửa chữ đâu.?
    ?oNgười của Moore đang nằm bắn bảo vệ cho chúng tôi, và chúng tôi đạp những ngọn cây và xà xuống LZ, tôi có thể thấy Hal Moore đang đứng đằng xa, phía cuối bãi trống. Giơ mình ra trước làn đạn địch để có thể đưa chúng tôi vào vị trí an toàn nhất có thể trong LZ. Tôi đáp xuống nơi ông chỉ và phi đội của tôi cùng người của ông bắt đầu dỡ những thùng đạn xuống, thật nhanh như họ có thể. Cùng lúc đó những người bị thương được chuyển lên máy bay.?
    Trong số những thương binh được đưa lên máy bay có đại úy Lefebvre và trung úy Taboada, những người thuộc đại đội Delta, mà Crandall đã bốc tới X-Ray trên chuyến vừa rồi. Một người bị thương còn đi được, đang đứng gần cửa là sĩ quan tình báo tiểu đoàn, đại uý Tom Metsker, đã bị bắn vào vai trước đó khi cùng với đại đội Alpha đánh địch ở suối cạn. Lefebvre nhớ lại, ?oChúng tôi đang chờ được đưa lên trực thăng, tôi nhớ Metsker đã giúp tôi, ông đẩy tôi lên và ngay lúc đó ông nói: ?otôi trúng đạn nữa rồi.?T Trưởng nhóm phi đội đã kéo ông lên máy bay.?
    Crandall nhớ lại, ?oTrực thăng của tôi chở tới 8 người bị thương nặng. Trong khi tôi đang còn dưới đó 1 sĩ quan bị thương giúp 1 sĩ quan khác lên chiếc Huey của tôi và bị giết. Chúng tôi cũng đưa anh ấy đi luôn. Ed chỉ có thể mang được có 5 người trên chiếc Huey của anh.? Đại uý Tom Metsker, có vợ và là cha của 1 bé gái 7 tháng tuổi, chết trước khi tới được Plei Me. Bận bịu với trận đánh. Tôi đã không thấy Metsker bị bắn ở bãi trống bên cạnh những chiếc Huey của Crandall, nhưng đó là điềm xấu. Nó có nghĩa là có quân Bắc Việt phía bờ đông của bãi trống, gõ vào cái cửa sau đang mở toang của chúng tôi.
    Crandall giờ đang cố đưa chiếc Huey quá tải của mình lên, thì những chiếc cánh quạt va phải vài ngọn cây. Anh nhớ lại: ?oSuýt chút nũa là chúng tôi không ra được. Trong huấn luyện thỉnh thoảng chúng tôi cẩn trọng đụng cặp càng máy bay vào ngọn cây, đủ để làm tụi lính bộ binh phọt *** ra ngoài, đặc biệt là những lính mới. Nhưng cánh quạt mà đụng vào ngọn cây thì làm tôi phọt *** ra ngoài. Khi mà chúng tôi quét sạch những ngọn cây đó thì chúng tôi lại bị bắn. Khi chúng tôi về tới Plei Me tôi lại chuyển qua máy bay của mình, nó đã được kiểm tra và nạp nhiên liệu.?
    Ở Plei Me, đại úy Paul P. Winkel, 34, tuổi, người Cicero, Indiana, West Point khoá 1956, đang đợi 2 chiếc trực thăng Orange Flight trở về từ Pleiku với nhiều đạn dược lấy được. ?oTrên sóng điện đài của bộ binh âm thanh nghe như là 1 bộ phim chiến tranh cổ điển. Tiếng của trung tá Moore, Trojan 6, chỉ huy vang khắp 1 cánh bình tĩnh, với những lời động viên và ra lệnh. Nó làm cho những cậu bé dưới X-Ray ngày hôm đó trở thành đàn ông thực thụ. ?~OK, hiểu tình hình của cậu rồi?cố bình tĩnh?.chúng tôi đang cố dựng 1 hàng rào pháo binh xung quang cậu. Điều tất cả người của cậu?..tất cả họ?.và từ từ cùng nhau lùi lại khi đạn pháo trùm tới. Hãy lùi xuống cùng lúc với pháo binh và các cậu sẽ OK. Đợi ở đó nhé.?T?
    CWO Leland C. Komich điện cho Winkel báo rằng họ đang trên đường về và hỏi họ sẽ bỏ đạn xuống chỗ nào. Winkel trả lời: ?oĐợi chút? rồi chuyển sóng, liên lạc với Crandall, đang trên đường bay về từ X-Ray với đầy thương binh trên máy bay, và lặp lại câu hỏi. Câu trả lời của Old Snake rất ngắn gọn: ?oLZ X-Ray?
    Winkel nói: ?oTôi nghĩ, Chúa ơi, làm sao tôi dẫn 2 chiếc trực thăng nặng chịch đạn và vũ khí này xuống X-Ray, giờ đang bị bao vây bởi quan địch cùng với không quân ném bom, trực thăng ARA xả rocket, hàng rào pháo binh đang dội xuống từ mọi hướng, mà không bị trúng đạn và nổ tung. Tôi chuyển sóng và gọi Kormich: ?~Đáp xuống Plei Me ngay?T. Khi 2 chiếc trục thăng đạp bụi xuống, tôi chạy tới 1 chiếc, thấy Kormich ngồi ở nghế trái, nói với viên đồng phi công của anh xách đít đi [unass] khỏi máy bay, tới chiếc Huey của tôi và bay cùng với viên phi công ở đó, CWO Walter Schramm. Tôi nói với Kormich chúng ta sẽ cùng tới X-Ray. Mắt của Lee nhíu lại. Tôi biết anh ta đang nghĩ giống như mình đã nghĩ vậy. Chúng tôi đang chở đầy đạn, chỉ cần 1 viên đạn bắn trúng, cũng có thể biến chúng tôi thành 1 ông mặt trời thứ 2 theo sau là 1 đụn khói đen trên những ngọn cây của LZ X-Ray.
    ?oTôi chuyển sóng tới Moore liên tục. ?~Trojan 6, đây là Orange 1, chuyến bay gồm 2 chiếc chở đầy đạn, đang trên đường tới X-Ray. Xin hướng dẫn hạ cánh, thưa ông?T. Từ chiếc trực thăng chỉ huy tiểu đoàn có lời hướng dẫn: ?~Bay thẳng 275 độ so với chiếc A-1E nằm dưới đất, sau đó rẽ trái thật thẳng và khi anh bắt đầu bị đạn bắn, đếm 10 giây, rẽ phải 90 độ ngay lập tức. Anh sẽ hướng trực tiếp tới trung tâm của LZ?T. Moore thêm vào: ?~bay đúng như vậy. Chúng tôi sẽ sếp 1 ký hiệu nơi anh hạ cánh. Không được đậu sai, tôi nhắc lại: Không Được Đậu Sai [do not Overshoot], nếu anh bay quá, hãy quay thẳng về hướng bắc và cố thêm 1 lần nửa. giữ độ cao đầu ngọn cây.?T
    ?oChúng tôi tới chỗ chiếc A-1E đang cháy. Tôi nói: ?~Qua trái! tốc độ 80 knots và trượt trên các ngọn cây.?T Cú điều khiển của thật chính xác. Tiếp đến là những tiếng súng nổ bốp bốp, và ngay bên phải chúng tôi là là những dấu hiệu phát sáng đánh dấu điểm hạ cánh. ?~qua phải ngay, Lee, phải! Nhìn cái dấu kìa!?T Tôi thấy nó ngay trước mặt, bên dưới. Nó đây rồi. Xuống ngay. Lee lôi chúng tôi xuống vừa lúc chiếc càng đậu trên thanh chắn ra hiệu. Tôi nhìn ra ngoài, thấy lính của mình đang nằm dài, ép sát xuống đất, phi hành đoàn của tôi nhanh chóng chuyển những thùng đạn xuống. Tôi nhìn chằm chặp về phía trước. Thẳng phía trước, cao lù lù, là ngọn Chu Pong. Tôi nơm nớp sợ rằng 1 loạt đạn nào đó sẽ nã tới bất cứ lúc nào. Mắt tôi nhòe hết cả đi, dường như chẳng thấy màu sắc gì và dường như phải mất cả tiếng đồng hồ để dỡ đạn xuống. Sự sợ hãi làm mọi thứ biến đổi.
    ?otrưởng phi hành đoàn nói: ?~OK, hãy rã khỏi chỗ khốn này!?T Sau đó Moore gọi: ?~Các anh có thể nhận vài thương binh và 2 tên tù binh không??T Tôi nói được. Họ lên máy bay, Lee kéo cần và chúng tôi bắt đầu nâng tốc độ cánh quạt, thật chậm chúng tôi vươn tới cao độ ngọn cây. Vài giây sau, tôi liếc qua vai trái mình để xem Dallas Harper có theo sau không. Thật thất vọng, tôi thấy những đám khói trắng bất thường cuộn theo sau động cơ của anh ấy. Tôi hét lên: ?~Hạ xuống đi, anh đang cháy đó?T. Harper hành động ngay tức thì. Anh ấy vẫn ở trên LZ và hạ xuống bãi trống của Moore. Lee nhanh chóng đổi hướng cánh quạt, sau đó bực bội hạ cánh xuống gần chiếc trực thăng bị thương của Harper. Moore gọi tới: ?~Các anh định làm gì thế??T Tôi trả lời: ?~Chúng tôi quay lại bỏ thấy thằng tù binh xuống và bốc phi hành đoàn cùng những người bị thương lên. Và ra.?T Moore đồng ý?
  8. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Dallas Harper và phi hành đoàn của mình cùng những người bị thương từ chiếc trực thăng đang bốc khói được chuyển sang trực thăng của Winkel. Winkel nói: ?oTôi trông thấy 1 người bị thương đang nhảy lò cò và vấp té ngoài những hàng cây, lưng anh ấy từ cổ xuống tới eo ướt sũng máu đỏ. Tôi hét lên với xạ thủ súng máy của mình: ?oThấy người kia không? Bị thương đó! Cho người nào tới giúp anh ta lên đây đi. Chúng ta sẽ không đi chừng nào chúng ta chưa đem hết những người cần thiết lên máy bay. Đi đưa anh ta lại đây!?T Hai người chạy tới chỗ anh ta. Những tiếng bốp, bốp vẫn nổ đều. Lee vẫn giữ trực thăng ở tình trạng sẵn sàng cất cánh.
    ?oChúng tôi chất khoảng 15, 16 người lên khoang. Tôi hy vọng chúng tôi đã đạt đủ tốc độ [cánh quạt] để cất cánh, Lee kéo cần và chúng tôi bay lên, máy bay lắc lư 1 chút trước khi lấy lại được thăng bằng. Chiếc trực thăng thứ 2 vẫn đang âm ỉ bốc khói phía bên trái chúng tôi. Sau này sĩ quan bảo trì nói, ống dầu và ống nước làm mát của chiếc trực thăng đó đã bị bắn trúng, và hỏng nặng, nếu nó bay thêm 5 phút nữa động cơ sẽ bị kẹt cứng lại và máy bay sẽ rơi xuống những cánh rừng ở tốc độ 120 knots. Chúng tôi sẽ mất 1 phi hành đoàn 4 người dũng cảm, 7 thương binh của Moore và 1 hành khách- 1đại uý bộ binh. Gã đó là ai nhỉ? ¼ thết kỷ sau tôi mới biết đó là đại úy Gordon P. Rozanski, sĩ quan hậu cần của tiểu đoàn, người đã bay ra bay vào X-Ray suốt những ngày hôm đó để dỡ đạn xuống và xếp thương binh lên.
    Chiếc Huey lướt qua những ngọn cây hướng về phía bắc vọt ra ngoài trên 1 cung đường bay nguy hiểm. Tôi châm 1 điếu thuốc, quay xuống phía trái, nhìn thấy 1 lính máu me đầy mình đang nằm dựa đầu vào thân 1 người khác. Tôi để điếu thuốc qua 1 bên, châm 1 điếu khác rồi nhét vào miệng anh ta. Vào lúc đó người lính máu me đó mở to mắt nhìn tôi, như muốn gửi 1 lời cảm ơn nồng nhiệt nhất mà tôi từng nhận được từ trước tới nay. Kính chắn gió của tôi lúc này lấm chấm những vệt máu do gió từ những cánh cửa mở hai bên cuốn tới. Chừng 30 phút sau, tôi gọi đài chỉ huy ở Pleiku: ?oOrange 1 đang trên đường về với 7 thương binh. Cần gấp sự hỗ trợ?T. Tôi nói họ thông báo cho những đơn vị cứu thương, sẽ có thêm nhiều chuyến chở thương binh về trong buổi chiều, có thể tới 100 người. Hãy gọi thêm trợ giúp y tế mau. Chúng ta có 1 trận đánh tồi tệ ngoài kia. Các anh hiểu chứ??T
    ?oChúng tôi hạ cánh, chuyển thương binh xuống, rồi nạp nhiên liệu trong lúc máy vẫn nổ. Harper và phi hành đoàn của anh chạy đi kiếm 1 chiếc trực thăng khác. Khi chúng tôi chuẩn bị cất cánh Lee nói: ?oTrên đường quay về chúng ta có thể chở thêm 1 số đạn.?T Tôi nói: ?~Đồng ý, lượn tới kho của tiểu đoàn đi?T. Chúng tôi đậu ngay giữa những kho đạn và phi hành đoàn của chúng tôi chất những thùng đạn lên. 1 đại uý chạy đến hô: ?~Các anh không thể làm như vậy. Những thứ này thuộc về Lữ đoàn 3, và phải có lệnh bằng văn bản.?T Tôi chẳng có thời gian để giải thích cho cái thằng mặt trắng ấy, chỉ nói: ?~Lee, đi quách cho rồi.?T Chúng tôi mặc cái tay đại uý đang huênh hoang ở dưới đám bụi đỏ đó.?
    Thiếu tá Bruce Crandall và Ed Freeman làm thêm 2 chuyến chở đạn tới X-Ray. Crandall nhớ lại, ?oChúng tôi mất thời gian, vào khoảng nào đó trong buổi chiều tôi quyết định cố gắng điều được 2 chiếc trực thăng cứu thương của sư đoàn tới X-Ray. Để chỉ cho họ đường an toàn nhất khi bay xuống và bay ra X-Ray, chúng tôi bay vào ở độ cao thấp, với sự trợ giúp của Moore. Cho dù chúng tôi bị bắn từ cả hai hướng nhưng chúng tôi ra vào OK. Những phi đội cứu thương chẳng thích quy trình này, và đặc biệt không ưa bay thấp ngang với ngọn cây khi bay vào. Họ quyết định xuống đó cùng 1 lúc từ cao độ 450 mét như là đường tiếp cận bình thường. Tất nhiên điều này khiến cho họ phơi mình ra cho đạn địch nhiều hơn, nhưng tôi không quan tâm nếu như họ hạ được xuống. Thật tình 1 chiếc đã xuống được và chuyển được 2 thương binh đi trước khi chiếc thứ 2 báo cáo bị trúng đạn và cả hai hủy bỏ nỗ lực cứu người.
    Từ lúc đó, thay vì phải bay cả đoạn đường trở lại Pleiku. Tôi bay tới bãi Falcon. Vị trí này gần hơn rất nhiều và chúng tôi có thể chuyển thương binh từ máy bay của mình sang những chiếc trực thăng cứu thương để họ bay về Trại Holloway. Chúng tôi thực hiện được thêm nhiều chuyến bay từ X-Ray tới Falcon, chở thêm nhiều đạn tới và đưa được nhiều thương binh ra hơn. Tới lúc tôi hoàn thành chuyến thứ 3, cả đại đội của tôi đều xung phong đi, nên tôi thực hiện theo kiểu con thoi. Họ xếp hàng xoay vòng chờ tới lượt mình.
    Trên mặt đất, trận đánh đã lên tới đỉnh điểm của ngày với những tràng dài tiếng nổ lớn gây điếc đặc. Nơi này nơi kia, chỉ huy quân địch điên cuồng dò dẫm những vị trí yếu của chúng tôi, những cửa mở cho phép ông ta chọc thủng 1 lỗ trên tuyến phòng ngự mỏng manh của những người đang bảo vệ bãi trống. Đó là những hành động hỗn loạn và thay đổi nhanh chóng. Họ đang nóng lòng muốn giết chúng tôi; họ đang khát, muốn uống máu của những người chết của chúng tôi. Giờ họ đang lao vào chúng tôi trên cả 4 hướng.
    Trước đây chưa bao giờ địch quân VN lại thực hiện 1 trận đánh vào 1 đơn vị quân đội Mỹ với sự dai dẳng như vậy. Cho tới lúc này Quân Mỹ chưa hề biết tới 1 kinh nghiệm tương tự đối phó với đối thủ này. Chúng tôi bị dính chặt vào 1 trận đánh tàn khốc của hoả lực và vận động chiến, 1 trận đánh để sống sót, chỉ 1 bên được phép chiến thắng. Một người chỉ huy có 3 cách để tác động tới trận đánh: Hỏa lực hỗ trợ, giờ đang đang trút xuống như mưa khắp vùng; hành động chỉ huy cá nhân trên khu chiến; và cách sử dụng lực lượng dự bị.
    Lực lượng dự bị của tôi bây giờ chỉ có Thượng sĩ Plumley, điện đài viên Bob Ouellette, và bản thân tôi. Tôi quyết định rằng nếu cần thiết chúng tôi sẽ nhập với đại đội Alpha của Nadal để chiến đấu trong lòng suối cạn. Để chuẩn bị cho tình huống xấu này, tôi tới chỗ trạm cứu thương, lấy đạn và lựu đạn từ những chiếc túi của thương binh, nhét vào áo mình cũng như gắn những băng đạn mới vào khẩu M-16. Cho dù phần phía đông của bãi trống vẫn bị quân địch nã đạn, nhưng tiếng súng đã giảm đi rất nhiều nhờ vào những hành động của đại úy Ray Lefebvre và 1 vài lính của anh cùng với những đợt dội bom, bắn pháo dữ dội vào vùng đó. Chỉ huy đại đội Charlie, Edwards đã làm 1 việc tuyệt vời, Edwards nói: ?ocác trung đội của tôi giữ vững được vị trí của họ, bên cạnh đó đảm bảo được đường tiếp tế cũng như phối hợp được với hỏa lực yểm trợ. Tôi có thể tập trung vào những vấn đề nảy sinh khác. Sườn trái của tôi trưng ra 1 cách nguy hiểm, làm tôi lo ngại.?
    Edwards, biết rằng Lefebvre đã chuyển quyền chỉ huy đại đội Delta cho trung sĩ Gonzales, kiếm được anh ta và với sự chấp thuận của tôi, điều lính của đại đội Delta tới sườn trái đang bỏ trống của mình, cột họ chặt xung quanh triền đông nam của bãi trống. Sau đó Edward, mà trước những người của anh đã chặn đứng 1 tiểu đoàn Bắc Việt tiến xuống, trình diện ở sở chỉ huy của tôi để nhận thêm nhiệm vụ, và hỏi rằng anh ta có thể giúp tổ chức các trận địa súng cối được không.
    Edwards phát hiện ra rằng các khẩu súng cối thuộc 3 đại đội bộ binh, đáng lẽ phải được tập trung dưới sự điều khiển của đại đội Delta, vẫn đang hoạt động độc lập bởi vì những sĩ quan của đại đội Delta đã bị thương. Anh tập trung những khẩu cối của 3 đại đội bộ binh lại đặt xung quanh phía đông của sở chỉ huy: ?otôi xếp họ vào 1 vòng, nói với chỉ huy bộ phận súng cối của tôi, trung sĩ tiểu đội Harold Matos-Diaz, tạm kiểm soát cho tới khi những sĩ quan của Delta tới. Anh ấy sắp xếp bố trí họ vào vị trí, và khi tôi về tới đại đội Charlie anh ấy báo trên sóng chỉ huy đại đội rằng họ đã sẵn sàng nổ súng.
    Chúng tôi cố đưa họ bắt liên lạc với từng đơn vị, nhưng trận đánh quá hỗn loạn và bụi, khói trùm lên tất cả, tình hình phát triển quá nhanh mà không có 1 vị trí quan sát tin cậy, nên đã không yểm trợ 1 cách hiệu quả được.?
    Lúc này, Tim Brown, tư lệnh lữ đoàn lại xuất hiện trên radio, và yêu cầu báo cáo tình hình. Tôi nói với ông rằng chúng tôi đang giao chiến dữ dội, bị áp đảo về số lượng, nhận nhiều thương vong; bãi đáp đang nóng bỏng, 1 trung đội bị chia cắt, và tôi vẫn chưa có đủ tiểu đoàn của mình dưới này. Tôi nói với đại tá rằng nếu trận đánh vẫn tiếp tục như thế này tôi cần 1 đại đội bộ binh làm lực lượng tăng viện. Ông nói rằng sẽ gửi tới 1 đại đội, nhưng cả 2 chúng tôi đều biết rằng phải mất ít nhất 2 hoặc 3 tiếng để quân tăng viện tới được X-Ray. Brown báo động cho đại đội Bravo của tiểu đoàn 2, Kỵ Binh 7, và họ đã xếp hàng chờ ở điểm bốc quân.
    Giờ là gần 3 giờ chiều, đại đội Charlie đánh bại cuộc tấn công của NVA và đã chặn những nỗ lực của họ đánh tạt sườn trái của chúng tôi và mở ra 1 cơ hội cho tôi đưa toàn bộ phần còn lại của tiểu đoàn tới. nếu chúng tôi đưa từng chiếc hoặc 2 chiếc vào 1 lần và nếu những phi công nghe theo những chỉ dẫn của chúng tôi, chúng tôi có cơ hội đón được lính mình xuống, tôi thực sự cần tới họ.
    Vẫn còn chờ ở Plei Me là vài người lính còn lại của đại đội Charlie; phần còn lại của đại đội Delta, gồm cả quyền đại đội trưởng, trung uý James L. (Larry) Litton, và trung sĩ trưởng Warren E. Adams; và trung đội trinh sát của tiểu đoàn. Tôi điện cho Dillon trên chiếc Charlie-Charlie [command and control] và nói anh đưa họ tới.
  9. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Chuyến chuyển quân cuối cùng của tiểu đoàn tới vào khoảng 3g20. Đây cũng là khoảng thời gian chiếc trực thăng thứ 2 trong số những chiếc trực thăng mà chúng tôi mất ở X-Ray bị bắn hạ. Vụ việc vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi: 1 phi công xuất hiện trên sóng và hỏi tôi chỉ dẫn hạ cánh. Tôi nói với anh ta bay theo độ cao ngọn cây từ phía đông và hạ xuống bờ đông của bãi trống. Anh ta trờ tới xuyên qua những đám khói, tôi thấy anh bay quá nhanh và quá cao và sẽ vượt qua bờ đông đậu xuống phía bờ tây của bãi trống ngay trước mặt ngọn núi. Tôi nói anh bay thấp hơn nữa và hạ xuống phía bờ đông. Anh ta bay ngang qua tôi và tất nhiên là sẽ đậu sai chỗ anh được hướng dẫn. Tôi hét vào anh ta trên điện đài: ?~Anh sẽ bị bắn! anh sẽ bị bắn trúng đấy!?T
    Máy bay anh ta quạt ầm ầm ngay trên đầu tôi, 15 mét cao, rồi rung rầm rập, sau đó lượn nặng nhọc qua phải hướng về phía bắc và phía đông. Tiếp đó, viên phi công, CWO Donald C Estes, lái chiếc trực thăng đang rơi của mình, cánh quạt đang rung lên bần bật, vào những hàng cây ngay ngoài bãi trống. Trực thăng và phi đoàn ngay lập tức được bảo vệ bởi những người lính gần nhất. Hai trong số 16 chiếc trực thăng của chúng tôi giờ đang nằm bất động trên LZ. Estes, 30 tuổi, người Auburn, Alabama, sau này bị giết khi đang làm nhiệm vụ vào ngày 24-06, 1966.
    Một trong những chiếc trực thăng chở tới Larry Litton, ngay lập tức nhận quyền chỉ huy đại đội Delta từ trung sĩ Gonzales đã bị thương. Tôi nói anh ta bổ sung 4 khẩu cối của mình để tăng cường sức mạnh cho vị trí súng cối đã được thiết lập nên trước đó bởi người của Edwards và kiểm soát tất cả 7 khẩu cối ở đó theo 1 hướng chỉ huy duy nhất. Hướng hoả lực về phía đại đội Alpha và Bravo, những pháo thủ súng cối cũng có nhiệm vụ bảo vệ bãi đáp nhỏ vừa cỡ 2 chiếc trực thăng của chúng tôi ở phía đông.
    Tôi cũng nói Litton rải trung đội trinh sát, chỉ huy bởi trung uý James Rackstraw, dọc theo rìa bắc và đông của bãi trống tới ngay vị trí súng cối như là 1 biện pháp bảo đảm an toàn thêm nữa cho bãi đáp nhỏ xíu kia. Trung đội trinh sát cũng được coi như là đơn vị dự bị của tiểu đoàn. Lần đầu tiên trong ngày, tôi giờ có vẽ như đã tạo được 1 chu vi hoàn chỉnh và phía sau chúng tôi đã được bảo vệ.
    Đại đội Charlie của Edwards đã đánh nhau với địch được hơn 1 giờ. Họ đã có lợi thế khi có được 1 chiến địa bằng phẳng hơn. Họ có thể điều chỉnh pháo binh và không quân yểm trợ chính xác hơn, và những phi công trên cao có thể nhìn thấy quân địch đang di chuyển từng đàn trong đám cỏ voi, nhờ thế có thể giết chúng hiệu quả hơn. Cuối cùng quân địch đang choáng váng phải lùi lại phía nam và tây nam, lôi theo 1 vài người bị thương hoặc chết của chúng. Khi chúng rút khỏi vùng chết chóc của đại đội Charlie, những hoạt động của chúng xung quanh đại đội Alpha cũng giảm dần.
    Một cách lạ lùng, quân Bắc Việt ở phía trước các trung đội của Deal, Devney và Marm đã không khai thác lợi thế của mình. Trong khoảng ngừng bắn này, những người chết và bị thương của các đại đội Alpha và Bravo được đưa về phía sau tới trạm cứu thương tiểu đoàn. Trung sĩ đại đội Alpha nói: ?oChúng tôi đang chuyển 1 lính thật nặng cân của Alpha, binh nhất Jerry Kirsch, về trên 1 chiếc poncho, thì 1 người đang xách góc bên trái của tấm poncho bị bắn vào lưng. Cậu ta, binh nhất Scott Henrry, ngã xuống ngay lập tức. Viên đạn trúng Herry tới từ 1 điểm rất gần. Tôi để Herry cho thoải mái rồi tiếp tục đưa Kirsch về. Kirsch bị bắn lòi ruột nhưng vẫn còn sống. Khi chúng tôi quay lại với Herry, thì cậu ấy đã chết. Tôi vẫn thường nghĩ tới cậu ấy, phải nằm chết cô độc trên 1 vùng hoang dại. Cậu ấy là 1 công binh phối thuộc cho tiểu đoàn chúng ta.?
    Ở phía triền cao, trung uý Marm đang cố di tản những thương vong của mình. ?oChỉ huy tiểu đội hỏa lực của tôi, trung sĩ Robert L. Parker, tổ chức 1 tổ đưa thương bình về. 20 phút sau anh ta quay lại nói anh không thể đi ra bởi vì chúng tôi đã bị bao vây. Có thật sự như vậy không bây giờ vẫn còn là câu hỏi với tôi; nó có thể là đạn ?~thân thiện?T. Nhưng quân địch vẫn đang cơ động xung quanh sườn chúng tôi. Tôi xin phép được rút lui với những người bị thương. Chúng tôi sẽ thu những người bị chết sau. Thật khó khăn khi đưa những thương binh về, nhưng chúng tôi gặp rất ít sự ngăn cản nào của quân địch cho tới khi chúng tôi tới đường xuất phát tiến công của mình trước đây. Những người bị thương được di tản về bãi trống, và chúng tôi nhận tiếp tế đạn dược, nước tiếp tế lúc đó rất ít.?
    Trong số những người bị thương theo về tới trạm cứu thương đặt tại sở chỉ huy trong khoảng thời gian lắng dịu này là binh nhất 5 Calvin Bouknight, y sĩ đi với trung đội 3 của trung úy Deal. Bouknight được điều về trạm quân y tiểu đoàn được hơn 18 tháng như là 1 trong 2 trợ lý quân y cho bác sĩ phẫu thuật. Cuối tháng 10, những đại đội chiến đấu của chúng tôi thiếu hụt y sĩ nghiêm trọng, chỉ còn tất cả có 8 y sĩ trung đội. Chúng tôi kiểm tra lý lịch nhân sự của trạm quân y tiểu đoàn và kiếm bất kì ai có kinh nghiệm là y sĩ. Vài người được đưa thẳng xuống phục vụ trung đội, những người khác được đưa đi tái huấn luyện và được chỉ định là y sĩ dự bị. Joe Marm mô tả tình hình trung đội như sau: ?oY sĩ trung đội tôi có rất ít kinh nghiệm thực hành, và đã không đi cùng chúng tôi xuống Chu Pong. Trung sĩ nhất George McCulley, trung sĩ trưởng, mang theo bộ cứu thương, và chúng tôi định dùng trung sĩ Thomas Tolliver như là y sĩ khi cần thiết. Anh ấy đã từng là y sĩ chiến đấu suốt chiến tranh Triều Tiên và có tay nghề cao.?
    Dẫu vậy chúng tôi vẫn không đủ y sĩ cho mọi nơi, vì vậy chúng tôi gửi binh nhất Bouknight và binh nhất 5 Charles Lose, trợ lý quân y chính, cho đại đội Bravo làm y sĩ trung đội. Giờ Bouknight vẫn còn sống nhưng bị thương rất nặng, đang nằm dưới đất máu của anh nhuộm đỏ trên tấm poncho cao su, trước mặt anh là trung sĩ trung đội quân y, Trung sĩ nhất Keeton, người bạn và là đồng đội của anh suốt 2 năm qua: ?oBouknight vẫn chưa chết. Anh bị bắn vào ngay giữa 2 vai. Anh gượng dậy cố cầm lấy tay tôi và nói: ?oSarge, tôi không cố được nữa?T. Chúng tôi tiêm moocphin lên người anh, và băng vết thương bằng 1 băng áp lực. Nhưng tất cả vô ích. Chúng tôi đưa được anh lên trực thăng cứu thương, nhưng anh ấy đã chết?
    Văn chương nói rằng không có tình yêu nào lớn hơn việc bạn hy sinh cuộc sống của mình cho bạn bè. Đó là những gì Bouknight làm trong cái đám rừng đầy đạn lửa ấy. Anh che chở những người bị thương mà anh đang chăm sóc bằng chính thân hình của mình, xoay lưng lại những khẩu súng đang khạc lửa của quân thù.
    Trên chiếc bi đông nước đã cạn khô, Rudyard Kipling, viết lên đó bài thơ ?~Gunga Din?T của mình, có đoạn:
    But if it comes to slaughter
    You will do your work on water,
    An?T you?Tll lick the bloomin?T boots of ?Tim that got it.

    Kipling đã đúng. Nóng, bụi, khói, và nỗi sợ hãi làm khô miệng những người dưới X-Ray. Một chút nước còn lại trong các bi đông được dành cho những người bị thương. Trung úy Deal nói: ?oVào khoảng 3-4 giờ chiều chúng tôi đã dùng gần hết nước, hầu như dành cho những người bị thương. Chúng tôi khát cháy họng. Thật khủng khiếp cho những người bị thương mất nhiều máu. Sau đó chúng tôi lấy khẩu phần C ra và chắt nước uống. Tôi mở nắp hộp ra, đó là giăm bông và đậu lima-là những thứ mặn nhất trong tất cả các loại khẩu phần C. Tôi uống thứ nước đó và lại càng khát hơn. Thất ngu không chịu nổi.?
    Khi Deal đang đưa những người bị thương di tản thì anh bắt gặp những dấu hiệu lạ. ?oĐó là 1 trong những điều tôi hối tiếc nhất về trận đánh. Tôi thấy 1 hàng, không đi theo đội hình, chỉ là 1 hàng dọc người, có thể tới 200, di chuyển bên sườn phải của mình cùng với hướng di chuyển của chúng tôi khi chúng tôi quay lại phía đông mang thương binh về. Tôi lập tức dương súng lên, chờ chúng đi vào tầm bắn thật rõ ràng. Tôi gọi những người gần mình cầm súng lên bởi vì tôi nghĩ chúng là quân NVA. Nhưng vẫn còn khá xa để phân biệt đó là quân Mỹ hay NVA, vì vậy tôi đã chọn không nổ súng.?
    Thật ra tôi cũng sợ gây nên sự chú ý của chúng tới trung đội đã kiệt sức của tôi. Lính của tôi lúc này đã chết hay bị thương quá nhiều, số người còn lại chỉ còn khoảng 2 tiểu đội, 18 người. Hai trăm tay lính này di chuyển song song với chúng tôi, hướng tới bãi trống. Marm, trung đội đã ở bên phải tôi đã rút về, Khi mọi thứ rõ rằng là chính số quân NVA này đã đánh chúng tôi vào cuối ngày hôm đó, những kẻ đã tạo nên số thương vong khủng khiếp cho chúng ta, tôi đã lấy hối hận khi không đứng lại và bắn vào chúng.?
    Cách Deal không quá 100 mét phía trên, Trung đội bị chia chắt gan lì bám chặt lấy 1 mỏm đất nhỏ bé bị tra tấn liên tục. Cho tới lúc này, Ernie Savage và những người sống sót của trung đội 2 của trung huý Herrick đã đẩy lui được 4 đợt tấn công riêng lẻ của địch. Quân địch tin rằng họ đã quét sạch người Mỹ, 3 lính Bắc Việt trong quân phục có lá nguỵ trang đi ngay vào trong vòng phòng ngự từ hướng X-Ray, và bị giết tức thì. Galen Bungum nhìn thấy một vài tên địch, cách không quá 3 mét, đi từng bước, súng đeo ngang vai, và nói cười như thể ?ochúng đang đi dạo vào ngày Chủ nhật vậy.?
    Từ những vị trí nằm dài sát xuống nền đất, những người sống sót của trung đội bị chia cắt nhanh chóng thịt ngay những mục tiêu thơm như mỡ trên. Khi Savage nhỏm dậy để bắn 3 tên địch kia thì phát hiện súng hết đạn. Savage nói: ?oTôi chẳng biết làm cái gì nữa, vì vậy tôi nói ?oHi? và cười. Cả 3 thằng đó nhìn tôi ngơ ngác, nhưng liền sau đó tôi lắp ngay băng đạn mới vào và tưới lên chúng.?
    Dorman nhớ lại: ?oChúng cố bò về phía chúng tôi. Chúng tôi để súng xuống thật thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 5-8 cm và bắn vào chúng. Chúng tôi bắn thật thấp và chặn được chúng lại. trong lúc này có những tên bắn tỉa chỉ cách có 3 tới 5 mét. Nếu bạn ngước đầu lên chúng sẽ bắn bạn. Nhưng chúng tôi giết chúng từ phải qua trái. Mỗi khi chúng ngọ nguậy cái đầu chúng tôi bắn chúng.
    Bây giờ là 3g45, ngoại trừ tình trạng khó khăn của trung sĩ Savage cùng với trung đội bị chia cắt, tôi cảm thấy tình hình có khá hơn 1 chút. Chúng tôi đã có đầy đủ quân số xuống dưới này; hoả lực yểm trợ khổng lồ đang được tiến hành; 1 đại đội tăng viện đang trên đường tới; bãi đáp nhỏ xíu 2 trực thăng đã được bảo đảm; hầu hết những người bị thương đã được di tản hoặc đang chờ được di tản; chúng tôi vẫn vững vàng. Tôi xác định sẽ tiến hành 1 nỗ lực nữa để cứu Savage và những người bị thương và chết trên triền núi ngoài kia. Tôi ra lệnh cho đại đội Alpha và Bravo di tản hết thương vong của mình về, rút khỏi những vị trí gần với địch dưới sự yểm trợ của hỏa lực, và chuẩn bị tiến hành 1 đợt tấn công kết hợp, được yểm hộ bởi một đợt pháo bắn chuẩn bị mạnh mẽ, để tới được chỗ trung đội bị chia cắt. Tôi bị hành hạ bởi ý nghĩ rằng họ đang chìm dần vào tay quân địch và cần phải cứu họ.
  10. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    đúng là phải cảm ơn bác Duong2002, xin tặng bác 5 sao (còn phải tặng nhiều)
    cũng xin hỏi là anh em nào có bản TA không nhỉ ? Ai biết bản TA ở đâu trên mạng, chỉ cho mình với
    - cũng xin hỏi luôn là vote từng bài hay vote cho cả chủ đề thì tốt hơn ? Mình đã tặng bác 5 sao cho chủ đề này
    Được ngac_ngoai_van_con_them sửa chữa / chuyển vào 10:15 ngày 10/12/2005

Chia sẻ trang này