1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

We were soldiers once... and young

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Duong2002, 30/04/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    10./ Dương lê lên!
    There are only three principles of warfare: Audacity, Audacity, and AUDCITY
    Đại đội Alpha và Bravo, những đơn vị đầu tiên xuống đất, đã dính vào giao tranh giữ dội trong hơn 2 tiếng, đã chịu những thương vong không nhỏ, đặc biệt là những trung sĩ và điện đài viên, và đã bắn gần hết số đạn họ có. Hai ngưởi chỉ huy, Nadal và Herren, cần thời gian để tái tổ chức và tái phân bổ những trung đội thiếu hụt quân số của mình, chỉ định những chỉ huy mới và bổ sung đạn dược. Họ có 40 phút để hoàn thành tất cả những việc đó; sau đó pháo binh sẽ khai hỏa mạnh mẽ ngay phía trước họ, cũng là lúc họ phải khởi động 1 nỗ lực nữa để chọc thủng phòng tuyến của quân địch và cứu những người sống sót thuộc trung đội 2 của Herrick.
    Trong lúc đó, sự giúp đỡ đang trên đường tới. Ở sở chỉ huy Lữ đoàn 3, đặt tại trang trại chè, mệnh lệnh được phát ra: Tiểu đoàn anh em của chúng tôi, tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7, nhận thông báo 1 đại đội của họ, đại đội Bravo, được phối thuộc và gửi tới X-Ray tăng viện cho chúng tôi. Khi tới X-Ray, đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 sẽ chịu sự chỉ huy của tôi trong suốt quá trình chiến đấu.
    Ba trung đội của đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 được kéo về bố trí bảo vệ xung quanh sở chỉ huy Lữ đoàn của Brown, ở gần nhất và dễ dàng di chuyển nhất khi Brown quyết định tăng viện. Tất cả những đại đội khác của tiểu đoàn 2 đang phân tán trong những cánh rừng khộp làm nhiệm vụ tuần tra và phải mất nhiều thời gian hơn để bố trí đội hình. Vì vậy lính đại đội Bravo của đại uý Myron Diduryk đã bị trái cầu ngũ sắc rơi trúng lên đầu.
    Đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 có những hạ sĩ quan giỏi, kiên cường, chuyên nghiệp và lính của họ đã phục vụ được 1 thời gian dài. Đó là 1đại đội bộ binh tốt và tôi rất hạnh phúc khi có được nó. Diduryk 27 tuổi, là 1 người sinh ở Ukraina, anh theo gia đình định cư ở Mỹ năm 1950. Anh tốt nghiệp ROTC tại trường St Peter ở Jersay City, New Jersay và được phong sĩ quan vào tháng 7 1960. Anh đã hoàn tất khoá huấn luyện dù và biệt động, đã từng phục vụ vài nhiệm kỳ ở Đức và ở Fort Benning. Anh đã có gia đình với 2 đứa con. Anh đang ở cùng với trung đội súng cối của mình thì nhận được mệnh lệnh qua sóng radio nhiệm vụ mới của đại đội.
    Binh nhất 5 Jon Wallenius, 22 tuổi, người Gloucester, Massachusetts, ở trong trung đội cối 81mm của Diduryk, đơn vị đã không bị điều trở lại sở chỉ huy tiểu đoàn như các trung đội kia. Anh nói: ?oChúng tôi chờ đợi trong đám bụi đỏ quạch bên ngoài trại Plei Me. Những chuyến trực thăng bay ra vào liên tục đến nỗi nói chuyện với nhau cũng là điều không thể. Tin tức lan truyền đi là tiểu đoàn 1 đang đánh nhau và chúng tôi phải sẵn sàng đi giải toả bất cứ lúc nào. Tôi được chỉ định bay chuyến đầu tiên với đại úy Diduryk; điện đài viên của anh, binh nhất Joe Keith; trung sĩ trung đội John A. Uselton; và điện đài viên của ông ấy, binh nhất 4 Virgil Hibbler, Jr.?
    Trong lúc những lực lượng tăng viện đang xếp hàng tại Catecka và Plei Me, đại đội Alpha và Bravo của tôi bắt đầu tiến hành nỗ lực thứ 2 của họ nhằm tới được trung đội bị mắc kẹt của trung uý Herrick. Nadal và Herren đã lùi quân về suối cạn trong lúc tạm ngưng tiếng súng, vì vậy họ bắt đầu tiến quân từ chỗ đó.
    Nadal ở bên trái với 3 trung đội của mình. Herren ở bên phải với 2 trung đội còn lại của đại đội Bravo. Herren sẽ được dành cho sự ưu tiên về hỏa lực yểm trợ vì anh gần với trung đội bị chia cắt nhất và anh chỉ còn lại 2 trung đội dưới quyền mình.
    Nadal và lính mình cởi bỏ ba lô và bổ sung đạn dược. Chút nước còn lại được chia đều cho nhau. Nadal nhận thức rõ mối đe dọa đến từ trên núi và dưới triền núi: ?oTôi lên kế hoạch sử dụng đội hình echelon-left ban đầu [Trong đội hình này, chỉ huy đại đội bố trí 1 trung đội đi đầu; trung đội thứ 2 đi theo sau chếch 1 góc 45 độ về phía trái, và trung đội thứ 3 theo sau cũng chếch 45 độ về phía trái. Một đội hình như vậy được sử dụng để đối phó với mối đe dọa mà người chỉ huy cảm thấy được, đến từ phía trái.], vì cho tới lúc đó tất cả những chuyển động của quan thù đều nằm bên trái chúng tôi, và sau đó sẽ chuyển sang đội hình hàng dọc nếu như không gặp sực kháng cự nào từ quân địch.? John Herren thì lên kế hoạch cho đại đội Bravo tiến quân theo kiểu ?oBắn và Chạy?, với 1 trung đội tiến lên dưới sự yểm trợ của trung đội kia.
    Nadal gọi 3 trung đội trưởng của mình lại hội ý ở lòng suối cạn: ?oTôi nói với họ nhiệm vụ sắp phải thực hiện và chỉ dẫn đội hình tiến quân. Tôi cũng yêu cầu Joe Marm luôn theo hướng Bravo vì chúng tôi không biết vị trí trung đội bị chia cắt kia ở đâu. Rồi tôi tập trung hầu hết đại đội lại nơi suối cạn nói những lời động viên họ về nhiệm vụ đi cứu trung đội kia của Bravo và nói với họ cách tiến hành cuộc tiến quân.? Trung sĩ trung đội Troy Miller nhớ lại hình ảnh lúc đó: ?oTinh thần của chúng tôi rất cao sau đợt giao tranh đầu tiên. Trước khi đi cứu trung đội bị kẹt, đại úy Nadal tập trung chúng tôi lại và nói: ?oCác bạn, chúng ta có 1 trung đội lính Mỹ bị kẹt lại ngoài kia và chúng ta sẽ đi cứu họ!?T Những câu trả lời là: ?~Hãy đi đưa họ về?T và ?~Garry Owen!?T
    Nadal lo lắng về 1 vấn đề lớn mà anh đã phát hiện ra lúc đánh nhau trước đây: ?oChỉ có 1 làn sóng radio cho tất cả các trinh sát pháo binh tiểu đoàn. Nó gây khó khăn cho việc kêu hỏa lực yểm trợ cho hơn 1 đại đội cùng 1 lúc, và người trinh sát nóng tính nhưng nhiều kinh nghiệm đi với đại đội Bravo đã kiểm soát nó. Khi chúng tôi chuẩn bị tiến quân, tôi cố gắng kêu hỏa lực yểm trợ nhưng trinh sát của tôi không thể liên lạc được với các khẩu đội pháo 105mm.?
    Những người lính rời suối cạn và bắt đầu tiến công lúc 4g20. Họ chẳng đi được xa. Quân Bắc Việt phản ứng mãnh liệt ngay tức thì, chúng hiển nhiên là có nhiều lợi thế nhờ vào việc rút lui tạm thời của người Mỹ, chúng tiến xa hơn xuống triền núi và vây chặt chúng tôi lại hơn. Có những tên trèo lên cây, những đứa khác đào những cái hố ở trên đỉnh hoặc bên cạnh tổ mối. Có cả những hố chiến đấu chúng đào vội vàng trên đất. Chúng đã lọt vào bên trong bức tường lửa mà pháo binh dựng lên và chúng tôi đã chịu 1 tổn thất nặng.
    Nadal là người đầu tiên ra khỏi lòng suối cạn, dẫn đầu trung đội 1 tấn công. Anh nhớ lại: ?oChúng tôi tiến lên được khoảng 40 mét thì đụng phải lực lượng địch, hiển nhiên là đã xuống đó từ vùng núi. Tôi đoán là chúng đang chuẩn bị tiến công cùng với lúc chúng tôi tiến lên. Trận chiến nhanh chóng trở nên vô cùng tàn ác, ở cự ly gần. Chúng tôi bị thương vong rất nhiều. Trung sĩ Wayne Johnson, chỉ huy trung đội 1 bị trúng đạn. Ít nhất 3 tiểu đội trưởng cũng bị trúng đạn, 2 người trong số đó chết-1 người chết trong lúc nhảy ra phía trước để cứu 1 lính của mình mà bất chấp lệnh phải giữ nguyên vị trí.?
    Trung sĩ Troy Miller ở ngay trung tâm của trung đội 1 khi đánh nhau. ?oTôi trở thành quyền trung đội trưởng khi trung uý Johnson bị thương, trung sĩ Billy Elliott, 1 tiểu đội trưởng của tôi, hét lên: ?~1 người của chúng ta bị giết rồi?T. Đó là trung sĩ Ramon Bernard ( người Mayaguez, Puerto Rico, còn 5 ngày nữa thì được 26 tuổi). Chúng tôi đang xốc tới cũng là lúc chúng tôi bắt đầu bị bắn bởi vũ khí nhẹ, và vũ khí tự động, chủ yếu là AKs.? Bản thân trung sĩ Elliott sau đó cũng bị giết sau khi anh thông báo cái chết của trung sĩ Bernard.
    Ở phía phải của Nadal, những người lính của đại đội Bravo của Herren cũng đâm sầm vào 1 sân đấu bò đầy chết chóc. ?oBắn và Chạy? bị quên mất tiêu. Vì sự cần thiết, Bravo dàn hàng ngang đánh trực tiếp 1 lực lượng định không rõ số lượng đang núp sau những bụi cậy ngay trước mặt họ.
    Deal, trung đội của anh giữ sườn phải cho đại đội, lại 1 lần nữa nằm trong cơn bão lửa của đạn địch. ?oChúng tôi đứng dậy và bắt đầu tiến công- ra khỏi suối cạn và cả bầu trời sập xuống. Tôi không biết có bao nhiều người chúng nó ở đó, tôi không thể nhìn thấy tới 90% số chúng, nhưng tôi chắc chắn nghe thấy tiếng vũ khí của chúng. Người của chúng tôi gục xuống khắp nơi. Cuối cùng hàng quân tấn công khởi đầu thẳng trên đôi chân, bắt đầu khựu xuống đầu gối. Rồi xụp xuống bò thấp. 1 người ở ngay trước mặt tôi, ăn nguyên 1 trái rocket-propelled grenade (B40) vào người. Tiểu đội trưởng của anh ta ở phía sau tôi, nấp sau 1 cái cây, vẫn tiếp tục gọi: ?~Cố lên Joe, cố lên, cậu có thể tới được đây mà?T. Tôi bò lên chỗ cậu ta, lấy vũ khí, và ném nó về phía sau. Khẩu M-16 đó rơi ngay trên 1 tổ mối, trong tầm nhìn rõ ràng của quân địch.
    Người lính nát bấy. Cậu ta hỏi tôi có chút Moocphin nào không. Tôi nói không, chẳng có gì cả. tôi nói: ?~Joe, bỏ về cái cây kia kìa?T. Cậu ấy làm được. Cậu tới được đó và người trung sĩ chăm sóc cho cậu. Tôi thế vào vị trí của cậu ấy và trở thành 1 chiến đấu viên bình thường. Khi tôi quay lại tôi thấy quân NVA đang tới xung quanh phía phải và chúng tôi là những đơn vị dàn hàng ngang canh sườn phải này. Tôi gào, thét lên và 1 trong những xạ thủ súng máy của tôi đứng dậy kẹp súng ngang hông, vượt qua lưới đạn, xả súng vào chúng. Tôi đi sát theo anh ấy, và chúng tôi giết hết bọn chúng. Rồi chúng tôi thoát về hàng phòng ngự của mình, không hề hấn gì, nằm xuống.?
    Quay lại đại đội Alpha, xạ thủ súng máy Bill Beck giờ đã tái nhập lại với đại đội của mình, đang ở trong nhóm đầu tiên rời khỏi lòng suối cạn. Beck nói: ?oĐại úy Nadal là người đầu tiên trên hàng quân, tôi ở bên phải anh, lùi sau 5 mét. Tôi nhìn thấy quân Bắc Việt ngay phía trước.? Tony Nadal ra lệnh cho binh lính cắm lưỡi lê lên để tấn công xáp la cà. Bill Beck, đang bắn hàng tràng đạn từ khẩu M-60 của mình vào ngay phía trước, phải sửng sốt trước những gì anh thấy chỉ ngay trước mặt: ?oTrung sĩ John Rangel chọc lưỡi lê vào ngực 1 tên lính Bắc Việt. Nó giống hệt như lúc luyện tập với người nộm vậy: Bước tới, đâm, rút ra, và đi tiếp. Một, hai, ba.?
    Beck tiếp tục đi tới cho tới khi bất thình lình 1 đàn ong vò vẽ hay ong bắp cày- lần này là ong thật- bay vào mũ của anh. Người lính dũng cảm này, người đã đứng vững trước mọi thứ mà quân Bắc Việt đã ném vào mình, giờ bị hạ gục bởi những con côn trùng đang đốt 1 cách giận dữ. Beck nói: ?oChỉ 1 chốc tôi quăng khẩu súng máy xuống, cởi mũ ra. Đầu tôi sưng vù, vằn vện. Tôi không thể tin rằng có thứ nào đó có thể làm tôi quên mình đang đánh nhau, nhưng tôi bị đau đớn thật sự.?
    Binh nhất 4 Bill Kreischer nhớ lại: ?oChúng tôi bắt đầu vượt qua khỏi suối cạn là lúc chúng tôi bị bắn dữ dội từ phía trước. Đây là lúc tôi bị bắn trúng vào sườn trái của mình, ngay dưới vai. Lúc đầu nó đẩy tôi ngã xuống, nhưng tôi đứng dậy và cố tiếp tục bắn cho tới khi tôi ngã xuống lại lòng suối. Vết thương càng lúc càng đau đớn. Áo chống đạn của tôi chuyển sang màu nâu sậm khi máu thấm vào. Tôi cố đứng dậy, tôi không muốn bị rớt lại phía sau. Tôi lại ngã xuống và ai đó đã băng bó cái vai tôi lại. Một hồi lâu sau, 1 người nửa lôi nửa vác tôi về trạm cứu thương. Tôi nhớ là mình hỏi xin 1 điếu thuốc và tôi hút nó, cho dù tôi chưa bao giờ hút thuốc trước đó. Tôi đoán đó là điều mà bạn phải làm khi bị bắn; trong những bộ phin chiến tranh, khi ai đó bị bắn họ luôn luôn hút 1 điếu thuốc. Tôi hút hết điếu thuốc đó, rồi thêm 3 điếu nữa trong lúc tôi nằm dưới nền đất.
    Đại úy Nadal có 4 người thuộc nhóm chỉ huy của mình theo sau khi họ lao vào những bụi cây: 2 điện đài viên của anh-trung sĩ Jack Gell, 25 tuổi, người New Yorker, và binh nhất 4 John Clark từ Michigan- cùng với trinh sát pháo binh đại đội trung úy Timothy M.Blake, 24 tuổi, người vùng Charleston, West Virginia; và trung sĩ trinh sát của Blake, trung sĩ Floyd L. Reed, Jr., 27 tuổi, người Heth, Arkansas. Khi họ tiến tới, Nadal đang áp ống nghe vào tai mình. Một loạt đạn xả quét qua nhóm. Trung sĩ Gell trúng đạn và ngã xuống không kêu lấy 1 tiếng. Nadal vẫn di chuyển cho tới khi sợi dây điện đài đen ngòm kéo anh lại. Anh ta quay lại nhìn xung quanh xem chuyện gì đả xảy ra. Loạt đạn đã giết Gell cũng giết luôn trung uý Blake và trúng vào trung sĩ Reed, anh chết sau đó một lúc. Trung sĩ Sam Hollman Jr., người Pennsylvsnian, quỳ bên cạnh người bạn bị thương sắp chết của mình, Jach Gell và nghe anh thều thào những lời cuối: ?oNói với vợ tôi rằng tôi yêu cô ấy.?
    Tony Nadal không có thời gian để khóc lóc cho Gell, 1 người anh rất kính trọng. Có nhiều mạng sống hơn đang nằm trong tay anh. Anh quay lại chiến đấu ngay: ?oTôi tháo điện đài khỏi lưng anh ấy, cho vài lính đưa anh về trạm cứu thương, và nói 1 người lính khác đeo điện đài lên.? Người lính đó là binh nhất Ray Tanner, 24 tuổi, đến từ Codes, South Carolina. Tanner đang là điện đài viên của trung sĩ Steve Hansen, nhưng họ đã lạc nhau và bây giờ Tanner đang đi cùng trung đội 1.
    Bên sườn phải của hàng quân thuộc đại đội Bravo, trung úy Deal đang lăn tròn trên mặt đất trong 1 cố gằng liều lĩnh dùng từng loạt đạn súng máy cắt những đám cỏ cao bao bọc xung quanh. Bất ngờ, cách anh 25 mét, 1 người Mỹ đứng dậy tiến lên phía trước trong khi mọi người xung quanh đều nằm sát bụng dưới mặt đất. Deal nói: ?oTôi thấy anh ném 1 trái lựu đạn vào phía sau 1 tổ mối, và bắn hết cả băng đạn vào nó. Rồi anh ngã xuống gối. tôi thầm nói: ?~Lạy trời, đứng dậy đi, đừng bị thương nhé.?T Tôi không biết đó là ai, tôi không thấy hình dáng người, khói và bụi tràn ngập trận địa." Đó là trung uý Joe Marm. Anh đã phát hiện 1 tổ súng máy quân địch chôn dưới 1 tổ mối lớn; nó đang nhai cả hai trung đội của Bravo trong họng súng của nó. Sau khi không hạ được nó bằng ống LAW và 1 trái lựu đạn, anh quyết định giải quyết nó 1 cách trực diện. Anh tiến thẳng tới nó băng qua làn đạn, ném 1 trái lựu đạn mỏ vịt vào phía sau tổ mối, và quét sạch những đứa sông sót bằng khẩu M-16 của mình. Ngày hôm sau, trung úy Al Devney tìm thấy 1 sĩ quan Bắc Việt và 11 lính nằm co quắp phía sau tổ mối lớn đó. Deal nói: ?oJoe Marm cứu mạng tôi và rất nhiều người khác.?
    Marm bị 1 viên đạn bắn trúng quay hàm và xuống cổ. Trung sĩ tiểu đội Les Staley, 38 tuổi, Pike County, Kentucky, chạy ra và cùng với 1 binh nhì lôi người trung úy bị thương về. Giúp anh ấy, họ nhập vào 1 dòng người bị thương ngày càng đông đang bước về phía trạm cứu thương tiểu đoàn. Trung sĩ Keeton chăm sóc vết thương cho Marm, và 1chiếc trực thăng của Crandall chuyển anh ấy về hậu phương. Những ngày sau, Marm được hồi sức tại Bệnh viện quân đội Valley Forge ở gần nhà anh tại Pennsylvania.Vào tháng 12 năm 1966, Joe Marm trình diện ở Pentagon, tại đó Bộ trưởng quốc phòng, nhân danh tổng thống Johnson, trao tặng anh Huân Chương Danh Dự, phần thưởng cao quý nhất của quốc gia dành cho sự dũng cảm.
    Đây là những lời mô tả khiêm tốn nhất của trung úy Marm: ?oTôi ở vị trí sườn phải của trung đội, còn sườn trái là trung sĩ nhất McCulley. Phía bên phải tôi là trung đội của Devney. Như thế tôi ở trung tâm của đội hình. Ụ súng đó đang kiểm soát hàng quân và tôi lúc đầu bắn một trái LAW vào nó. Chẳng có 1 lỗ thủng nào trên tổ mối và đạn vẫn từ 1 bên nó tuôn ra như mưa. Có những cái cây rập rạm bao xung quanh nó, làm cản đường ném hiệu quả của lựu đạn. Tôi nghĩ không khó khăn gì chạy lên thẳng tổ mối và tương 1 trái lựu đạn lên đỉnh của nó. Tôi cố nói những gì mình muốn cho 1 trong những người lính ở gần. Tiếng ẫm ĩ quá mức nên người trung sĩ gần tôi đã nghĩ rằng tôi muốn ném lựu đạn từ vị trí của chúng tôi. Nó rơi xuống ngay gần chúng tôi. Để tiết kiệm thời gian và để việc này nhanh chóng kết thúc. Tôi nói với lính cả hai bên mình rằng họ phải coi chừng đừng bắn vào tôi bởi vì tôi sắp chạy lên tổ mối. Tôi bị thương liền ngay sau khi làm câm họng ụ súng.
  2. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Hành động anh hùng của Joe Marm cũng không mở được cánh cửa để tới trung đội bị chia cắt, một cách thiếu may mắn. Đại đội Bravo đã tiến lên được khoảng 65 mét, đại đội Alpha được nhiều hơn 1 chút. Lúc này cả 3 trung đội trưởng của Nadal đều đã chết hoặc bị thương cùng với rất nhiều hạ sĩ quan. Chưa hết, trung đội 1 của Alpha đang ở dẫn đầu cách khá xa so với 2 trung đội còn lại, đang phải chiến đấu rất khó khăn với số đông quân địch, có thể lên tới 100 người. Một vài lính Alpha xen kẽ với quân Bắc Việt trong những bụi cây rậm rạp. Và quân Bắc Việt này nổ súng vào lưng họ. Không chỉ không có khả năng cứu được trung đội của Herrick, giờ chúng tôi lại phát sinh 1 mối nguy khi có thêm 1 trung đội có thể bị chia cắt nữa.
    Giờ tới lượt trung đội 1. Trung sĩ trung đội Gilreath nhớ lại: ?oChắc chúng phải cướp được 1 khẩu M-60 từ trung đội bị chia cắt và đang quay nó lại chĩa vào chúng tôi. Chúng tôi bị ấn nằm bẹp dí xuống đất sau 1 cái cây gãy bởi hỏa lực súng máy và không thể di chuyển. Tôi nhớ mình có nói rằng trung sĩ Hurdle chắc phát điên rồi nên mới chĩa súng bắn chúng tôi. Đó là bởi vì sự khác nhau giữa tiếng súng máy đặc biệt của M-60 với những tiếng súng khác đang bắn vào chúng tôi.?
    Gilreath và người của anh thật ra đã không phải bị đạn ?othân thiện? bắn trúng. Trung sĩ Paul Hurdle đã bị giết trước đó khi đang bắn chặn cho đồng đội của mình ở trung đội của Herrick rút lui. Nhưng đôi tai thính của Gilreath đã không đánh lừa anh: Đúng là tiếng súng mà anh nghe được chính là từ khẩu M-60 của Hurdle phát ra. Sau khi Hurdle và tổ súng máy của mình bị giết, quân địch trước tiên đã dùng nó bắn vào trung đội bị chia cắt và sau đó vào những người lính đang cố đánh tìm đường cứu những người của Herrick.
    Giờ đã gần 5 giờ, và Crandall đang điều khiển 13 chiếc Huey trên đoạn tiếp cận cuối cùng xuống X-Ray mang theo quân tăng viện thuộc đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 do đại úy Myron Diduryk chỉ huy. Binh nhất Jon Wallenius ở trên chiếc trực thăng thứ 1. ?oCó quá nhiều khói và bụi đến nỗi không thể nhìn xa được ở X-Ray, nhưng tôi có thể thấy những triền núi của Chu Pong lờ mờ hiện trước mặt, và nghe thấy những tiếng súng hạng nhẹ nổ. Rồi chúng tôi tiếp đất, và chạy ra khỏi trực thăng. Tôi chạy tới 1 vùng đầy tổ mối bởi vì nó là chỗ nấp duy nhất mà tôi có thể thấy được và nó rất gần. Đại uý Dudiryk vượt lên và chào người sĩ quan chỉ huy.?
    Trung sĩ John Setelin, 22 tuổi, mảnh dẻ, đến từ South Carolina, chỉ huy tiểu đội 2 của trung đội 2 trên chiếc Huey thứ 3 tới LZ. ?oChỉ huy phi đoàn nói: Chúng ta sắp vào 1 LZ nóng bỏng và hover [tình trạng trực thăng đang lơ lửng cách mặt đất chỉ 1 vài gang tay]; Cho quân của anh xuống thật nhanh và chạy qua bên phải!?T Rồi từ trên không tôi nhìn thấy những người lính xuất hiện trong áo quần Khaki. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải liều lĩnh lắm nếu như đưa họ về R and R mà không cho họ có thời gian thay những bộ quân phục dơ dáy kia. Sau đó tôi nhận ra súng của họ đang chĩa vào chúng tôi; chúng là quân địch! Khi chúng tôi nhảy ra, người ta bắn vào chúng tôi. Có những đứa trèo lên trên cây bắn xuống.
    Diduryk chạy tới chỗ tôi và hô: ?oGarry Owen, sir! Đại uý Diduryk và đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, Kỵ binh 7, 120 người, báo cáo sẵn sàng nhận nhiệm vụ.? Mặt cậu ta sáng lên phấn chấn trước tình huống đầy thách thức này. Tôi nói Diduryk bố trí lính ở 1 vòng cây cách sở chỉ huy khoảng 30 mét về phía tây bắc có vai trò như là đơn vị dự bị của tiểu đoàn cho thời gian kế tiếp. Một đơn vị khác tới X-Ray cùng lúc đó, không được yêu cầu, không báo trước, và thực ra họ không gây chú ý tới tôi. Đó là 1 đội từ Ban Hình Ảnh Đặc Biệt Quân Đội gồm 2 trung sĩ, Jack Yamaguchi và Thomas Schiro, trang bị với những máy quay phim câm 16mm. Phải mất ¼ thể kỷ sau chúng tôi mới khui những cuốn phim của họ lên từ kho tư liệu của quân đội và nhìn thấy những hình ảnh màu kỳ lạ của chính bản thân trong trận đánh.
    Trở lại những bụi cây rậm rạp ngoài kia, lúc trận đánh đang quyết liệt, chỉ huy đại đội Alpha, Nadal đã đi tới 1 quyết định. Anh đang có 1 trung đội đang bị quân địch vây chặt không di chuyển được và anh biết rằng nếu càng kéo dài thì càng khó khăn để đưa được họ ra. Giờ là 5h10 Nadal ra lệnh cho đơn vị dự bị của mình, trung đội 3, tiến lên phía trái trong 1 nỗ lực bao vây quân địch. Chẳng ích gì họ đụng ngay vào những mũi kim mà nãy giờ đang khâu lên khâu xuống các trung đội kia.
    Ở phía bên phải, trung sĩ Gilreath chẳng có gì khá hơn. Đại uý Herren hỏi Gilreath rằng có còn cách nào mà họ chưa thử chưa. Gilreath nói: ?oCâu trả lời của tôi là ?~Không thưa xếp?T. Cho dù ngay cả khi bỏ mặc những người chết và người bị thương lại, thời gian đang chống lại chúng tôi.?
    Nadal nói: ?oTrận đánh còn kéo dài thêm khoảng 20 hoặc 30 phút nữa mà không có bên nào tiến lên. Trời đang tối dần, và số thương vong tăng cao nên tôi tin rằng chúng tôi không có khả năng chọc thủng được quân địch. Tôi gọi cho trung tá Moore và xin phép được rút lui.? John Herren, lúc đó cũng đang mở làn sóng tiểu đoàn, nghe thấy đề nghị của Nadal và ngay lập tức tán thành. Giờ là 5g40; tôi ra lệnh cho cả hai đại đội rút lui dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của pháo binh.
    Trời đang tối khiến không có 1 sự lựa chọn nào khác. Tôi không muốn những đại đội của tiểu đoàn bị phân tán trong đêm tối, họ sẽ không hộ trợ lẫn nhau được và sẽ là những mục tiêu cho quân địch tiêu diệt từng đơn vị một. Đêm nay, trung đội bị chia cắt phải phơi mình trên cái mỏm đất nhỏ bé ấy một mình thôi. Chúng tôi phải lui lại, đưa những người chết và bị thương về và bổ sung đạn dược, nước uống. Sau đó chúng tôi phải đặt các đơn vị vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, phối hợp chặt chẽ với nhau cùng với việc cho pháo binh và súng cối sẵn sàng yểm trợ cả 1 đêm dài phía trước.
    Đối với Nadal và Herren, phần khó khăn nhất là làm sao rút khỏi giao tranh với quân địch, kéo ra ngoài khu chiến. Rút lui luôn luôn là 1 trong những hành động quân sự khó thành công nhất. Yếu lĩnh yêu cầu: 1 kế hoạch nghi binh, những đơn vị chặn hậu, hỏa lựu yểm trợ, an ninh, vẽ bản đồ đường đi, 1 lịch trình chính xác và cách sử dụng khói. Chúng tôi có hoả lực hỗ trợ, có thể tung khói mù, nhưng chúng tôi không có đủ người cũng như thời gian để làm hết những công thức sách vở kia.
    Đại uý Nadal, chẳng còn ai, cả hai trinh sát pháo binh và điện đài viên pháo binh đều đã chết, nên anh phải tự mình gọi và điều chỉnh pháo binh trên sóng chỉ huy của tiểu đoàn. Anh nhớ lại, ?oTôi bảo tất cả các chỉ huy trong các trung đội rằng không ai trong họ được rút lui cho tới khi tất cả mọi người, sống hay chết, đều rút về tới nơi. Để che chắn cho cuộc rút lui, tôi gọi trung tá Moore và yêu cầu ông cho tôi pháo khói và bắn vào gần phía chúng tôi so với tầm bắn của đạn nổ hơn 90 mét, điều này sẽ khiến cho khói bao trùm hoàn toàn lên chúng tôi.?
    Yêu cầu của Nadal được lặp lại cho chiếc trực thăng chỉ huy và ở đó đại uý Jerry Whiteside chuyển cho trung tâm chỉ huy pháo binh tại LZ Falcon. Câu trả lời về trong vài giây: ?oKhông có sẵn pháo khói?. Dựa trên những kinh nghiệm của mình trong chiến tranh Triều Tiên, tôi hỏi họ có đạn phosphorus trắng (WP) không. Họ trả lời có. Tôi nói họ bắn yểm trở nguỵ trang bằng Willy Peter.
    Những viên WP phát nổ sẽ tạo ra 1 đám khói dày đặc với màu trắng sáng và phun ra những mảnh phốt pho, những mảnh này sẽ cháy sáng khi phát tán vào trong không khí. Tôi tính rằng nếu những tên lính Bắc Việt chưa bao giờ trông thấy WP chúng sẽ há hốc miệng ra mà coi. Chưa đầy 1 phút những viên đạn bay tới, ngang qua đầu chúng tôi. Những tiếng nổ nhanh chóng bẻ gẫy quân Bắc Việt và nhanh chóng làm tắt tiếng súng của bọn chúng.
    Binh nhất Ray Tanner, đang làm vai trò điện đài viên cho Nadal, nói: ?oChúng tôi bắt đầu lui lại, mang theo những người chết và bị thương. Chúng tôi bị đạn bắn rất mạnh khiến cho việc di chuyển rất khó khăn. Đại uý Nadal gọi đạn khói để ngụy trang. Trung tá Moore báo rằng pháo binh sẽ dùng WP. Chúng tôi nằm sát xuống đất thật thấp khi những viên đạn bắn tới. Tiếng ồn và ánh sáng trắng loá của nó gây sốc cho mọi người. Không ai bị thương do pháo cả, và chúng tôi xoay sở rút ra. Những viên đạn WP nổ chỉ cách vị trí của chúng tôi vài mét. Tôi vẫn còn nhớ nó phát sáng thế nào khi nó phát nổ.?
    Đại uý Nadal phản ứng lại Willy Peter đúng theo trình tự sau: giận dữ, ngạc nhiên rồi biết ơn. Anh nhớ lại: ?oKhi những viên WP đầu tiên nổ trên đầu chúng tôi, tôi thất vọng nhiều hơn. Nhưng thật kỳ diệu, không 1 người lính của Alpha bị thương bởi những viên WP này. Nó thật hiệu quả. Tất cả các tiếng súng đều ngừng lại và chúng tôi bắt đầu thu dọn những người chết và bị thương. Sự thành công của loạt đạn khiến tôi phải yêu cầu thêm những loạt khác. Và 1 lần nữa nó nổ ngay giữa chúng tôi và lại không có ai bị thương. Tôi tin rằng chính những viên WP đã giúp chúng tôi rút lui tới lòng suối mà không phải chịu thêm 1 thương vong nào nữa. Tôi vẫn cùng với điện đài viên ở sau cùng để chặn hậu cho cuộc rút lui và là người cuối cùng về tới suối cạn.? Thấy rõ sự lợi hại của Phosphorus trắng với đại đội Alpha, chúng tôi cũng ném nó xuống phía trước đại đội Bravo. Chúng đã giúp chúng tôi có những khoảnh khắc rất cần thiết mà chúng tôi dựa vào đó để được an toàn.
    Ở phía trái, trung uý Deal nhận lệnh dừng lại và rút về lòng suối cạn-?oNhững gì chúng tôi làm là chạy, trung úy Ken Duncan, người đang giải quyết chuyện thương binh tử sĩ, ngước lên và nói: ?~Các anh bị truy đuổi hả??T tôi nói rằng không. Chúng tôi đã lấy lại được tất cả các điện đài, nhưng khẩu M-16 đó vẫn còn nằm trên tổ mối ngoài đó, và tôi biết chính xác nó nằm đâu. 1 trong số các trung sĩ và tôi quay lại, không mang theo thứ gì, và chúng tôi chạy rất nhanh. Anh ấy yểm trợ cho tôi. Chúng tôi chạy khoảng 90 mét. Tôi đến đúng chỗ tổ mối đó, lấy lại khẩu súng và chạy trở về- ngay trước mặt khoảng 200 lính Mỹ, những người đang chĩa súng về hướng chúng tôi. Chỉ tới lúc đó tôi mới nhận ra rằng mình đã quên không nói chuyện này với ai, và trời đã tối hẳn. Ơn Chúa họ đã không bắn. Nếu không chúng tôi sẽ là 1 tay trung úy ngốc ngếch và 1 trung sĩ dũng cảm chết dại.
    Trong lúc nỗ lực tiến tới trung đội của Herrick đang phải trả giá đắt ngoài những bụi cây, ở cách đó 100 mét, trung sĩ Ernie Savage và những đồng đội đang bị bao vây, đang gan lì bám lấy mảnh đất nhỏ bé của mình. Savage đã gọi pháo binh bắn vòng xung quanh họ thật gần và mỗi khi anh nghe thấy tiếng nói hay chuyển động nào đấy anh liền kêu pháo dội tới tấp xuống. ?oChúng dường như chẳng quan tâm tới bao nhiêu người của chúng đã chết. Một vài tên lầm lỡ bước thẳng tới vị trí của chúng tôi. Vài đứa khác thì đeo ngược súng, bước vào với 2 bàn tay không. Tôi thì chẳng phải tiếc đạn- có tới 30 băng đạn trong ba-lô. Và khẩu M-16 bắn rất tốt. Một giờ trước khi trời tối, có 3 gã bước vào khu vực. Tôi giết cả 3 tên ngay lập tức, chỉ cách có 4,5 mét. Chúng mang những khẩu AK. Lúc đầu tôi nghĩ chúng là quân Nam VN, chúng mặc quân phục có nguỵ trang. Trung sĩ McHerry giết thêm 3 tên nữa ở bên phía tây.?
    Đại uý Herren luôn ở trên điện đài để thông báo cho Savage tiến triển của nỗ lực giải cứu. Cuối cùng Herren nói với Savage họ không thể tới được trước khi trời tối và đang rút về. Herren nói với Savage: ?oĐừng lo. Anh sẽ thắng trần này một lần nữa thôi.? Savage và McHerry tin rằng họ sẽ sống sót nếu giữ vững được qua đêm nay. Binh nhất Galen Bungum và những người khác thì có 1 chút nghi ngờ: ?oLệnh truyền trên radio rằng chúng tôi phải nằm lại ngoài này cho tới sáng. Tôi không tin vào những gì nghe thấy. Tôi đã nghĩ chẳng có cách nào chúng tôi có thể làm được điều đó. Những người khác cũng nghĩ tương tự. Binh nhất Clark hỏi tôi liên tục: ?oAnh nghĩ chúng ta có làm được không?. Tôi không biết, nhưng tôi nói chúng ta phải cầu nguyện, và cầu nguyện cho dữ vào. Đó là 1 câu hỏi lớn lơ lửng trên đầu chúng tôi. Chúng tôi phải cố bình tĩnh và chịu đựng.?
  3. nakata04

    nakata04 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    2.982
    Đã được thích:
    0
    đừng vote cái gì cả bạn ạ..
    bạn có vote thì vote 5* cho những người nào mà bạn thích ấy
    chứ vote bài hay vote chủ đề thì nó lại mất đi chứ có đi theo người đâu.....
    ko biết quyển sách này đã có bản dịch ra tiếng việt chưa nhỉ?
    5* cổ vũ cho bạn dương...
    post tiếp đi bạn
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Có một bản dịch của Viện LSQSVN, xuất bản năm 1993. Có thể tìm thấy ở thư viện HN.
  5. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Khi đại đội Bravo rút về suối cạn, trung sĩ Gilreath mới biết về tình hình những người chết. ?otrung sĩ Roland nói với tôi, Sếp Curry đã bị giết. tôi đi cùng Roland và giúp đem anh ấy về. Anh ấy sẽ không bị bỏ lại phía sau. Tôi nợ anh ấy nhiều lắm. Tôi có 1 tình cảm đặc biệt với Curry. Anh ấy là 1 tiểu đội trưởng của tôi trước khi anh ấy được chuyển qua trung đội 3. Tôi thân thiết với Curry từ hồi còn ở Kelly Hill [Fort Benning]. Anh ấy chẳng bao giờ nói nhiều về gia đình hay những người thân. Anh ấy không lấy vợ. Anh được biết đến như 1 quân nhân trọn đời cho quân đội.?
    Chỉ huy đại đội Bravo, Herren, đang phải tái bố trí lại đại đội cho việc phòng thủ vào ban đêm. ?oTôi ra lệnh cho đại đội đào hố chiến đấu, ngay phía trước suối cạn, nơi chúng tôi có thể có sự liên kết chặt chẽ với đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 bên phải và đại đội Alpha của Nadal bên trái. Chúng tôi duy trì hàng rào pháo binh xung quanh Savage.?
    Tôi nghĩ về tình hình tạm thời và quyết định củng cố vòng tròn phòng ngự mỏng manh bằng cách cho triển khai đại đội Bravo của Diduryk, và tiếp tục giữ trung đội trinh sát tiểu đoàn làm lực lượng dự bị.
    Tôi ra lệnh cho Diduryk bố trí 2 trung đội ở giữa đại đội Bravo của Herren và đại đội Delta của Litton, nằm vào phía đông bắc của vòng phòng ngự. Tôi cũng nói Diduryk chuyển trung đội cối 81 cùng với các pháo thủ của anh cho trung tâm chỉ huy súng cối của đại đội Delta.
    Tôi cũng ra lệnh cho Diduryk chuyển trung đội 2 của mình, chỉ huy bởi trung uý James L. Lane tăng viện cho đại đội Charlie của Bob Edwards, hiện đang phải dàn mỏng trên 110 mét phía bờ nam và đông nam. Edwards nói: ?oSự tăng cường của trung đội 2 rất quan trọng với chúng tôi. Tôi đặt họ vào sườn phải của mình, họ trám vào lỗ thủng giữa đại đội Alpha và trung đội 3 của tôi. Khả năng phối hợp các trung đội của mình với các đại đội khác là rất quan trọng.?
    Khi trung đội của Lane bắt đầu triển khai, 1 sự việc gây sốc xảy ra. Trung sĩ John Setelin bố trí lính mình vào những hố cáo (hố chiến đấu cá nhân) mà đại đội Charlie bỏ trống khi họ dịch qua trái. ?oTôi cho mọi người nằm xuống và bắt đầu thăm dò phía bên trái nhằm móc với đại đội Charlie. Khi tôi bước đi, tôi nghe thấy 1 viên đạn réo ngay trên đầu. Tôi nghe thấy tiếng kim hỏa và tiếng đạn rít. Tôi chưa bao giờ thấy ai hay đứng gần với ai bị bắn. Viên đạn găm vào người Glenn Willard, xạ thủ súng máy của chúng tôi, phía trái của ngực. Tôi chạy tới chỗ cậu ấy; Tôi để ý nhiểu tới Willard. Cậu là người nhỏ bé nhưng không bao giờ để ai mang hộ khẩu M-60 hay đạn dược. Máu chảy ra ồng ộc, mắt trợn ngược. Cậu ấy trông giống như bị 1 cơn đau tim vậy.?
    Setelin xoay Willar lại và cởi bỏ quân trang và áo của anh ra. ?oCậu ấy bị 1 vết thương chí mạng vào ngực và tôi nhớ cách băng bó cho nó. Tôi phải làm cho đúng bảo vệ vết thương cho cậu ấy nhưng khi tôi cố dựng cậu ấy dậy tay tôi không với tới được phần thấp ở lưng nơi viên đạn chui ra. Lamothe tới giúp tôi. Nước mắt chảy dài trên mặt tôi. Tôi cứ gào lên: ?oCậu ấy chết trên tay tôi mất!? Willard là thương vong đầu tiên của tôi và tôi cảm thấy mình chẳng làm được việc gì. 1 gã cao lớn nào đấy tới và bế Willard dậy, mang cậu tới trạm cứu thương tiểu đoàn ở sở chỉ huy.? Willard dũng cảm qua được vết thương và sống sót.
    Khói bụi như cái áo choàng khoác lên thung lũng, khoảng trời chạng vạng này sẽ qua mau. Chúng tôi có rất ít thời gian để thiết lập chu vi phỏng thủ quanh X-Ray. Trong việc bố trí 5 đại đội bộ binh tôi dựa vào những yếu tố sau: sức chiến đấu của mỗi đại đội; yêu cầu phải bảo vệ bãi đáp trực thăng nhỏ-dành cho 2 chiếc; đường tiếp cận tấn công của quân địch; và đặt trung đội súng máy của đại đội Delta với 6 khẩu M-60 vào nơi họ có thể phát huy hết hiệu quả. Tôi muốn những khẩu súng máy sẽ được đặt vào vùng bằng phẳng và thoáng hơn ở triền đông của bãi trống.
    Giờ tôi xem sét số thương vong trong chiến đầu suốt ban ngày. Đại đội Alpha của Nadal mất 3 sĩ quan và 31 lính, chết và bị thương và báo cáo lực lượng bây giờ chỉ còn 2 sĩ quan và 84 lính. Đại đội Bravo của Herren mất 1 sĩ quan và 46 lính và giảm chỉ còn 4 sĩ quan và 68 lính với 1 trung đội, Herrick, bị kẹt bên ngoài. Những đại đội còn ít người hơn này được giao cho ít khu vực hơn là đại đội Charlie của Edwards, nó mới chỉ mất có 4 người và báo cáo lực lượng còn lại là 5 sĩ quan và 102 lính. Dù vậy tôi vẫn tăng cường cho nó trung đội của Lane từ đại đội Bravo, tiểu đoàn 2. Diduryk và 2 trung đội kia của mình được bố trí vào phần đông bắc của bãi đáp nhỏ nhằm tăng cường khả năng phòng thủ của cả bãi trống, 8 khẩu cối cùng với trạm cứu thương-sở chỉ huy-bộ phận hậu cần được bố trí gần tổ mối khổng lồ. trung đội trinh sát tiểu đoàn được giữ lại làm lực lượng dự bị sắp xếp gần sở chỉ huy của tôi. Tôi đặt trung đội súng máy trong tầm liên lạc chặt với sườn trái của Edwards ở phần phía đông nam.
    Vào khoảng 6g30, tôi điện cho Matt Dillon xuống X-Ray ngay khi có thể, mang theo Hastings và Whiteside, 2 điện đài viên, và thật nhiều đạn cùng với nước trên 2 chiếc Huey. Giờ chúng tôi có liên lạc trực tiếp với sở chỉ huy lữ đoàn trong tình trạng tốt mà không còn cần thiết tới chiếc trực thăng chỉ huy bay trên đầu để chuyển những liên lạc của mình nữa. Điều này là nhờ vào trung sĩ nhất Warren Adams của đại đội Delta, anh đã mang 1 antenna dã chiến RC-292 tới X-Ray. Được lắp trên 1 cây cao, cây antenna dài cho phép chúng tôi liên lạc tới Lữ đoàn ở trang trại chè, cách hơn 25 dặm. Bên cạnh đó, trận đánh này còn lâu mới kết thúc, tôi cần Dillon để giúp điểu khiển trận đánh. Với những điều phối viên hỏa lực dưới mặt đất, chúng tôi sẽ giảm bớt được thời gian phản ứng với những tình huống tiên tiếp thay đổi dưới này.
    Trong gần 8 tiếng đồng hồ, tôi từng phút dính chặt vào trận đánh. Giờ tôi muốn tự mình đi vòng quanh chu vi phòng thủ để kiểm tra sự chuẩn bị cho 1 đêm hứa hẹn nhiều khó khăn phức tạp và cho cả ngày mai nữa. Ngay trước lúc tối xập, thượng sĩ Plumley và tôi ra khỏi sở chỉ huy và đi kiểm tra chu vi. Nói chuyện với vài người lính và cảm nhận tình hình trên chiến trường. Điều khiến tôi quan tâm là tinh thần của binh lính, sự kết hợp giữa các đại đội thế nào, kế hoạch phòng thủ của họ và tình hình cung cấp đạn dược và nước uống.
    Tinh thần của binh lính là cao, cho dù có sự đau buồn có thể hiểu được dành cho những người bạn mà chúng tôi đã mất. Người lính mà tôi đã nói chuyện nhận ra rằng chúng tôi đang phải đối mặt với 1 kẻ thù cừ khôi và đầy ý chí, nhưng chúng đã thất bại khi muốn chọc thủng hàng quân của chúng tôi. Họ biết trận đánh chưa kết thúc. Tôi nghe thấy những người lính đang mỏi mệt nói những câu như: ?oChúng ta sẽ diệt chúng, thưa sếp? và ?oChúng sẽ không vượt qua được chúng tôi đâu, chỉ huy ạ.? Tình thần chiến đấu của họ không hề giảm xuống, họ khiến tôi tự hào và cảm thấy xấu hổ vì nghi ngờ họ. Trong mỗi đại đội nhảy xuống dưới này sáng nay đều có từ 15 tới 20 người chỉ còn không quá 2 tuần quân ngũ nữa và họ sắp trở về Mỹ. Vài người trong số họ giờ nằm chết, được gói trong những túi poncho, gần sở chỉ huy của tôi. Những người còn lại đang ở trên chu vi này, vai kề vai với những đồng đội, sẵn sàng tiếp tục chiến đấu.
    Tôi và Plumley về tới tổ mối đặt sở chỉ huy thì trời đã hoàn toàn tối, khoảng 7g15. Tôi liên lạc với Savage và những người sống sót trong trung đội bị chia cắt của Herrick. Savage báo cáo qua điện đài là họ chưa bị thêm 1 thương vong nào nữa và đang giữ chặt với nhau. Tôi nghiền ngẫm những khả năng có thể để cứu họ: 1 đợt tấn công đêm; thâm nhập đêm để tăng viện cho trung đội; hoặc 1 đợt tấn công hoàn toàn mới vào lúc sáng sớm. Họ sẽ luôn luôn ở trong tâm trí tôi suốt đêm nay, 1 nhúm người dũng cảm bị bao vây và cô độc trong 1 biển người của quân địch
  6. ma_vuong_baby

    ma_vuong_baby Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    342
    Đã được thích:
    0
    Bác Mẽo này viết hay ghê, theo một xu hướng đề cao quân mình và hạ thấp quân địch mặc dù chúng đông hơn. Thật khó tin khi mà bom rơi pháo bắn ầm ầm cộng với đạn bay khắp nơi mà lại có những cảnh quân BV " súng quàng sau lưng, hai tay không xông vào trận địa " hay cảnh " những người lính vừa đi vừa hát hồn nhiên đâm đầu vào mưa đạn". Phi lý
    Dù sao cũng xin vote bác Dương2002 vì đã cống hiến cho anh em một bản dịch có giá trị và mong bác tiếp đều đều nhé.
  7. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    Bất cứ lính Mĩ nào đã từng ở VN mà đọc chắc cũng thấy tác phẩm này sặc mùi... Holywood.
    Có lẽ tác giả muốn dùng câu chuyện của mình để xốc lại "tinh thần Mĩ" sau thất bại thảm hại trước đội quân "dép lốp"?
    Em trí nhớ hơi kém, các bác tổng kết giúp em về quân số+chỉ huy+trang bị+thiệt hại của 2 bên trong trận này để em so sánh với!
    Cám ơn các bác rất nhiều!
  8. Duong2002

    Duong2002 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    11./ Thác đêm
    If we are marked to die, we are enow
    To do our country loss; and if to live,
    The fewer man, the greater share of honor.
    -Henry V, Act IV, Scene 3
    Mức độ của trận đánh hồi chiều đã giảm hẳn, giờ chỉ còn vang lên những tiếng súng rời rạc. Bãi đáp được thiết lập như là 1 bãi hành quân dã ngoại ban đêm, và pháo binh cũng như súng cối đã xác định điểm bắn toàn bộ vị trí xung quanh chu vi. Trong trạm cứu thương, trung sĩ Keeton và trung sĩ Keith dựng lên 1 cái lều quây bằng những tấm poncho giúp họ an toàn sử dụng ánh sáng để chăm sóc thương binh. Giờ họ có đầy đủ số moocphine và bông băng. ?oKhoảng 5 giờ chiều chúng tôi dùng hết số moocphine và trung tá Moore gọi về lữ đoàn xin thêm. Tới tối chúng tôi nhận được khoảng 125 cho tới 130 liều moocphin,? Keeton nói, ?odường như tất cả những đơn vị Mỹ nghe thấy yêu cầu của chúng tôi và gửi nó tới. Khi trở về căn cứ tôi có moocphin đủ dùng cho đến hết chiến tranh VN.?
    Phóng viên UPI Joe Galloway dành suốt buổi chiều cho những cố gắng tuyệt vọng nhằm bịp được ai đó đưa anh ấy tới X-Ray, tất nhiên không thành công. Galloway đã ở trên trực thăng của đại tá Brown khi tôi vẫy tay xua ông ấy ra khỏi X-Ray vào quá trưa. Ở sở chỉ huy tiểu đoàn Galloway xếp hàng cùng với lính của đại đội Bravo của tiểu đoàn 2, và leo lên được 1 chiếc Huey-nhưng chỉ được 1 lúc thôi. Trung úy Rick Rescorla nói: ?oKhi chúng tôi lên trực thăng, 1 phóng viên to bè đội 1 mũ bê-rê màu cát, đeo 1 khẩu M-16 và những chiếc máy ảnh nhảy lên 1 trong những chiếc Huey. Thiếu tá Pete Mallet bước tới và kéo anh ta xuống. Chúng tôi cần chỗ cho 1 y sĩ đại đội.? Galloway chuyển qua LZ Falcon và ở đó anh phát hiện Dillon đang chuyển đồ lên 2 chiếc Huey tiếp tế. Anh khẩn cầu được đi nhờ. Dillon nói anh không thể quyết định được nhưng sẽ chuyển lời tới tôi thông qua điện đài. Tôi nói với Dillon rằng nếu Galloway điên khùng đến thế và nếu có chỗ thì anh có thể mang anh ta vào.
    Trong những lần chạy bộ xung quanh Plei Me tôi quen thuộc với Galloway. Anh ấy khác biệt với những phóng viên khác, đang bu quanh sư đoàn kỵ binh bay số 1 lúc ấy. Anh dính chặt với 1 tiểu đoàn cả trong những lúc sướng và khổ, cuộn tròn trong 1 túi poncho trên nền đất và ngủ qua đêm thay vì bò lên 1 trực thăng tiếp vận và quay về nơi có 1 cái giường ấm áp cùng với 1 bữa ăn nóng hổi tại hậu phương. Trong thời gian tôi ở VN, tôi chỉ gặp 2 phóng viên khác có cùng tinh thần làm việc như vậy: Bob Poos của AP và Charlie Black của tờ Columbus Ledger-Enquirer.
    Còn 1 điều khác nữa: Tôi kết luận rằng người dân Mỹ có quyền biết những gì mà những người con họ đang làm trong cuộc chiến tranh này, trên chiến trường. Tôi chào đón những phóng viên tới thăm tiểu đoàn, sau này là lữ đoàn, của tôi. Tôi nói họ có thể đi bất cứ đâu mà họ muốn với lính của tôi, chỉ có 2 giới hạn: Không được đưa những thông tin gây nguy hiểm cho chúng tôi và đừng có quấy rầy các cuộc hành quân. Tôi không bao giờ phải hối tiếc về sự cởi mở này.
    Quá 9giờ tối 1 chút, Bruce Crandall tới trên sóng rađio Pathfinders [Pathfinders phục vụ như là những kiểm soát không lưu chiến đấu]. Tin nhắn của anh tới tôi thông qua trung uý Dick Tifft, 1 người California nóng nảy đã mang 1 đội tới nhằm điều hành việc trực thăng hạ cánh, là anh và Big Freeman còn 5 phút nữa sẽ tới, 2 chiếc Huey slick hộ tống bởi 2 chiếc vũ trang, mang tới đội của Dillon cùng với đạn và nước.
    Khi những chiếc Huey hạ thấp độ cao để đáp xuống X-Ray, Dillon nhìn ra phía Chu Pong. Có thể nhìn thấy rõ ràng dọc theo các triền núi là hàng trăm những đốm sáng lấp lánh trong cánh rừng đêm. Anh cũng phát hiện 1 ánh sáng chớp nháy liên hồi ngay dưới đỉnh núi nằm thẳng phía trên X-Ray và 1 ánh sáng chớp nháy thứ 2 trên 1 triền núi phía bắc của 1 đỉnh núi cao 400 mét xuôi xuống phía nam. ?oTôi tin rằng những ánh sánh nhấp nháy đó là những ánh sáng ám hiệu. Từ những nơi đặt trên núi, nó sẽ không thể bị phát hiện từ X-Ray.? Dillon nói.
    Nhưng đó là màn trình diễn ánh sáng làm mê hoặc Dillon, Galloway, và những người khác trên trực thăng: 1 vòng e-líp những đốm sáng nhỏ xíu lấp lánh từ tây bắc sang đông nam dài hơn nửa dặm và rộng hơn 270 mét, đang di chuyển xuống trên bề mặt của dãy núi. Galloway, đang ngồi trên 1 dãy thùng lựu đạn và đạn, cứng người vì những ánh sáng nhấp nháy này. Trong 1 khoảnh khắc đứng tim, anh nghĩ anh đang nhìn thấy chớp sáng đầu nòng của những khẩu súng đang bắn vào 2 chiếc trực thăng.
    Dillon hiểu hơn 1 chút: ?oNhững ánh sáng này được quân Bắc Việt, hàng trăm người chúng, sử dụng khi chúng di chuyển xuống núi ngay trên LZ, trên đường vào vị trí cho cuộc tấn công vào buổi sáng. Pháo binh được gọi nã vào những đốm sáng này cũng như những ánh sáng ám hiệu trên 2 đỉnh núi. Sau nửa đêm có một loạt tiếng nổ lần thứ hai trên vùng núi ngay trên X-Ray.
    Chiếc Pathfinder đậu ở bãi trống nhỏ trong khi Tifft chỉ đường cho Crandall và Ed hạ xuống xuyên qua tấm màn khói và bụi đang treo lơ lửng trên X-Ray. Old Snake và Big Ed đáp xuống trong đêm tối, phạt đứt vài ngọn cây, và vài giây sau, Dillon, Galloway và những người khác tuôn ra đồng thời những thùng đạn nặng nề và những bình nước 5 gallon được ném xuống những đám cỏ cao; sau đó 2 chiếc trực thăng vọt lên. Galloway nhớ lại, ?oChúng tôi núp mình trong bóng tối, cố đeo lên mình hết đồ mang theo, và đợi ai đó tới dẫn đi. Một giọng nói phát ra trong đêm tối: ?~Hãy theo tôi và coi chừng dưới chân các anh đó. Có rất nhiều người chết nằm trên đất và tất cả là người mình đấy.?T Đó là giọng của thượng sĩ Plumley, người dẫn chúng tôi tới sở chỉ huy.?
    Tôi chào Galloway bằng 1 cái bắt tay nhanh chóng rồi hội ý với Dillon, Whiteside và Charlie Hastings, kiểm soát không quân tiền phương của Không Lực (FAC) trong lúc đó Joe ngồi nghe. Mệnh lệnh đầu tiên là đem không quân và pháo binh dội xuống những chỗ có những đốm sáng mà họ nhìn thấy. Thứ hai là đảm bảo cho trung sĩ Savage và trung đội bị chia cắt tất cả pháo binh yểm trợ mà họ thấy cần thiết. Dillon và tôi thảo luận tìm cách cứu trung đội của Savage. Galloway tìm 1 gốc cây ngả lưng, và chờ đợi.
    Đây là 1 đêm không ngủ. Tất cả các đơn vị được lệnh báo động 100%. Herren và đại đội Bravo của mình trải qua đêm thứ 2 liên tiếp không ngủ. Chỉ huy của địch quân chắc ít nhất cũng phải có hiểu biết về lực lượng của chúng tôi nếu ông ta đếm những chiếc trực thăng lên xuống suốt cả ngày, và ông ta cũng biết 1 điều là người của ông đã bào mòn lực lượng của chúng tôi. Trăng tròn lên cao trên núi Chu Pong vào khoảng 11 giờ cho phép chỉ huy địch nhìn thấy rõ hơn chu vi phòng thủ. Dillon và tôi rất vui mừng vì quân địch đã không đưa bất kỳ 1 khẩu súng bắn mày bay nào vào trận đánh, nhưng vẫn còn sợ rằng họ sẽ sớm làm như thế. Chúng tôi phải gọi pháo binh dội liên tục xuống những triền núi để chặn thứ vũ khí này trước khi chúng có thể bắn lên đầu chúng tôi.
    37 dặm về phía đông bắc, Crandall và Freeman cuối cùng cũng tắt máy những chiếc trực thăng đậu trên 1 sân khổng lồ, có biệt danh là Turkey Farm, bên ngoài hàng rào kẽm gai của trại Holloway, gần Pleiku. Họ đã bay không nghỉ từ 6 giờ sáng tới giờ là quá 10 giờ tối, trước khi Crandall tắt máy và bước ra khỏi trực thăng. ?oĐó là lúc tôi kiệt sức bởi những hoạt động suốt ngày qua. Chân tôi như rời ra khi tôi bước xuống càng máy bay, và tôi ngã xuống đất. vài phút sau tôi nôn thốc ra. Tôi rất ngượng và phải mất 1 lúc tôi mới lấy lại được sự bình tĩnh. Ai đó dúi 1 chai Cognac vào tay tôi và tôi tu 1 ngụm lớn. Nó như 1 thứ thuốc thần. Nó xuống tới đâu thì người tôi nóng rực tới đó. Tôi cuối cùng cũng đứng vững và bước vào lều hành quân xem lại hoạt động nguyên ngày nay và lên kế hoạch cho ngày mai. Những đơn vị không quân có 1 ngày đầy vất vả. Chúng tôi đã không phải chịu 1 thương vong chết người nào và cũng không bỏ 1 phi vụ nào. Khi những người anh em bộ binh gọi, chúng tôi lập tức trả lời. Tiêu chuẩn cho những cuộc tấn công đổ bộ với trực thăng đã được thiết lập ngày hôm đó. Tôi tự hỏi về ngày mai, nó có tệ hơn không? Tôi không chắc tôi có thể xoay xở 1 ngày nữa giống như ngày hôm nay. Rồi tôi nghĩ tới những người lính đang ở dưới X-Ray. Sự chọn lựa không dành cho tôi.?
    Crandall vẫn còn nóng máu vì sự từ chối quay trở lại X-ray để mang thương binh ra của những phi công quân y. ?oSĩ quan chỉ huy quân y hạnh họe tôi vì đã dẫn người của ông ta vào một bãi đáp nóng bỏng, và cảnh cáo tôi không bao giờ được làm như vậy nữa. tôi không thể hiểu nổi tại sao ông ta lại đối đầu với tôi trong khi ông ta từ chối đối đầu với quân địch. Nếu 1 vài phi công của tôi không ngăn cản, gã sĩ quan đó đã nhận ngay một Ngôi sao Tím trên mặt rồi. Từ ngày đó, khi lên kế hoạch cho mỗi phi vụ tôi đều tính đến việc những người lính bộ binh sẽ không phải trông chờ vào ai ngoài chúng tôi cho việc di tản thương binh của họ.?
    Tất cả những thương binh của chúng tôi được đoàn trực thăng của Crandall đưa về đại đội Charlie, Tiểu đoàn quân y 15, sư đoàn kỵ binh bay số 1, được dựng lên tạm thời trong những cái lều ở Trại Holloway. Sĩ quan điều hành của Charlie Med là đại uý George H. Kelling, 28 tuổi, đến từ St. Louis Missouri. 5 bác sĩ phẫu thuật của Charlie Med cố ổn định những người lính xuống từ trực thăng. ?oNhững chữa trị mà chúng tôi làm là tìm cách giữ cho máu luôn luôn lưu thông trong cơ thể thương binh cho tới khi anh ta có thể được đưa tới bệnh viện, nơi có nhân sự và thiết bị để thực hiện những phẫu thuật sống còn.? Những bác sĩ của Charlie Med cố bịt chặt những mạch máu bị đứt để tránh sự mất máu, sau đó tiếp vào rất nhiều máu cho họ.
    Kelling nhớ rằng rất nhiều thương vong là do mất máu tới chết, vì vậy anh phải chạy đua với thời gian để tiếp máu cho những người lính nhanh hơn là số máu của họ chảy ra ngoài, ngay cả trong lúc những bác sĩ phẫu thuật đang cố bịt những vết thương đang chảy máu. ?oChúng tôi chẳng để ý tới những quy tắc, thường chọc tới 4 lỗ vào mạch máu 1 người và với 4 y sĩ bóp mạnh hết sức vào những túi máu. Nó gây cho thương binh những cảm giác ớn lạnh, run rẩy, co giật và mất nhiệt vì phải nhận quá nhiều máu lạnh trong 1 thời gian quá nhanh- nhưng không còn cách nào khác hoặc anh ta sẽ chết.?
    Chiếc máy bay vận tải Caribou Lục quân thuộc đại đội không quan 17 đang đợi sẵn sàng di tản những thương binh đã ổn định từ Pleiku về những bệnh viện quân y ở Quy Nhơn và Nha Trang. Sau những cuộc phẫu thuật điều trị ở đó, hầu hết những trường hợp nghiêm trọng sẽ được chở tới Clark Field ở Philippine, và sau đó được đưa về Mỹ. Những người khác mà khả năng phục hồi trong khoảng 2 hoặc 3 tháng sẽ được chuyển tới những quân y viện ở Nhật Bản- và sẽ quay trở lại VN cho tới hết khoá phục vụ của họ.
    Ở LZ X-ray đêm đầu tiên, quân địch tiến hành quấy rối và thăm dò vào hầu hết các vị trí của các đại đội, ngoại trừ Delta ở phía đông và đông bắc, chiếm ¼ chu vi. Và lúc nào chúng cũng nhận được câu trả lời bằng pháo binh hoặc là bằng M-79. Những khẩu súng máy M-60 được ra lệnh nghiêm ngặt không nổ súng trừ khi có lệnh; chúng tôi không muốn bộc lộ vị trí chúng ra sớm.
    Edwards và lính đại đội Charlie được tăng cường 1 trung đội của Diduryk, chiếm 1 khu vực dài nhất trong chu vi, lên tới 125 mét dài từ bờ phía nam và tây nam, nối với đại đội Alpha bên tay phải và Delta bên tay trái.
    Edwards nói: ?oNhững hoạt động thăm dò của quân địch chủ yếu diễn ra ở khu vực của trung úy Lane phía bên phải tôi. Những nhóm thám thính nhỏ khoảng 5 tới 10 người. Tôi nghĩ chúng đang cố cảm nhận các vị trí chúng tôi cho các khẩu súng tự động, chúng tôi bắn trả bằng M-16 và M-79. tôi không biết số lượng quân địch tối hôm đó, nhưng tôi sẵn sàng đón chờ bất cứ điều gì đến và nói với những chỉ huy trung đội của tôi rằng giữ binh lính ở tình trạng báo động 100% và sẵn sàng chiến đấu.?
    Đại đội Charlie bước ngay vào chiến đấu khi vừa đặt chân xuống LZ, điều này ngăn không cho họ đào được những hố chiến đấu tốt hay tạo những khoảng trống cho hoả lực giữa những đám cỏ cao. Họ vội vàng đào những lỗ nông chỉ bảo vệ được cho họ nếu họ nằm dài xuống. Giờ họ có thời gian đào những hố tốt hơn nhưng lại bị ngăn cản bởi lệnh hạn chế tối đa tiếng động vào ban đêm của đại uý Edwards, anh không muốn những tiếng động của việc đào đất làm lộ vị trí quân Mỹ và át đi những tiếng chuyển động của quân địch.
    Lực lượng tăng cường của Edwards, trung đội 2 của trung úy Lane tách ra từ đại đội của Diduryk, giữ sườn phải của đại đội Charlie, và nối với đại đội Alpha của Nadal phía bên phải ở suối cạn. Họ đã đào những chỗ có thể đào hầm, nhưng thật khó khăn bởi vì rễ cây chằng chịt và đá cứng ngay dưới bề mặt khô và cứng của đất nơi đó. Trung sĩ John Setelin, sau khi chứng kiến người bạn kiên cường của mình được chăm sóc ở trạm cứu thương tiểu đoàn, quay trở lại vị trí của trung đội mình trước khi nửa đêm.
    Setelin quay lại, đã lấy lại bình tĩnh, và nói với Lamothe canh chừng những cái cây. ?oTôi không di chuyển người của mình nữa. Tôi giữ tất cả mọi người nằm xuống cho tới khi tôi xác định được tên bắn tỉa này ở đâu, và chỉ 5 phút sau hắn ta đã phạm 1 sai lầm chết người khi đu khỏi cái cây của hắn. Hắn chằng người vào 1 sợi dây thừng và cột đầu kia trên 1 ngọn cây cao. Hắn đu qua đu lại trên cái cây đó như 1 nghệ sĩ xiếc trên không vậy và rải đạn bừa bãi khi hắn đu đưa qua lại. Chúng tôi chờ hắn vọt ra và hắn làm điều đó 1 lần nữa. Khi hắn làm, chúng tôi đã sẵn sàng. Chúng tôi tình cờ bắn vào ngay cái nút buộc hắn và hắn rơi xuống đất, chết. Chúng tôi thật hài lòng vì chính hắn là người đã bắn Willard.
    ?oChúng đánh thăm dò chúng tôi suốt cả đêm. Chúng tôi có 1 vài người bị thương. Tôi chưa bao giờ ở trong 1 tình huống như thế. Khi chúng tới chúng hò hét và chúng tôi có thể nghe thấy những tiếng kèn.?
    Đại đội Delta giờ được chỉ huy bởi trung úy Larry Litton, giữ 1 phần nhỏ hơn trong hàng quân, ngay ở phía trái của đại đội Edwards. Delta bảo vệ phần đông nam và đông của chu vi. Trung sĩ nhất của Delta, Warren E. Adams, đang ở trong 1 hố có hình L cùng với Litton và 2 điện đài viên. Adams là cựu binh của Thế chiến thứ II và chiến tranh Triều Tiên và đã ở cùng đại đội qua nhiều đời chỉ huy rất thành công từ trung đội tới đại đội
    Trung sĩ Adams bố trí 6 khẩu M-60 gần và chặt chẽ với đơn vị xa nhất về phía trái của đại đội Charlie, trung đội 2 của trung úy Geoghegan. Những khẩu súng máy này có một tầm bắn bằng phẳng tới phía nam vượt qua sườn trái của Geoghegan tới phía đông nam và thẳng tới phía đông. Sáu khẩu súng này cấu thành 1 vị trí hỏa lực ghê gớm, có khả năng tạo ra 1 bức tường lửa đan xen vào nhau. Những khẩu súng này và những xạ thủ phía sau nó đã đóng 1 vai trò quan trọng trong việc bảo vệ X-Ray trong vòng 48 tiếng sắp tới.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Từ tài liệu của VN thì :
    - X-ray ngày 14/11 : VN có toàn bộ tiểu đoàn 9 (trung đoàn 66). Mỹ có tiểu đoàn 1/7.
    - X-ray đêm 14/11 và ngày 15/11 : lực lượng tấn công của VN có đại đội 1 và 2 tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) và tiểu đoàn 9 (trung đoàn 66) phối hợp. Mỹ có tiểu đoàn 1/7 và một số đại đội của 1/5, 2/5, 2/7.
    - X-ray đêm 15/11 và ngày 16/11 : lực lượng tấn công của VN có đại đội 3 tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66). Mỹ có tiểu đoàn 1/7 và một số đại đội của 1/5, 2/5, 2/7.
    - Albany ngày 17/11 : lực lượng tấn công của VN có toàn bộ tiểu đoàn 8 (trung đoàn 66), đại đội 1 tiểu đoàn 1 (trung đoàn 33) và 2 trung đội của trung đoàn 320. Phía Mỹ có toàn bộ tiểu đoàn 2/7.
    Trang bị :
    VN : B-40/41, đại liên, 12 ly 7, vài khẩu cối 82mm.
    Mỹ : riêng vũ khí bộ binh M-79, M-60, cối 81mm số lượng đã nhiều gấp từ 3-4 lần VN, 12 khẩu pháo 105mm, một lô xích xông trực thăng, A-1... yểm trợ.
    Thiệt hại :
    Mỹ : tiểu đoàn 1/7 có 79 chết, 121 bị thương; tiểu đoàn 2/7 có 155 chết, 125 bị thương, 5 mất tích.
    VN : trung đoàn 66 có 208 hy sinh, 146 bị thương. Không rõ thiệt hại của 33 và 320 ở Ia đrăng là bao nhiêu. Nhưng có lẽ số hy sinh phải trên 300 người vì những trường hợp mất tích, đi lạc và tử sĩ lúc đó không đưa về được.
  10. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    Mỹ : tiểu đoàn 1/7 có 79 chết, 121 bị thương; tiểu đoàn 2/7 có 155 chết, 125 bị thương, 5 mất tích.
    VN : trung đoàn 66 có 208 hy sinh, 146 bị thương. Không rõ thiệt hại của 33 và 320 ở Ia đrăng là bao nhiêu. Nhưng có lẽ số hy sinh phải trên 300 người vì những trường hợp mất tích, đi lạc và tử sĩ lúc đó không đưa về được.

    -------------------------------------------------------------------------
    Bạn kiểm tra kĩ lại đi, hình như nhầ đấy. Nếu theo như cuốn sách trên thì quân ta phải chết 10234 người là ít.

Chia sẻ trang này