1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

we were soldies once..and young Phần tiếp theo

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 30/12/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Cái ông bộ đội tầm 16,17 tuổi ấy không biết nghĩ sao mà lại tha cho tên lính Mỹ nhỉ?....Không giết thì phải bắt nó làm tù binh chứ...[r37)][r37)]...phải không các bác?
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Khi bay vòng lại lần thứ 2 tôi nhìn thấy những vệt đen của bom napalm. Những xác lính Mỹ cùng với trang bị nằm rải rác giữa các ụ mối và bụi rậm. Khi gặp hỏa lực mặt đất bắn lên, viên phi công rẽ ngoặt, chúi xuống thấp. Anh ta nói liến thoắng vào micro của mình, không tin có thể đáp xuống được. Bóng tối đã sụp xuống quanh chúng tôi. Tôi đứng trên càng bay lơ lửng ít nhất là 4m bên trên bãi đáp. Quá cao!”


    Tiếng đạn réo khiến cho Rescorla quay lại. Nhìn sang bên cạnh anh thấy máu chảy thành dòng trên ống tay áo của viên phi công. Chiếc trực thăng đã hạ xuống vài feet. Phi công thét lên với xạ thủ. Viên xạ thủ càu nhàu “Ra ngoài!”. Tôi ngập ngừng.“ Cút ****** ra!”. 4 chúng tôi nhảy ra từ khoảng 10 feet. Viên xạ thủ đạp thùng đồ ăn khẩu phần C ra ngoài và chúng rơi như mưa lên đầu chúng tôi. Chúng tôi đã đáp xuống khu vực của mình. 4 chúng tôi nằm sát mặt đất, và cố gắng bò ra. Cách khoảng 60m là 3 bóng áo kaki có vẻ đang hoảng sợ vụt bỏ chạy về phía hàng cây. Hai người bọn tôi bắn những tên đó và chúng ngã sấp xuống đám cỏ. Tôi bắn bồi 1 viên M79 cho chắc ăn. Thẳng phía trước chúng tôi nghe thấy những giọng nói Mỹ. Chúng tôi chạy ào vào trong chu vi phòng thủ mang theo những khẩu phần C quí giá.

    Giờ đây, Tại sở chỉ huy trong chu vi phòng thủ cùa tiểu đoàn. Rescorla thấy:
    “Viên thượng sĩ của tiểu đoàn quấn đầy băng trên ngực đang ngồi dựa vào 1 cái cây“ Chúng tôi bị bắn rất rát, Sếp ạ, tình thế thật tệ !”



    Những thương binh đang tụ tập cách sở chỉ huy 30m. Chỉ có 1 nửa trung đội của tôi đến nơi được. Những trực thăng khác đã phải quay về vì hỏa lực mặt đất và do trời đã tối. Chu vi phòng thủ là 1 cụm cây hình bầu dục. Ba trung đội đang phòng thủ trong chu vi ngoại trừ số lính của tôi và trung đội trinh sát của Pat Payne thì không kết nối với đơn vị nào cả. Đại tá Mcdade ngồi sụp xuống dựa vào 1 cái cây. Trông ông có vẻ kiệt sức. Ông im lặng 1 cách khác thường. Thiếu tá Frank Henry, cấp phó của ông có vẻ vững hơn.


    Henry, là 1 người lực lưỡng thấp lùn, đang sử dụng radio đã vẫy tay chào tôi. Đại úy Joe Price, điều phối viên hỏa lực yểm trợ, cúi xuống bên cạnh ông ta. Những nhóm người sống sót nằm ngổn ngang trong chu vi phòng thủ kể cả nhiều chỉ huy đại đội.

    Trung úy Larry Gwin nhìn những lính tiếp viện vừa tới: “ Tôi nhìn thấy Rick Rescorla đến chu vi phòng thủ của chúng tôi với dáng vẻ rất tự tin cùng với nụ cười trên môi, và 1 khẩu M79 khoác trên vai, tay thì cầm khẩu M16 miệng nói” Tốt, tốt, tôi hy vọng chúng nó sẽ dùng toàn lực để tẩn chúng ta vào tối nay và chúng ta sẽ quét sạch bọn chúng”. Tinh thần ấy đã lan ra. Binh lính hoan hô khi từng lính tiếp viện xuất hiện, chúng tôi đứng dậy tiếp đón họ rất là huyên náo. Quân địch chắc hẳn phải nghĩ có cả 1 tiểu đoàn đến tăng viện cho chúng tôi vì tất cả chúng tôi đều la, hét hết cỡ. Thiếu tá Henry trực tiếp gọi tôi và 1 số lính đi lấy đạn tiếp tế mà máy bay đã thả xuống trong chuyến cuối cùng. Chúng nằm trong các thùng gỗ ở phía xa của bãi đáp. Bẳng nhiều cách chúng tôi đã mang hết chúng vào trong chu vi phòng thủ. Khi quay về trong chuyến cuối cùng tôi chạy qua bên phải 1 xác lính Bắc Việt mà tôi đã giết lúc đầu trận đánh. Hắn bị mất nửa thân trái mà tôi thì không thể phớt lờ được”

    Trung úy Pat Payne của trung đội trinh sát vui mừng về quân tiếp viện cũng giống như Gwin. “ Tất cả chúng tôi đều bất ngờ khi thấy những chiếc trực thăng đó bay đến. Chúng tôi chỉ bảo vệ 1 mặt của bãi đáp nên khi họ nhảy từ trực thăng xuống chúng tôi phải la hét để hướng dẫn đường đi cho họ. Tôi có cảm giác là chúng tôi đã thực sự được giải cứu, lính kỵ binh đã tới, giống như trong phim vậy. Tôi ngưỡng mộ sự can đảm của họ khi đáp xuống Albany. Trung úy Rescorla là 1 chỉ huy chiến đấu giỏi nhất tôi từng thấy khi phục vụ 2 kì ở Việt Nam. Anh ấy đi vòng quanh và khen mọi người đã chiến đấu tốt, sẽ được tiếp tế ngay, và mọi sự đã nằm trong tầm kiểm soát. Anh ấy không nói lớn tiếng mà phần lớn chỉ nói thầm. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy anh ấy và những người khác của đại đội Bravo.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sau khi đi bộ trong chu vi phòng thủ, trung úy Rescorla cảm thấy lo lằng” Chúng tôi có quá nhiều lính núp sau cây trong chu vi phòng thủ. Tôi cảm thấy không ổn khi có quá nhiều tay súng ở phía sau. Nhất là trong trường hợp họ bắn sảng khi hoảng hốt. Tệ hơn nữa là cách bố trí chiến thuật sẽ tạo ra tình trạng bất ổn và có thể gây tổn thất cho tiểu đoàn. Ngay cả những người không bị thương cũng cảm thấy buồn bã.”

    Một thương binh vẫn còn đau đớn nằm lẻ loi bên ngoài cái “lò mổ” này là binh nhất James Shadden thuộc trung đội súng cối của đại đội Delta. “Lúc này trời đã sẩm tối,” Shadden nhớ lại “Tôi đã vướng phải 1 trái lựu đạn gài ngay dưới nách, nhận ra rằng lúc này mình còn sống. Sau đó pháo binh bắt đầu bắn đến, đạn pháo rơi xuống làm mặt đất rung chuyển dữ dội. Việc này cứ diễn ra suốt đêm. Tôi khát không chịu nổi, cái chân tôi thì rất đau đớn khiến tôi khó mà không rên la. Tôi nghĩ chắc sẽ sớm được cứu”

    Specialist 4 Jack Smith của đại đội Charlie cũng bị thương và đang nằm trong đám cỏ cao. “Chạng vạng tối thì trận đánh ngừng lại và tôi có thể làm 1 điếu thuốc, tôi đã tự nhủ rằng nếu tôi châm thuốc hút thì địch có thể phát hiện và giết tôi, nhưng tôi không quan tâm. Sau đó tôi ngất đi. Tôi tỉnh lại vào nửa đêm. Đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh đã cho 1 nhóm ra để cố gắng cứu chúng tôi. Một lính đến chỗ tôi và hỏi tôi bị thương ra sao? Anh ta nói họ có 1 số cáng giành cho những người bị thương nặng. Tôi nói “cho tôi đi với anh”. Anh ta nói “đứng lên”. Tôi đứng lên và ngất đi. Họ không thể đưa tôi đi. Họ để lại 1 lính cứu thương với chúng tôi. Tối hôm đó quân Bắc Việt đã cố gắng diệt chúng tôi. Chúng đã bao vây và bắn giết. Trung úy trung đội hỏa lực, Bob Jeanette, đang bị thương rất nặng. Anh ấy đã gọi pháo bắn rất gần chỗ chúng tôi và đã làm 1 số lính Mỹ chết. Nhưng đạn pháo cũng giết lính Bắc Việt khi chúng cố đến tiêu diệt chúng tôi. Việc này đã diễn ra 2,3 lần trong đêm.”
    Bác sĩ William Shucart, bác sĩ phẫu thuật của tiểu đoàn 2 đã đựơc hướng dẫn đến chu vi phòng thủ của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh nằm ở cuối hàng quân bởi 1 trung sĩ của đại úy George Forrest là Fred Kluge. Shucart nói: “ Trời đã sập tối, Kluge nói rằng anh ta sẵn sàng quay trở lại cuối hàng quân. Tôi hỏi anh ta có chắc là muốn làm vậy không?. Anh ta nói” Nhiều quân của ta còn ở ngoài đó, bị mất tích hoặc bị thương, và họ cần chúng ta giúp. Tôi nói” Đi thôi”. Chúng tôi mang theo điện đài, chúng tôi cố gọi trực thăng tải thương đến nhưng họ không thể tới . Hai chiếc Huey chở quân đến nhưng rồi chúng tôi bị địch bắn và trực thăng tải thương vẫn không đến. Khi mà bạn bị đang bắn 1 cách chính xác thì đó là lúc bạn cần tải thương nhất. Tôi không biết họ nổi tiếng ở những đâu, và lúc này tôi hoàn toàn thất vọng với những gã làm việc tải thương. Còn phi hành đoàn của những chiếc Huey slick (trực thăng chở quân) thì thật là xuất sắc.

    Trong số những thương binh được đại úy Shucart và trung sĩ Fred Kluge cứu lúc xẩm tối có Enrique Pujals và 1 số lính khác của đại đội Charlie.

    Họ đã qua đêm trong chu vi phòng thủ của George Forrest tại phía nam ở cuối hàng quân. Trung úy Pujals cũng qua đêm ở đó và được di tản vào sáng hôm sau – anh là 1 trong số những người may mắn.

    Đại úy Forrest kể rằng vào cuối đêm đó anh nhận được 1 cuộc gọi vô tuyến của 1 người xưng là "Ghost 4-6" báo cáo rằng anh ta bị thương nặng với khoảng chục thương binh Mỹ khác nằm xung quanh và lính Bắc Việt đang lùng sục xung quanh để giết họ. Forrest điều trung sĩ Kluge mở một cuộc thám sát rộng trở lại phía cuối hàng quân vào nửa đêm.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Specialist 4 David Lavender là 1 thành viên của nhóm thám sát đi tìm những thương binh của Ghost 4-6. Anh nhớ lại: “ Trung sĩ của chúng tôi tìm những người tình nguyện quay trở lại để đưa ra một số người bị thương và bị chết vì mất máu. Có 23 người gia nhập cuộc thám sát này. Một thương binh có điện đài vì vậy chúng tôi đã liên lạc vô tuyến với họ. Chúng tôi cứ đi lang ********* đến khi tìm thấy đồng đội của mình.


    Có 1 nhóm chừng 23-26 người đang cố gắng tự chăm sóc lẫn nhau. Tình trạng vết thương của họ rất xấu. chúng tôi có 1 lính cứu thương đi cùng và cả 23 người chúng tôi đều cố gắng hết sức để mang họ về. Chúng tôi phải để lính cứu thương và 1 người nữa ở lại. Còn tất cả bọn tôi dìu được 13 người. Chúng tôi cõng họ trên vai, cáng họ, cố đem họ ra bằng mọi cách có thể” Lavender kể lại khi cả nhóm quay về tới vị trí quân Mỹ thì từ chu vi phòng thủ ai đó đã khai hỏa làm bị thương ba người lính đang vác thương binh bao gồm cả Lavender, họ đều bị bắn xuyên qua hông “ Cuối cùng tôi nghe được rằng 12 trong số 13 người được chúng tôi đem ra khi đó đã qua khỏi. Những người ở lại cùng anh lính cứu thương của chúng tôi đêm đó cũng sống sót. Jack P. Smith đã viết 1 bài báo trên tờ Saturday Evening Post về đêm ấy, tôi đã đọc và hồi tưởng lại ký ức ghê gớm ấy. Anh ấy là một người ở lại cùng với người lính cứu thương. Anh ấy đã phải trải qua 1 đêm dài, khó khăn.”

    Joseph H. Ibach là trung sĩ nhất của đại đội chỉ huy trong tiểu đoàn 2. Anh ta cùng đại úy Daniel Boone, chỉ huy đại đội, cùng với hỗn hợp các chàng lính văn phòng, tiếp liệu đã hành quân xuyên qua thung lũng Ia Drang ngày hôm đó. Ibach nói: “ Tôi đi với đại úy Boone và chúng tôi chia thành các nhóm nhỏ cùng nhau. Các nhóm tập hợp từ những anh chàng ô hợp thì giống hơn. Chúng tôi không liên lạc vô tuyến với bất cứ ai. Đại tá Mc Dade và sở chỉ huy các xa khoảng 400-500m phía trên hàng quân. Chúng tôi không thể xác định vị trí của họ nên chúng tôi ở nguyên 1 chỗ, cả buổi chiều và cả đêm. Chúng tôi rất lúng túng và tôi không tin rằng chúng tôi sẽ sống sót. Cuối cùng chúng tôi liên lạc radio được và được chỉ thị là ở nguyên chỗ cho đến khi trời sáng. Khi trời vừa sáng chúng tôi bắt đầu di chuyển và đã tới được sở chỉ huy tiểu đoàn.

    Với quân tiếp viện thuộc đại đội Bravo của Myron Diduryk, chu vi phòng thủ của sở chỉ huy tiểu đoàn được nới rộng ra và được phòng thủ vững chắc hơn. Sự mở rộng này cũng mang lại cho phòng tuyến quân Mỹ thêm nhiều thương binh hơn, một vài người trong số họ đang hấp hối. Hầu hết đều bị thương ngay từ những loạt đạn đầu tiên trong những giờ đầu giao tranh.

    Joel Sugdinis nhớ lại: “Chúng tôi có nhiều thương binh nặng và tiếng rên la thảm thiết của họ đã hối thúc chúng tôi phải nhanh chóng tìm cách giúp đỡ cho họ. Chu vi phòng thủ hầu như không có đồ hỗ trợ về y tế và đại đội Bravo chỉ mang tới được 1 lượng nhỏ những thứ này”

    Chuẩn úy Hank Ainsworth bay trên đầu sở chỉ huy tiểu đoàn 2 cả ngày bằng trực thăng” Tôi đã bay trên đầu họ suốt từ lúc giao tranh bắt đầu và vòng vòng trên đó đến hết đêm. Tôi luôn giữ liên lạc với thiếu tá Frank Henry trên 1 tần số.
    Cuối đêm ông ta gọi tôi. Henry nói rằng ông ta có nhiều người bị thương nặng ở đó, và nếu chúng tôi không sơ tán họ ra thì họ sẽ chết. Tôi gọi trực thăng tải thương và họ đã đến, mở đường bay vào, vấp phải hỏa lực bắn lên và đã từ chối đáp xuống”



    Trong trường hợp này Frank Henry biết mình phải làm gì. Ông bảo Ainsworth gọi cho tiểu đoàn trực thăng Huey “slick” số 229, những người đáng tin cậy. Ainsworth thông báo cho các phi công của 229, báo rằng bãi Albany đang đụng nặng, mà tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 kỵ binh lại đang có nhiều lính bị thương nặng và họ sẽ chết nếu không được sơ tán. Ainsworth nói: “ Cả cái đơn vị chết tiệt ấy đều tình nguyện. Tôi phải nói với họ rằng tôi chỉ cần 2 chiếc trực thăng mà thôi.”
  5. hungbonglau

    hungbonglau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2011
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Bạn ngô thị 96 post liên tiếp từng ngày như vậy thấy đã quá! Bạn cớ post kiểu một tuần một lần thì anh em chờ mỏi mắt
    Hi vọng sẽ đọc được bài tiếp trong thời gian sớm nhất
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Mặc dù Ainsworth chỉ gọi 2 trực thăng, đã có 4 chiếc Huey “slick” cất cánh từ trại Holloway Turkey Farm lúc 9g50 tối cho 1 chuyến bay 40 phút tới LZ Albany. Đại úy Bob Stinnett một lần nữa lại dẫn đầu, theo sau là đại úy Bruce Thomas, chuẩn úy Ken Faba, và chuẩn úy Robert Mason.

    Khi các trực thăng bay đến vùng lân cận của Albany, các phi công đã không thể kiếm ra được trên mặt đất 1 khoảng trống nhỏ an toàn nào. Stinnett kể lại: “ Tôi đã nói chuyện với 1 anh chàng ở dưới đất (đại úy Jim Spires). Anh ta biết chúng tôi đang đến. Anh ta mang một cái đèn bin và bước ra chỗ trống để xem chúng tôi có thể thấy anh ta được không? Tôi bay vòng quanh cho đến khi thấy được ánh đèn của anh ấy. Chúng tôi tìm cách tiếp đất và đang thu hút những luồng đạn lửa từ dưới mặt đất. Trên đường vào chúng tôi gặp phải hỏa lực rất dữ dội từ các loại súng cá nhân. Tôi không biết chắc được bãi đáp rộng bao nhiêu, bởi vì tôi không nhìn thấy gì cả. Chúng tôi bay vào theo hàng dọc, chiếc nọ sau chiếc kia. Tôi là chiếc dẫn đầu, sau đó là chiếc thứ 2, rồi thứ 3. Tôi bảo chiếc thứ 4 cứ bay vòng vòng vì không đủ chỗ”

    Thông thường các phi công thường giảm ga động cơ ngay khi đáp xuống để tiết kiệm nhiên liệu. Nhưng tối nay thì không. Stinnett nhớ lại: “Mọi thứ đều không cho phép tôi làm điều đó, nhằm giữ cho động cơ quay đủ số vòng quay trong 1 phút. Họ đã nói với chúng tôi là các thương binh có thể đi được. Vậy mà khi tới đó bọn họ đều phải nằm cáng. Trưởng phi hành đoàn và xạ thủ của tôi phải ra và gấp ghế ngồi lên để đưa cáng vào. Sau đó thì hỏa ngục ập đến. Đạn bắn đến từ khắp mọi nơi. Tôi lập tức kéo ga, chiếc máy bay lập tức bốc lên cao 30m và tiếp tục cất lên . Chúng tôi vọt quá nhanh nên đã bỏ lại trên mặt đất trưởng phi hành đoàn và xạ thủ mà không hay biết. Chúng tôi đành bỏ họ lại. Trong trực thăng đã có thương binh. Khi quay về tôi đếm được 30 lỗ thủng trên chiếc trực thăng. Quá đủ cho tôi và chiếc Huey của tôi. Ba chiếc trực thăng cất cánh sau tôi đã đổ xuống dụng cụ y tế và mang về thêm nhiều thương binh nữa cùng phi hành đoàn của tôi. Thiếu tá Frank Henry đã dùng đèn bin ra tín hiệu cho lần này.”

    Joel Sugdinis đã hồi hộp theo dõi những phi công dũng cảm đã liều mình vì những thương binh tại Albany. “ Lúc đó tôi đã nghĩ họ là những phi công dũng cảm nhất mà tôi từng thấy. Họ ngồi trơ gáo ra và tôi hoàn toàn chờ đợi chứng kiến họ bị bắn hạ bất kỳ lúc nào. Họ đã được Frank Henry hướng dẫn. Có thể nhìn thấy đạn bắn lên, nhưng những chiếc máy bay đó không hề e ngại. Họ đã hạ cánh, tải thương binh lên rồi bay đi chỉ trong vài giây.”

    Thượng sĩ tiểu đoàn James A. Scott là một trong những thương binh đó. Ông được trực thăng đưa ra ngoài gần 11 tiếng sau khi bị bắn vào ngực. Scott kể: “ Khoảng giữa đêm một chiếc trực thăng bay đến. Tám người bị thương nặng nhất được khiêng lên. Họ đưa tôi lên chiếc trực thăng ấy. Lúc đó tôi trông giống một người trong trận Alamo, với máu chảy từ đầu tới chân, áo quần thì rách bươm…Chúng tôi lên đường về trại Holloway.”

    Sáu tuần sau đó, khoảng đầu tháng 1, Thượng sĩ Scott đã phục hồi sức khỏe tại quân y viện Walter Reed ở Washington D.C. Ở đó ông đã đọc một mẩu chuyện trong tạp chí Time số ra ngày 31/12/1965 trong đó dẫn lời 1 lính cứu thương của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh kể rằng thượng sĩ Scott đã bị giết ngay từ đầu trận đánh tại LZ Albany. Những bản báo cáo về cái chết của ông đã được ông liệt vào loại ba láp.

    Các trực thăng tham gia sơ tán thương binh từ LZ Albany vẫn chưa hoàn tất công việc. Chuẩn úy Hank Ainsworth, khi vẫn còn trên không, nhận 1 cuộc gọi của thiếu tá Henry nói rằng ông ta cần thêm 1 trực thăng để chuyển đi 3,4 thương binh nữa. Ainsworth đã tình nguyện làm việc này với chiếc trực thăng chỉ huy.

    Ainsworth kể lại: “Ơn chúa. Tôi đã không bị ăn đạn. Tôi bay vào và bay ra xuyên qua 1 bức tường lửa mà không bị trúng 1 viên đạn nào cả. Tôi nghĩ tôi là một trong những phi công may mắn nhất đã từng bay vào đó. Không bị trúng đạn lần nào.”
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Giờ đây chu vi phòng thủ Albany mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa yên tâm cho đến hết đêm. “ Có 5 người lính vào được chu vi phòng thủ trong đêm” Rick Rescorla nhớ lại: “Larry Gwin chỉ về phía đông nam và nói những gì còn lại của tiểu đoàn ở ngoài đó với 3 nhóm lớn và 1 số nhóm nhỏ hơn. Tôi đến chỗ trung úy Gordon Grove đang đứng một mình ở góc đông bắc chu vi phòng thủ. Anh ta là 1 cựu trung sĩ từng trải qua khóa OCS đào tạo trung đội trưởng. Anh ta nói anh trở vào đây đề nhờ giúp đỡ nhưng lại có lệnh không cho quay về. Anh ta trông rất thất vọng. Anh nhìn đăm đăm vào hàng cây mong đợi lính của mình xuất hiện.”

    Sau nửa đêm có vài tiếng súng vang lên từ bên trong chu vi phòng thủ. Một người lính ở phía sau Rescorla 20m, bên trong chu vi, do hốt hoảng đã bắn sảng 3 loạt đạn. Rescorla đi lại và chửi rủa không tiếc lời vào nhóm lính ở giữa chu vi phòng thủ. “ Nếu tao mà nghe thêm phát súng nào nữa của chúng mày tao sẽ lột hết vũ khí. Không đứa nào được bắn trong chu vi. Nếu muốn bắn thì cút ra ngoài.”

    Thông tin liên lạc được duy trì suốt đêm với các nhóm bị cô lập phía bên ngoài chu vi phòng thủ. Nếu có chủ nghĩa anh hùng thì đó chính là các nhóm nhỏ những thương binh băng bó đầy mình tự bảo vệ lẫn nhau suốt đêm dài. “Họ giống như những người bạn cùng phường săn vậy” Rescorla nói “ sống theo bản năng, trông chừng bảo vệ lẫn nhau”

    Trong chu vi phòng thủ có những tranh luận về việc tung ra 1 chuyến thám sát đêm giống như đại đội của đại úy Forrest đã làm ở phía cuối đội hình.

    Rescorla nhớ lại: “ Ý định là băng qua vùng hỗn loạn của bãi chiến trường để đánh giá tình hình hiện thời. Nhưng số quân cho chuyến đi ấy sẽ làm suy yếu chu vi phòng thủ. Rồi nỗi sợ bị bắn bởi quân bạn hay có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng quân địch vẫn duy trì sự hiện diện. Cuối cùng là mang thương binh về rất khó thành công cho dù họ cần được sơ tán ngay lập tức. Đợi đến sáng đã chở thành câu cửa miệng của mọi người”

    Trung úy Larry Gwin của đại đội Alpha nhớ lại vào cuối đêm thì có 1 lính bị thất lạc của đại đội đã bò được vào chu vi phòng thủ của Mỹ. “ Trung sĩ James A. Mullartey thuộc trung đội 1 đã trở về đựơc với chúng tôi. Chuyện của anh ấy như sau: Quân Bắc Việt đã tàn sát các thương binh của chúng tôi. Một tên tiến lại gần anh ta, dí súng lục vào mồm anh và bóp cò. Viên đạn xuyên ra sau cổ. Anh ta gục xuống và chúng bỏ mặc cho anh chết. Nhưng anh ấy vẫn còn sống, anh tỉnh dậy lúc đêm đến và bắt đầu bò về với chúng tôi.”

    Bình minh ngày thứ 6, ngày 18 tháng 11 đã đến trên bãi chiến trường Albany ngày. Một cú sốc nặng nề đang đón chờ những lính Mỹ sống sót sau cái đêm đó. Đến lúc này vẫn chưa ai có được đánh giá rõ ràng về mức độ tổn thất của tiểu đoàn 2, trung đoàn trung đoàn 7 kỵ binh. Họ đang cố tìm hiểu.

    Đại úy Joel Sugdinis, chỉ huy đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn trung đoàn 7 kỵ binh, nhớ rằng lúc bình minh ngày 18 ló rạng thì toàn bộ khu vực đều yên tĩnh. Mặc dù không được yên tâm cho lắm. “Chúng tôi thử làm 1 đợt “Bắn điên loạn” (bắn bằng các loại súng tự động mục đích để hù dọa, xua đuổi kẻ thù) nhưng không thấy có phản ứng nào xảy ra. Chúng tôi bắt đầu từ từ tiến ra phía trước để thám sát các khu vực không thấy được từ chu vi phòng thủ. Không thấy đối phương, chiến trường rất yên lặng. Chúng tôi làm mọi cách có thể để thu nhặt hết những người chết của mình. Quân Bắc Việt đã phải trả giá đắt ngang vơi chúng tôi.”
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Xác lính Mỹ được lấy ra, đem chở về chu vi phòng thủ, gói vào poncho, đeo thẻ, và được xếp chồng lên nhau giống như người ta xếp củi vậy. Khi trực thăng Chinook tới để đem họ đi tôi nhớ rằng các phi hành đoàn đã bị choáng khi thấy đống “hàng hóa” ấy. Chúng tôi không chôn lính địch. Chiến trường đầy mùi tử khí”. Trung úy Gwin, cấp phó của Sugdinis nói: “Ngày hôm sau là một cơn ác mộng kinh hoàng khi chúng tôi ra ngoài tìm kiếm những người chết và mất tích. Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng tôi đều là 1 mảnh ghép của bức tranh hành động khi nó dần dần hè lộ ra ngày hôm đó. Sau đó tin được truyền qua điện đài. Đại đội Bravo tìm thấy 1 người còn sống thuộc trung đội 2 của chúng tôi. Anh ta bị thương nặng ở chân và dựa người vào 1 cái cây. Anh ta bị bỏng bởi napalm và ráng chờ đợi trong đêm. Lính Bắc Việt đã dí súng lục vào mắt anh ta và bóp cò. Bắn vào mắt anh ta, làm anh mù, nhưng anh vẫn sống sót. Tôi thấy anh ta được đưa lên cáng, miệng vẫn phì phèo thuốc lá và chửi thề tục tĩu.

    “Khi họ đến kiểm tra và đưa xác chết đi, tôi đã mất bình tĩnh” Trung úy Gwin thú nhận.” Khi tôi nghe nói rằng Don Cornett đã bị giết, tôi thấy tan nát cõi lòng. Tôi nghe nói rằng đại đội Charlie đã bị tiêu diệt. Điều đó rõ rành rành vì trung đội 1 của chúng tôi chỉ còn là những xác chết đang trương lên trong ánh nắng mặt trời. Tôi đi đến chỗ trung đội 2 và tìm thấy 3 người lính nằm chung với nhau bị bắn nát bét và bị thiêu cháy bởi napalm. Tôi đã cố gắng chôn chặt những ký ức đó suốt 15 năm”

    Nhiệm vụ thu dọn chiến trường khủng khiếp này đè lên vai lính đại đội Bravo của đại úy Myron Diduryk và lính đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn trung đoàn 5 kỵ binh của đại úy George Forresl. Diduryk đã viết: “Ngày hôm sau, ngày 18. Tôi đi khắp chiến trường và đó là một cảnh địa ngục thảm khốc nhất có thể thấy. Xác lính Bắc Việt và lính Mỹ nằm khắp mọi nơi, trộn lẫn với nhau. Đó là cuộc chiến đấu của địa ngục. Một vài lính Bắc Việt bị giết bởi lưỡi lê. Tôi lại phải làm lại cái nhiệm vụ thu hồi tử sĩ đau xót này. Thời gian lần này có nhiều hơn. Tôi mất cả ngày 18 và 19 để thực hiện xong nhiệm vụ.”

    Specialist 4 Dick Ackerman của trung đội trinh sát nhớ lại. “
    Trước khi trời sáng, không ai được phép rời khỏi hố cá nhân, không được phép đứng dậy đi lung tung. Có lệnh là sẽ có 1 đợt “Bắn điên loạn”. Ai đó thật thông minh. Khi đến lúc bắt đầu khai hỏa. Quân Bắc Việt bắt đầu nhảy ra, bỏ chạy, nhảy từ tên cây xuống. Tôi không cho rằng đó là lực lượng chính của địch, có thể chỉ là 1 toán có nhiệm vụ chặn hậu. Sau đó chúng tôi bắt đầu tỏa ra. Tôi ở lại gác trong chu vi phòng thủ để những người khác có thể thu nhặt thương binh phía sau chúng tôi. Có tiếng súng bắn lác đác. Những gì chúng tôi thấy sau khi mở rộng chu vi phòng thủ là không thể tin được. Những xác chết, còn nguyên hay những mảnh xác nằm khắp mọi nơi.”

    “Một số vẫn còn sống. Quân Bắc Việt đã vào vùng phục kích hồi đêm để thu hồi người chết và bị thương của chúng. Khi chúng tìm thấy bất kỳ người nào còn sống của chúng tôi. Chúng đánh họ đến chết, đâm họ bằng lưỡi lê, chém họ để tránh bộc lộ vị trí và có thể bị bắn bởi chúng tôi. Chúng tôi thu dọn cả ngày và quay vào chu vi phòng thủ khi đêm xuống. Hôm sau, ngày 19, chúng tôi lặp lại công việc nhưng tôi bây giờ đi khiêng xác, chứ không ở lại gác chu vi phòng thủ nữa.”

    Bác sĩ William Shucart đi lên chỗ đội hình bị tan vỡ từ chu vi phòng thủ của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn trung đoàn 5 kỵ binh đến chu vi phòng thủ của Albany buổi sáng ngày 18. ”Trên đường đi tôi thấy rải rác khắp nơi những thương binh đã nằm ngoài đó suốt đêm. Tất cả đều rất bình tĩnh. Tôi nghĩ: Tôi đã qua đêm với cùng 30 hoặc 40 lính hay ở cùng với cả đại đội vậy mà tôi vẫn sợ vãi ***. Nếu tôi phải ở đơn độc ngoài đó trong rừng cây như những gã đó chắc tôi sẽ chết mất vì sợ. Họ thật là đáng nể”
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trung úy Pat Payne, chỉ huy trung đội trinh sát nói: “Chúng tôi di chuyển thận trọng và bắt đầu tìm kiếm tất cả những người chết và bị thương của chúng tôi càng sớm càng tốt. Một trong những tổn thất lớn nhất là trung úy Don Cornett. Tôi đã thấy xác của anh ấy. Anh nằm sấp bên ngoài rìa của bãi đáp. Khuôn mặt anh ngoảnh sang 1 bên. Anh trông giống như đang ngủ. Một chiếc trực thăng đáp xuống làm gió bốc lên. Tóc của Cornett bay nhẹ trong gió và tôi nhận ra đó là 1 con người tuyệt vời đã bị giết mất. Tôi bọc anh ấy bằng tấm poncho của anh và phụ khiêng xác anh lên trực thăng.”

    Đại úy Skip Fesmire, chỉ huy đại đội Charlie: “Trong khi càn quét qua khu vực lúc trời vừa sáng chúng tôi tìm thấy nhiều xác lính Mỹ và lính Bắc Việt quấn lấy nhau trong 1 trận chiến sinh tử. Đại đội Charlie, lúc đó dưới sự điều khiển bởi trung úy Don Cornett, đã vận động tới cánh phải của đại đội Delta và đâm đầu ngay vào đợt tấn công ồ ạt của quân Bắc Việt. Rải khắp chiến trường là 1 số lớn xác địch quân, cùng với 50 xác chết cùng 50 người bị thương của đại đội Charlie và hầu như toàn bộ trung đội đi đầu của Sugdinis.”

    Specialist Jack P. Smith, 1 trong những lính bị thương của đại đội Charlie: “Khi trời sáng, nơi đây trông giống như một lò mổ thịt của ác quỷ vậy. Có những xác người treo tòn ten trên cây. Mặt đất thì trơn nhẫy bởi máu. Những người bạn gần gũi với tôi nhất đều ở xung quanh tôi cả, và họ chết hết rồi. Sau đó họ bắt đầu gọi trực thăng đến đưa chúng tôi đi. Họ đặt tôi vào poncho, khiêng lên trực thăng và tôi đã cuốn xéo khỏi nơi đó. Tôi được đưa sang Nhật điều trị và đã phục hồi và lại quay lại Việt Nam. Tôi không còn phải ra chiến trường nữa, rồi rốt cuộc cũng được rời khỏi Việt Nam. Khi tôi về nhà nghỉ phép, cha mẹ tôi rất vui mừng. Vài ngày sau khi xem thời sự buổi tối, tôi thấy cảnh đại đội đang nhảy ra khỏi trực thăng, và tôi đã bật khóc, bỏ ra khỏi phòng.”

    Trung úy Rescorla lại có cách nhìn khác đối với đợt bắn Mad Minute lúc bình minh. Đó là 1 quyết định đáng tiếc. Tiếng súng đã phá vỡ sự im lặng và chu vi phòng thủ đã bị rúng động bởi đợt bắn khinh suất này. Một số lính sống sót của chúng tôi vẫn còn nằm ngổn ngang bị che khuất bởi cây cối và những ụ mối trong vòng 500m, tầm bắn hiệu quả của những khẩu M16 của chúng tôi.”

    “Cái *** gì đang xảy ra vậy, các anh bắn vào chúng tôi sao?” Các điện đài cuống cuồng gọi đến. Sẽ không bao giờ biết được có bao nhiêu người bị giết hay bị thương do đợt bắn của chúng tôi ? Ơn chúa vì ở đó còn có cây cối, tổ mối ,hay những mô đất có thể ẩn núp.”

    Rescorla mở 1 đường đi xuống cánh phía Tây những gì còn lại của đội hình tiểu đoàn. Anh gọi nó là “ 1 vụ tai nạn giao thông dài, đẫm máu ở trong rừng già. Có người lính chết với súng nằm bên cạnh, tay còn nắm chặt bao thuốc lá. Xa hơn tôi thấy 1 sĩ quan đeo phù hiệu lính biệt động (Ranger), đó là Don Cornett. Anh ấy bị trúng nhiều phát đạn. Những lính khác trông giống như họ vẫn chưa được lệnh di chuyển ra ngoài. Những người lính súng cối vẫn còn ngồi thẳng, dựa vào những tổ mối, đạn cối vẫn còn đeo sau lưng nhìn giống như họ đang trong lúc giải lao vậy. Ở đây và kia nữa, giữa những xác lính Mỹ là những xác nhỏ hơn mặc đồ kaki. Vòng quanh 1 tổ mối, tôi nhìn thấy 1 số quân Bắc Việt trong quân phục kaki đang cử động. Tôi bắn 2 lần rồi chúng tôi thận trọng tiến lên. Ba trong số chúng. Có hai lính mang súng trường đã chết. Còn một tên đội mũ cối, còn rất trẻ với khuôn mặt bầu bĩnh, đang nằm sấp. Hắn ta đang hấp hối, đôi mắt còn hấp háy, áo sơ mi ướt đẫm máu. Chúng đều đã bị thương, và gắng sức tụ lại cùng nhau, đó là 1 tổ chiến đấu tốt. Lính đại đội Charlie hoặc Alpha đã bắn chúng què.” Trên người lính đối phương đang hấp hối, Rescorla nhìn thấy 1 vật sáng loáng, 1 cái kèn, to đã méo mó của quân đội Pháp sản xuất năm 1900 có khắc dòng chữ “Couesnon & Cie, Fournisseurs de L'Armee. 94 rue D'Ancoieme Paris” (Couesnon & Cie, xưởng sản xuất quân cụ. số 94 đường D'Ancoieme Paris).

    Trên 1 chiến trường xưa, có thể là Điện Biên Phủ, những lính ********* chiến thắng đã thu nó làm chiến lợi phẩm. Và họ khắc thêm dòng chữ: Hai chữ Hán thô thiển trên cái kèn. Tạm dịch là: “Phụng sự vĩnh cửu và hùng cường” (Trung – Dũng?). Giờ đây, tại thung lũng Ia drang, vật kỷ niệm chiến thắng lại đổi chủ 1 lần nữa. Trung đoàn 7 kỵ binh đã chiếm được cái kèn 1 lần nữa, và đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 sẽ lại thổi nó trên chiến trường Việt Nam.
  10. hungbonglau

    hungbonglau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2011
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    - chi tiết cây kèn này được đưa vào trong phim như một điểm nhấn mạnh. một chi tiết rất hay. Chỉ mới đọc đến đoạn này của truyện nhưng cũng có thể thấy là mặc dù đã cố gắng nhưng phim đã không thể khắc họa được hết sự thực chân thực nhưng tàn khốc của trận đánh. Phim quá nghiêng về thổi phồng hình ảnh lính mỹ mà lờ đi lực lượng bắc việt.
    - Quan điểm cá nhân của mình thì anh bộ đôi của ta chiến đấu không hề kém lính mỹ không chỉ trong riêng trận đánh này mà là toàn cuộc chiến việt nam. Vấn đề tại sao quân đội ta thiệt hại nhiều về sinh mạng là do hầu như bị áp đảo vể hỏa lực (các loại máy bay, trực thăng, xe tăng, thiết giáp....). Chứ nếu cứ đánh tay bo thì mình tin là chẳng lính nước nào đánh hay bằng việt nam thời kì này.
    - Trận đánh này diễn ra trong giai đoạn đầu chống mỹ. Khi mà quân đội việt nam đã thực sự trưởng thành qua cuộc chiến tranh kéo dài cả chục năm với pháp. Về vũ khí trang bị cho cá nhân người lính bộ binh khá hoàn chỉnh. Khẩu AK 47 thời đó không phải xoàng dâu nhé, mà lúc bắt đầu đánh mỹ, lực lượng chủ lực của ta đã đồng bộ 100% AK (tất nhiên lực lượng dân quân sẽ được thừa kế những vũ khí cũ hơn chút). Trong trận đánh kiểu giáp lá cà như trận này mình không tin viêc quân ta không xài chiến thuật tấn công ào ạt thô thiển học như trong phim. Địa hình đồi núi như vậy dùng mà đánh như vậy theo mình là không đúng. Trong phim miêu tả nhiều chi tiết cực kì vớ vẫn ví dụ như đoạn một anh chỉ huy quân ta thổi kèn xua quân lao từ bụi dậm ra, vô lí hơn lại còn việc cứ cầm AK xông lên để......đâm lê chứ không bắn. Tạo điều kiện tuyệt vời cho anh lính mỹ bắn trước. Xem cũng bực mình.
    Mình mà có cơ hội làm phim, mình sẽ để cho mấy anh lính mỹ chưa bán phát nào đã sợ và ......ra quần hết!

Chia sẻ trang này