1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

we were soldies once..and young Phần tiếp theo

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 30/12/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Khi về tới chu vi phòng thủ của mình thì có người đưa cho tôi khẩu súng lục cỡ .45. Đến lúc này thì toán của tôi đã có 1 số bị thương vong. Cho đến lúc này hỏa lực đã bao trùm chúng tôi và dường như là nhắm trực tiếp vào chúng tôi. Vì chúng nó đã phát hiện ra ngay sau khi tôi lui về. Chúng liền nã ngay các loại súng tự động,súng trường, cối hạng nhẹ hay lựu đạn phóng từ súng trường, thủ pháo vào vị trí của chúng tôi. Tôi không còn nhớ mấy khẩu cối của chúng tôi nằm đâu lúc đó nữa. Lệnh cho chúng tôi từ đại úy Fesmire, được truyền tiếp qua trung úy Don Cornett, là di chuyển ra lập thành 1 hàng ngang chứ không nói gì đến việc đặt súng cối. Nên chúng tôi phải bỏ lại chúng khi di chuyển đễ dễ vận động.

    “Lúc này chúng tôi đã gặp rất nhiều thương vong, chúng tôi cố gắng bắn chính xác nhưng không thể nhìn thấy mục tiêu nào cả. Tôi cố gắng chỉ huy lính rà soát những bụi cây xung quanh chúng tôi. Trung đội tôi vẫn ở trong chu vi phòng thủ, dù đã tản rộng ra vẫn loanh quanh chỗ cũ. Rõ ràng là chúng tôi đã bị bao vây và bị mắc kẹt, vì giờ đây chúng tôi bị bắn từ mọi phía. Có hai người lính tình nguyện cố thử phá vây để tìm sự giúp đỡ. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với họ.

    “Sau đó tôi bị dính đạn lần thứ nhất. Đạn trúng đầu gối bên phải của tôi. Trong buổi chiều hôm ấy tôi bị dính đạn 2 hay 3 lần cùng vài mảnh thủ pháo của chúng. Một viên đạn súng trường bắn trúng mũ sắt của tôi, trúng ngay đằng trước mũ. Chiếc mũ bị xuyên thủng nhưng đã làm lệch hướng viên đạn. Đầu tôi bị 1 vết rách sâu, tôi có thể cảm thấy máu chảy xuống. Không biết vết thương tiếp sau sẽ chết tiệt như thế nào đây? Từ lúc bị thương ở đầu gối tôi toàn nằm ngửa trên mặt đất. Nhưng rồi tôi lại bị bắn trúng mông. Không có lính cứu thương, cũng chẳng có ai băng cho tôi hết. Tôi cứ nằm đó và bị mất máu. Vậy vẫn là tốt lắm rồi.

    “Không ai di chuyển hay bò ra ngoài được. Có vài lính Mỹ ở cạnh trung đội tôi có được chỗ núp tốt hơn. Rất có khả năng chúng tôi cũng bị dính đạn của quân bạn. nhưng không còn nghi ngờ gì nữa chúng tôi đang bị địch bắn rát. Điện đài của chúng tôi đã bắt tần số của tiểu đoàn. Tôi đã nghe thấy 1 cuộc nói chuyện mà tôi hiếm khi nghe thấy trên mạng liên lạc cấp đại đội: Những chỉ dẫn cho không yểm, các phi công đang yêu cầu chỉ dẫn chỗ để thả bom napalm. Tôi xen vào nói với họ rằng napalm thả rất gần nơi tôi nghĩ rằng đang có quân ta. Nó không gần chỗ tôi lắm nhưng tôi có thể nhìn thấy chỗ nó được thả xuống. Tôi báo họ biết rằng có lẽ họ đã oanh tạc nhầm vào quân ta rồi. Họ nói tôi hãy biến khỏi mạng, rằng họ không muốn có quá nhiều người nói chuyện.

    “Dù vậy, tôi đang có điện đài hoạt động tốt, sóng mạnh nên tôi không chịu thua. Sau khi tôi dò được kênh khác tôi lo lắng chuyển sang vì sợ bị mất liên lạc. Cuối cùng tôi cho rằng họ đã chuyển qua mạng liên lạc của tiểu đoàn. Tôi dừng lại và nghe hết những cuộc đàm thoại, sau đó tôi bắt liên lạc với những người khác.

    “Giờ đây hầu hết những người ở cạnh tôi đều đã bị trúng đạn. Tôi nhớ những gã đang núp kín đã hét lên với tôi: “Chuồn ra khỏi đó đi’ Tôi quát trả rằng thật rất khó di chuyển, rằng tôi bị thương khá nặng. Họ hét lên là sẽ giúp tôi bò đi còn tôi thì nói với họ rằng tôi không thể bỏ cái điện đài lại được. Đúng lúc ấy thì 1 điều khó tin xảy ra.

    “Trong đại đội có 1 tay binh nhì lúc nào cũng bị coi là trốn việc hay vờ vịt. Luôn luôn gây rắc rối. Cậu ta đứng dậy trong mưa đạn, chạy đến và nói: “Thiếu úy, tôi sẽ mang cái điện đài và giúp anh ra khỏi chỗ này’. Lúc cậu ấy cúi xuống kéo cái điện đài ra thì bị trúng 1 phát đạn vào đầu và gục xuống chết ngay.

    “Những tuần sau đó, khi tôi nằm trong quân y viện, tôi đã thử xin truy tặng huân chương cho cậu ấy. Nhưng không thấy có phản hồi gì. Và đến giờ tôi không thể nhớ tên cậu ấy là gì nữa.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Khi trời tối chúng tôi vẫn ở chỗ cũ. Tôi cố gắng giữ liên lạc với bất cứ ai tôi kết nối được. Trận đánh có 1 lúc lắng dịu và bất ngờ tôi liên lạc được với 1 đơn vị pháo binh. Lúc này tôi có thể nhìn thấy quân Bắc Việt đang vận động xung quanh khu vực. Từng toán 10, 20 tên hay nhiều hơn chạy xung quanh chu vi phòng thủ của bãi đáp. Chúng có lẽ cách chu vi phòng thủ của bãi đáp khoảng 50-100m, và quân địch ở giữa chúng tôi và LZ

    “Không biết làm sao mà tôi lại bắt liên lạc được với đơn vị pháo binh ấy. Nó giúp tôi thuyết phục họ cho pháo kích vào khu vực đó. Rốt cục họ bắn vào đấy 1 hay 2 quả đạn phốt pho trắng. Tôi không thấy được đạn được bắn xuống chỗ nào và tiếng nổ của đạn phốt pho trắng thì không lớn như đạn nổ thường. Cuối cùng tôi bảo họ dùng đạn HE (đạn nổ) nên tôi đã có thể nghe thấy và chỉnh pháo vào đúng nơi tôi nhìn thấy địch quân di chuyển.

    “Tôi có lẽ không thể biết hiệu quả của đợt pháo kích do tôi chỉ điểm nếu không có 2 việc xảy ra sau đó. Khi tôi trở về Mỹ mấy tháng sau, tại quân y viện St. Albans của hải quân, tôi gặp 1 ngừơi ở tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh có tham gia trận đó đã đến để cảm ơn tôi về đợt pháo kích kia. Khi đang tập đi trong phòng thể dục với đôi nạng thì anh ấy đến, cũng đi nạng như tôi. Anh ấy bị mất 1 chân. Anh ấy nói đợt pháo kích đã khiến anh ấy mất 1 chân nhưng nó giúp anh sống sót và anh rất biết ơn. Tôi cảm thấy choáng váng. Sau đó vào năm 1971, khi tôi làm nhân chứng tại 1 phiên tòa ở toà án quân sự Fort Leavenworth thì ngẫu nhiên gặp trung sĩ Howard của đại đội Charlie. Trong trận đánh anh ấy và lính của anh ở 1 vị trí nằm phía trước chỗ tôi. Howard kể rằng mỗi khi quân địch tiến gần đến chỗ họ thì lại có pháo kích rất gần và đánh tan chúng. Anh nói hỏa lực pháo binh là thứ duy nhất chặn quân địch lại và cứu sống nhóm của anh ấy. Tôi cảm thấy thật dễ chịu khi biết mình đã làm được việc tốt. Còn lúc đó tôi phải tranh cãi mãi với họ để họ dùng đạn HE.

    “Có 1 lúc nào đó tôi bị mất khái niệm về thời gian chỉ chỉ còn biết khi trước và sau khi trời tối thôi. Tôi nhớ đêm đó tôi đã liên lạc điện đài với 1 người, báo cho họ rằng tôi nghe thấy tiếng quân địch đang đi, nghe thấy tiếng súng lục và súng trường bắn từng phát một, tiếng ai đó thét lên hoặc òa khóc và sau đó là 1 phát súng. Tôi biết điều chó má đang xảy ra. Bọn địch đang hạ sát những thương binh của chúng ta.

    “Khi cuộc tuần thám để giải cứu đã đến phía nam chỗ tôi. Tôi bắn khẩu súng lục cỡ .45 để chỉ hướng cho họ. Họ đã thu nhặt được xa hơn về phía nam 1 số lính Mỹ bị thương. Khi toán tuần thám đến chỗ tôi, tôi nghe thấy người cầm đầu nói anh ấy chưa bao giờ hình dung là có nhiều người bị thương như thế, số lượng thương binh làm anh ấy bị bất ngờ. tôi nghe anh ấy hỏi ‘Ai phụ trách ở đây?’. Tâm trí tôi bị tê liệt một lúc dù có nghe tiếng anh hỏi, rồi sau cùng tôi cũng trả lời được: ’Ở đây’. Họ mang theo 1 lính cứu thương và cậu ấy đã tiêm cho tôi 1 liều morphine. Đó là liều morphine đầu tiên, lần sơ cứu đầu tiên tôi nhận được sau hơn 12 giờ đồng hồ. Chân tôi đã được người lính cứu thương buộc garo cầm máu.

    “Người chỉ huy toán tuần thám nói với tôi rằng anh ấy không thể mang tất cả mọi người đi hết được vì anh ấy không có đủ người. Anh nói anh sẽ để tôi và những người khác ở lại cúng cậu lính cứu thương và chỉ mang đi những thương binh có tình trạng xấu nhất. Sau khi họ đi tôi biết ít nhất 1 lần địch quân đã trở lại. Một toán khoảng từ 20 đến 30 tên. Chúng tôi có thể thấy quân địch đang di chuyển, trời đêm đó sáng trăng và không có mây, tầm nhìn khá rõ.

    “Khi bình minh cứu rỗi đến với chúng tôi. Ai đó đưa cho tôi 1 bi đông. Tôi khát khô cả họng. Suốt đêm người lính cứu thương chỉ cho tôi uống 1 hay 2 ngụm nước. Khi cứu viện tới thì tôi đã uống gần hết bi đông nước. Tôi nhớ tôi được quân y phân loại ở 1 nơi nào đó có thể là trại Halloway. Sau đó khi tôi tỉnh dậy tôi thấy mình ở 1 bệnh viện tại Qui Nhơn. Một đồng đội là sĩ quan, Paul Bonocorsi, người của đại đội Charlie đã được thuyên chuyển làm nhiệm vụ liên lạc 1 tuần trước trận Ia Drang tới đó để thu dung những lính của đại đội Charlie. Có 108 người trong danh sách quân số sẵn sàng chiến đấu vào sáng ngày chúng tôi khởi hành đến Albany, và danh sách ấy vào ngày hôm sau chỉ còn có 8 người.

    “Tôi chuyển đến Fort Dix, New Jersey vào lễ Tạ ơn năm 1965 và đi xe cứu thương đến quân y viện St. Albans Naval Hospital khu Queens, ở gần nhà tôi. Tôi ra viện vào ngày Memorial Day (tương tự ngày 27/7 ta) cuối tháng 5 năm 1966. Điều trị ngoại trú thêm 3 hay 4 tháng nữa. Sau đó thì tạm cho ra quân và chính thức giải ngũ năm 1971.

    “Tôi nhớ lại khi làm nhân chứng trong phiên tòa quân sự tại Leavenworth. Đó là trường hợp 1 lính của đại đội Charlie, đã uống say khướt vào tuần trước trận Albany, hắn ta chĩa súng trường vào trung sĩ của hắn và bóp cò. Súng không nổ có thể do không nạp đạn hay đạn bị lép. Sau đó hắn bỏ đi để tìm bắn chỉ huy đại đội. Hắn rình khi chúng tôi ra và bắn nhiều phát. Hắn bị tòa án binh kết án tù nhưng hắn kháng án, do vậy họ tiến hành xử phúc thẩm nhưng lúc này chẳng còn mấy ai có thể đến để làm chứng.”
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    PHẦN III-KẾT CỤC


    24/ TIN TỨC ĐANG TỚI

    Trong chiến tranh, sự thật là những thương vong đầu tiên. - Aeschylus


    Vào cuối ngày 18/11, chuẩn tướng Dick Knowles, người mà sở chỉ huy đang bị ngày càng đông các phóng viên kéo đến đòi hỏi những thông tin chính xác về những gì xảy ra tại bãi đáp Albany, đã phải tổ chức 1 cuộc họp báo tại bộ chỉ huy Quân đoàn II. Tin tức rò rỉ từ chiến trường là có 1 tiểu đoàn quân Mỹ đã bị “làm thịt’ tại thung lũng Ia Drang và những tay săn tin đang đổ xô đến.

    Knowles, người biết tường tận trận đánh ở Albany từ lúc ông bay trên chiến trường trưa ngày hôm trước đã nói: “Thông tin không đến với chúng tôi kịp thời. Vào ngày hôm sau (ngày 18) mới có 1 số thông tin về tới. Đó là lúc chúng tôi biết được các chi tiết. Khi được hỏi những tin tức đại tá Brown có về những gì ông ta chứng kiến trong chuyến thị sát chu vi phòng thủ Albany vào buổi sáng ngày 18, Knowles trả lời: “Không. Nó chỉ xuất hiện sau khi sở chỉ huy của Knowles có được những hình dung đầu tiên về qui mô tấn thảm kịch khi phóng viên ảnh của Associated Press là Rick Merron có chuyến bay tới Albany và trở về trại Holloway trong buổi sang ngày 18 và đi đến tổ báo chí của sư đoàn 1 kỵ binh không vận. Tái nhợt và bàng hoàng vì những điều được chứng kiến và chụp ảnh lại, Merron đã kể cho các đồng nghiệp nghe việc tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh đã bị tàn sát trong 1 trận phục kích của quân địch. Viên sĩ quan phụ trách quan hệ công chúng vội báo cáo cho Knowles biết về tin tức của Merron.

    Nguyên nhân vì sao mà phải mất 18 giờ viên phó tư lệnh sư đoàn mới nhận được những báo cáo chi tiết đầu tiên từ trận đánh gởi về và vì sao các thông tin ấy lại đến không theo hệ thống chỉ huy mà lại từ 1 phóng viên ành dân sự?. Đây là 1 câu hỏi khó trả lời.

    Knowles nói: “Trung tá Hemphill đã nhận được 1 số mẩu tin từ pháo binh và các nơi khác ăn khớp với nhau trong việc miêu tả có 1 trận đụng độ diễn ra. Nhưng không có ai, thậm chí cả Mc Dade biết được tính nghiêm trọng của trận đánh cho đến tận ngày hôm sau. Chúng tôi nhận được số liệu thương vong vào sáng ngày hôm ấy (ngày 18). Các phóng viên đang tập trung tại Pleiku cho rằng có điều gì đó đang bị che giấu. Nên cuộc họp báo này nhằm giải tỏa những nghi ngờ của họ.

    Knowles thông báo trong cuộc họp báo rằng 1 tiểu đoàn của sư đoàn 1 kỵ binh không vận đã có 1 trận tao ngộ chiến với 1 lực lượng địch quân tương đương hoặc đông hơn và tiểu đoàn này đã có mức thương vong không lớn. Knowles thông báo rằng quân địch có hơn 400 quân bị giết, rằng địch quân đã bị đánh tan và phải rút lui. Tiểu đoàn kỵ binh đã làm chủ chiến trường và giành được 1 chiến thắng.

    Những tin tức tổng hợp mà ông ta biết về sự việc xảy ra tại Albany đã làm giấy lên nỗi hoài nghi của các phóng viên.

    Tin đồn đang lan ra về các báo cáo đây là những tổn thất nặng nề nhất mà quân Mỹ chưa từng gặp phải trong chiến tranh Việt Nam và rằng có dấu hiệu quân đội đang cố che giấu 1 trận phục kích tai hại. Những báo cáo về việc quân Mỹ đã rút quân từ thung lũng về bị diễn dịch thành tháo chạy. Nhiều báo cáo lúc thì là sự phóng đại, có khi lại quá mức sơ lược, và một số rõ ràng là không đúng. Những sự kiện xảy ra tại LZ Albany không phải là 1 trận phục kích theo lối cổ điển. Yếu tố bất ngờ được quân Bắc Việt khai thác triệt để trong việc chống lại đội hình quân Mỹ. Quân của thượng tá An đã có từ 20 phút đến 1 giờ để vận động vào vị trí tấn công. Trận đánh tại Albany đã diễn ra 1 cách chính xác hoàn hảo. Có 1 trận tao ngộ chiến (với trung đội trinh sát dẫn đầu đội hình), 1 cuộc xung phong ào ạt (vào đại đội dẫn đầu) và 1 cuộc phục kích (vào phần còn lại của hàng quân), tất cả đều xảy ra trong 1 khoảng thời gian không quá 5 phút.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tuy nhiên, không phải chỉ các phóng viên là những người duy nhất hoài nghi về những điều họ được cho biết, và không được biết. Lúc 10g15 sáng hôm đó, hôm 18/11, tư lệnh quân Mỹ tại Việt Nam,đại tướngWilliam C.Westmoreland ,đã đến thăm sở chỉ huy lữ đoàn 3 tại Catecka.

    Trong suốt cuộc họp kéo dài 30 phút, đại tá Brown đã không đề cập bất cứ điều gì liên quan đến trận đánh tại LZ Albany, những báo cáo của ông chỉ giới hạn nói khái quát đến trận đánh tại X-Ray. Sau đó cũng trong ngày, Westmoreland dừng lại tại Qui Nhơn và tới thăm quân y viện Evacuation Hospital số 85. Trong nhật ký của mình, trang ghi ngày 18 tháng 11, tướng Westmoreland viết: “…tôi đã bay đến sở chỉ huy lữ đoàn của đại tá Tim Brown. Ông ta đã mời tôi dự họp và bay thị sát trên vùng trách nhiệm của mình. Sau đó tôi bay về Qui Nhơn và tới thăm viện quân y. Hầu hết thương binh trong bệnh viện là lính của sư đoàn 1 kỵ binh không vận bị thương trong các cuộc hành quân tại Pleiku. Khi nói chuyện với họ tôi bắt đầu có cảm nhận rằng tôi đã không được báo cáo đầy đủ khi tới sở chỉ huy lữ đoàn. Có nhiều lính nói rằng họ đã tham gia cuộc đụng độ mà theo họ là 1 trận phục kích. Hầu hết những người này đều là lính của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh.”

    Nhật ký ngày 18 của Westmoreland ghi chú thêm:”Có một việc nữa xảy ra vào buổi chiều khi tôi đã về phòng làm việc sau chuyến đi Pleiku. Đại tá Ben Legare, sĩ quan phụ trách quan hệ công chúng của MACV (Bộ chỉ huy quân Mỹ tại Việt Nam) đến và cho tôi biết 1 tài liệu đã được xắp xếp và đánh giá là quan trọng từ sư đoàn 1 kỵ binh không vận.
    Việc nó tới không làm tôi ngạc nhiên vì tôi đã nghi ngờ có gì đó không ổn sau buổi nói chuyện với các thương binh tại quân y viện. Sau đó tôi gọi tướng Stanley Larsen đến và cho ông biết về việc này. Tôi bảo đại tá Legare tổ chức 1 cuộc họp báo vào sáng hôm sau để biết được chính xác những gì đã xảy ra.”

    Tướng Westmoreland giờ đây lo rằng sư đoàn kỵ binh bay có thể bị thiệt hại nặng hơn là họ gây ra cho địch và chắc chắn là nhiều hơn mức độ mà công chúng Mỹ có thể chịu đựng khi vừa bắt đầu cuộc chiến. Ông cũng lo lắng về việc quân Nam Việt Nam đang được gởi đến đối đầu với Bắc Việt trong khu vực Ia Drang.

    Trong nhật ký ngày thứ 6, 19 tháng 11 Westmoreland đã viết: “ Tướng Bill Depuy được triệu từ Pleiku về vì mối quan tâm của tôi là sư đoàn 1 kỵ binh không vận và chiến đoàn dù VNCH có thể bị sa bẫy, rằng nếu lực lượng tổng trừ bị này bị ăn đòn nặng sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho tinh thần chính phủ VNCH. Hơn nữa, tôi sợ rằng nếu cứ duy trì cường độ chiến đấu cao như hiện nay sư đoàn kỵ binh bay có thể bị suy yếu và có khả năng không hoàn thành được những nhiệm vụ sắp tới. Tôi bảo Depuy xem xét toàn diện rồi báo cáo tôi. Sau khi hội kiến với các viên chỉ huy và cố vấn có liên quan, ông ta đề nghị là giai đoạn mới của chiến dịch sẽ giới hạn tới phía bắc của sông Ia Drang, do đó sẽ làm giảm nguy cơ thất bại của chiến dịch, đặc biệt là với quân dù VNCH.”

    Dù đã nghi ngờ, Westmoreland vẫn thấy choáng váng khi nhận được những số liệu thống kê thật sự về trận đánh tại Albany. Lầu năm góc nổi trận lôi đình lên đầu ông tướng, và không cần nhiều thời gian ông tướng trút cơn thịnh nộ lên ông trưởng văn phòng thông tin của Mỹ tại Sài Gòn.

    Nhật ký ghi ngày 20 tháng 11, Westmoreland viết: “Tôi có phiên họp hàng tháng với báo chí. Tôi bàn luận về trận chiến tại Pleiku, bắt đầu bằng trận tấn công vào trại Plei Me rồi tới các giai đoạn tiếp theo. Rồi tôi đọc 1 bức điện do bộ trưởng bộ Quốc Phòng gởi cho trong đó có trích dẫn những tiêu đề từ tờ Washington Post và Star ngụ ý về việc thua trận, tháo chạy của sư đoàn 1 kỵ binh. Sau đó tôi nói với họ rằng tôi có 1 sự tôn trọng lớn với giới báo chí. Tôi nhắc họ nhớ rằng tôi là người phản đối sự kiểm duyệt với báo chí và việc đó đã có kết quả. Tôi nói những chuyện kiểu như thế viết trên các tờ báo ở Washington sẽ dẫn tới hậu quả sau:
    1. Xuyên tạc hình ảnh cuộc chiến đối với hậu phương và làm mất tinh thần của gia đình chiến sĩ.
    2. Làm mất tinh thần binh lính.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong chuyến đi tới Pleiku vào ngày 18 của tướng West –moreland. Tôi (Hal Moore) hủy bỏ các cuộc họp để rời chiến trường và bay về Sài Gòn để báo cáo. Lúc 8giờ 45 sáng các chỉ huy đại đội còn sống sót cùng ban tham mưu của tôi đang đứng xếp hàng chờ thì có 2 xe jeep chở tướng Westmoreland, cùng tướng Cao Văn Viên – tổng tham mưu trưởng quân đội Nam Việt Nam, thiếu tướng Harry Kinnard, và Barry Zorthian chỉ huy trưởng Joint U.S. Public Affairs Office (JUSPAO – Văn phòng truyền thông hỗn hợp Hoa Kỳ) Tôi từng phục vụ dưới quyền tướng Westmoreland trong lực lượng nhảy dù những năm 1940 tại Fort Bragg, còn tướng Viên là bạn cùng lớp với tôi trong khóa học Tổng tham mưu và Chỉ huy (U.S. Army Command and General Staff) tại Fort Leavenworth năm 1956-1957.

    Chúng tôi bước vào 1 căn nhà bằng tôn và những người đã tham giự trận đánh tại bãi X-ray, từng người 1 báo cáo cho tướng Westmoreland và các vị quan chức khác.

    Mọi thứ đều có vẻ trơn tru, chỉ trừ có 1 lúc. Ở trong phần báo cáo của đại úy Matt Dillon anh nói đến 1 báo cáo của binh lính về việc họ đã nhìn thấy xác 1 kẻ địch mà họ ngờ rằng là người Trung Quốc, hắn ta to quá khổ và mặc quân phục khác những quân Bắc Việt khác. Trứớc khi chúng tôi đến lấy, cái xác chết đã biến mất khỏi chiến địa.

    Westmoreland giận dữ và nổi sung lên, nói với tất cả bọn tôi: “Các anh không bao giờ được đề cập tới vấn đề có lính Trung Quốc ở Nam Việt Nam! Không bao giờ!”

    Những anh chàng trong tiểu đoàn của tôi lúc đó đang đứng xếp thành hàng ngang. Westmoreland đi xuống, dừng lại hỏi chuyện với từng người, hỏi han quê quán và nói chuyện phiếm về thể thao. Sau đó tôi yêu cầu tướng Westmoreland úy lạo họ. Ông ấy đứng trên mui chiếc xe jeep của mình cảm ơn về sự dũng cảm và sự cống hiến của họ trong trận đánh. Ông nói thêm rằng tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh đang được đề nghị tuyên dương danh hiệu là đơn vị ưu tú của Tổng thống (Presidential Unit Citation) vì đã dũng cảm phi thường trong chiến đấu.

    Westmoreland dị ứng với vấn đề cố vấn Trung Quốc tham chiến trong quân Bắc Việt có thể là do ảnh hưởng của bài viết của Charles Mohr trên tờ The New York Times số ra ngày 17 tháng 11 năm 1965. Được viết từ Sài Gòn, bài báo cho biết rằng các tù binh bị bắt xung quanh trại LLĐB Plei Me đã xuất hiện trong 1 cuộc họp báo tại Sài Gòn và đã cho các phóng viên biết rằng chúng xâm nhập vào Nam Việt Nam từ Campuchia và được lính Campuchia hỗ trợ. Bài báo của Mohr còn nói thêm là các tù binh đã nói cho các nhà báo biết cứ mỗi trung đoàn của QĐND Việt Nam đều có 1 cố vấn Trung Cộng. “Một quan chức phát ngôn của Mỹ bình luận rằng: Không có bằng chứng xác thực về việc có cố vấn Trung Quốc nhưng không loại trừ khả năng đó.”

    Rõ ràng là bài viết đã đụng chạm đến Nhà Trắng, cũng rõ như vị thế của bộ tư lệnh MACV đã thay đổi hoàn toàn trong vòng 24 giờ. Sẽ không có thảo luận thêm gì về vấn đề sự tham gia của Trung Quốc trong chiến đấu ở Việt Nam. Tổng thống Johnson còn nhớ Triều Tiên, việc ông lo sợ Trung Quốc can thiệp vào Việt Nam đã dẫn đến việc ông giành lấy quyền kiểm soát chưa từng có tiền lệ vấn đề lựa chọn mục tiêu đánh bom tại Bắc Việt Nam. Không lực đã bị cấm hoạt đông trong vùng 30 dặm cách biên giới Trung Quốc vì không muốn gây ra 1 cái cớ cho Trung Quốc.

    Câu hỏi về vấn đề cố vấn Trung Quốc cũng nhạy cảm không kém với Bắc Việt. Tư lệnh chiến trường Ia Drang - thượng tá Nguyễn Hữu An cho biết rằng có 1 niềm tự hào trong QĐND là trong kháng chiến chống Pháp, cố vấn quân đội Trung Quốc xuống đến cấp trung đoàn thì trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ đã không có bất cứ 1 cố vấn nước ngoài nào có mặt ở chiến trường. Khi bị hỏi về việc tình báo kỹ thuật Mỹ đã nghe được trong làn sóng vô tuyến có giọng tiếng phổ thông Trung Quốc ở gần sở chỉ huy của ông ta trong rặng núi Chu Pong vào ngày 14 tháng 11 năm 1965, An cho biết: “Chúng tôi biết thứ tiếng đó và thỉnh thoảng đem sử dụng để đánh lừa những kẻ nghe trộm.”
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Những lời chúc tụng đã hoàn thành nhiệm vụ ùa đến khi chúng tôi về lại trại Halloway. Tôi tập hợp tiểu đoàn lại và đọc cho họ nghe bức điện của Tổng Tham Mưu trưởng, đại tướng Harold K. Johnson gửi cho thiếu tướng Harry Kinnard:” Thay mặt quân đội Hoa Kỳ, tôi xin chúc mừng nhữnng sĩ quan và binh sĩ dũng cảm của sư đoàn 1 Không Kỵ về những hành động phi thường của họ trong trận đánh tại thung lũng Ia Drang, Những “lính nhà trời - Sky Soldiers” của ông cùng những đồng minh Việt Nam can đảm mang theo niềm hy vọng của những người yêu tự do khắp thế gian khi họ đẩy lùi cuộc tấn công dữ dội của quân thù. Quân đội và Quốc gia tự hào về sự can đảm, lòng quyết tâm cùng kỹ năng chiến đấu mà các bạn đã thể hiện. Sự Dũng cảm và kiên quyết của sư đoàn 1 Không Kỵ trong trận đánh này chính là biểu hiện xuất sắc cho truyền thống cao đẹp của người lính Hoa Kỳ.”

    Khi màn đêm buông xuống vào ngày 18 tháng 11 trên bãi chiến trường Albany, những lính Mỹ tử trận vẫn chưa được thu nhặt hết. Bob Mc Dade và quân của mình vẫn đang phải còng lưng cho một đêm nhọc nhằn nữa trên mặt đất sũng máu ấy.

    Đại úy Joel Sugdinis nói:” chúng tôi vẫn còn ở Albany trong cà ngày 18, không có đụng độ, và lại thu quân về thành lập 1 chu vi phòng thủ để nghỉ đêm. Chúng tôi không đặt những chốt cảnh giới hay tổ chức tuần tra nhưng bắn quấy nhiễu và tạo 1 hỏa lực ngăn chặn xung quanh chu vi phòng thủ nhằm chặt bất cứ sự xâm nhập nào của địch quân. Không có ai đến. Sáng hôm sau, ngày 19, chúng tôi tiếp tục thu dọn chiến trường nhưng mùi tử khí thật kinh khủng.”

    Trung úy Rick Rescorla gặp một trung sĩ của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 Kỵ binh và được cho biết rằng trung úy Larry Hess đã bị giết. “Cậu ấy là bạn cùng lớp với tôi, lớp học viên sĩ quan vào tháng 4 năm 1965, cậu ấy chỉ mới 25 tuổi và là con trai của 1 sĩ quan Không quân. Ngày hôm đó chúng tôi rút quân khỏi Albany, một vài người lính vẫn còn mất tích, nhưng đoàn báo chí đã bắt đầu đến. Trước khi chúng tôi rút đi, một nhà báo hỏi: “ Chỗ này tên chính thức gọi là gì?” “Little Bighorn” 1 trung úy trả lời vẻ bất cần. “Đừng nói vậy chứ” đại úy Joe Price phản đối “Ở đây không có thất bại”

    Washington đã thức tỉnh bởi tính chất tàn khốc của các trận chiến tại X-ray và Albany với số lượng thương vong lớn của quân Mỹ. Cuộc chiến tranh đã bước sang một giai đoạn mới với nhiều chết chóc hơn. Tổng thống Johnson biết rõ điều đó cùng cái giá sẽ phải trả. Bộ trưởng bộ Quốc phòng Robert S. Mc Namara, lúc đó dẫn đầu chuyến công du tại châu Âu và NATO, đã đến Sài Gòn thị sát tình hình. Ông đã được gợi ý tập trung vào trận Ia Drang để đưa ra các lời khuyên cho Tổng thống.

    Sau hai ngày xả hơi ở trại Holloway, binh lính của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 Kỵ binh được lệnh quay lại chiến trường – quay lại đồn điền trồng trà Catecka thiết lập chu vi phòng thủ nhằm bảo vệ khu vực xung quanh sở chỉ huy lữ đoàn 3. Ngày 19 tháng 11, tại bãi đáp Albany, trực thăng bắt đầu bốc những người sống sót của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh về bãi Crooks, cách đó chỉ 9km. Tại bãi Crooks những quân nhân đã kiệt sức này được lệnh tiếp nhận 1 khu vực trong chu vi phòng thủ cùng với tiểu đoàn 2, trung đoàn 5 Kỵ binh của đại tá Bob Tully. Tiểu đoàn của Mc Dade vẫn chưa kiểm tra quân số đầy đủ. Tiểu đoàn được báo cáo có 119 chết, 124 bị thương và 8 bị mất tích. Nếu dựa trên báo cáo được lập cuối cùng vào tháng 3 năm 1966 thì tổng số thương vong của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh và các đại đội Alpha và Bravo của tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 Kỵ binh cùng các tiền sát pháo binh phối thuộc là 151 chết, 121 bị thương và có 4 mất tích.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Lính của Mc Dade đã kiệt sức và mất tinh thần sau khi phải chịu đựng cơn bão lửa tại Albany cảm thấy rằng họ cần phải rút ra khỏi chiến trường trước khi màn đêm ngày 19 tháng 11 sụp xuống. Lúc trời tối, trung sĩ John Setelin nói: “Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi vẫn còn phơi ra ở đó thì hỏa ngục sẽ lặp lại. Đêm hôm đó rất yên tĩnh, bạn có thể nghe thấy tiếng vo ve của 1 con muỗi. Mỗi khi nghe thấy có tiếng động trong bụi cây là chúng tôi bắn ngay vào đó. Rút cục thì người của tiểu đoàn 2, trung đoàn 5 đi đến và nói rằng nếu chúng tôi không ngưng bắn thì họ sẽ thu hết đạn.” Chu vi phòng thủ Crooks đã trải qua 1 đêm nói chung khá yên ổn ngoại trừ bị 2 quả đạn cối bắn tới nhưng không bị thương vong nào.

    Tiểu đoàn của tôi bảo vệ xung quanh sở chỉ huy lữ đoàn và phi đạo tại Catecka thì không có được may mắn như vậy. Trung sĩ Ernie Savage lúc này chỉ huy số ít những lính sống sót trong trung đội 2 của trung úy Henry Herrick, cái trung đội bị lạc ở bãi X-ray. Họ đã đào hố cá nhân sâu tại vị trí của mình trong chu vi phòng thủ Catecka. Vào khoảng 9 giờ tối, tôi đang ngồi trong lều thì đại úy Jerry Whiteside, sĩ quan điều phối pháo binh đến với vẻ đau buồn in rõ trên gương mặt. Anh ta nói: “Thưa đại tá, 1 viên đạn hụt tầm của pháo binh ta đã rơi vào vị trí phòng thủ của đại đội Bravo.”

    Quả đạn 105mm bị lỗi đã nổ tung trên những hố cá nhân trong khu vực của trung sĩ Savage. Lúc đó binh nhất Richard C. Clark người Kankakee, Illinois đang nằm ngủ trên mặt đất cạnh chiếc hố cá nhân mà cậu ấy dùng chung với Specialist 5 Marlin Dorman. Clark chết ngay lập tức. Specialist 4 Galen Bungum vẫn còn đau đớn vì điều đã xảy ra: “Tôi không thể tin được. Cậu ấy ở ngay bên cạnh tôi khi bị sa bẫy tại Ia Drang, cùng trải qua khó khăn, chúng tôi đã ra khỏi đó và giờ đây cậu ấy lại bị giết bởi pháo binh quân ta. Tại sao Richard Clark lại chết theo cách như vậy cơ chứ?”.

    Hôm sau khoảng 1 tá lính đứng đợi tôi ngoài lều trong sương mù lạnh giá. Họ sẽ lên đường về Mỹ sau khi đã kết thúc kỳ hạn phục vụ. Tôi đã bảo thượng sĩ Plumley là tôi muốn nói chuyện với những nhóm như vậy trước khi họ khởi hành. Đây là nhóm đầu tiên được đi kể từ trận Ia Drang. Những chàng trai trẻ này đã tự nguyện dấn thân vào hỏa ngục X-ray dù biết rằng anh ta chỉ còn vài tuần nữa là kết thúc kỳ hạn quân dịch. Chúng tôi đã ở cùng nhau 17 tháng nay và tôi hiểu rõ họ.

    Tôi nói tôi hãnh diện về từng người trong bọn họ, mong rằng họ luôn giữ vững những phẩm chất tốt đẹp. Tôi nói với họ rằng tôi sẽ luôn nhớ tới họ. Sau đó tôi đi xuống hàng quân và bắt tay từng người một, với tư cách cá nhân cảm ơn họ vì những gì họ đã làm cho đất nước, cho đồng đội, và cho bản thân tôi. Đó là giây phút xúc động. Họ xếp thành hàng đôi, bước đều tới những trực thăng đang chờ để đưa họ trở về với cái nơi mà họ gọi là Thế Giới.

    Tại bãi đáp Crooks, người lính cuối cùng của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 Kỵ binh của Bob Mc Dade cũng đã leo lên trực thăng để về trại Holloway. Đại úy Myron Diduryk đã viết: “Ngày 20, về đến Pleiku, chúng tôi được nhận quần áo, giày, đồ lót mới, được tắm vòi hoa sen, ăn ngon, và nghỉ xả hơi.” Specialist 4 Dick Ackerman nhớ lại:” Nhận được quân phục, giày mới, được tắm và cái gì cũng thấy tốt hơn. Chúng tôi nghỉ đêm ở đó rồi hôm sau trở về căn cứ An Khê.”

    Một số sĩ quan trong tiểu đoàn 2 được chọn để bảo lưu lại quân phục, thẻ bài và phù hiệu. Rick Rescorla nói: “Chúng tôi trở về Holloway và trong suốt 1 khoảng thời gian chúng tôi cảm thấy rất phấn khởi việc chúng tôi đã sống sót. Những ký ức u buồn bị chôn chặt. Tối hôm đó là thứ 7, Dan Boone, Doc Shucart cùng 1 vài người trong bọn tối thả bộ xuống câu lạc bộ sĩ quan Việt Nam. Chúng tôi đã tắm rửa nhưng vẫn mặc trên người bộ quân phục hôi hám. Sự tương phản đem về từ Albany đã làm cho khung cảnh xung quanh mất đi vẻ hào nhoáng. Những cô vợ hay bạn gái của sĩ quan Việt Nam trông thật rực rỡ trong áo đầm đủ màu sắc. Một vài người trong bọn tôi bạo dạn mời các cô gái khiêu vũ. Nhưng phần lớn các cô gái khi ngửi thấy mùi đồ trận của chúng tôi đều bỏ chạy vào toa lét. Bạn cũng không thể trách họ được.”
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ngày 20 tháng 11 tại đồn điền trồng trà, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 chuẩn bị sẵn sàng lên quân xa về Pleiku theo tỉnh lộ số 5 và đường 14, sau đó rẽ về phía đông theo đường 19 qua đèo Mang Yang để về căn cứ An Khê. Họ sẽ đi qua địa điểm nơi quân ********* đã phục kích Binh đoàn cơ động số 100 của Pháp vào năm 1954. Chúng tôi quyết tâm không để cho cái ngày lịch sử này được lặp lại. Chúng tôi đã ôn lại chiến thuật chống phục kích trước khi bước lên những xe tải GMC 2,5 tấn. Tôi và viên thượng sĩ ngồi trên thùng chiếc xe tải đầu tiên của đoàn xe. Trực thăng chỉ huy của tiểu đoàn sẽ bay theo trên đầu đoàn xe như hình với bóng với Matt Dillon, Jerry Whiteside, và Charlie Hastings trên sóng vô tuyến giống như họ đã làm trong ngày đầu tiên tại X-ray, sẵn sàng gọi hỏa lực chi viện. Phi đội 1, trung đoàn 9 kỵ binh tăng phái 2 trực thăng vũ trangHuey cùng 2 trực thăng trinh sát H-13 bay phía trước chúng tôi. Trước khi đi chúng tôi được thông báo rằng ban nhạc của sư đoàn sẽ biểu diễn đón chào chúng tôi khi chúng tôi về đến căn cứ An Khê.

    Hành trình từ Catecka về An Khê rất nóng nực và bụi bặm, nhưng hòan toàn yên ổn. Khi chúng tôi đến nơi thì chẳng thấy ban nhạc của sư đoàn đâu hết. Sự trở về của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh được đón tiếp rất sơ sài, rất đáng trách. Chúng tôi đã về nhà, và tư lệnh sư đoàn, thiếu tướng Kinnard tới thăm binh lính. Khi chúng tôi đến chỗ của đại đội Delta và trung sĩ Warren Adams, tôi dừng lại và thuật lại chi tiết với sư đoàn trưởng thành tích diệt địch do Adams và trung đội súng máy của mình thực hiện tại X-ray. Tôi nói với ông rằng Adams là “Quyền trung sĩ nhất” của đại đội Delta sau 18 tháng và rất xứng đáng được thăng cấp trung sĩ nhất ngay tại mặt trận. Cả ông tướng lẫn chàng trung sĩ đều bất ngờ. Nhưng tướng Kinnard đã ra lệnh, và Adams được lên lon ngay ngày hôm sau.

    Vào trưa ngày 20 tháng 11, đại tá Tim Brown đã bàn giao quyền kiểm soát các hoạt động trong chiến dịch thung lũng Ia Drang cho lữ đoàn 2 của sư đoàn do đại tá William R. (Ray) Lynch chỉ huy. Lynch là 1 cựu binh trong chiến tranh thế giới lần 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. Ông ta cùng với 3 tiểu đoàn dưới quyền sẽ tiếp tục các cuộc hành quân trong địa giới tỉnh Pleiku.

    Chiều tối ngày 20, tiểu đoàn 3 và 6 thuộc lữ đoàn nhảy dù Nam Việt Nam đã chạm trán với 1 tiểu đoàn QĐND đã bị kiệt sức của tướng Chu Huy Mân gần biên giới Campuchia phía Bắc Ia Drang. Tiểu đoàn xui xẻo này do chậm trễ trong việc rút quân về nơi trú ẩn tại Campuchia nên bây giờ phải trả giá.

    Các pháo thủ Mỹ của 24 khẩu lựu pháo bố trí tại LZ Golf và LZ Crooks đã mô tả mục tiêu trên sóng vô tuyến :” Địch quân đang phơi ra ngoài chỗ trống !”. Cố vấn Mỹ đi cùng chiến đoàn dù Nam Việt Nam hiệu chỉnh pháo bằng điện đài và chia cắt quân địch thành từng mảng. Họ báo cáo có ít nhất 127 xác địch nằm rải rác trên cánh đồng chết chóc sau khi ngưng pháo kích, và quân Nam Việt Nam rất kinh ngạc và vui mừng về độ chính xác của pháo binh Hoa Kỳ. Một cuộc đàm thoại vô tuyến của quân Việt Nam cho 1 pháo đội Mỹ trong trận đánh được dịch như sau: “Pháo kích quá gần! Pháo kích quá gần! Nhưng rất tuyệt! Cứ bắn tiếp đi!”

    Trong số những cố vấn Mỹ đi cùng chiến đoàn dù Nam Việt Nam tại thung lũng Ia Drang ngày hôm ấy có 1 người to con, lực lưỡng đó là thiếu tá H. Norman Schwarzkopf, tốt nghiệp học viện West Point khóa 1956.
    Schwarzkopf nhớ rằng sự xuất hiện của quân miền Nam trên đường rút quân của mình đã làm quân Bắc Việt rất kinh hoàng. “Chúng đã mệt mỏi, bị đánh nhừ tử và không có nơi trú ẩn.” Schwarzkopf nói.” Chúng đã lãnh đủ những gì chúng cần. Khi chúng ta khai hỏa bằng các loại súng cá nhân và cả pháo kích thì chúng vứt súng xuống và bỏ chạy. Không có 1 chút kháng cự nào. Sau đó tôi và viên chỉ huy lữ đoàn dù ngồi nghỉ dưới 1 cây to trong khi quân lính lùng sục trong rừng để tìm kiếm đồ trang bị của địch quân. Họ ôm súng trường, súng máy trong tay và mang đến chất đống trước mặt chúng tôi. Đống vũ khí ngày càng lớn đến nỗi tôi cho là viên tướng Việt Nam đã cho đem vũ khí từ Pleiku đến để lòe tôi. Ông ta cười ngất, mời tôi đi sục vào các bụi rậm để tận mắt thấy vũ khí được thu từ chỗ nào.”
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tướng Kinnard nói rằng, ở điểm này, dưới sự chi phối của chính trị, quân lực Mỹ đã chủ động đầu hàng Bắc Việt Nam. Harry Kinnard nhận ra rằng người Mỹ sẽ không bao giờ thắng được cuộc chiến này. Quyền chủ động đã bị hy sinh cho những điều bịa đặt nhã nhặn của ngoại giao rằng Campuchia là một nước có chủ quyền, trung lập và kiểm sóat được lãnh thổ của mình. Đợi đến khi 1 vị tổng thống khác của Mỹ gỡ bỏ rào cản và cho phép quân Mỹ tiến quân vào Campuchia, Kinnard nói, thì đã quá trễ.

    Những binh sĩ sống sót ở tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh của Bob Mc Dade đã nghỉ đêm tại Holoway, giấc ngủ đúng nghĩa đầu tiên của họ sau một tuần. Lúc này, ngày 21 tháng 11 họ được chất lên 4 chiếc xe tải 2,5 tấn, quá đủ để chứa hơn trăm mạng còn lại của tiểu đoàn, để chở họ vượt đèo Mang Yang về căn cứ. Trong khi họ xếp hàng đợi để lên xe. Trung úy Rick Rescorla muốn giữ 1 trung đội lại để tổ chức cho họ một buổi lễ tôn vinh những binh sĩ đã tử trận. “Tôi cho gọi cậu lính thổi kèn tôi chọn đến và tôi yêu cầu cậu ta thổi kèn. Tôi lệnh cho cậu ta phải thổi những điệu buồn và cay đắng.”

    Trung sĩ John Setelin kể: “ Vào ngày chủ nhật, họ chất tất cả những người còn lại của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 lên 4 chiếc xe tải. Việc cho thấy chúng tôi còn bao nhiêu người có thể chở về trên chính đôi chân của mình trong số khoảng 450 người lúc bắt đầu trận đánh. Hành trình mất khoảng 1 giờ và chúng tôi lo sợ rằng sau tất cả những may mắn có được khi trải qua 2 trận X-ray và Albany, chúng tôi lại có thể bị bắn trên đường về nhà. Tất cả chúng tôi ngồi quay mặt ra phía ngoài, súng sẵn sàng nhả đạn, dè chừng từng bụi cây, tảng đá, từng cái hố trên đường.”

    Khi tiểu đoàn 2 kéo vào An Khê, họ chạy ngang qua những căn lều của tiểu đoàn 1 nơi mà chúng tôi đang sửa soạn để gởi về nhà đồ đạc cá nhân của những người tử trận của mình. Khi họ chạy qua, chúng tôi hoan hô họ. Lá cờ Mỹ nhỏ đã từng bay tại X-ray giờ được cắm lên 1 chiếc xe tải. Khi họ tới gần khu đất trống cạnh sở chỉ huy lữ đoàn, ban nhạc của sư đoàn bắt đầu cử hành khúc quân hành của trung đoàn 7 kỵ binh, “Garry Owen”, và lính cầm cờ của sư đoàn 1 kỵ binh không vận tiến hành lễ chào cờ. Trời sập tối và có người hô “Kèn đâu”. Cây kèn méo mó của người Pháp của Rick Rescorla giờ đây được chọn thổi bài “Garry Owen”, để cổ vũ nhiệt liệt cho tiểu đoàn.

    Rescorla cho biết thêm: "Đại úy Diduryk bước đến trong khi ban nhạc đang chơi bài “Garry Owen”, “Hard Corp” trước giờ là biệt danh của trung đội của cậu, giờ tôi muốn cả đại đội chúng ta sử dụng nó. Myron nói: “Tôi cũng muốn dùng chiếc kèn những khi nghỉ ngơi giống như bên đại đội Bravo trong thời gian phục vụ còn lại của chúng ta có được không ?” Tôi đồng ý, Chào, và sau đó bước ra gia nhập hàng quân sống sót và chậm chạp đi lên đỉnh đồi. Có khoảng 150 tử trận, 130 người bị thương, một số mang thương tật suốt đời. Tôi vẫn nhớ những khuôn mặt trẻ trung, tươi sáng của họ. Với chúng tôi họ luôn trẻ mãi. Nếu cho lại cơ hội thì tôi muốn nói với họ rằng: Dù các bạn chỉ là tập hợp của những người nghèo khó, nhưng chú Sam chưa bao giờ có được những người giỏi như vậy trong chiến trận. Tôi đã không khóc, trời thì mưa, Chết tiệt, đó chỉ là do mưa thôi”

    Bác sĩ William Shucart: “ Tôi nhớ là chúng tôi trở về An Khê bằng xe tải. Họ cho ban nhạc sư đoàn chơi nhạc đón chào chúng tôi. Một cuộc diễu binh chiến thắng. Họ chơi bài ‘Owen”, rất chi là cảm động và đẹp mắt. Tôi nghĩ chúng tôi đã đến nhầm chỗ và nhầm lúc, đáng lẽ chúng tôi phải bị đá đít thế mà lại có cả 1 ban nhạc biểu diễn cho chúng tôi. Con người bác sĩ ở trong tôi nghĩ như vậy đấy”
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đại úy Joel Sugdinis: “ Tôi không tin rằng có bên nào thắng hay thua ở Albany. Quân Bắc Việt đã rút trước tiên mà không tiêu diệt được chúng tôi. Nhưng đó có phải là 1 chiến thắng của quân Mỹ không? Tôi tin rằng mỗi bên đều bị đánh tả tơi và cả hai bên đều cảm thấy may mắn khi vẫn còn là 1 lực lượng quân sự khi trận đánh kết thúc. Cả hai sẽ tham gia các trận đánh khác 1 cách tốt hơn với những kinh nghiệm học hỏi được từ trận Ia Drang.”

    Trung úy Larry Gwin: “Cả ngày lẫn đêm lúc nào chúng tôi cũng thấy còn ở Albany, cố gắng xóa sạch những ảnh hưởng tồi tệ của trận đánh, và chúng tôi nhận ra rằng chắc hẳn chúng tôi đã giáng cho kẻ thù 1 thất bại nặng nề. Chiến thắng là điều duy nhất ban cho chúng tôi sức mạnh để tiếp tục chiến đấu. Khi trở về nhà tôi đã gắng quên đi cái ngày hôm ấy nhưng tôi nhận ra rằng ký ức của những giờ cận chiến ấy lúc nào cũng mới nguyên trong lòng tôi giống như khi vừa mới chiến đấu xong vậy. Sẽ phải cần rất, rất nhiều thời gian để quên đi cái ngày hôm ấy tại Albany.”

    Trung tá Bob Mc Dade: “Tôi chưa bao giờ nghĩ chúng tôi giành chiến thắng trong trận đấy. Chúng tôi đã sa vào tranh cãi. Chúng tôi đã đưa ra những số liệu đẹp nhằm chứng minh cho binh sĩ thấy rằng chúng ta không sợ kẻ thù. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 là 1 tiểu đoàn giỏi. Binh sĩ chiến đấu rất dũng cảm.”

    Đại tá Tim Brown: “Quân Bắc Việt chỉ đơn giản là nhảy xổ vào họ. Hai tiểu đoàn này lao vào nhau. Giống như một trận đánh nhau trong quán rượu. Một kẻ rút súng ra trước gã kia và hắn ta đã chiếm lợi thế.”

    Thượng tướng QĐND Nguyễn Hữu An: “Albany là một trận đánh ác liệt nhất trong toàn chiến dịch Ia Drang. Chúng tôi đã suy ngẫm về chiến thắng của mình. Đây là lần đầu tiên mặt trận B3 chúng tôi chiến đấu với quân Mỹ và đã đánh bại quân Mỹ, gây cho quân Mỹ thiệt hại lớn. Xét về mặt quân sự thì thật quan trọng khi giành được thắng lợi trong trận đầu. Nó giúp nâng cao tinh thần bộ đội và cho chúng tôi nhiều bài học bổ ích.”

    Một yếu tố để xác định mức độ thành công là số vũ khí thu được của địch. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh đã thu được tại chiến trường Albany 33 súng máy hạng nhẹ, 112 súng trường, 4 nòng súng cối, 2 kính ngắm cho súng cối, 2 bệ phóng rocket, và 3 súng máy hạng nặng. Báo cáo có 430 quân Bắc Việt bị giết và ước khoảng 150 bị thương.

    Với tôi trong tư cách tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh thì đó là những ngày xúc động. Tôi đã được đề bạt vào danh sách thăng cấp lên đại tá từ hơn 1 năm nay và đến lượt tôi là vào ngày 23 tháng 11. Điều này có nghĩa là kể từ lúc đó tôi sẽ thôi giữ chức tiểu đoàn trưởng. Tôi cũng lệnh cho ban tham mưu của tôi viết thư chia buồn tới những gia đình có người thân bị tử trận, cùng đề xuất khen thưởng huân chương.

    Trong vấn đề khen thưởng nảy sinh 1 số rắc rối. Tôi chỉ có ít cậu có thể đánh máy chữ được vì vậy rất nhiều bằng khen đã phải viết nguệch ngoạc bằng tay. Nhiều lính đã được đưa đi viện điều trị vết thương hay đang chuẩn bị giải ngũ. Rất nhiều người chiến đấu rất can đảm, anh dũng đã chết rồi, và những người chứng kiến những hành động của họ cũng tử trận luôn.

    Dũng cảm phi thường là một hành động phổ biến trên bãi đáp X-ray trong suốt 3 ngày,2 đêm. Những sự anh dũng và hy sinh như vậy nếu diễn ra ở chiến trường khác, vào lúc khác chắc hẳn sẽ được thưởng huân chương Danh Dự, Chữ thập bội tinh (Distinguished Service Cross) hay sao bạc thì nay chỉ là một bức thư có nội dung: “Bộ trưởng Quốc phòng vô cùng thương tiếc báo tin…”. Đơn vị anh em với chúng tôi, tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 cũng tương tự như vậy.

Chia sẻ trang này