1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

we were soldies once..and young Phần tiếp theo

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 30/12/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đại úy Joel Sugdinis: “ Tôi không tin rằng có bên nào thắng hay thua ở Albany. Quân Bắc Việt đã rút trước tiên mà không tiêu diệt được chúng tôi. Nhưng đó có phải là 1 chiến thắng của quân Mỹ không? Tôi tin rằng mỗi bên đều bị đánh tả tơi và cả hai bên đều cảm thấy may mắn khi vẫn còn là 1 lực lượng quân sự khi trận đánh kết thúc. Cả hai sẽ tham gia các trận đánh khác 1 cách tốt hơn với những kinh nghiệm học hỏi được từ trận Ia Drang.”

    Trung úy Larry Gwin: “Cả ngày lẫn đêm lúc nào chúng tôi cũng thấy còn ở Albany, cố gắng xóa sạch những ảnh hưởng tồi tệ của trận đánh, và chúng tôi nhận ra rằng chắc hẳn chúng tôi đã giáng cho kẻ thù 1 thất bại nặng nề. Chiến thắng là điều duy nhất ban cho chúng tôi sức mạnh để tiếp tục chiến đấu. Khi trở về nhà tôi đã gắng quên đi cái ngày hôm ấy nhưng tôi nhận ra rằng ký ức của những giờ cận chiến ấy lúc nào cũng mới nguyên trong lòng tôi giống như khi vừa mới chiến đấu xong vậy. Sẽ phải cần rất, rất nhiều thời gian để quên đi cái ngày hôm ấy tại Albany.”

    Trung tá Bob Mc Dade: “Tôi chưa bao giờ nghĩ chúng tôi giành chiến thắng trong trận đấy. Chúng tôi đã sa vào tranh cãi. Chúng tôi đã đưa ra những số liệu đẹp nhằm chứng minh cho binh sĩ thấy rằng chúng ta không sợ kẻ thù. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 là 1 tiểu đoàn giỏi. Binh sĩ chiến đấu rất dũng cảm.”

    Đại tá Tim Brown: “Quân Bắc Việt chỉ đơn giản là nhảy xổ vào họ. Hai tiểu đoàn này lao vào nhau. Giống như một trận đánh nhau trong quán rượu. Một kẻ rút súng ra trước gã kia và hắn ta đã chiếm lợi thế.”

    Thượng tướng QĐND Nguyễn Hữu An: “Albany là một trận đánh ác liệt nhất trong toàn chiến dịch Ia Drang. Chúng tôi đã suy ngẫm về chiến thắng của mình. Đây là lần đầu tiên mặt trận B3 chúng tôi chiến đấu với quân Mỹ và đã đánh bại quân Mỹ, gây cho quân Mỹ thiệt hại lớn. Xét về mặt quân sự thì thật quan trọng khi giành được thắng lợi trong trận đầu. Nó giúp nâng cao tinh thần bộ đội và cho chúng tôi nhiều bài học bổ ích.”

    Một yếu tố để xác định mức độ thành công là số vũ khí thu được của địch. Tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh đã thu được tại chiến trường Albany 33 súng máy hạng nhẹ, 112 súng trường, 4 nòng súng cối, 2 kính ngắm cho súng cối, 2 bệ phóng rocket, và 3 súng máy hạng nặng. Báo cáo có 430 quân Bắc Việt bị giết và ước khoảng 150 bị thương.

    Với tôi trong tư cách tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh thì đó là những ngày xúc động. Tôi đã được đề bạt vào danh sách thăng cấp lên đại tá từ hơn 1 năm nay và đến lượt tôi là vào ngày 23 tháng 11. Điều này có nghĩa là kể từ lúc đó tôi sẽ thôi giữ chức tiểu đoàn trưởng. Tôi cũng lệnh cho ban tham mưu của tôi viết thư chia buồn tới những gia đình có người thân bị tử trận, cùng đề xuất khen thưởng huân chương.

    Trong vấn đề khen thưởng nảy sinh 1 số rắc rối. Tôi chỉ có ít cậu có thể đánh máy chữ được vì vậy rất nhiều bằng khen đã phải viết nguệch ngoạc bằng tay. Nhiều lính đã được đưa đi viện điều trị vết thương hay đang chuẩn bị giải ngũ. Rất nhiều người chiến đấu rất can đảm, anh dũng đã chết rồi, và những người chứng kiến những hành động của họ cũng tử trận luôn.

    Dũng cảm phi thường là một hành động phổ biến trên bãi đáp X-ray trong suốt 3 ngày,2 đêm. Những sự anh dũng và hy sinh như vậy nếu diễn ra ở chiến trường khác, vào lúc khác chắc hẳn sẽ được thưởng huân chương Danh Dự, Chữ thập bội tinh (Distinguished Service Cross) hay sao bạc thì nay chỉ là một bức thư có nội dung: “Bộ trưởng Quốc phòng vô cùng thương tiếc báo tin…”. Đơn vị anh em với chúng tôi, tiểu đoàn 2 trung đoàn 7 cũng tương tự như vậy.

    Vào mỗi sang trong những ngày vui buồn lẫn lộn cuối cùng của tôi với cương vị tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, thượng sĩ Plumley luôn xuất hiện cùng với 1 tốp lính đang chờ máy bay để về nhà và giải ngũ. Specialist 4 Pat Selleck của trung đội trinh sát kể: “Đại tá Moore bắt tay chúng tôi và nói ‘Mừng anh được về nhà’, tôi là người thứ 2 hay 3 được ông nói chuyện và tôi nhìn thấy mắt ông ngấn lệ. Tôi nhớ ông ấy dặn: ‘Tôi thấy cậu đã có vợ vì thấy cậu đeo nhẫn cưới. Hãy về nhà, bỏ hết mọi thứ và hãy bắt đầu lại cuộc đời.” Và đây là sơ sơ những gì tôi đã làm: Tôi về nhà với 1 người vợ tuyệt vời, tự điều chỉnh bản thân, kiếm 1 công việc. Tôi đã thực hiện những gì đại tá Moore dặn. Tôi cố quên đi cuộc chiến tranh. Tôi làm việc và cống hiến. Tôi đã về với gia đình không đòi hỏi điều gì, không phô trương. Tôi đã đi làm lại, đi học lại và làm những việc tốt nhất có thể. Giờ ông ấy là 1 vị tướng nhưng với tôi ông ấy vẫn là đại tá Moore ngày nào. Tôi nghĩ rằng nếu không phải là ông cùng với tất cả những kiến thức và sự dạy dỗ của ông, thì có lẽ chúng tôi đã không thoát khỏi thung lũng Ia Drang được.”

    Vào Thứ 3, ngày 23 tháng 11, ngày mà tôi bàn giao quyền chỉ huy lại. Để thực hiện việc này tôi tập hợp toàn tiểu đoàn, xếp thành hàng cùng với các sĩ quan đứng ở giữa, phía trước, ban nhạc của sư đoàn dàn hàng ngang, tất cả tiến hành diễu binh trước các sĩ quan, cờ quạt. Nó gợi cho người ta nhớ đến cuộc diễu binh hàng tuần của chúng tôi khi còn ở Fort Benning.

    Tôi yêu cầu đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 của đại úy Myron Diduryk cùng trung đội của trung úy Sisson, đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 cùng tham gia diễu binh và hoan nghênh họ đã chiến đấu dũng cảm bên cạnh chúng tôi tại trận X-ray. Đó là lý do họ cùng tham gia. Ban nhạc chơi bài ‘ đại tá Bogey’, ‘The Washington Post March’ và bài ‘Garry Owen’. Tướng Kinnard gắn lon đại tá cho tôi và tôi có một bài phát biểu ngắn đầy xúc động.

    Specialist 4 Ray Tanner, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1: “Chúng tôi đứng trong hàng, có một số đơn vị không có đủ người để xếp theo đội hình nữa. Đại tá Moore nói chuyện với chúng tôi và ông ấy khóc. Vào lúc đó ông có thể chỉ huy chúng tôi trở lại Ia Drang cũng được nữa. Chúng tôi là chiến sĩ, chúng tôi là những chiến binh, và trong chúng tôi, những người còn sót lại tất cả đều yêu mến và kính trọng đại tá của mình cũng như với nhau. Điều đó đã được thể hiện trong 3 ngày của tháng 11 đó. Tôi nhớ rất có nhiều anh hùng nhưng không có kẻ nào hèn nhát. Tôi đã học được những giá trị thực của cuộc sống. Chúng tôi đều đã mất đi những người bạn nhưng sự dũng cảm của họ sẽ trường tồn mãi mãi.”

    Vào ngày lễ Tạ ơn, lính tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 đã rất háo hức mong chờ đến cái ngày lễ truyền thống này cùng với món gà tây nóng được trang trí. Đó là một ngày lễ tạ ơn lạnh và mưa ở An Khê và nó vẫn được nhớ mãi trong trí nhớ 1 số cựu binh của tiểu đoàn.

    Đại tá Mc Dade: “Đó là một lễ tạ ơn chán ốm. Tôi gặp tướng Westmoreland trên đường gần nhà ăn. Tôi báo cáo với ông rằng mọi người đều đang chờ để thưởng thức bữa tối lễ Tạ ơn của mình. Nhưng ông ấy lại nói: Hãy tập hợp tất cả họ lại để tôi nói chuyện.”

    Trung sĩ John Setelin của đại đội Bravo, tiểu đoàn 2 nhớ lại những hậu quả đáng tiếc của cái lệnh đó. “Vì là lễ Tạ ơn, chúng tôi được 1 bữa ăn nóng và một tách cà phê chính hiệu, chứ không phải thứ hòa tan có trong khẩu phần C. Món gà rán và thứ để trang trí cho nó đều là những thứ ngon và đẹp nhất tôi từng thấy. Vào lúc đó bên trong nhà ăn vẫn chưa dọn dẹp xong, vì vậy chúng bỏ bữa tối vô gà mèn và quay về lều của tiểu đội để ‘nhậu’. Trời bắt đầu mưa. Ai đó hô lớn, bắt chúng tôi dừng lại và ra xếp hàng. Ngài đại tướng William Westmoreland đứng đó. Ông ta bắt đầu bài phát biểu trong mưa và trong khi ông ta thao thao thì chúng tôi nhìn đồ ăn nóng sốt của chúng tôi bị mưa làm nguội lạnh. Ai biết ông ta nói cái quái gì? Ai quan tâm? Ông ta đã phá hỏng cả bữa tối ngon lành.”
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trung úy Larry Gwin nhớ rằng sau đó tướng Westmoreland đi ăn lễ tạ ơn với tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh.

    Ngày 29 tháng 11 năm 1965, các vị tai to mặt lớn tới An Khê để nghe báo cáo chi tiết về trận Ia Drang. Dẫn đầu đoàn là bộ trưởng bộ quốc phòng Robert S. Mc Namara, đoàn gồm có Chủ tịch hội đồng Tham mưu trưởng liên quân - tướng Earle K. Wheeler, Tổng tham mưu trưởng – tướng Harold K. Johnson, tướng Westmoreland, đô đốc Grant Sharp, chỉ huy trưởng bộ tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC).

    Tôi báo cáo tóm tắt với Mc Namaravà phái đoàn về trận đánh tại X-ray. Tôi từng nghe đồn ngài bộ trưởng bộ quốc phòng nổi danh là một cỗ máy tính -người đáng sợ, vô cảm với mọi người. Mc Namarangồi ngay hàng ghế đầu trong căn phòng họp chật ních các vị chỉ huy và sĩ quan tham mưu. Tôi báo cáo trong khoảng 15 phút, không cần giấy, chỉ dùng bản đồ và que chỉ. Khi báo cáo xong, tôi nói: “Thưa các ngài, phần trình bày của tôi đã kết thúc.” chỉ thấy một sự im lặng chết người.

    Mc Namarađứng dậy, bước tới, không nói 1 câu, nhìn thẳng vào mắt tôi. Ông ta không hỏi gì, cũng không bình luận gì. Sau cuộc họp đó, tôi vẫn chưa nhận nhiệm vụ mới. Tôi được nhận 1 phòng và một thư ký tại sở chỉ huy lữ đoàn 3 và bắt đầu việc viết văn bản báo cáo diễn biến tại X-ray. Mất đứt 9 ngày với 3 bản dự thảo. Tôi đã thu xếp nhờ không lực bay một chuyến trinh sát bằng không ảnh trên vùng núi Chu Pong, thung lũng Ia Drang và trống bãi X-ray để minh họa cho bản báo cáo. Ngày 9 tháng 12, tôi ký vào bản cuối cùng và gởi chuyển tiếp đến đại tá Tim Brown. Sau đó nó đến tay thiếu tướng Harry Kinnard, những người đọc nó sau đó đã cho sao chép thành nhiều bản và gởi cho các trường trong Quân đội Hoa Kỳ để làm tài liệu giảng dạy.

    Trong khi viết báo cáo, tôi nhận được tin rắng trung úy Không quân Charlie Hastings, người không hề biết sợ trong khi làm nhiệm vụ tiền sát viên không quân tại X-ray đã bị bắn rơi trên khu vực đèo Mang Yang trong khi lái chiếc máy bay trinh sát O-1E Bird Dog. Tin tốt là Charlie vẫn sống, còn tin xấu là cậu ấy đã bị bỏng nặng trong tai nạn. Cậu ấy đã được chuyển đến quân y viện tại Fort Bliss, El Paso, một thị trấn có rất nhiều cựu binh trong Thế chiến II và chiến tranh Triều Tiên của trung đoàn 7 kỵ binh sinh sống. Tôi đã thông báo cho họ biết: Charlie Hastings là người của chúng ta. Một chiến binh Garry Owen xin hãy chăm sóc cho cậu ấy.

    Tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh vẫn còn 4 lính bị mất tích trong trận Albany. Nỗi lo sợ của đại úy George Forrest, đại đội trưởng đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh đã trở nên có thật vào tháng 12 khi có 1 lính của anh cũng bị mất tích tại Albany.

    Anh kể: “Đó là 1 lính của trung đội 2, binh nhất John R. Ackerman. Có 1 việc chúng ta luôn phải thực hiện đó là kiểm điểm quân số. Anh phải điểm danh mọi người. Tôi đã chắc chắn là đã đem hết những người chết và người bị thương của chúng tôi ra khỏi đó. Khi gọi đến tên Ackerman, ai đó trong tiểu đội của cậu ấy nói rằng cậu ấy đã lên 1 trực thăng tải thương rồi.”

    “Sau đó vào tháng 12, chúng tôi nhận được thư từ mẹ cậu ấy nói rằng bà đã mất liên lạc với cậu ấy. Chúng tôi bắt đầu nhờ sĩ quan phụ trách nhân sự của sư đoàn, lục tìm các hồ sơ của cậu ấy trong tất cả các quân y viện. Không có hồ sơ nào hết. Cơn ác mộng của tôi đã trở thành sự thật.

    “Khi chúng tôi quay lại Ia Drang vào tháng 4 năm 1966, tôi dành 1 ngày lùng sục quanh khu vực Albany. Đến lúc đó tôi mới nhận ra tình thế của mình lúc đó, vị trí của chúng tôi là tâm điểm của trận phục kích.

    “Chúng tôi tìm thấy hài cốt của binh nhất Ackerman nằm ở bên phải vị trí của trung đội 2 khi ấy. Chúng tôi tìm được đôi giày trận và cái mũ sắt của cậu ấy. Thời kỳ ấy chúng tôi thường buộc 1 chiếc thẻ bài vào giây giày, còn cái kia thì đeo quanh cổ.

    “Chúng tôi đã tìm thấy thẻ bài cùng cối đôi giày của cậu ấy. Cậu ấy đã được yên nghỉ. Cùng ngày hôm đó chúng tôi còn tìm thấy 4 quân nhân mất tích khác thuộc tiểu đoàn của Mc Dade. Anh biết đấy, chúng làm tim tôi nhói đau.” Forrest nói.

    Sau đó tôi nằm quyền chỉ huy lữ đoàn 3; tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh nằm trong biên chế lữ đoàn này. Tôi đã hạ quyết tâm rằng nếu chúng tôi quay trở lại Ia Drang, với tư cách cá nhân, tôi sẽ tổ chức 1 cuộc tìm kiếm để tìm cho ra 4 lính bị mất tích của mình. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 4 năm 1966. Tôi, Matt Dillon và thượng sĩ Basil Plumley lấy 1 trung đội của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, tiến hành trực thăng vận tới bãi đáp Albany. Không thấy sự hiện diện của đối phương. Trong vài phút, chúng tôi đã tìm ra 8 bộ hài cốt, tất cả ở trong vòng hơn trăm mét vuông chỗ có 3 gò mối ở trung tâm của bãi trống.

    Một số trong họ rõ ràng là lính Mỹ, với những mảnh vải quân phục màu xanh lá cây, thắt lưng, bi đông, bao đạn, giày của lính Mỹ. Mũ sắt của họ nằm ngay bên cạnh. Một số đã lẫn vào đất, chỉ còn lại xương và mảnh vụn. Chúng tôi không di chuyển cái gì, chỉ gọi đội chung sự đến, họ thu nhặt hết hài cốt và đồ trang bị. Bốn bộ xương được xác định chắc chắn là lính mất tích của tiểu đoàn 2, những bộ còn lại là của người Việt Nam.

    Cuộc hành quân này đã được ghi nhận và đã khép lại 1 chương buồn của trận đánh tại Albany. Năm cỗ quan tài bắt đầu chuyến đi dài về với gia đình. Năm bà mẹ Mỹ đã chịu nhiều đau thương giờ đây sẽ không còn bị dằn vặt rằng liệu con mình còn sống hay đã chết, bị bắt làm tù binh hãy bị bỏ rơi trong rừng? Đại úy George Forres và tôi đã có thể ngủ yên suốt quãng đời còn lại.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} 25/ “BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC BÁO TIN…”

    ChỈ có người chết mới thấy chiến tranh kết thúc.
    Plato
    Tiếng súng trong thung lũng cuối cùng đã im tiếng. Người thì đã chết nhưng nỗi đau mới chỉ bắt đầu. Lính của sư đoàn 1 kỵ binh không vận đã làm tất cả những gì phải làm. Nhà xác quân đội lặng đi vì 230 xác lính được bọc trong các boncho cao su màu xanh lá cây. Hơn 240 thương binh được chuyển chậm chạp từ trạm sơ cứu tiền phương đến bệnh xá chiến trường rồi bệnh viện dã chiến và lên máy bay.
    Một số người có khả năng hồi phục nhanh có thể sớm quay lại nhận nhiệm vụ thì bay tới điều trị trong các bệnh viện ở Nhật Bản. Hầu hết những ca thương nặng được đưa đến Philipines, họ sẽ được chữa trị ổn định trong bệnh viện ở căn cứ Clark, rồi sau đó sẽ lên máy bay bay về Mỹ, tại các quân y viện gần nhà họ.
    Trung sĩ Robert Jemison đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 Kỵ binh phải mất 32 tháng trời trong các quân y viện. Binh nhất James Young của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh sẽ được xuất viện tại quân y viện Denver với 1 lỗ đạn trên sọ, quần áo mặc thì đi mượn, giấy xuất viện trong tay trở về nhà ở Missouri vào dịp giáng sinh năm 1965.

    Specialist 4 Clinton Poley của đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh phải mang những vết sẹo xấu xí của vết thương do đạn bắn, được đánh giá là bị thương tật 70%, đã về quê tại Iwo và giành hết mùa xuân để làm vườn.

    Nhưng vào ngày 18 tháng 11 năm 1965, sự bình yên của thị trấn Columbus, Georgia, cách Việt Nam nửa vòng trái đất, đã bị phá vỡ bởi tin đến từ Washington. Cuộc chiến tranh vừa mới bắt đầu và cho đến giờ thì có rất ít thương vong đến nỗi quân đội không cần để tâm đến việc thành lập các đội báo tử mà sau này trong cuộc chiến họ sẽ đến để thông báo tin xấu và ở lại an ủi 1 góa phụ trẻ hay cha mẹ già của liệt sĩ trong khi chờ người thân hay bạn bè đến. Tại Columbus vào tháng 11 và 12 năm 1965 Western Union (dịch vụ chuyển phát thư, tiền…) chỉ đơn giản là giao các bức điện cho cái tài xế Yellow Cab để họ chuyển đi.

    Tay tài xế đã mang giấy báo tử của trung sĩ Billy R. Elliott, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh cho vợ anh là Sara thì say bí tỉ và sửng sốt. Cô Elliott lúc đó đứng cạnh cửa ra vào ngôi nhà gỗ nhỏ của mình, tay nắm chặt mảnh bức điện màu vàng, người mang tin xấu đến thì đi giật lùi khỏi hiên nhà và xéo bừa lên luống hoa của cô. Sau đó quân đội còn làm thất lạc một thời gian ngắn thi hài của chồng cô khi chuyển nó về nhà.

    Khi 1 tài xế taxi đánh thức người vợ đang có bầu người Tây Ban Nha của 1 lính tiểu đoàn 1 lúc 2 giờ sáng để đưa bức điện, người phụ nữ đã ngất xỉu. Người tài xế phải chạy qua nhà bên, đánh thức hàng xóm dậy để giúp cô ta. Người góa phụ không nói hay đọc được tiếng Anh nhưng cô ấy vẫn hiểu nội dung của bức điện.

    Có tiếng gõ cửa nhà trung sĩ Jeremiah (Jerry) Jivens, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh vào lúc 4 giờ sáng. Khi đó Betty Jivens Mapson 14 tuổi: “Tôi đã kể cho bạn bè về việc dùng những tài xế taxi để chuyển những bức thư báo tử cho gia đình của các liệt sĩ. Tới hôm nay tôi vẫn không tin nổi chuyện đó. Thật may mắn là có bác ruột sống cùng với chúng tôi và bác cũng ở đó khi nghe tiếng gõ cửa. Mẹ tôi suy sụp hoàn toàn khi nhận được bức điện ấy từ tay người xa lạ. Tôi nghĩ việc này thật vô cảm và vô nhân đạo.”
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ở Columbus đã có 1 mùa thu kinh hoàng. Có ai đó phải đứng ra làm việc này khi mà quân đội đã không tổ chức làm việc đó. Đối những gia đình liệt sĩ thì đó là vợ của tôi, là con gái của 1 vị đại tá lục quân, cũng là vợ của 1 vị tướng sau này, là mẹ của 5 đứa con nhỏ với 2 đứa con trai sau này sẽ theo con đường của tôi họ ở trường West Point và tham gia quân đội.

    Julie kể lại rằng những ngày đó là những ngày đầy âu lo. Mỗi khi nhìn thấy chiếc xe Yellow Cab đi qua hàng xóm nó đã gây nên nỗi khiếp sợ trong lòng vợ, con những người lính đang chiến đấu ở Việt Nam. Chiếc taxi và bức điện được coi như gieo giắc nỗi bất hạnh và đau buồn, Julie đã đi cùng họ và làm hết sức mình để an ủi những gia đình đang tan nát cõi lòng. Cô ấy không bao giờ quên được 2 người góa phụ này. Vợ góa của trung sĩ Jerry Jivens, người đã nhận thư với vẻ bình tĩnh tuyệt vời trước mất mát như vậy. Và nỗi kinh hoàng của 1 góa phụ trẻ người Tây Ban Nha, đang mang thai 1 đứa bé sẽ sinh ra vào tháng 3 mà không thấy mặt cha mình.

    Khi những cỗ quan tài được đưa về nhà, vợ tôi đã đến dự tất cả các đám tang trừ 1 quân nhân của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh được an táng tại nghĩa trang Fort Benning. Đám tang đầu tiên cho lính tiểu đoàn 1 tại Benning là dành cho trung sĩ Jack Gell của đại đội Alpha.

    Julia xem thời sự buổi tối và cô thấy trên ti vi là cảnh buồn nhất cô từng chứng kiến. Một người lính thân thiết của tôi đã được an táng tại Fort Benning mà cô không được thông báo. Cô ấy gọi cho Survivors Assistance và yêu cầu họ hứa sẽ thông báo cho cô mọi trường hợp hy sinh và tất cả các lễ an tang của lính tiểu đoàn 1 tại nghĩa trang của căn cứ.

    Julia nhớ lại: “ Em cảm thấy rất lo sợ khi gọi cho các người vợ góa, sợ rằng họ sẽ không đón tiếp mình, vì lý do chồng mình đã ra lệnh cho chồng của họ tham gia trận đánh. Em nghĩ ra hàng triệu lý do giải thích tại sao không nên đi, nhưng rồi bố em gọi điện cho em và nói em hãy đi, vì thế em đã đi. Khi thấy em họ đều rất mừng và rất tự hào về người chồng của họ. Có một vài việc còn làm cho họ lo nghĩ. Đó là có 13 góa phụ của tiểu đoàn 1 vẫn còn đang sống ở dưới thị trấn.”

    Cùng thực hiện việc này cho gia đình liệt sĩ tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh có bà Frank Henry, vợ của tiểu đoàn phó, và bà James Scott, vợ của viên thượng sĩ tiểu đoàn thay cho tiểu đoàn trưởng, trung tá Bob Mc Dade không có vợ.

    Nhà đầu tiên mà Kornelia Scott đến để an ủi và chia buồn là của vợ 1 trung sĩ của đại đội Delta, tiểu đoàn 2. Bà Scott kể: “Thật là buồn thảm và cay đắng. Quá đau buồn khi một góa phụ chua xót thấy rằng chồng mình thì chết trong khi chồng của tôi chỉ bị thương. Tên, địa chỉ nhà và khuôn mặt đã lu mờ đặc biệt là khi chúng tôi dự những lễ an táng tại Ft. Benning cuối tháng 11 đầu tháng 12”.

    Bà Harry Kinnard, vợ của sư đoàn trưởng sư đoàn 1 kỵ binh không vận cùng nhiều người khác công khai phê phán việc đưa thư báo tử bằng taxi là nhẫn tâm. Quân đội đã nhanh chóng tổ chức những đội thông báo thương vong phù hợp gồm có 1 tuyên úy đi kèm với 1 sĩ quan. Không ai có thể đoán trước mất mát này. Mọi người, kể cả quân đội đều hết sức bất ngờ về mức độ thương vong quân Mỹ phải nhận tại LZ X-Ray và LZ Albany.

    Nhưng cho dù quân đội đã thành lập các đội đó và cải cách tục, ảnh hưởng vẫn còn khi mà chiếc taxi vàng đi khắp Columbus và gieo rắc nỗi sợ hãi và đau khổ bởi cách đánh thức của nó. Vợ tôi nhớ lại: “Vào tháng 12 có một chiếc taxi chở 2 viên trung úy trẻ tuổi đỗ lại trước nhà. Em núp sau rèm cửa và nghĩ rằng, nếu em không ra mở cửa thì sẽ không phải nghe tin xấu. Nhưng sau đó em quyết định ‘Julie, hãy đối mặt với sự thật’. Em ra mở cửa và hóa ra anh ta nhờ em chỉ đường đến 1 số địa chỉ khác, làm em tí nữa thì ngất xỉu. “Đừng tái diễn với tôi việc này.” Tôi mắng anh ta. Anh chàng tội nghiệp nói rằng anh đã hiểu và nói rằng tất cả các tài xế taxi đều ghét cái nhiệm vụ gây kinh hoàng này.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Xa về phía Bắc, ở Redding, Connecticut. Một ông già, người bưu tá của làng, ngập ngừng gõ cửa căn nhà của John J. và Camille Geoghegan. Dù cho bức điện gởi cho Barbara Geoghegan, vợ của trung úy John Lance (Jack) Geoghegan, người bưu tá vẫn biết bức điện nói gì và Jack Geoghegan là đứa con duy nhất của gia đình. Khi người nhà Geoghegan đọc bức điện ông bưu tá rất quỵ xuống, run rẩy và khóc hỏi rằng nếu họ cần gì ông sẽ làm hết sức mình để giúp đỡ. Thành ra trước khi họ gặm nhấm nỗi đau của mình họ phải quay ra an ủi ông lão. Họ ôm và an ủi người bưu tá giúp ông ta lấy lại bình tĩnh, gạt bỏ u sầu mà tiếp tục công việc.

    Hôm ấy Barbara Geoghegan đi vắng, cô lên New Rochelle, New York với bác của chồng. Chồng của bà này đã chết cách đó 2 năm đúng vào ngày đó và mọi người trong gia đình nghĩ rằng cần có người tới an ủi bà nếu bà quá đau buồn trong dịp kỷ niệm ngày chồng mất. Khi mà người nhà Geoghegans gọi điện thoại báo tin dữ, cô đang viết lá thư thứ 93 cho Jack, 1 lá thư dài, như thường lệ kể cho Jack nghe về Camile – cô con gái nhỏ của họ. Sáng hôm sau, cô thấy trong hộp thư ở nhà lá thư cuối cùng mà Jack gởi cho cô. “Anh có cơ hội để đi phép, nhưng lính của anh sẽ phải đi chiến đấu. Giờ đây anh không thể bỏ rơi họ.”

    Khi mà đại úy Tom Metsker xa nhà đi chiến đấu tại Việt Nam, vợ anh, Catherine, cùng Karen-cô con gái nhỏ 4 tháng tuổi chuyển nhà về Indiana để sống gần gia đình cô. Bố của Tom là nhân viên ngoại giao, công tác tại Monrovia, Liberia. Catherine nhớ lại; “Cuối cùng tôi nhận đi dạy để đỡ lãng phí thời gian cũng như kiếm thêm tiền. Ngày đi làm đầu tiên là ngày thứ 2, 15 tháng 11. Tối Chủ nhật , ngày 14 tháng 11 tôi bị cảm lạnh và bị sốt. Làm sao đi làm được bây giờ? Có chuông điện thoại reo, đó là chú của tôi gọi. ‘Cháu có 1 bức thư…’. Tôi nghĩ chắc là thư của cha mẹ Tom gởi từ Liberia nên nói: “Chú bóc nó ra và đọc cho cháu nghe đi’..’..Bộ trưởng bộ quốc phòng vô cùng thương tiếc báo tin…cháu ơi Tom mất rồi…’

    Nỗi đau buồn nhức nhối mùa thu nằm ấy vẫn còn ám ảnh nhiều năm sau, đối với người thân của những chiến sĩ tử trận tại thung lũng Ia Drang vẫn như chỉ mới hôm qua. Một số đống ý cho viết lại câu truyện của họ về những tác động từ cái chết của người thân lên cuộc sống của mình, với hy vọng những lời của họ sẽ giúp an ủi những gia đình khác, những người cũng bị mất đi ngừơi thân yêu trong cuộc chiến.

    Betty Jivens Mapson, 42 tuổi, nhưng vẫn bị ám ảnh đau buồn suốt nhiều năm về cái chết của cha cô vào ngày 15 tháng 11 tại thung lũng Ia Drang. “Sau cú sốc ban đầu khi nhận được thư báo tử của bố. Chúng tôi phải tiếp tục đi học rồi sau đó khoảng 2 tuần thì thi hài ông ấy được chuyển về nhà. Lúc đó giường như mọi người đều nhìn chúng tôi và xì xào bàn tán, không biết họ có nói gì xấu về cái chết của bố chúng tôi không. “Rồi hầu hết mọi người bỏ rơi chúng tôi” Mrs. Mapson tiếp tục: “Chẳng có ai giúp chúng tôi cả, gia đình chúng tôi đơn độc 1 mình với nỗi đau của mình. Các e trai của tôi không nói gì về cảm xúc của họ cả. Mẹ tôi đã suy sụp. Bà và bố tôi đã yêu nhau khi còn đi học nhưng khi lập gia đình mỗi người lại đi kết hôn với người khác. Khi cả 2 đều đã ly hôn thì họ lại gặp lại nhau và cưới nhau. Bố và tôi thường đi cùng nhau trên xe buýt Greyhound chủ yếu là từ nhà đến Savannah. Bất cứ khi nào ông đi chơi cùng với mẹ, ông phải ngồi lên ghế và đưa lược cho tôi để tôi chải đầu cho ông. Thật ra tóc ông rất ngắn nhưng ông cứ làm ra vẻ tôi vừa làm cho ông ấy 1 điều đặc biệt lắm.

    “Tôi vẫn còn nhớ khi lần đầu tiên ông nói đến việc ông phải sang Việt Nam. Chúng tôi chở ông tới Fort Benning. Tôi còn nhớ những chiếc xe tải của quân đội chở đầy lính và nghe ông nói có thể ông sẽ không chở về. Tôi lúc đó còn trẻ nên không thực sự nghĩ đến mức độ nghiêm trọng của lời nói đó. Ông là một người cha tốt, nghiêm khắc, tôi và các em trai chỉ nghĩ là ông sẽ đi xa rất lâu và chúng tôi sẽ càng tự do và chơi vui hơn. Tôi cứ tự dằn vặt mình đã gây ra cái chết của bố vì những suy nghĩ ích kỷ ấy của mình khi bố ra đi. Bố tôi là 1 người cha tốt, là con trai của 1 nhà truyền giáo. Tên thật của ông là Jeremiah.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Cô nói thêm: “Hai tuần sau khi nhận được thư báo tử, chúng tôi lại có 1 bức thư khác nói thời điểm có thể đi viếng thi hài bố tại nhà ga xe lửa. Khi chúng tôi tới nơi đã có xe tang chờ ở đó và 1 chiếc xe ngựa chở 1 quan tài màu xám tiến về chỗ chúng tôi. Bố của tôi! Đó là cách bố trở về với chúng tôi. Và chúng tôi lại một lần nữa chịu đựng nỗi đau ngày càng tăng vì ông đã về nhà. Tôi đã la khóc trong buổi lễ. Sau lễ tang, tôi tới nhìn kỹ ông một lúc lâu để chắn chắn chính là bố chứ không phải ai khác. Tôi nhận ra nốt ruồi đỏ trên má bố và không còn nghi ngờ gì nữa.”

    “Tôi rất tự hào về bố và muốn bố cũng biết điều đó cũng như bố sẽ vẫn luôn sống mãi với chúng tôi. Suốt 1 thời gian dài đối với tôi dường như là ông chỉ đi làm nhiệm vụ cho quân đội như thường lệ và 1 ngày nào đó ông sẽ lại về nhà. Suốt nhiều năm tôi vẫn chờ đợi và ngóng ra đường mong mỏi bố sẽ về nhà với mẹ, các em và với tôi. Tôi muốn được tới thăm Ia Drang. Đó là việc tôi phải làm cho mình. Tôi phải được biết, được nhìn thấy nó hiện hữu. Tôi cần phải được thấy nơi mà bố đã ra đi.

    Tôi sẽ phải bằng mọi cách hoàn thành tâm nguyện này. Tôi tự hứa với lòng rằng sẽ chúng tôi sẽ không đơn độc đối mặt với nỗi đau. Chúng tôi muốn có một ai đó gần gũivới chúng tôi, có thể giải thích cho chúng tôi biết lý do. Mẹ tôi giờ đã mất. Mẹ không bao giờ tái hôn. Vì mẹ rất yêu bố.”

    Catherine Metsker Mccray, 50 tuổi kể lại chuyện bà đã gặp và kết hôn với Tom Metsker, chàng sĩ quan lục quân trẻ trung, sôi nổi của bà, cuộc sống trước đâynhư đang được tái hiện lại: “Những ngày đầu tôi chưa quen anh ấy. Anh luôn phóng chiếc xe của bố mẹ như điên trên đường, lạng lách, sôi nổi và không bao giờ chịu ngồi yên. Luôn tự hào về thành tích thể thao của mình trong đội bóng của trường trung học đoạt cúp vô địch quốc gia. Vô địch điền kinh trong giải Southern Conference, vô địch nhảy sào tại cúp The Citadel…Tom lớn lên tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Bố của anh, cũng tên là Tom làm việc cho bộ ngoại giao và làm đại diện cơ quan phát triển quốc tế, mẹ của anh là Joe cùng người chị tên Ibby đã về ở Indianapolis trong khi bố anh vẫn còn đi khắp nơi. Cả bố và mẹ anh đều là người quê ở Indiana và tốt nghiệp trường đại học Indiana.

    Tom sau đó học tại trường cao đẳng ở The Citadel. Khi anh ở đó thì gia đình anh chuyển tới Washington, D. C..Lúc đó tôi đang học năm thứ 2 đại học Depauw. Lúc đó là cuối mùa xuân (khoảng tháng 3), tôi cùng bạn là Betty Orcutt quyết định về nhà bố mẹ tôi nghỉ 1 tuần. Bố tôi là 1 đại tá của Không quân làm việc ở Lầu năm góc Washington. Tôi và Tom đã gặp nhau 1 cách tình cờ, rồi chúng tôi cưới nhau vào ngày 5 tháng 10 năm 1962. Vào 8 tháng 10 thì Tom phải qua đóng quân bên Đức 6 tháng. Tôi ở lại để thi tốt nghiệp. và rồi lại trùng phùng khi anh trở lại Ft. Benning, Georgia.

    Đó là những ngày rất đẹp trong cuộc đời tôi. Anh ấy ở trong 1 đơn vị chiến đấu. Vào 4 giờ sang có 1 cú điện thoại gọi tới và binh lính có lệnh tập hợp và rời khỏi Ft. Benning. Những cô vợ không thể biết họ sẽ được điều đi đâu và trong bao lâu?. Đó là thời điểm có nhũng sự kiện ở Cuba và Cộng Hòa Dominican. Tôi nhớ trong căn hộ Camellia Garden của chúng tôi có các đồ gia dụng bằng kim loại màu hồng và xám và 1 cái bếp kết hợp tủ lạnh. Nếu bạn kéo tủ lạnh ra bạn có thể nướng bánh mì. Tôi đã học được tính kiên nhẫn và dũng cảm nhưng vẫn lúc nào cũng nhớ Tom. Khi Tom về nhà, tôi sẽ không ngủ chỉ để nhìn anh say đắm, tự hỏi tại sao mình lại may mắn như thế?
    Bé Karen Doranne Metsker sinh ra ngày 31 tháng 3 năm 1964, nặng 4kg, làm Tom sướng ngây ngất. Tom thích con trai hơn nhưng anh vẫn rất hạnh phúc khi có 1 cô con gái. 10 ngày sau khi sinh bé Karen, chúng tôi chuyển đến Washington, D. C để Tom đi học tại trường Ngoại ngữ. Trong khi tìm 1 căn hộ thì 3 chúng tôi ở tạm trong tầng hầm nhà bố mẹ tôi Trong thời gian học tại trường thì Tom nhận lệnh sang Việt Nam. Tom rất hào hứng khi được đến Việt Nam. Đó là những gì anh ấy được huấn luyện và đó là công việc của anh ấy.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Tôi thì không hứng thú gì lắm, không phải là vì sợ hiểm nguy mà là sợ phải chia ly. Chúng tôi được gửi về lại Ft. Bragg, North Carolina để chuẩn bị cho anh ấy sang Việt Nam. Tôi sẽ ở đó với con. Thời gian huấn luyện qua nhanh. Họ nhận được 1 bức ảnh của đơn vị. Tom nói đùa rắng “chúng mình sẽ bôi đen những gã có vẻ phấn chấn nhất”. Ở đây chúng tôi không còn bạn bè nữa. Tại Bragg tôi không quen biết ai và tôi lại có thai đứa nữa, nên tôi quay về sống với gia đình tại Indiana trong khi Tom làm nhiệm vụ ở Việt Nam.
    “Khi Tom từ sân bay Evansville bay đi tôi đã khóc rất nhiều. Ngày nào chúng tôi cũng viết thư cho nhau và Tôi cùng Karen có thói quen ra thùng thư mỗi ngày để gửi thư cho bố nó. Lúc này bố mẹ của Tom đang công tác tại Monrovia, Liberia nêm tôi không gặp ông bà được. Tháng 10 thì tôi bị sẩy thai.
    “Bức điện đến vào đêm Chủ nhật, ngày 14 tháng 11. Tom đã tử trận. Tôi phải xoay xở đủ cách vì tôi chưa bao giờ chuẩn bị một lễ tang bao giờ cả. Không có chỗ nào khác cho bạn bè đến viếng ngoài căn phòng trọ của chúng tôi. Tất cả những bạn bè của chúng tôi trong quân ngũ đều đến. Tất cả họ đều có lệnh điều động sang Việt Nam. Đứng bên lề là đội tuyển vật mà Tom là huấn luyện viên khi còn ở Washington. Anh ấy rất quan trọng với họ.

    “Tôi muốn chết đi cho rồi nhưng vẫn gắng sống vì Karen. Nó chính là ân nhân cứu mạng của tôi. Khi về Washington tôi sớm đi dạy lại. Tôi phải dùng thuốc an thần. Không ai chỉ giúp tôi cách trở lại bình thường, nên dùng thuốc là 1 lựa chọn của tôi. Khi đồ đạc của Tom được gởi về tôi mang đi bỏ hết. Tôi nghĩ làm vậy thì sẽ không phải nghĩ về anh ấy nữa. Nhưng cách đó cũng không thành công. Tôi đau buồn mất một thời gian dài. Cố gắng đương đầu với nó. Nỗi đau khó diễn tả thành lời. Tôi cố kìm nén chúng trong nhiều năm. Sau 20 năm tôi quyết định đi điều trị. Và với những sự giúp đỡ, cuối cùng tôi đã có thể để Tom yên nghỉ. Giờ đây lòng tôi thanh thản khi nghĩ đến anh. Khi nghĩ về Tom tôi chỉ thấy hình ảnh 1 chàng trai trẻ đang mỉm cười. Tôi sẽ luôn mãi nhớ anh ấy.”

    Karen Metsker Rudel, 27 tuổi, đã lập gia đình và giờ đã là mẹ cùa 2 cô con gái và 1 cậu con trai. “Một viên đạn trong hàng tỉ viên đạn được bắn ra ở Việt Nam đã làm thay đổi cuộc đời của tôi. Tôi tự hỏi có bao nhiều cuộc đời đã bị thay đổi bởi 1 viên đạn vô tri như vậy? Bố tôi, Thomas Metsker, đã bị giết khi tôi vừa 17 tháng tuổi.

    “Tôi không có ký ức nào về ba, dù tôi có 1 bức ảnh 2 bố con chụp chung. Hai chúng tôi rất giống nhau. Bố tôi là 1 quân nhân, tốt nghiệp ở trường The Citadel năm 1961. Trong cuộc đời tôi lúc nào cũng lẩn quẩn câu hỏi. “Tại sao bố lại đi Việt Nam? Bố có biết bố có thể sẽ không trở về không? Tại sao bố phải chết? Tại sao ai cũng bóng gió rằng bố xứng đáng đến Việt Nam? Tại sao nó lại xảy đến với tôi?

    Khi tôi lên 4 tuổi thì mẹ tôi tái hôn. Bố dượng là luật sư và đã có 2 con riêng. Ông Michael Mccray nhận nuôi tôi nên tôi không dùng tên Karen Doranne Metsker nữa mà đổi thành Karen Metsker Mccray. Khi tôi sắp 5 tuổi thì em trai cùng mẹ khác cha của tôi chào đời. Năm kế tiếp thì đến em gái cùng tra khác mẹ. Với chúng và những người khác trong gia đình, tôi luôn cảm thấy bị ra rìa. Điều đó khiến tôi cư xử lãnh đạm xo với những đứa trẻ khác. Sau hết, chẳng biết ai dạy dỗ mà tôi trở nên rất già dặn. Tôi cố tìm cách sửa nhưng ở nhà lẫn ở trường chẳng có ai chỉ cho tôi biết cách. Bố dượng tôi không thích tâm sự. Tôi không quen ai từng mất người thân trong chiến tranh tự cảm nhận ở cái tuổi non nớt rằng khó ai có thể chịu nói về vần đề này được. Tôi thường lén xuống hầm nhà để lục lọi hòm xiểng xem còn kỷ vật gì của bố không. Vì nhiều lý do mà mẹ tôi đã vứt đi hầu hết đồ đạc của bố sau khi bố mất. Tôi vẫn còn nhớ cái mùi ẩm mốc của lá cờ gấp hình tam giác đã từng đặt trên quan tài bố trong lễ an tang tại nghĩa trang Arlington. Một cuốn sổ tang với chi chít những lời chia buồn vô nghĩa của các vị quan chức. Một con gấu Teddy nhồi bông cũ màu trắng có nhạc mà bố mẹ đã mua cho tôi khi tôi còn bé. Một vốc huy chương trong đó có cả huân chương quả tim tím, và một xấp ảnh có hình bố của tôi. Có lần tôi đã tìm thấy 1 tấm thiệp mà mẹ đã tặng cho bố giúp tôi nhân ngày Father's Day.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Tôi không còn nhớ hình bên ngoài của tấm thiệp, nhưng nội dung bên trong thì ghi: ‘Con sẽ luôn luôn là con gái bé bỏng của bố.’ Tôi đã khóc rất nhiều khi tìm thấy cái hòm ấy. Tôi kết hôn với Scott Rudel vào ngày 25 tháng 4 năm 1987 và đó là 1 trong 4 ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Những ngày khác là ngày 1 tháng 3 năm 1988 – ngày Alison Elizabeth , cô con gái đầu của chúng tôi chào đời; ngày 11 tháng 10 năm 1989 khi cháu Abigail Catherine sinh ra và ngày 1 tháng 3 năm 1992 là ngày sinh của cháu Thomas Alexander.

    “Một chuỗi những sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra vào mùa thu năm 1990. Có 1 bài báo trên tờ U.S. News & World Report đã kể lại cái chết của bố tôi. Chuyện kể rằng bố tôi đã bị thương và trong lúc chờ để được sơ tán, ông đã rời khỏi trực thăng để giúp 1 đồng đội bị thương nặng là đại úy Ray Lefebvre và ông đã bị thương rất nặng. Mẹ tôi đã viết thư cho tác giả bài báo và người ấy đã giúp mẹ liên lạc với ông Hal Moore. Chúng tôi đã liên lạc được với Ray Lefebvre và mời ông tham dự buổi lễ kỷ niệm 25 năm trận đánh Ia Drang do hội sinh viên tổ chức. Tôi rất vui và háo hức khi được gặp những bạn chiến đấu của bố tôi. Tôi dự đoán đây sẽ là cuộc tụ họp của những người thích bạo lực, ưa chém giết và chiến tranh…

    “Là người ủng hộ hòa bình nhưng tôi vẫn phải gặp gỡ họ. Trong định kiến tôi coi họ là những người lố bịch. Khi tôi tiếp xúc với họ tôi thấy rằng họ không hề giống như tôi tưởng, mà họ rất hiền hậu. Ngay cả chồng tôi cũng vui mừng ngạc nhiên khi gặp họ và tôi cảm thấy không khí thân mật như trong một gia đình.

    “Ray Lefebvre nhận được thư mời họp mặt đúng vào dịp đám cưới con gái ông. Ông không hề ngần ngại 1 giây. Ông kể về những vết thương của mình và nói rằng nếu không có bố tôi, thì có thể ông đã không sống được đến ngày nay. Tôi kể hết về thời thơ ấu chán ghét của mình cho người đàn ông xa lạ mà bố tôi đã đẩy lên chiếc trực thăng ấy, người đàn ông đã được nhắc tới trong bức thư dưới đáy hòm.

    “Tôi luôn nghĩ rằng bố tôi đã đánh đổi mạng sống của mình cho người đàn ông ấy. Tôi nghĩ rằng nếu được hoán đổi vị trí cho nhau thì Ray Lefebvre cũng sẽ làm giống như bố tôi.

    “Vào dịp nghỉ cuối tuần tôi đã tới viếng thăm bức tường tưởng niệm các cựu binh trong chiến tranh Việt Nam (Vietnam Veteran's Memorial Wall). Tôi đi dọc theo bức tường trong sự vĩ đại của nó đè nặng tâm hồn tôi. Trước đây tôi chưa hề bị ảnh hưởng như vậy trước 1 tác phẩm nghệ thuật nào như vậy. Tôi nghĩ rằng cảm giác như vậy sẽ khó có thể lặp lại lần thứ 2. Tôi sẽ luôn nhớ cái chết của bố mình, nhưng giờ đây tôi đã thanh thản trong lòng. Những cảm giác tức giận, uất ức bấy lâu nay giờ đã tan biến. Giờ đây tôi đã hiểu được mình và cuối cùng đã là chính mình. Tôi chỉ hy vọng rằng những gì chúng ta đã học được từ Việt Nam và tất cả những điều khác sẽ không phải là vô nghĩa.”

    Edward Dennis Monsewicz khi nhận được giấy báo rằng bố của mình, trung sĩ Lloyd Joel Monsewicz đã tử trận ngày 17 tháng 11 năm 1965 ở bãi đáp Albany mới có 7 tuổi. “Câu chuyện bắt đầu tại Pháp là nơi bố mẹ tôi gặp nhau và là nơi tôi chào đời. Khi tôi được 1 tuổi thì cả nhà chuyển về Mỹ sinh sống. Tôi còn nhớ chúng tôi sống ở Missouri tại Ft. Leonard Wood. Được vài năm thì bố có lệnh điều động sang Triều Tiên. Bố đã chuyển cả nhà đến Jacksonville, Florida để được gần gia đình bên nội. Chúng tôi ở đó khoảng 1 năm. Sau đó chúng tôi chuyển tới Ft. Benning, Georgia. Trong thời gian đó tôi có thêm 3 đứa em nữa. Mẹ tôi vẫn đang học tiếng Anh. Những kỷ niệm tôi nhớ nhất về bố tôi là bố rất khoái làm việc trong nhà kho, chơi với chúng tôi và nghe Marty Robbins. Chủ nhật nào gia đình tôi cũng đi lễ nhà thờ tại Sand Hill. Tôi không thể chờ cho hết buổi lễ vì tôi biết sau đó tôi sẽ được cho ăn bánh quy và sữa.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} “Trong khoảng vài tháng trước khi đi Việt Nam, Tôi còn nhớ bố tôi đi huấn luyện, khi về nhà thì bố mang nhuộm chiếc áo thun thành màu xanh lá cây và mang đồ trang bị ra soạn. Trong những ngày cuối cùng trước khi đi, ông giành rất nhiều thời gian chơi với chúng tôi. Vào bữa cuối bố đặt lên xe hơi của mình và cố gắng hết sức giải thích cho tôi cơ cấu hoạt động của nó.

    “Bố nói sau này khi ông đi tôi sẽ làm trụ cột của gia đình, phải chăm sóc các em và giúp đỡ mẹ. Điều đó ám ảnh tôi trong suốt nhiều năm. Mẹ tôi phải nuôi dạy 4 đứa con thơ có một mình. Tôi nhớ rằng bố gửi về rất nhiều thư từ Việt Nam, kể về thời tiết và nỗi nhớ nhà của bố. Trong 1 bức thư bố kể chuyện bố phải đi vào làng An Khê và bố cảm thấy rất lo vì không thể biết được kẻ nào là *********? Bố nói rằng bố cảm thấy ở trong rừng rậm còn an toàn hơn ở trong làng bởi vì ông có thể ẩn núp dễ dàng trong rừng.

    “Chúng tôi luôn cầu mong cho bố sớm về nhà. Bức điện đầu tiên do taxi chuyển đến báo rằng bố bị mất tích. Một tuần sau thì bức điện thứ 2 đến nói rằng bố đã tử trận. Tuần sau nữa thì chúng tôi an táng bố tại Ft. Benning.

    “Lúc đó tôi mới 7 tuổi, giờ thì đã 34 tuổi rồi. Suốt nhiều năm tôi luôn hỏi tại sao điều này lại xảy ra? Hai năm vừa qua tôi đã được nói chuyện với các cựu binh về trận đánh, và tôi hy vọng một ngày nào đó tôi có thể gặp được những người đã bên cạnh ông trong trận đánh và khi ông bị giết. Giờ đây tôi đã có gia đình riêng với hai đứa con trai 4 tuổi và 19 tháng cùng 1 người vợ xinh đẹp đã bên cạnh tôi suốt 13 năm qua. Mẹ tôi vẫn còn sống và các em tôi đã trưởng thành và có cuộc sống riêng.”

    Những người lính này đã chiến đấu và hy sinh vì tổ quốc và việc này đã tác động đến nhiều người theo nhiều cách. Tổng thống Bush đã nói trên truyền hình rằng hội chứng Việt Nam đã hoàn toàn kết thúc nhưng với tôi và nhiều người khác thì chưa. Chúng tôi không bao giờ có thể hỗ trợ được hết cho các cựu chiến binh Việt Nam. Cầu Chúa ban phước vả phù hộ những con người còn bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến vô nghĩa này.”

    Quá trình học tập tại học viện quân sự Pennsylvania từ 1959 đến 1963 cho thấy Jack Geoghegan như được sinh ra để trở thành 1 đại úy tài ba trong chiến trận. Từ năm thứ 3 đến năm cuối, anh luôn là lớp trưởng. Anh là thượng sĩ của lữ đoàn học viên sĩ quan từ năm thứ 3 và là chỉ huy lữ đoàn vào năm cuối. Anh đoạt nhiều huy chương cùng bằng khen về nhiều lĩnh vực do học viện trao tặng. Nhưng Jack Geoghegan xin tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ trong quân đội để hoàn tất khóa học thạc sĩ về quan hệ cuốc tế ở trường đại học Pennsylvania.

    Thời gian đó anh kết hôn với người yêu thời trung học của mình là BarbaraWeathers. Sau đó Jack cùng Barbarađến Đông Phi và giành 1 năm làm việc cho Tổ chức cứu trợ Công Giáo trong vùng nông thôn ở Tanzania. Tháng 5 năm 1965 anh trình diện nhập ngũ với cấp bậc thiếu úy mới ra trường tại Fort Benning. Con gái của anh là Camille Anne đã được sinh ra ở đó. Tháng 7 anh được biên chế về đại đội C, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh và đến tháng 8 thì cùng đơn vị sang Việt Nam bằng đường biển. Dưới đây là câu chuyện của BarbaraGeoghegan Johns.

    “Tôi chưa bao giờ thật sự tin rằng anh ấy đã chết. Khi đó tôi mới 23 tuổi và chưa phải nếm trải nỗi đắng cay của cuộc đời, thậm chí lúc chồng tôi đi tham chiến tôi cũng thấy là chuyện bình thường. Tôi nghĩ Chúa đã sắp đặt cho anh ấy. Jack sẽ hoàn thành nghĩa vụ quân sự và rồi sẽ trở lại Tanzania – là nơi anh phục vụ cho linh hồn của mình, là nơi chúng tôi đã giành cả năm đầu cuộc sống hôn nhân cho châu Phi. Anh là người rất sùng đạo. Bản chất của anh ấy không phải là kẻ hiếu chiến. Lẽ sống của anh là giúp đỡ những người yếu đuối. Ngay cả ở Việt Nam anh cũng xung phong cùng trung đội của mình tham gia xây 1 trường học, và sau cùng anh ấy đã chết như khi anh sống, nghĩa là trong khi sơ cứu cho 1 người lính của mình là Willie Godboldt. Tên của họ nằm cạnh nhau trên đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam.

    “Khi Jack sang Việt Nam, tôi chuyển tới Redding,Connecticut vì ở đó tôi và Cammie sẽ ở gần nhà chồng. Chúng tôi sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong năm Jack đi vắng. Nhà chồng có 1 căn nhà nhỏ cùng một căn nhà lớn đang được xây ở sát bên trên 1 khu đất rộng 6 mẫu. Chúng tôi ở chung cho đến khi căn nhà lớn được xây xong. Khi đó gia đình chồng sẽ chuyển qua căn nhà lớn còn tôi sẽ ở lại trong căn nhà nhỏ. Bố mẹ chồng đặt tên cho ngôi nhà mới là “Wind Ridge” và tôi đặt tên ngôi nhà nhỏ là ‘Salaam' hay Haven of Peace. Khi bố sang Việt Nam thì Cammie mới 2 tháng tuổi và nó trở thành cục cưng của mọi người. Nó luôn làm chúng tôi phì cười và nó rất giống anh ấy, giống như là 1 phần của anh ấy đang hiện diện cùng chúng tôi.

    “Cuộc sống của tôi bị đảo lộn vào ngày 17 tháng 11 năm 1965, giấy báo tử được gởi đến trong đêm, giống như trong giấc mơ tôi bị ném xuống 1 cuộc sống khác. Tôi không sao hiểu được những điều tôi không hề mong muốn lại xảy ra. Khi mẹ chồng gọi thì tôi đang ở chỗ bác gái của Jack là bà Pat ở New Rochelle. Tôi nhớ khi đó tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và ngạc nhiên khi thấy sao người ta lái xe như bình thường và mọi thứ vẫn như cũ như trước khi có cuộc gọi của mẹ. Tôi muốn hét lên rằng mọi người hãy ngừng lại. Tôi chạy lên gác và thấy Cammie vẫn ngủ ngon lành, không hề biết rằng giờ đây cuộc đời nó sẽ thay đổi. Trong 1 bức thư mới gởi Jack đã viết: “Có nên đẻ cho Cammie 1 đứa em trai khi anh trở về không?”…Giờ thì sẽ không có đứa em nào nữa…

    “Tôi bế con lên và ôm nó thật chặt, vẫn không tin được mọi thứ mà chúng tôi mơ ước, hy vọng và lên kế hoạch đã chấm dứt.

    “Tin báo đến vào ngày 17 tháng 11, ngay ngày sinh nhật thứ 62 của bố Jack. Jack được an táng tại Bethel, Connecticut. Lễ tang được tổ chức tại Pelham, New York, nơi anh đã lớn lên, người đến dự lễ đông kín nhà thờ hôm đó. Tuần báo của học viện quân sự Pennsylvania đã giành tới 3 trang để tỏ lòng kính trọng Jack.”

    Sau đó, mẹ Jack đã viết 1 lá thư công bố trên tờ The Pelham Sun, số ra ngày 13 tháng 1 năm 1966: “Kính thưa mọi người ở Pelham:

    Vào ngày 17 tháng 11, 1 bức điện đáng sợ đã báo cho chúng tôi biết tin Lance đã tử trận ở Việt Nam trong trận Iadrang. Cháu là chồng của Barbaravà cha của bé Cammie và là con trai duy nhất của chúng tôi.

    Trong khi chúng tôi đợi thi hài cháu được đưa về, chúng tôi cố gắng an ủi lẫn nhau. Chúng tôi tự bảo với nhau rằng. Chúa đã muốn vậy. Ngài luôn làm những gì tốt nhất. Chúng tôi làm đủ mọi cách để vơi đi nỗi đau nhưng chỉ được chốc lát khi thấy 1 cái áo len cũ, một quả bóng bowling, một bức ảnh, hình ảnh 1 cậu bé tóc màu hung đỏ đang nhảy chân sáo trên cầu thang, mỗi lần 3 bậc, thổi kèn báo cho chúng tôi biết rằng cậu đã về nhà từ trường học, từ châu Phi hay từ doanh trại Fort Benning…và chúng tôi lại trở về thực tại rằng nó đã mất. Chúng tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy gương thân yêu của nó nữa.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị cho tang lễ. Chúng tôi nghĩ rằng các bạn học phổ thông của Lance đều sống ở khu vực Pelham, New Rochelle vì thế chúng tôi đưa nó về quê để làm lễ tang. Chúng tôi gọi cho công ty mai tang Pelham Funeral Home. Chúng tôi không muốn người khác phải gánh nỗi buồn của mình và cũng nghĩ rằng mọi người sẽ không bận tâm nhiều, bởi vậy chúng tôi yêu cầu ông Flood viết 1 bản tin buồn ngắn in trên báo và sắp xếp 1 lễ tang theo cách giản dị, nhanh gọn.

    Thi hài của Lance được chở từ Việt Nam về bằng máy bay. Chúng tôi thu hết can đảm để đi tới nhà tang lễ. Khi nhìn thấy khuôn mặt thân yêu ấy, cả thế giới như sụp đổ. Nó đã chiến đấu trong 1 cuộc chiến không chính thức, nó đã bỏ xác ở 1 nơi cách xa tổ quốc hàng ngàn dặm. Máu của nó cùng máu của những người lính dưới quyền, những người mà nó rất mực yêu quý, giờ đây hòa lẫn với đất Việt Nam, không có ban nhạc, không có diễu hành, chỉ độc có ba con người lẻ loi đau khổ đứng bên quan tài của nó. Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy cô độc như thế.

    Cánh cửa phía sau chúng tôi khẽ mở ra. Có người bước vào phòng. Một người đàn ông. Ông ta khóc, quì xuống và cầu nguyện. Rồi ông ta tiến về phía chúng tôi. Nói những điều tốt đẹp về thằng bé của chúng tôi, rồi đi. Nhưng chúng tôi đã có thêm 1 người bạn mới.

    Cánh cửa lại mở ra, mở nữa và mở nữa. Mọi người bước vào căn phòng – họ đều là người quen của Lance – những người đã khóc cho Lance mà không hề e ngại, những người nhân hậu, những con người tốt đẹp.

    Nhờ Bob Cremin (một người bạn của gia đình) thu xếp, lễ tang cho cháu đã được tổ chức tại đài tưởng niệm. Trong cơn giá lạnh của buổi tối, các vị giáo sĩ nhiều tôn giáo đọc lời ai điếu. Những người lính Hoa Kỳ, cựu binh trong các cuộc chiến tranh, những người sinh trưởng tại một đất nước tự do, những người đã cống hiến và hy sinh. Và những người dân, một lần nữa lại đông đảo đến dự buổi lễ tưởng niệm đầy ý nghĩa này. Lá cờ rủ nhẹ nhàng đung đưa trong gió giống như ban phúc lành cho tất cả mọi người.

    Chúng tôi đã khóc, những giọt lệ chảy dài trên mặt mọi người ở Pelham trong buổi lễ. Đến ngày chôn, thì cảnh sát đã lặng lẽ dọn quang tuyến đường mà đoàn xe tang đi qua. Họ đứng nghiêm tại mỗi giao lộ và đưa tay chào vĩnh biệt. Nhà thờ St. Catherine đông kín người. Chiếc quan tài phủ cờ của Lance được đặt ngay phía dướì đức Chúa của nó.

    Lance yêu tất cả mọi người, không phân biệt màu da. Nếu mọi người cần là nó sẽ đến. Nó đã chăm sóc mọi người ở châu Phi. Nó đến Việt Nam vì mệnh lệnh và nó đã hưởng ứng. Và thốt nhiên chúng tôi nhận ra rằng Lance tượng trưng cho tất cả những chàng trai ở Việt Nam, những con người mệt mỏi, can đảm, những người chết hay bị thương; và Pelham cho thấy rằng: Chúng tôi yêu tất cả các anh, mở vòng tay ôm lấy họ vào lòng trong đó có một chàng trai trẻ, trung úy Lance Geoghegan.

    Thay mặt cho cháu, và những người lính trong trung đội 2 và tất cả những lính trẻ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Chúng tôi xin cảm tạ từ đáy lòng. Chúa ban phúc cho các bạn.

    Gia đình cháu.​
    Barbaravẫn tiếp tục câu chuyện của mình. “Khá lâu sau cái chết của Jack, có hai thùng đồ được bưu điện gởi đến. Chúng được gởi đến từ Việt Nam, dán nhãn “của người chết”. Đó là bánh chocolate chúng tôi đã gởi hai tháng trước đó cùng cái máy ảnh mà Jack nhờ gửi cho mà không bao giờ được nhận. Rồi các đồ đạc cá nhân gồm cả chiếc ví có chứa bức ảnh căn nhà tại Connecticut mà anh mong ước chở về. Trong cái ví đó còn có bức thư của mẹ anh, Trong thư có đoạn”…Mẹ luôn nhớ con, thương con, mong cho con an lành, mong con chở về. Tạ ơn chúa vì đứa con trai tuyệt vời của mẹ. Mẹ và bố từng giây, từng phút, từng giờ đều cầu nguyện cho con và các bạn đồng đội.”

Chia sẻ trang này