1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

we were soldies once..and young Phần tiếp theo

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 30/12/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tôi không còn nhớ được đã xoay sở thế nào để vượt qua cùng bố mẹ Jack. Nhiều năm sau ông bà nói những điều tốt đẹp giống nhau về tôi và tất nhiên là cả Cammie nữa. Tôi đoán rằng chúng tôi đã khác đi. Khi một người quá yếu đuối còn nhưng người khác thì cứng rắn.

    “Không lâu sau khi Jack tử trận, tôi nhận được 1 lá thư từ người tiểu đoàn trưởng của Jack, đại tá Hal Moore. Ông cũng viết thư cho nhà Geoghegan và thư đã vượt quãng đường dài để đến, mang theo lời an ủi, ca ngợi lòng can đảm và nói những lời tuyệt vời về Jack. Trong một lá thư của mình, đại tá Moore nói rằng ông sẽ đến thăm chúng tôi. Ngày đó đến vào năm 1967. Nếu ông chỉ đến trong 5 phút thì chúng tôi đã rất biết ơn, đằng này ông lại ở với chúng tôi suốt 5 giờ đống hồ. Ông đến nhà tôi trước, bế bé Cammie khi chúng tôi ra đón ông. Ông bước chậm lên các bậc thang bằng đá, nhìn chúng tôi với đôi mắt u buồn, ôm cả hai chúng tôi bằng cánh tay mình. Người đàn ông này đã mang xác chồng tôi ra từ cái bãi chiến trường cách xa hàng ngàn dặm giờ đã đến nhà tôi. Với ông đó là một việc đau xót và khó khăn, ông đã đến và nói chuyện về cuộc chiến một khung cảnh thanh bình. Rồi chúng tôi vội leo đồi tới nhà Geoghegans và lại tái diễn những cái ôm và nước mắt.

    Sau đó chúng tôi cứ ngồi nói chuyện không biết chán. Đó là cách vơi đi nỗi đau, ngồi lại với nhau, chia sẻ nhửng đau buồn mất mát đả trùm lên mọi người. Sau đó đại tá Moore hỏi nơi an táng của Jack. Khi biết rằng anh được chôn tại nghĩa trang Mary's Cemetery cách đó khoảng 2 dặm đường, ông đòi đi và tôi đã dẫn ông đi. Chúng tôi đi bộ ra mộ Jack. Sauk hi đứng đó 1 phút, ông nói ông muốn ở một mình trong 1 lúc tại ngôi mộ. Trong khi ông ở đó thì tôi đợi trong ô tô. Chỉ có một lần tôi liếc mắt nhìn, thấy ông đang quỳ cạnh ngôi mộ, tay ôm đầu. Tôi liền quay mặt đi, sợ làm hỏng phút giây riêng tư ấy. Chuyến thăm này rất có ích với sức khỏe của bố mẹ Geoghegan cho đến cuối đời, và tôi luôn ghi nhớ nó.

    “Hai năm sau khi Jack chết, mẹ chồng tôi chọn một lúc thích hợp để nói cho tôi biết 1 điều mà bà và chồng nghĩ tôi cần phải biết. Họ muốn tôi biết rằng họ rất mong tôi đi tái giá, rằng tôi không nên bị trói buộc vì ông bà bởi mối quan hệ thân thuộc, hoặc do tôi nghĩ rằng sẽ phản bội Jack nếu đi yêu 1 người khác. Tôi không thể tưởng tượng được rằng mình còn có thể yêu 1 người nào nữa. Tôi yêu bố mẹ chồng lắm. Vào tháng 12 năm 1968 có một người hàng xóm hỏi ý kiến ông bà về việc anh muốn giới thiệu một người bạn cho tôi.

    “Ông bà đồng ý và cho phép anh dẫn trung tá John Johns đến dự buổi tiệc rượu khi anh từ West Point, nơi anh công tác tới chơi. Tôi gặp John vào ngày 21 tháng 12 năm 1968 và chúng tôi kết hôn vào mồng 5 tháng 4 năm 1969. John rất thích trẻ em và anh ấy với Cammie ngay lập tức rất yêu quí nhau. Khi chúng tôi cưới nhau thì nó được gần 4 tuổi. Tháng 5 năm 1970 chúng tôi sinh một cháu trai và 2 năm sau thì sinh them 1 cháu gái nữa. Bố mẹ Geoghegan vẫn là 1 phần quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi và ông bà cũng vậy. Họ cũng được xem như là ông, bà của cả 3 đứa con chúng tôi và tất cả chúng đều yêu quí họ. Gia đình của chúng tôi cũng là gia đình của ông bà.

    “Nước Mỹ đang có chiến tranh! Đó là tiêu đề của chương trình thời sự trên kênh NBC mỗi đêm trong cuộc chiến tranh vùng vịnh Ba tư gần đây. Đó là một cuộc chiến tranh chứ không phải 1 cuộc xung đột nhỏ hay một hành động sen đầm. Một cuộc chiến tranh. Mọi gia đình trong cả nước đều ủng hộ, các công ty mừng rỡ ăn nên làm ra. Hàng tấn đồ dung được chuyển đến cho các chiến sĩ. Trẻ con viết hàng nghìn lá thư cho các người lính. Trái ngược hoàn toàn với Việt Nam. Có ai thấy ân hận không? Nước Mỹ nên hối hận khi mà đã đối xử tệ với những cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, nhất là chính phủ hay ít ra là những kẻ có trách nhiệm trong cuộc chiến Việt Nam. Họ sẽ không bao giờ gọi thời kỳ dài dằng dặc ở Việt Nam là chiến tranh, vì nó là 1 cuộc chiến không tuyên bố.

    “Giấy chứng tử của Jack ghi rằng anh bị chết là bị đạn quân địch bắn vào đầu và lưng. Năm 1978 tôi viết 1 giấy chứng tử khác cho bảo hiểm. Thật ngỡ ngàng khi giấy chứng nhận được gởi đến. Trong ô Trạng thái thương vong được viết cụm từ “chiến đấu”. Tôi xem lại giấy chứng từ gốc còn lưu thì thấy mục này để trống. Tôi kinh hoàng và tưởng rằng mình đã bị lừa. Rằn có thể Jack chết bởi đạn của quân mình và không ai muốn cho tôi biết điều ấy. Chồng sau của tôi làm việc tại Lầu năm góc và anh ấy đã kiểm tra và tìm ra lý do. Một văn bản trả lời được gởi đến sau nhiều ngày là chính sách hồi năm 1965 là những trường hợp tử trận sẽ được coi là chết do nguyên nhân thông thường từ lúc mà cuộc xung đột này không được coi là cuộc chiến tranh. Do có nhiều ý kiến phản đối nên sau đó chính sách đã thay đổi cho phù hợp là các trường hợp tử trận được công nhận là thương vong trong chiến đấu.

    “Sau 26 năm, nó vẫn còn đây, khắc sâu trong tâm thức. Tôi có thể thấy vẻ mặt của Camile khi cảm nhận đều đó. Hoặc có thể là 1 giấc mơ. Tiếng chuông cửa vang lên trong giấc mơ. Cammie 8 tuổi ngồi cạnh tôi, Bobby 3 tuổi ngồi phía bên kia. Bé Barbi, 1 tuổi thì tôi ôm trong tay. Tôi ra mở cửa thì thấy Jack, trong bộ quân phục màu kem. Anh nhìn chăm chú vào chúng tôi qua những ô cửa kính và tôi với các con vây quanh nhìn lại. Không ai nói gì cả. Mặt anh nở ra 1 nụ cười rồi tất cả tan biến đi.

    “Khi tỉnh dậy, đầu tiên là tôi cảm thấy buồn ghê gớm, sau đó là cảm giác dằn vặt là cuộc sống của tôi chỉ có 1 lần hạnh phúc và sẽ không bao giờ còn có được hạnh phúc như vậy nữa. Tuy nhiên tôi nghĩ mãi về nụ cười trên khuôn mặt Jack khi nó bắt đầu nhòa đi. Tôi hiểu rằng sẽ gặp anh ở kiếp khác, và chúng tôi sẽ có hạnh phúc dài lâu.”

    Những đứa trẻ có cha chết trận, những nạn nhân vô tội của chiến tranh. Họ vào đời mà không có 1 người cha lo lắng, yêu thương, chỉ bảo, với tương lai vô định.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    26/ PHÊ PHÁN VÀ NHẬN THỨC

    Quân địch sẽ chuyển dần từ tấn công sang phòng thủ. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sẽ dần bị tan biến vào một cuộc kháng chiến trường kỳ. Như vậy quân địch sẽ bị sa lầy. Ông sẽ kéo cuộc chiến dài ra để dành lấy chiến thắng mà không cần chiếm đất đai, mặt khác tâm lý và chính trị của chúng sẽ không thể chịu được 1 cuộc chiến kéo dài quá lâu…Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra nhận định này ngay từ đầu cuộc chiến giữa ********* và người Pháp. Bài học đã được đúc kết và giờ trở thành nghị quyết chính trị vào cuối năm 1965, khi cả Washington lẫn Hà Nội, quân đội 2 bên đã đụng đầu trực tiếp với nhau trong thung lũng Ia Drang.

    Những dự báo về mức chi phí về nhân mạng cũng như tài nguyên của đất nước và cả kết quả sau cùng đã được báo cáo cho tổng thống Mỹ, Lyndon Johnson, ông ta rất bình thản trước những số liệu của bộ trưởng quốc phòng Robert S. Mc Namara, giống như người không liên quan. Đây là cuộc chiến của nước Mỹ và nước Mỹ chưa bao giờ thua cuộc.

    Tại Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chăm chú xem xét những bài học được rút ra trong chiến dịch Ia Drang và lấy làm phấn chấn trước những gì nhận thấy: “Sau trận Ia Drang chúng tôi kết luận rằng chúng tôi có thể chiến đấu và đánh thắng lính kỵ binh bay. Chúng tôi đã học được nhiều từ trận đánh và tiến hành phổ biến kinh nghiệm cho mọi chiến sĩ. Trong đó có hướng dẫn cách tổ chức để đánh máy bay trực thăng.

    “Chúng tôi nghĩ rằng Mỹ cũng có chiến lược, chúng tôi cũng có, Chiến lược của chúng tôi là chiến tranh nhân dân. Các anh có nhiều chiến thuật, các chiến thuật có tác dụng quyết định để giành thắng lợi chiến lược. Các anh dùng chiến thuật sử dụng kỵ binh bay để dành chiến thắng. Nếu chúng tôi đánh bại được chiến thuật này – Chiến thuật trực thăng vận- thì chúng tôi có thể đánh bại chiến lược của các anh. Mục tiêu của chúng tôi là phải chiến thắng.”

    Tại Sài Gòn, tư lệnh quân Mỹ tại Việt Nam, đại tướng William C. Westmoreland và cấp phó của mình là tướng William Depuy, xem xét số liệu thống kê trong 34 ngày diễn ra chiến dịch Ia Drang: Ước tính có 3561 lính Bắc Việt bị giết so với 305 lính Mỹ chết, cho thấy tỉ lệ là 12 lính Bắc Việt đổi 1 lính Mỹ. Nó làm cho 2 tướng Mỹ, những người đã trải qua các chiến dịch nướng quân trong thế chiến thứ 2 thấy họ có thể làm chảy máu kẻ thù đến chết về lâu dài, với 1 chiến lược tiêu hao.
    Tại Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các tướng lĩnh, xem xét những kết quả của Ia Drang và cảm thấy rất bình tĩnh, tự tin. Những chiến sĩ nông dân của họ đã đứng vững trước hỏa lực khủng khiếp, công nghệ hiện đại của 1 siêu cường, và đã chiến đấu với quân Mỹ với tư thế hiên ngang. Qua thời gian, chắc chắn họ cùng với sự kiên định,ý trí sắt thép đã hạ gục thực dân Pháp rồi sẽ đánh bại Mỹ.

    Có một người có quyền lực cao tại Washington mùa thu ấy biết rằng tên của cuộc chơi đã thay đổi ở Việt Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namarađang công du tại châu Âu thì tổng thống yêu cầu ông chở về và ghé qua Sài Gòn để dự cuộc họp về trận Ia Drang. Mc Namara đã hội đàm với đại sứ Lodge và tướng Westmoreland ở Sài Gòn, rồi sau đó bay đến căn cứ An Khê để gặp cho tướng Harry Kinnard và tôi.

    Suốt 15 phút, tôi cố gắng trình bày cho Mc Namaravà những người cùng đi chân dung của những lính Bắc Việt đã đánh nhau với chúng tôi tại X ray: Kỷ luật tốt, kiên quyết, cuồng tín không sợ chết, và ào ạt tràn xuống núi tấn công biển người theo cái cách đã không còn thấy kể từ cuộc chiến Triều Tiên.

    Sau nhận xét của tôi Mc Namarachỉ nín lặng. Giờ đây ông ta biết chiến tranh Việt Nam đã chở nên không giới hạn và số lượng lớn nhân lực, tiền bạc, trang thiết bị phải có gieo cho ông ta mối hoài nghi rằng chiến thắng là điều khó khăn. Trên đường về Sài Gòn niềm lạc quan thường xuyên của ông đã giao động. Trước khi lên máy bay về Washington ông ta nói với các nhà báo: “Đây sẽ là cuộc chiến kéo dài”
  3. maxttien

    maxttien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2011
    Bài viết:
    3.453
    Đã được thích:
    1.222
    không hiểu sao phía Mĩ lúc nào cũng bảo bên mình đánh biển người nhể
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Thì thế Mỹ mới giỏi, mới tài chứ...Chứ ai lại nói dùng ưu th61 hỏa lưc, phi pháo, công nghệ hiện đại, b52...đánh với lèo tèo vài anh du kích + bộ đội mà ko xong thì mất mặt quá còn giề...=))
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trên máy bay Mc Namara thảo 1 bản báo cáo tối mật cho tổng thống Johnson nêu rõ ràng là Bắc Việt không những đối địch được mà còn vượt trội Mỹ và sẽ còn tiếp tục như vậy. Mc Namaraviết; chỉ có 2 sự lựa chọn: Hoa Kỳ sẽ ra đi với 1 giải pháp thỏa hiệp -rút quân dưới 1 thỏa thuận ngoại giao hoặc là Tổng thống phải chấp nhận yêu cầu của tướng Westmoreland là tăng gấp đôi số lượng các tiểu đoàn chiến đấu tại Việt Nam từ 34 lên 74 vào cuối năm 1966. Ông kết luận với những từ sau: “Đánh giá: Chúng ta cần nhận thức rằng dù triển khai mọi thứ cũng không thể chắc chắn sẽ thành công. Số quân nhân Mỹ thiệt mạng có thể lên đến 1000 người 1 tháng, chúng ta phải đối mặt với việc tỉ lệ đó trong đầu nắm 1967 có thể là còn cao hơn.”


    Một báo cáo chi tiết hơn gởi Tổng thống Johnson đề ngày 6 tháng 12 năm 1965, phản ánh sự đồng thuận giữa Mc Namara, Tướng Westmoreland, Đại sứ Lodge, tư lệnh Thái Bình Dương, đô đốc Grant Sharp và tham mưu trưởng liên quân tuyên bố: Chúng tôi cho rằng, khi mà chưa có những sáng kiến ngoại giao mới, Hoa Kỳ phải gởi 1 số lượng lớn lực lượng tăng viện cho Việt Nam nếu không muốn bị đánh bại (gạch dưới). Chúng tôi đề nghị: Hoa Kỳ phải chuẩn bị để tăng quân cho lục quân vào cuối năm 1966, từ 34 lên 74 tiểu đoàn chiến đấu. Nếu 74 tiểu đoàn quân Mỹ cùng với sự gia tăng các phi đội không quân, các đơn vị hải quân, phòng không, trợ chiến, công binh, hậu cần và nhân viên cố vấn mà chúng ta cần bổ sung sẽ đưa số lượng quân Mỹ tại Việt Nam lên khoảng 400.000 quân. Cuối năm 1965 lực lượng từ 200.000 quân sẽ được tăng dần trong năm 1966 với tiến độ 15.000 quân mỗi tháng. Và nên biết rằng việc tăng cường triển khai (có thể vượt quá 200.000) sẽ là cần thiết trong năm 1967.


    Mc Namara nhắc lại ước đoán của ông ta rằng Bắc Việt sẽ đáp lại tương ứng với bất kỳ sự leo thang nào của Mỹ và đến năm 1967, số quân nhân Mỹ bị chết trong khi làm nhiệm vụ sẽ lên đến 1000 mỗi tháng. Và một lần nữa ông nhắc lại ở các giòng cuối:” nếu nước Mỹ sẳn sàng cung cấp đủ quân – có thể là 600.000 quân hay nhiều hơn- chúng ta sẽ ngăn chặn được Việt Nam DCCH và ********* và duy trì xung đột ở mức độ có kiểm soát. Đến lúc đó, câu hỏi sẽ phụ thuộc vào mức độ can thiệp của Trung Quốc.”


    Bản báo cáo của Mc Namaraghi thêm: “ Sau đó , chúng tôi tin chắc rằng, ngay cả khi những đề nghị được đáp ứng, chúng tôi sẽ phải đối đầu với 1 thế bế tắc quân sự ở mức độ cao hơn…”
    Vào giữa tháng 12, Johnson triệu tập 1 cuộc họp với các cố vấn cao cấp của ông tại Nhà Trắng. Will Bundy nói rằng lựa chọn thứ nhất của Mc Namara- rút quân ra khỏi Việt Nam, trong khi mọi việc đang tốt - chưa bao giờ được xem xét nghiêm túc. Lựa chọn thứ 2 – tăng quân – được mọi người chấp thuận kể cả Mc Namara. Là một chuyên gia thống kê, Mc Namara tóm lại: “Giải pháp quân sự cho vấn đề này là không chắc chắn, tỉ lệ thành công là 1/3 hoặc ½. Mc Namarahối thúc tạm dừng ném bom để chuẩn bị công luận cho việc leo thang sắp tới.


    Chúng tôi, những người chỉ huy trong thời kỳ đầu bị khủng hoảng niềm tin vào những nhà chính khách trong cuộc chiến khi mà tổng thống từ chối tăng quân và rút chúng tôi ra khỏi cuộc chiến theo cách ủy mị và loại trừ những người đã qua huấn luyện tuyệt vời. Giờ đây khi trận Ia Drang nổi lên, quyết tâm chính trị của Hoa Kỳ một lần nữa được thử thách.


    Chúng tôi biết thực tế là 3 trung đoàn Bắc Việt đã đụng trận với chúng tôi giờ đã rút về Campuchia. Cúng tôi muốn truy kích chúng bằng mọi phương tiện, nhưng điều đó là bất khả bởi các luật lệ trói buộc. Washington đã giải đáp mối lo ngại lớn nhất của nhà đương cục Hà Nội.
  6. maxttien

    maxttien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2011
    Bài viết:
    3.453
    Đã được thích:
    1.222
    http://www.generalhieu.com/pleime-am-u.htm
    Đây là thông tin về trận đánh của mấy anh VNCH chém rõ kinh.[:D]
    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/89/70/84/84/84/127604/Default.aspx
    còn đây là từ phía ta.
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_Ia_%C4%90r%C4%83ng
    wiki tiếng việt
    Nói chung là thật khó tin với con số 3 ngan rưỡi tổn thất( chưa tính số bị thương) của qdndvn vì toàn chiến dịch tổng cộng chỉ có 3 trung đoàn, trận Ia đrăng thì chỉ có 1 trung đoàn nhiều nhất 2000 người.
    Có lẽ việc phía ta bí mật áp sát rồi xung phong gây bất ngờ khiến quân Mĩ tưởng ta đánh biển người, nhưng thực tế gặp tình huống này lính Mĩ hoảng loạn đến nỗi bắn nhầm vào nhau.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    E thì thấy rằng trong các đoạn hồi ức trong sách này, lính Mỹ chẳng thấy nói ta tấn công biển người mà phần lớn họ toàn thấy những toán quân nhỏ vài chục người là cùng..."Biển người" xuất hiện ở đây là phần báo cáo tổng kết của các cấp chỉ huy...để cho "chiến thắng" thêm hoành tráng thôi bác ạ..
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tướng Kinnard nói: “Tôi luôn dạy các sĩ quan rằng khi truy kích địch, chúng ta phải truy kích liên tục cho tới khi tiêu diệt quân địch, hoặc bắt bọn chúng phải đầu hàng. Tôi thấy trong trận Ia Drang rõ rang là có tình huống phải truy kích địch và tôi muốn đuổi theo bén gót chúng. Không cho chúng chạy thoát vào Campuchia, mặc kệ các nguyên tắc của cuộc chiến. Tôi được cà 2 phái dân sự và quân sự ở Sài Gòn ủng hộ, nhưng quyết định tối thượng lại ở Nhà Trắng và chúng tôi sẽ không được đuổi theo chúng trong đất Campuchia.”


    Việc này khiến cho Bắc Việt nhận ra chúng có được vùng “đất thánh”, nơi chúng có thể quay trở lại VN khi chúng muốn đánh nhau và lẩn đi khi chúng muốn rút lui.”
    Tướng Kinnard cho biết thêm: “Khi tướng Giáp nói ông ta đã học được cách chống lại quân Mỹ và trực thăng của họ tại Ia Drang, đó là nhảm nhí. Điều mà ông ta học được là biết chúng tôi không được phép đuổi theo ông ta qua cái biên giới dơ dáy ấy. Từ đó trở về sau, ông ta cứ nhe răng ra cười. Ông ta có thể chủ động bắt chúng ta chiến đấu ở nơi nào và lúc nào ông ta muốn, những nơi mà chỉ cách biên giới vài dặm, nơi mà đường tiếp liệu đến với ông ta ngắn nhất, nơi mà ông ta chiếm ưu thế về lực lượng, tiến hành trinh sát địa hình kỹ càng và am hiểu địa bàn hơn quân ta.


    Will Bundy, người sau này sẽ là assistant secretary of state. Thời điểm đó nói rằng. “Tôi ủng hộ quan điểm của cánh quân sự, tiến quân vào Campuchia để giành thắng lợi. Sẽ được nhiều hơn mất. Chúng tôi cố gắng giữ vị thế trung lập cho Campuchia, Lyndon Johnson có nhiều thiện cảm với hoàng thân Sihanouk, nhưng Richard Nixon thì không. Nhưng với cách nhìn của tôi, nếu chúng ta bắt đầu cuộc chơi, với tất cả quyền hạn, hãy chiến đấu trên 1 chiến trường rộng rãi hơn. Trừ khi tôi nhận định sai, chiến dịch ném bom bí mật Campuchia của Nixon chính vì điều đó. Khi chúng tôi bắt đầu ném bom lấn vào biên giới Campuchia khoảng 10 dặm thì Bắc Việt lui vào hoạt động trong khoảng 12 dặm tính từ biên giới. Đến lúc chúng ta hành quân trên bộ 1 năm sau thì chúng ta phải tiến sâu vào 20 dặm. Dễ hiểu nhất là cuộc chiến chỉ bị đẩy lui sâu vào lãnh thổ Campuchia, và đối phương sẽ tiếp tục rút vào sâu hơn nữa trừ khi chúng ta tiến chiếm được toàn bộ phần phía đông Campuchia, mà đó là vùng có địa thế rất hiểm trở.


    Với tôi, có 1 sai lầm nghiêm trọng đã xảy ra trong cách chúng ta tiến hành cuộc chiến vào đầu năm 1966, khi tôi bắt đầu chỉ huy lữ đoàn 3 – gồm cả những tiểu đoàn đã chiến đấu tại X-ray và Albany – bước vào 1 cái máy xay thịt khác trong chiến dịch mới, lúc đó là vùng Bồng Sơn, 1 vùng đồng bằng đông dân nằm ven biển miền Trung Việt Nam.
    Bồng Sơn là một vùng sản xuất lúa đông dân nằm dưới sự kiểm soát của ********* trong nhiều năm rồi. Giờ đây quân chính quy Bắc Việt đã hoạt động trong khu vực. Việc của tôi là phải quét sạch mọi lực lượng vũ trang của địch ra khỏi khu vực rồi sau đó chuyển giao cho quân miền Nam Việt Nam và chính quyền dân sự bảo vệ và cai quản nó sau này.


    Vấn đề đâu tiên đến ngay khi có các chiến dịch trong vùng đông dân này. Những hiệu quả tuyệt vời của pháo binh, không kích, Trực thăng vũ trang đã cứu sống chúng tôi trong thung lũng Ia Drang, giờ đây bất chấp những nỗ lực cao nhất của chúng tôi bắt đầu gây ra thiệt hại, giết chết và làm tàn phế nhiều người dân vô tội, phá hủy làng mạc, giết hại gia súc, gia cầm.
    Trong cuộc không kích của chúng tôi vào Bồng Sơn ngày 28/1/1966. Tôi bay trên chiếc máy bay đầu tiên và lệnh tấn công vào hàng cây. Có một ngôi nhà lá nhỏ ở dưới tán cây, và bên trong nó là 1 gia đình nông dân đang sợ hãi cuống cuồng khi đạn pháo bắt đầu rót xuống xung quanh họ. Một bé gái 6 tuổi bị trúng mảnh pháo, người đầy máu. Nó bằng tuổi với con gái Cecile của tôi ở nhà. Tôi đã gọi các lính cứu thương đến nhưng tôi vẫn cảm thấy thất vọng. Chúng tôi không ai nhập ngũ để làm thương tổn trẻ em làm 1 gia đình hiền hòa phải khiếp sợ như vậy.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trận đánh diễn ra ác liệt, quân địch đã bị đuổi đi, có 82 lính của tôi tử trận và 312 lính khác bị thương. Giá phải trả là khá đắt nhưng Bồng Sơn đã được giải phóng. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ và bà Mai vợ ông, diện bộ đồ bay màu đen đeo quanh cổ chiếc khăn quàng tím tới chỉ huy sở của tôi để tham dự buổi họp báo sau trận đánh. Tôi nhấn mạnh rằng tôi đã lấy lại quyền kiểm soát cho chính phủ Việt Nam.


    Khoảng 1 tuần sau khi chúng tôi rút quân, quân Bắc Việt và quân chủ lực ********* đã quay trờ lại Bồng Sơn. Lữ đoàn của tôi lại được gởi đến vào tháng 4 và lần nữa trong tháng 5, và lữ đoàn mất thêm nhiều lính chết và bị thương. Sau cuộc hành quân tháng 5, với tôi mọi điều trở nên rõ ràng là 1 tư lệnh chiến trường thì không dính líu đến các vấn đề chính trị hay đại loại thế. MACV đã không thành công trong việc phối hợp các cuộc hành quân giữa quân Mỹ và quân Nam Việt Nam với các trương trình của chính phủ Việt Nam trong việc thiết lập lại quyền kiểm soát ở những vùng mới được giành lại.


    Nếu như họ làm không được ở Bồng Sơn – nơi có sự xuất hiện với sức mạnh vượt trội của sư đoàn American đã quét sạch được kẻ địch ra khỏi vùng nông thôn – thì làm sao hy vọng thiết lập lại quyền kiểm soát ở những vùng tranh chấp khác, nơi sự hiện diện của quân Mỹ không mạnh bằng. Nhưng vào năm 1966, lúc cuộc chiến mới bắt đầu tất cả những gì tôi làm là hy vọng và cầu mong những hy sinh to lớn của chúng tôi cuối cùng cũng góp phần đạt được các mục tiêu của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Cuối năm 1966, toàn bộ sư đoàn 1 Kỵ binh không vận được chuyển đến Bồng Sơn và sẽ đứng chân ở đó trong suốt 18 tháng.


    Lỗ hổng chết người trong chính sách của Mỹ đã bắt đầu gây tác hại. Để trấn an công chúng và chứng minh rằng 1 cường quốc như Hoa Kỳ không hề bị rắc rối khi làm công việc sen đầm quốc tế, Johnson lệnh rằng kỳ hạn phục vụ của binh lính Mỹ là 12 tháng (13 tháng đối với TQLC “may mắn hơn”). Không người lính hay dân sự nào phải ở lại Việt Nam lâu hơn chỉ 1 ngày.
    Những người đã sống sót và đã học được cách chiến đấu trong các hoàn cảnh khắc nghiệt bắt đầu trở về nhà vào mùa hè năm 1966, mang theo tất cả những kinh nghiệm dày dạn. Thay thế họ là đội quân gồm toàn những tân binh, bắt đầu học hỏi rồi sẽ lại được thay thế bắng những tân binh khác nữa. Chất lượng huấn luyện bị để mặc cho thấp hơn yêu cầu.



    Thậm chí còn làm nhụt nhuệ khí và hiệu quả của các đơn vị chiến đấu Mỹ là giới hạn 6 tháng cuả chỉ huy lữ đoàn và tiểu đoàn. Đây là cái vé thăng tiến. Sự nghiệp của sĩ quan khi nắm quân là phải thăng tiến. Luật ở đây là sau 6 tháng anh sẽ được thăng cấp và thuyên chuyển. Nó cũng có nghĩa là khi người chỉ huy làm quen được với địa bàn, với binh lính các mánh khóe để làm tối nhiệm vụ - và nếu anh ta làm tốt – anh ta sẽ ra đi và quân lính sẽ phải trả giá.


    Vào tháng 6 năm 1966, tôi được thăng cấp và phải rời lữ đoàn 3. Thay thế tôi là 1 đại tá đến từ Lầu 5 góc. Lữ đoàn của tôi lúc đó đang tác chiến gần Dong Tre. Thật là tội lỗi nếu giao quyền cho 1 người chưa sạch nước cản như vậy, nên tôi đã thẳng thừng từ chối.


    Việc chuyển giao quyền chỉ huy được bị hoãn lại 10 ngày, cho đến khi trận đánh kết thúc. Một tháng sau, vào ngày 8 tháng 8 năm 1966, người kế nhiệm tôi gởi đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh trở lại thung lũng Ia Drang và 25 người lính đã mất mạng trong 1 ngày tệ hại.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tôi hy vọng sự thuyên chuyển kế tiếp của tôi sẽ là trường bộ binh Fort Benning nơi tôi có thể truyền đạt những kinh nghiệm học được tại Việt Nam cho những sĩ quan trẻ, những người sẽ cầm quân chiến đấu. Nhưng không được. Trong thực tế, chỉ có 1 trên 100 sĩ quan đã trải qua khóa huấn luyện trực thăng vận và chiến đấu ở chiến trường với sư đoàn 1 Kỵ binh không vận suốt 1 năm được chuyển về trường bộ binh. Thay vì thế tôi được gởi về Washington, D. C nơi công việc tiếp theo của tôi là tổ đặc trách về Mỹ La tinh trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Thật là 1 công việc tốt cho 1 người có ngoại ngữ là tiếng Pháp và tiếng Na Uy.


    Một cách ngắn gọn, lệnh thuyên chuyển được thay đổi từ văn phòng của cục an ninh quốc tế của bộ trưởng quốc phòng Mc Namara, do John Mcnaughton lãnh đạo. Là 1 người am hiểu về Việt Nam, việc của tôi là sắp xếp các chuyến đi cho Mc Namaravà các quan chức của bộ quốc phòng, bộ ngoại giao và Quốc hội. Tập hợp những thắc mắc, khiếu nại về chính sách với Việt Nam được chuyển đến từ các Nghị sĩ…


    Trong năm sau, tôi đã chứng kiến Bob Mc Namaravà John Mc naughton, những người tuyệt vời, bị thất bại khi nỗ lực không thành trong việc điều khiển cuộc chiến tranh và công việc bình định tại Việt Nam. Cuối năm đó, không ai tiến gần đến 1 giải pháp nào. Một viên chức giỏi đã tổng kết những điều đáng buồn ở Việt Nam 1 cách ngắn gọn: “Dù chúng ta đã nỗ lực gấp đôi, mục tiêu của chúng ta vẫn không đạt được”


    Chúng ta đã học được gì sau những mất mát tại thung lũng Ia Drang?
    Chúng tôi đã học được 1 số điều khi chiến đấu với quân chính quy Bắc Việt Nam và 1 số điều từ chính mình. Chúng tôi có thể chống lại những người lính bộ binh nhẹ giỏi nhất thế giới và vẫn giữ vững. Tướng Westmoreland nghĩ rằng ông đã tìm ra lời đáp cho câu hỏi làm sao để chiến thắng cuộc chiến này: Ông ta sẽ đổi 1 mạng người Mỹ lấy 10,11 hoặc 12 mạng người Bắc Việt Nam, ngày này qua ngày khác, cho đến khi Hồ Chí Minh phải khuất phục. Westmoreland sẽ học được, nhưng quá trễ, rằng ông ta đã lầm, rằng người dân Mỹ không chấp nhận coi cái tỷ lệ giết chóc 10-1 hay 20-1 như là sự mua bán. Nhưng chúng tôi xác nhận hiệu quả của cả lý thuyết lẫn thực hành của chiến thuật trực thăng vận. 1 triệu lính Mỹ sẽ cưỡi những chiếc trực thăng Huey để đi chiến đấu trong 8 năm tới, và những tiếng “phạch phạch” quen thuộc sẽ của cánh quạt trở nên những âm thanh lâu dài của cuộc chiến.


    Rốt cục - mất 10 năm, với cái giá là mạng sống của 58.000 người Mỹ trẻ tuổi ,1 đất nước chưa từng thua trận bao giờ đã phải chuốc lấy thất bại nhục nhã. Một số người trong chúng tôi mới biết rằng trước đó 150 năm Clausewitz đã viết rằng:
    “Không ai muốn phát động chiến tranh – hay đúng hơn là không ai điên khùng mà làm vậy – mà lại không dự định rõ được mục tiêu muốn đạt được và làm sao để thực hiện dự định ấy.”

Chia sẻ trang này