1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

we were soldies once..and young Phần tiếp theo

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 30/12/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} LỜI BẠT
    Thật dễ dàng quên đi các con số, nhưng làm sao chúng ta có thể quên được những khuôn mặt, giọng nói, tiếng khóc của những người lính trẻ trước khi họ chết. Trong khoảng từ ngày 23 tháng 10 đến 26 tháng 11 năm 1965, có tổng cộng 305 lính Mỹ trẻ trung đã tử trận trong chiến dịch ở Pleiku. Tên của họ được khắc trên phiến đá thứ 3 – đầu phía Đông đài tưởng niệm cựu binh chiến tranh Việt Nam. Mỗi người là 1 vốn quí của đất nước, mỗi người cũng là tấm thảm kịch của đất nước. Chúng nằm cạnh nhau và kể về từng câu chuyện của họ: Tên của trung úy John Lance Geoghegan được khắc trên đá granite đen bên cạnh tên của binh nhất Willie F. Godboldt, là người mà anh đã chết vì cố gắng cứu. Họ sẽ làm được những gì, tất cả họ, nếu họ được quyền sống để phụng sự tổ quốc thay vì bằng cái chết? Có 1 hội cho các cựu binh củav Ia Drang, những chiến hữu, và chúng tôi tổ chức ăn tối vào đêm trước ngày Cựu chiến binh tại Washington tổ chức hàng năm vào tháng 11 và 1 bữa trưa vào mỗi mùa hè trong buổi hội họp các cựu binh của sư đoàn 1 Kỵ binh không vận, để chúng tôi tìm lại niềm vui, sự an ủi với các bạn đồng ngũ trong cùng đại đội thời trai trẻ.


    Chúng tôi bắt đầu bằng cách đọc danh sách tên, đầu tiên là tên những người đã bỏ mình rồi đến những người kỳ cựu. Sau đó từng người chúng tôi đứng lên, xưng tên, cấp bậc, thời gian tại ngũ, đơn vị, và nơi chúng tôi đã chiến đấu trong thung lũng. Không cần hội phí – vì chúng tôi đã trả bằng máu trước rồi – và không có sĩ quan. Hai cựu trung sĩ là Bill Kreischer, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh và John Setelin, đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh chịu trách nhiệm tổ chức.



    Mỗi năm 1 người đứng trước và kể cho mọi người những gì anh ta còn nhớ về người đứng ở bên phải và người bên trái mình, những gì họ đã chứng kiến và làm tại thung lũng. Đến bây giờ chúng tôi mới hiểu tại sao những cựu chiến binh hay tụ tập đễ rỉ rả với nhau về những ngày dĩ vãng.


    Và còn những người khác, kẻ thù cũ của chúng tôi, thuộc các trung đoàn 320, 33 và 66 QĐND thì sao? Đối với họ, thời gian nhập ngũ là vô chừng, không có chuyện được cho về nhà sau 1 năm. Họ đã chiến đấu suốt 10 năm nữa. Chỉ cái chết hoặc chiến thắng mới kết thúc nghĩa vụ quân sự của họ, mà đa phần là cái chết.


    Những cựu binh của Hồ Chí Minh, những trung sĩ trong các trung đoàn ấy cùng những người khác trong QĐND cũng đã nỗ lực hết mình để chăm sóc lẫn nhau, tất nhiên theo cách không chính thức. Vào buổi tối cuối tuần hay cuối tháng những của 1 nhóm đặc biệt tụ tập trong 1 quán cà phê nào đấy tại Hà Nội chuyên phục vụ những cựu chiến binh, nói chuyện, chia sẻ tin tức hay những chuyện phiếm về bạn bè và gia đình của họ và đôi khi kể 1 mẩu chuyện về những ngày chiến đấu tại Ia Drang. Từ năm 1975, quân đội Việt Nam đã tiến hành tìm kiếm, quy tập hài cốt của gần 1 triệu đàn ông và phụ nữ đã ngã xuống trong chiến trận. Họ được đưa về các nghĩa trang nằm rải rác trên những cánh đồng, với 1 đài tượng niệm cao và tường thấp bao quang.


    Những chiến thắng vĩ đại, những thất bại nặng nề, những hy sinh cao cả không bao giờ bị quên lãng. Chúng được lưu danh bằng các dải băng chiến trận được gắn lên cờ của đơn vị. Trong những dải băng chiến công gắn trên cờ của tất cả các tiểu đoàn trong sư đoàn 1 Kỵ binh không vận có 1 dải băng danh dự Presidential Unit Citation màu xanh dương đậm có hàng chữ đơn giản: Tỉnh Pleiku.


    Học sinh bây giờ không thể nhớ lâu tên và ngày tháng diễn ra các trận đánh lớn, đó có lẽ là điều tốt, vì đó có lẽ là khởi đầu cho con đường đến với 1 thế giới không cần đến chiến tranh. Có lẽ vậy, nhưng chúng tôi vẫn nhớ những ngày ấy và những đồng đội của chúng tôi, và sau này khi chúng tôi ra đi, thì dải băng màu xanh dương sẽ vẫn còn phấp phới trên những lá cờ lộng lẫy.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} PHỤ LỤC


    Những con người trẻ tuổi ấy hiện giờ ra sao?


    Những thanh niên nam, nữ, trẻ em trong câu chuyện này là những công dân của Hoa Kỳ, sống 1 cuộc sống yên bình trên khắp đất nước mà họ phục vụ. Họ là đại diện cho hơn 3 triệu người Mỹ đã phụng sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong cuộc chiến dai dẳng và cay đắng của nó tại Việt Nam. Đại diện cho những người thân của hơn 58.000 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh ấy. Sau đây là phần thống kê được bắt đầu từ năm 1992, và luôn được cập nhật về nơi họ đang sống cũng như cuộc sống hiện nay của họ:


    Russell Adams, 51 tuổi, xạ thủ súng máy của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 Kỵ binh, giờ làm việc trong trang trại nuôi bò sữa rộng 500 mẫu của gia đình ở ngoại vi Shoemakersville, Pennsylvania. Anh bị liệt 1 phần thân thể do hậu quả của những vết thương. Adams và vợ hiện có 1 cô con gái 3 tuổi.


    Warren Adams, 62 tuổi, trung sĩ nhất, đại đội Delta, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 Kỵ binh tại Ia Drang, giải ngũ năm 1968 với hàm thượng sĩ và được coi là trong những thượng sĩ có học nhất toàn quân. Từng làm nhiệm vụ quân báo ở châu Âu trong cuối những năm 40 đầu những năm 50, Adams có bằng cử nhân của trường đại học của Áo tại Vienna, bằng thạc sĩ lịch sử ở đại học Innsbruck và tiến sĩ tâm lý học tại đại học Munich…tất cả đều dùng tên giả. Hiện anh làm chủ 1 công ty bất động sản tại Tampa, Florida.


    Hank Ainsworth, 54 tuổi, phi công lái trực thăng của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, phục viên với cấp chuẩn úy cấp 4 ngày 30 tháng 5 năm 1977 sau 22 năm phục vụ. Hiện anh sống tại Colorado Springs, Colorado làm chủ và điều hành 1 công ty môi giới bất động sản.


    J.L. (Bud) Jr. Alley. 50 tuổi, sĩ quan truyền tin của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang. Anh hoàn tất kỳ hạn phục vụ trong tiểu đoàn và rời Việt Nam để giải ngũ vào tháng 8 năm 1966. Anh làm quản lý bán hàng trong gành sx bao bì và đi học vào buổi tối để lấy bằng thạc sĩ kinh doanh (MBA). Hiện nay Alley làm giám đốc của 1 nhà máy sản xuất hộp giấy tại Dayton, Tennessee. Anh có vợ và 2 người con đang học đại học.


    Robert L. Barker, 55 tuổi, khẩu đội trưởng pháo binh ở bãi đáp Falcon đã phục vụ thêm 1 kỳ hạn nữa ở Việt Nam trong sư đoàn 1 Kỵ binh không vận năm 1969-1970 và sau này còn phục vụ tiếp kỳ hạn thứ 3 nữa. Anh phục viên với hàm trung tá vào năm 1980 sau 20 năm phục vụ. Hiện giờ anh quản lý 1 nhà máy sx nhựa và sống ở Vicksburg, Mississippi.


    Roger J. (Black Bart) Bartholomew, chỉ huy đơn vị Charlie trực thăng vũ trang gắn rocket tại Ia Drang quay lại Việt Nam để phục vụ kỳ hạn thứ 2 năm 1968. Trung tá Bartholomew đã tử trận ngày 27 tháng 11 năm 1968 lúc vừa qua tuổi 36.


    Roger Bean, 52 tuổi, phi công trực thăng Huey, bị thương tại bãi đáp X-ray, lại bị thương lần nữa trong chiến dịch Bồng Sơn đầu năm 1966 giờ vẫn còn tại ngũ. Hiện anh là thiếu tướng, phó tổng thanh tra quân đội.


    Bill Beck, 59 tuổi, xạ thủ súng máy số 2, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh ở Ia Drang, phục viên năm 1966 trở về quê hương tại Steelton, Pennsylvania. Anh làm họa sĩ quảng cáo tự do tại Harrisburg và thỉnh thoảng vẫn vẽ những bức họa về cuộc chiến mình đã trải qua. Anh và Russell Adams vẫn chơi thân với nhau.


    Toby Braveboy, lính súng trường đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh người đã suốt 1 tuần sống đơn độc trên bãi chiến trường Albany bị bỏ lại đã phục hồi các vết thương giờ đây sống an toàn với gia đình ở Coward, Nam Carolina. Sau khi giải ngũ anh làm thợ lợp nhà. Anh đã mất trong 1 tai nạn ô tô 10 năm sau.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Thomas W. (Tim) Brown, 73 tuổi, lữ đoàn trưởng lữ đoàn 3 tại Ia Drang, nghỉ hưu với hàm chuẩn tướng năm 1973 sau 30 năm quân ngũ và phục vụ thêm 1 kỳ hạn tại Việt Nam. Trong 3 cuộc chiến tranh ông tham gia, ông được thưởng 2 huân chương sao bạc, 2 huân chương sao đồng. Ông hiện sống cùng vợ ông, bà Louise, ở Antonio, Texas và vẫn đều đặn chơi Golf mỗi ngày.


    Galen Bungum, 49 tuổi, lính súng trường trong trung đội bị mất tích của trung úy Henry Herrick, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, giải ngũ năm 1966 và trở về nhà tại Hayfield, Minnesota. Bungum quản lý 1 trang trại bò sữa cho đến năm 1988, khi anh bán bò và lên thành phố tìm việc làm. Anh vẫn còn trồng đậu tương và ngô ở trang trại những khi rảnh rỗi.


    Vincent Cantu, 51 tuổi, lính súng cối của đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh sau khi rời chiến trường Ia Drang lập tức trở về nhà và giải ngũ sau đó 2 tuần vào tháng 12 năm 1965. Khi về lại Refugio, Texas, anh gọi cho bố mẹ của Joe Galloway nhưng giấu không nói về tình huống họ gặp nhau tại bãi chiến triường X-ray. Vince Cantu không bao giờ quay lại sự nghiệp âm nhạc của mình. Hiện nay anh là tài xế xe buýt ở Houston, Texas. Anh đã lập gia đình và hiện có 1 cô con gái đang học đại học cùng 1 cậu con trai đang phục vụ trong TQLC Hoa Kỳ. Anh nói rằng anh đã “cầu nguyện rất nhiều” cho con trai, em trai và người bạn cũ của anh là Galloway khi họ tham chiến trong cuộc chiến tranh vùng vịnh.


    Robert J. Carrara, 54 tuổi, bác sĩ phẫu thuật tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh ở LZ-Xray, phục vụ 11 tháng ở Việt Nam rồi được giải ngũ vào tháng 7 năm 1966. Là người Chicago gốc, bác sĩ Carraratrở về làm nghiên cứu y học. Anh nghỉ hưu vào năm 1990. Anh sống cùng vợ tại St. Charles, thuộc ngoại ô Chicago. Họ có 4 người con và đã có 3 đứa cháu. Carraranói: “Tôi không ở Việt Nam lâu, nhưng giờ đây mỗi khi thấy bất cứ điều gì gợi nhớ đến thời kỳ ấy. tôi vẫn nhớ như in buổi sáng thứ nhì tại X-ray, chúng tôi bò rạp bên dưới hỏa lực dữ dội của súng máy đúng lúc thượng sĩ Plumley bật dậy, rút khẩu súng lục cỡ .45, bắn 1 phát và nói: “Các quý ông, hãy chuẩn bị lo giữ lấy thân.” Người ta không bao giờ quên được những chuyện như thế.


    John Cash, 56 tuổi, sĩ quan trợ lý hành quân tại sở chỉ huy lữ đoàn 3, về sau là chỉ huy 1 đại đội bộ binh của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh trong 6 tháng của năm 1966. Cash phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam trong vai trò cố vấn cho quân lực hoàng gia Thái Lan. Anh học thêm 1 bằng thạc sĩ nghiên cứu về lịch sử Mỹ Latinh. Anh từng làm việc cho cả Brazil lẫn El Salvador, và là 1 giảng viên lịch sử của học viện West Point làm cho trung tâm lịch sử quân sự nhiều năm. Công trình cuối cùng của anh là nghiên cứu và viết cuốn sử về trung đoàn bộ binh số 24 (toàn lính da đen) trong chiến tranh Triều Tiên. Cash về hưu với hàm đại tá vào tháng 9 năm 1992 và hiện sống ở Washington, D. C.


    Bruce Crandall, 59 tuổi, chỉ huy đơn vị trực thăng vũ trang tại thung lũng Ia Drang, quay lại phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam năm 1967. Tháng 1 năm 1968, tại đồng bằng Bồng Sơn bị rơi máy bay trong khi bay sát mặt đất để tìm 1 chiếc trực thăng bị bắn rơi. Crandall bị gãy lưng. Anh mất 5 tháng chữa trị trong quân y viện. Crandall đã được tặng thưởng bằng khen Helicopter Heroism Award vì 2 chuyến hạ cánh ban đêm dưới lửa đạn để cứu 12 thương binh nặng trong đại đội Alpha của đại úy Tony Nadal, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh trong chiến dịch Masher-White Wing tháng 1 năm 1966. Trong kỳ hạn phục vụ thứ 2 tại Việt Nam, Crandall đã bay dẫn đầu trong 756 phi vụ. Anh trở thành thạc sĩ quản lý hành chính năm 1976 và phục viên năm 1977 với hàm trung tá. Anh làm trong hội đồng thành phố tại Dunsmuir, California từ năm 1977 đến 1980. Sau đó anh chuyển đến Mesa, Arizona, làm giám đốc công trình công cộng của thành phố. Anh cùng vợ là Arlene có 3 con trai; 1 là chủ ngân hang tại Sao Paulo, Brazil, 1 làm luật sư ở Connecticut, và 1 là đang là sinh viên thần học.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Dennis Deal, 50 tuổi, trung đội trưởng, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, rời quân ngũ năm 1968 với hàm đại úy và trở về quê hương ở Pittsburgh, Pennsylvania. Hiện anh là viên chức tài chính của công ty bưu chính Hoa Kỳ tại Oklahoma City, bang Oklahoma.


    Myron P. Diduryk, đại đội trưởng đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh hoàn tất kỳ hạn phục vụ ở đại đội mình năm 1966. Sau đó trở lại Việt Nam với hàm thiếu tá trong sư đoàn 1 kỵ binh không vận. Được bổ nhiệm làm sĩ quan hành quân của tiểu đoàn 2, trung đoàn 12 kỵ binh. Diduryk tử trận ngày 24 tháng 4 năm 1970 trong máy bay trực thăng Huey tại 1 căn cứ hỏa lực bị bỏ lại gần biên giới Campuchia. Tiểu đoàn trưởng đã lệnh cho chiếc trực thăng chỉ huy của anh đáp xuống để khám xác 1 lính Bắc Việt bị xạ thủ súng máy trên trực thăng bắn chết. Khi chiếc máy bay tiếp đất, quân Bắc Việt khai hỏa, đạn xuyên qua cửa chiếc trực thăng và trúng bụng Diduryk và đã giết chết người sĩ quan giỏi nhất từng chiến đấu ở Ia Drang. Ngày 27 tháng 11 năm 1965 Diduryk đã viết 1 bản ghi chép chi tiết các hoạt động của đại đội Bravo tại X-Ray cho các sinh viên của khóa huấn luyện sĩ quan ROTC ở ngôi trường cũ của anh, trường trung học St. Peter's, New Jersey. Giảng viên của lớp là đại tá John F. Jeszensky đã cung cấp cho tôi bản sao những ghi chép của Diduryk cùng bản đồ cho cuốn sách này. Diduryk được an tang tại nghĩa trang Fort Benning, người vợ góa của anh, Delores, hiện sống tại Jacksonville, Florida.


    Gregory (Matt) Dillon, 59 tuổi, sĩ quan hành quân của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam với chức vụ tiểu đoàn trưởng trong sư đoàn bộ binh số 9 và lữ đoàn trưởng tại Fort Carson, Colorado. Anh nghỉ hưu với hàm đại tá năm 1981 sau 24 năm phục vụ. Anh sống với vợ và 4 con chó giống Saint Bernard ở Colorado Springs, bang Colorado. Dillon là 1 Golf thủ ngày nào cũng chơi đủ 18 lỗ kể cả khi có mùa đông ở Colorado.


    Ken Duncan, 53 tuổi, đại đội phó đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, đã giải ngũ năm 1966. Anh trở về quê nhà tại Thomaston, Georgia, làm việc trong 1 công ty sản xuất sợi dệt vải. Anh lập gia đình và là cha của 2 đứa con.


    Robert Edwards, 54 tuổi, đại đội trưởng đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam với vị trí cố vấn. Anh làm giám đốc huấn luyện của Fort Benning và nghỉ hưu với hàm đại tá năm 1983. Anh làm quyền quản lý thị xã tại Dublin, Pennsylvania. Anh hiện sống ở gần New Hope cùng vợ là Nancy.


    John A. (Skip) Fesmire, 53 tuổi, chỉ huy trưởng đại đội Charlie, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh ở Ia Drang hiện vẫn đang tại ngũ. Fesmire giờ là đại tá được bổ nhiệm làm tùy viên quân sự cho sứ quán Mỹ tại Buenos Aires, Argentina. Anh đã phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam với tư cách là cố vấn của vùng IV chiến thuật năm 1968. Năm 1970 anh đạt được bằng cử nhân và thạc sĩ.


    George Forrest, 54 tuổi, đại đội trưởng đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh ở Ia Drang, về hưu với hàm trung tá năm 1980 sau 21 năm quân ngũ. Anh làm huấn luyện viên môn bóng bầu dục cho ngôi trường cũ của mình, đại học Morgan State tại Baltimore trong 10 năm. Từ tháng 8 năm 1990 anh làm hội trưởng sinh viên và huấn luyện viên bóng rổ tại trường trung học công giáo St. Mary Rynken tại Leonardtown, Maryland, quê hương anh.


    Ed (Too Tall to Fly) Freeman, 65 tuổi, là phi công bay cánh ( bay số 2) của Bruce Crandal, đã giải ngũ năm 1967 sau 21 năm phục vụ với quân hàm thiếu tá. Freeman được phong sĩ quan trên chiến trường trong cuộc chiến Triều Tiên. Anh là trung sĩ nhất của đại đội Bravo, tiểu đoàn 36 công binh và là 1 trong số 14 người còn sống sót của 1 đại đội có quân số là 257 trong trận đánh đồi Pork Chop. Anh được tướng James Van Fleet gắn lon trung úy và bộ nhiệm theo yêu cầu của anh về làm chỉ huy đại đội Bravo. Sau đó Freeman tái tổ chức lại đại đội và dẫn nó quay lại đồi Pork Chop. Sau khi phục viên, Freeman làm giám đốc dịch vụ hàng không cho Bộ Nội vụ Hoa Kỳ vùng Tây Bắc. Too Tall Ed nghỉ hưu vào tháng 1 năm 1993. Trong thời gian tại ngũ và khi làm cho bộ Nội vụ Freeman đã có tổng cộng 17.000 giờ lái trực thăng và 8000 giờ lái máy bay. Freeman hiện sống với vợ là Barbaratại Boise, Idaho. Họ có 2 con trai, 1 người là chuyên gia tư vấn trong côn nghiệp dầu mỏ, người kia là trung sĩ không quân đã tham gia chiến tranh vùng Vịnh.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Joe Galloway, 50 tuổi, phóng viên chiến trường đi theo tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại X-ray, phục vụ 16 tháng ở Việt Nam trong kỳ hạn thứ 1 của mình làm việc cho hãng thông tấn Hoa Kỳ (UPI) trong thời gian 1965-1966. Khi mà những người bạn cũ cuối cùng của anh ở sư đoàn 1 Kỵ binh không vận và TQLC trở về nhà thì anh cũng lên đường, và thề không bao giờ quay lại. Nhưng UPI đã gởi ông trở lại Việt Nam năm 1971 và 1973 và 1 lần nữa vào năm 1975 cho hồi chung cuộc. Galloway đã công tác cho UPI tổng cộng 15 năm ở hải ngoại, đã làm nhiệm vụ ở Tokyo, Sài gòn, Jakarta, New Delhi, Singapore, và Moscow. Năm 1982 anh đầu quân cho tạp chí U.S. News & World Report. Anh đã đoạt giải thưởng tạp chí quốc gia ngày 29 tháng 10 năm 1990 bao gồm cả những bài viết về trận Ia Drang. Giờ đây anh là chuyên gia giỏi cho U.S. News. Cách đây không lâu Galloway đã ra chiến trường lần cuối, đó là vào tháng 1 năm 1991, tướng H. Norman Schwarzkopf triệu tập anh đến bộ tư lệnh của mình tại Trực thăng vũ trangb xê-út và nói:’ Tôi sẽ gởi anh cho 1 vị chỉ huy nào ngoài đó giống như tướng Hal Moore và sư đoàn nào sẽ phải chịu gian nan thử thách nhất trong chiến dịch này.’ Galloway sau đó đi cùng thiếu tướng Barry Mccaffrey và sư đoàn bộ binh cơ giới số 24 tiến công thần tốc bằng xe tăng xuyên qua sa mạc phía Tây Iraq tiến tới thung lũng sông Euphrates. Hiện nay anh sống cùng với vợ là Theresa trong 1 trang trại ở miền Bắc Virginia, cùng với 2 con trai: Lee 15 tuổi và Joshua 12 tuổi.


    Camille Geoghegan, 27 tuổi, con gái của trung úy John Lance (Jack) Geoghegan, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh người đã tử trận ngày 15 tháng 11 năm 1965, giờ là chuyên viên về nguồn lực con người của 1 công ty ở Mclean, Virginia. Cô là thành viên tích cực của tổ chức Sons and Daughters in Touch, được tài trợ bởi hội những người bạn của các cựu binh chiến tranh Việt Nam, do gia đình và thân hữu của những người đã bỏ mình tại Việt Nam lập ra.


    Larry M Gilreath, trung sĩ trung đội, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, đã phục vụ 2 kỳ hạn tại Đông Nam Á và giải ngũ với hàm trung sĩ nhất tháng 4 năm 1972, Anh trở về nhà tại Anderson County, South Carolina và làm phó cảnh sát trưởng.


    S. Lawrence (Larry) Gwin, 51 tuổi, đại đội phó đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, vẫn ở lại đại đội cho đến ngày 4 tháng 7 năm 1966. Đại đội Alpha đến Việt Nam với 146 lính và sĩ quan, đến cuối năm thì chỉ còn 15 trên tổng số ban đầu còn trụ lại, trong đó có Gwin. Gwin xuất ngũ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ và trở về quê hương tại Boston để dạy học và viết sách. Anh hiện đang viết 1 cuốn sách kể về những năm tháng chiến đấu ở Việt Nam của đại đội Alpha.


    Charlie W. Hastings, 53 tuổi, sĩ quan tiền sát viên không quân tại X-ray đã nghỉ hưu sau 30 năm phục vụ ngày 1 tháng 3 năm 1992 với hàm đại tá không quân. Trong chiến dịch Ia Drang, Hastings bị bỏng nặng khi chiếc máy bay O-1E Bird Dog anh lái bị bắn rơi trên đèo Mang Yang và phải hạ cánh khẩn cấp xuống nghĩa trang của binh đoàn 100 của Pháp cạnh đường 19 vào đêm giáng sinh 1965. Chiếc máy bay cày xuống rất nhiều nấm mộ khiến cho chúng bật lên. Chân của Charlie bị kẹt trong những mảnh vỡ của buồng lái trong khi những quả rocket phốt pho trắng để đánh dấu mục tiêu gắn dưới cánh máy bay cháy bùng lên. Anh kể: ‘Tôi ráng kéo mạnh cái chân ra được và suốt trong 3 tháng trời tôi đã không thể đi lại được’. Hai tay của anh cũng bị bỏng khi anh cố thoát khỏi đống mảnh vụn. Lúc đó anh đã nghĩ rằng mình sẽ không còn bay được nữa. Nhưng Charlie đã lại được bay, anh lái chiếc F-4 Con Ma chưa đầy 1 năm sau. Anh phục vụ thêm 1 kỳ hạn tại Đông Dương năm 1975, lập kế hoạch và giúp cuộc di tản những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam từ căn cứ tại Thái Lan. Charlie Hastings về nhà tại Tucson và sống cùng vợ và con sau khi nghỉ hưu.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Robert D Hazen, 50 tuổi, lính điện đài của trung úy Bob Taf, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, nghỉ hưu năm 1988 với hàm trung sĩ nhất sau 27 năm quân ngũ. Anh hiện quản lý tiệm giặt đồ quân nhu ở căn cứ Fort Campbell, Kentucky và sống tại Clarksville, Tennessee. Khi từ Việt Nam về Hazen vẫn luôn liên lạc với với mẹ của viên trung úy trẻ tuổi, người đã chết trong vòng tay mình.


    Frank Henry, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, phục vụ kỳ hạn thứ 2 ở Việt Nam trong cương vị tiểu đoàn trưởng trong sư đoàn 1 kỵ binh không vận, sau đó chỉ huy 1 lữ đoàn của sư đoàn dù 101 và được thăng làm tham mưu trưởng của sư đoàn mùa hè năm 1977. Tháng 8 năm 1977, đại tá Frank Henry qua đời vì đứt mạch máu não ở tuổi 44. Sau khi chết tên anh được đưa vào nhà tưởng niệm phi công của quân đội. Vợ góa của anh là Emma Lee hiện đang sống tại Austin, Texas.


    John Herren, 58 tuổi, đại đội trưởng đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam trong vai trò sĩ quan tham mưu của MACV tại Sài Gòn. Rồi sau là tiểu đoàn trưởng đóng tại Đức và làm việc trong văn phòng của bộ trưởng quốc phòng cho đến khi nghỉ hưu năm 1985 với hàm đại tá. Anh là chuyên gia dân sự trong các vấn đề về NATO của bộ quốc phòng. Anh cùng vợ là Sally đang sống tại Bethesda, Maryland. Họ có 1 con trai và 2 con gái.


    John Howard, 54 tuổi, sĩ quan quân y của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang nghỉ hưu với hàm trung tá năm 1983 sau 23 năm phục vụ. Anh chỉ huy 1 trung đội quân y cho đến tháng 7 năm 1966. Khi về hưu Howard chuyển đến Carlisle, Pennsylvania anh làm tư vấn lập kế hoạch phản ứng khẩn cấp. Việc của anh là giúp những cộng đồng dân cư sinh sống gần những kho vũ khí hóa học của quân đội và viết kế hoạch phản ứng khẩn cấp cho họ khi có sự cố. Anh có với vợ là Martha 4 người con. Con trai của anh là trung sĩ tham mưu trong sư đoàn dù số 82 và là cựu binh đã tham gia xâm lược Panama và chiến tranh vùng Vịnh.


    Jimmie st Jakes, 49 tuổi, đội trưởng đội hỏa lực của đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, bị thương tại X-ray nhưng đã hồi phục và quay lại phục vụ hết nhiệm kỳ. Anh rời quân ngũ với hàm trung sĩ nhất năm 1988 và trở thành mục sư trong 1 nhà thờ ở Fort Mitchell, Alabama.


    Robert J Jeanette, 50 tuổi, Ghost 4-6, chỉ huy trung đội hỏa lực đại đội Charlie, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang hiện sống tại Monsey, New York thuộc vùng phụ cận của thành phố New York. Anh đang làm hiệu phó của 1 trường trung học công tại Bronx. Anh đã mất gần 1 năm trong quân y viện đễ chữa cái chân bị dập nát. ‘Tôi không bị mất chân và vẫn đi lại được, vẫn còn rất đau nhưng ít ra tôi vẫn còn sống.’ Jeanette nói: ‘Khi còn trong quân y viện năm 1966, tôi rơi vào trạng thái buồn nản, cảm giác tội lỗi, và họ đã cố gắng kéo tôi ra khỏi tình trạng ấy, họ có 1 chương trình dành cho giáo viên và tôi đã thử và rất thích. Tôi cho rằng tôi là 1 kẻ lập dị, có những kẻ đi làm giáo viên để trốn quân dịch, và tôi lại ở trong đó. Jeanette cùng vợ anh là Sandra đã kết hôn 5 ngày trước khi anh được đưa ra khỏi Việt Nam. Họ có 1 con trai đang học cao đẳng và 1 con gái đang học trung học.


    Alex (Pop) Jekel, 70 tuổi, phi công trực thăng Huey tại X-ray và Albany, giải ngũ cuối những năm 1960 với cấp bậc chuẩn úy cấp 4. Sau đó anh là giáo viên dạy mỹ thuật công nghiệp, điện tử và toán học, là phi công cho bộ lâm nghiệp Hoa Kỳ và có 1 thời kỳ làm phi công nông nghiệp. Hiện anh ở 1 trang trại tại Rainier, Washington. Anh đang viết hồi ký về những ngày chiến đấu ở Việt Nam cho con, cháu sau này.


    Robert Jr Jemison, trung sĩ trung đội, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, phục viên sau 24 năm quân ngũ với hàm trung sĩ nhất năm 1976. Anh mất 32 tháng trong quân y viện để điều trị các vết thương đã lãnh tại LZ X-ray. Jemison hiện làm việc bán thời gian trong cương vị nhân viên an ninh tại Columbus, Georgia và anh nói “Đêm nào tôi cũng mơ quay về Việt Nam và đánh nhau ở đó, cứ lặp đi lặp lại..”


    Barbara Geoghegan Johns, 50 tuổi, vợ góa của trung úy John Lance (Jack) Geoghegan, trung đội 2, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, người bị tử trận tại X-ray, đã tái hôn với trung tá John Johns năm 1969, con gái của chị là Camille sớm có thêm 1 em trai là Robert, và 1 em gái nữa tên Barbara. John Johns đã nghỉ hưu với hàm chuẩn tướng và giờ làm hiệu trưởng trường cao đẳng của quân đội tại Washington, D.C. BarbaraGeoghegan Johns cho 2 đứa con sau học đại học, và hiện nay làm việc tình nguyện và viết lách để giải khuây. Chị và chồng đang ngụ ở Annandale, Virginia.


    Thomas Keeton, 59 tuổi, lính cứu thương ở trạm quân y tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam trong vai trò cố vấn. Anh giải ngũ với hàm trung sĩ nhất tháng 6 năm 1973 sau 20 năm phục vụ. Anh về làm trưởng phòng an ninh của 1 bệnh viện ở Columbus, Georgia cho đến khi mất ngày 18 tháng 4 năm 1992.


    George Kfxlino, 54 tuổi, trưởng trạm quân y tiền phương, trạm tiếp nhận thương binh của LZ X-Ray và LZ Albany, phục viên với hàm trung tá năm 1978. Anh là tiến sĩ lịch sử và đang sống và làm việc trong trung tâm y tế Wilford Hall của không lực ở San Antonio.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Glenn F Kennedy, trung sĩ nhất, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, tử trận ngày 6 tháng 5 năm 1966 trong chiến dịch Davy Crockett tại đồng bằng Bồng Sơn. Là người gốc Mendenhall, Mississippi, khi chết Kennedy được 31 tuổi.


    Harry W. O Kinnard, 77 tuổi, cựu tư lệnh sư đoàn 1 kỵ binh không vận, đã nghỉ hưu với hàm trung tướng năm 1969. Ông trở thành chuyên gia tư vấn về công nghiệp quốc phòng ở duyên hải miền Tây. Sau khi về hưu ông về sống với vợ là bà Libby tại Arlington, Virginia.


    Fred J. Kluge, 59 tuổi, trung sĩ trung đội, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh, phục viên năm 1973 sau 22 năm quân ngũ với hàm trung sĩ nhất. Anh trở về quê ở Tucson, Arizona. Từng bỏ học khi còn học trung học, anh đã đi học đại học lại, tốt nghiệp bằng cử nhân. Anh và vợ đang quản lý 1 bãi đậu xe rơ moóc, và vào buổi tối Kluge làm nhân viên sửa chữa. Họ có 2 người con đã đến tuổi trưởng thành.


    Richard Knowles, 75 tuổi, sư đoàn phó sư đoàn 1 kỵ binh không vận, phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam với chức vụ tư lệnh lữ đoàn bộ binh nhẹ số 196 và sau đó làm tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Oregon (tiền thân của sư đoàn Americal). Knowles nghỉ hưu năm 1974 với hàm trung tướng. Ông sống cùng vợ là bà Elizabeth ở Roswell, New Mexico, làm chủ 1 tiệm bán đồ cổ. Từ năm 1982 Knowles làm việc cho cơ quan lập pháp tại New Mexico.


    Leland C Komich, 52 tuổi, phi công trực thăng của đại đội Bravo, tiểu đoàn trực thăng xung kích 229, đã nghỉ hưu với cấp bậc chuẩn úy cấp 4 sau 20 năm phục vụ. Anh đang sống với vợ tại Alexandria, Virginia.


    Bill Kreischer, 48 tuổi, lính súng trường, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, quay về tiểu đoàn sau khi chữa khỏi các vết thương. Anh phục vụ 17 tháng và quay trở về nhà vào tháng Giêng năm 1967. Tháng 6 cùng năm, anh giải ngũ với hàm trung sĩ tham mưu. Hiện nay Kreischer điều hành công ty nghiên cứu thị trường của ông ở New York, chuyên về lĩnh vực bản quyền và thương hiệu. Anh hiện cũng là thành viên hiệp hội tương trợ của sư 1 kỵ binh không vận, và là hội trưởng hiệp hội của lữ đoàn 3 và là người sáng lập ra hội cựu binh trận Ia Drang và tham gia 1 cách rất nhiệt tình. Trong thời gian rảnh Kreischer còn làm cho trường đào tạo luật sư vào buổi tối, hiện anh sống ở Hauppauge, New York.


    Theron Ladner, 50 tuổi, xạ thủ súng máy, đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại X-ray giờ đang sống ở Baton Rouge, Louisiana, sở hữu 1 hộp đêm và 1 đàn ngựa đua.
    Stanley R. (Swede) Larsen, 77 tuổi, tư lệnh lực lượng dã chiến II tại Việt Nam, nghỉ hưu với hàm trung tướng năm 1972 về làm chủ tịch 1 công ty lớn ở San Francisco trong 7 năm. Ông và vợ là bà Nell giờ đã về hưu và sống tại Shoal Creek, Alabama.


    David A. (Purp) Lavender, 50 tuổi, lính súng trường của đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 5 kỵ binh được qua Nhật Bản chữa trị. Anh phải trải qua 4 lần phẫu thuật phần hông và về nhà ngày 21 tháng 12 năm 1965 quá hạn 10 ngày trong thời hạn nghĩa vụ 2 năm và với 50% thương tật. Anh về nhà ở Murphysboro, Illinois, lập gia đình và sinh được 3 con gái và làm thợ cắt tóc tại tiệm Gibb's Barber Shop 19 năm qua. Anh nói: ‘Thị trấn của tôi chỉ có 10.000 dân mà có đến 11 thanh niên chết trận ở Việt Nam. Tôi đã tham dự tất cả những lễ tang ấy’.


    L.R. (Ray) Lefebvre, 59 tuổi, đại đội trưởng đại đội Delta, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, đã trị thương mất 18 tháng ở viện quân y Martin, Fort Benning sau khi bị thương tại X-ray. Anh phục viên với hàm trung tá năm 1977 và trở về Georgia làm giám đốc điều hành cho 1 công ty vận tải đường bộ. Anh học tiếp và tốt nghiệp học viện hành chính. Anh hiện sống tại Lilburn, Georgia cùng với vợ là Ann. Họ đã có 4 người con và 5 đứa cháu. Cô cháu gái mới 12 tuổi đã nói chuyện với anh về những hồi ức tại Việt Nam và viết 1 bài văn ở trường với tựa đề: “Ông của tôi, 1 anh hùng của nước Mỹ’
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Francisco (Frank) Moreno, phi công phụ của Ed "Too Tall" Freeman tại X-ray được thăng thiếu úy ở Việt Nam và đã nghỉ hưu với hàm thiếu tá sau 20 phục vụ. Anh đang sống với vợ tại Phoenix, Arizona.


    Ramon (Tony) Nadal, 56 tuổi, đại đội trưởng đại đội Alpha, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, sau này chở thành thạc sĩ tâm lý tham gia giảng dạy tại West Point và trường Army War College. Anh nghỉ hưu với hàm đại tá năm 1981 và về làm phó chủ tịch về nguồn lực con người cho 1 công ty lớn tại Carlisle, Pennsylvania. Anh cùng vợ là Billie có 1 con trai lớn đang học đại học và 1 cô con gái nhỏ tuổi.


    George (China Joe) Nye, chỉ huy đơn vị công binh chiến đấu, tiểu đoàn 8 công binh, phối thuộc cho tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại bãi đáp X-ray, đã qua đời vì chứng đau tim ở tuổi 51 ngày 8 tháng 12 năm 1990 tại nhà ở Bangor, Maine. Sau trận Ia Drang. Nye kết thúc kỳ hạn phục vụ của mình ở tiểu đoàn 8 công binh, sư đoàn 1 kỵ binh không vận và tình nguyện phục vụ 3 kỳ hạn chiến đấu khác cho lực lượng đặc biệt số 5. Ngày 5 tháng 1 năm 1970, anh bị thương nặng và được di tản sau 4 năm, 8 tháng, 10 ngày phục vụ ở Việt Nam. Anh phải chữa trị hết 18 tháng trong quân y viện rồi được giải ngũ, trở thành tàn phế tháng 6 năm 1975. Anh đã được tặng thưởng huân chương sao bạc, huân chương sao đồng và 5 huân chương quả tim tím. George tìm cách giải sầu bằng cách đi bộ đường dài xuyên qua những cánh rừng ở Maine và chụp ảnh. Tháng 3 năm 1991, anh đã tìm thấy niềm vui sống mới khi anh gặp các chuyến bay đáp xuống phi trường quốc tế Bangor, hạ cánh đưa những quân nhân Mỹ trở về từ cuộc chiến vùng Vịnh. George là thành viên của ủy ban chào mừng thành lập từ những nhóm cựu chiến binh, ban kèn đồng, và dân cư Bangor đến đón chào những cựu binh của chiến dịch Bão sa mạc. Hầu hết các chuyến bay hạ cánh lúc nửa đêm và lúc 6 giờ sáng nhưng lúc nào George Nye cũng có mặt, không kể nắng mưa. Chính anh đã bắt tay với ít nhất 50.000 người lính trở về. Một trong số họ là đại úy lục quân David Moore, sư đoàn dù số 82, là con trai của người chỉ huy cũ của anh tại X-ray, và những chuyến hồi hương này đã đem lại niềm vui lớn cho George. Anh muốn những cựu binh chiến tranh vùng Vịnh được chào đón ở quê nhà mà những cựu binh Việt Nam đã không được hưởng. Vào hôm trước khi mất, George kiếm cây Giáng Sinh với ý định trang trí những dải băng màu vàng và những lá cờ sao và vạch nhỏ và đặt nó trong nhà chờ của sân bay. Binh sĩ từ vùng Vịnh vẫn đang về và anh muốn cho thấy rằng họ không bị bỏ quên. Các bạn hữu đã hoàn thành ý nguyện cuối cùng này cho trung sĩ China Joe Nye. Chúa sẽ phù hộ cho anh ấy!

    Robert Ouellette, trưởng đài vô tuyến của tiểu đoàn tại X-ray, giải ngũ tháng 8 năm 1966. Anh hiện sống tại Dublin, New Hampshire và làm việc cho 1 công ty kinh doanh văn phòng phẩm.

    Ernest E Paolone, lính điện đài của Bob Edwards, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, đã qua đời do 1 cơn đau tim ngày 30 tháng 3 năm 1992. Ernie đã về quê tại Chicago và hành nghề lái xe tải. Anh có 4 người con tuổi từ 12 đến 20. Vào sinh nhật thứ 50 của mình, Ernie đã gây bất ngờ khi trưng ra 1 tấm bảng có hình cấp hiệu trung sĩ với ghi chú của đại tá Bob Edwards nói rằng cái lon này do Paolone dành được tại LZ X-ray nhưng không được công nhận.


    Willard Parish, 50 tuổi, lính súng cối, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, người được tặng huân chương sao bạc vì đã chiến đấu như 1 xạ thủ súng máy tại LZ X-ray, đã hết hạn quân dịch và về nhà tháng 12 năm 1965. Trong nhiều năm anh là trưởng 1 ban nhạc đồng quê và là 1 người chỉnh nhạc. Parish đã chuyển đến sống tại Bristow, Oklahoma làm việc ở trạm thu phí Turner Turnpike. Anh lập gia đình năm 1981 và đã có 4 con gái; 1 đứa 8 tuổi, 1 đứa 5 tuổi và 2 em bé sinh đôi mới sinh.


    Neal G Parker, tốt nghiệp học viện Hải quân và được biệt phái cho Lục quân Mỹ là phi công trực thăng Huey thuộc đại đội Bravo, tiểu đoàn 229 ở Ia Drang hiện đã nghỉ hưu với hàm đại tá sau 30 năm phục vụ. Giờ anh đang sống tại Mobile, Alabama.


    D.P. (Pat) Payne, 50 tuổi, trung đội trưởng trung đội trinh sát, đại đội Delta, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, đã phục vụ 2 kỳ hạn tại Việt Nam và phục viên tháng 6 năm 1969 với cấp bậc đại úy. Anh là nhân viên bán hàng cho tập đoàn IBM tại Austin, Texas trong 20 năm và được thăng đến chức quản lý khu vực miền Trung Tây. Bây giờ anh đang là chủ tịch 1 công ty xử lý chất thải hóa học ở Oak Brook, Illinois. Payne và vợ là Patty hiện sống tại Hinsdale, Illinois với 3 đứa con nhỏ.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Basil Plumley, 72 tuổi, thượng sĩ của tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh đã nghỉ hưu với hàm thượng sĩ nhất ngày 31 tháng 12 năm 1974 sau 32 năm 6 tháng 4 ngày trong quân đội. Ông đã phục vụ thêm 1 kỳ hạn tại Việt Nam trong đòan cố vấn Mỹ ở Pleiku. Ông đã tặng được vinh thưởng huy hiệu chiến đấu của bộ binh với 2 ngôi sao, 2 huân chương sao bạc, 2 huân chương sao đồng, 4 huân chương quả tim tím, huy hiệu nhảy dù với thành tích 5 ngôi sao chiến đấu, 1 dải băng cho sự cống hiến tại chiến trường châu Âu với 8 ngôi sao chiến dịch cùng, 4 mũi tên cho các cuộc đổ bộ, 1 cho sự phục vụ tại Triều Tiên với 3 ngôi sao chiến dịch và 1mũi tên cho các cuộc đổ bộ, 1 dải băng phục vụ ở Việt Nam với 1 ngôi sao bạc và 3 ngôi sao chiến dịch bằng đồng. Và 1 huy hiệu khen ngợi của tổng thống. Ông còn làm việc thêm 15 nữa làm nhân viên dân sự trong quân y viện Martin ở Fort Benning, Georgia rồi mới về hưu năm 1990. Ông và vợ là Deurice hiện đang sống ở Columbus, Georgia nơi ông là chủ tịch hiệp hội cựu binh của sư đoàn 1 kỵ binh không vận tại địa phương và vẫn thường đi săn chim cút. Basil Plumley giờ đã lên chức ông, tốt bụng, nói năng nhỏ nhẹ nhưng không dễ bị đánh lừa. Ông đúng là con sư tử mùa đông.


    Clinton Poley, 48 tuổi, xạ thủ súng máy số 2, trung đội 2, đại đội Charlie, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia Drang, được ra viện từ quân y viện Fitzsimmons ở Denver, Colorado đầu năm 1966. Anh về trang trại của gia đình ở quê tại Iowa. Anh bị thương tật 70% do vết những thương tại LZ X-ray. Poley, 1 cử nhân, đang sống 1 mình trong trang trại tại Ackley, Iowa, và trong 1 bức thư viết năm 1990 anh giãi bày: “Có nhiều người hỏi tại sao tôi không thể quên đi Việt Nam sau ngần ấy năm? Đêm nào tôi cũng lấy khăn lau các vết thương và nhìn chúng trong gương. Tôi đã nghĩ tất cả những người chết trận, những người bị thương làm cuộc sống của tất cả người thân, bạn bè bị đảo lộn. Vậy làm sao tôi quên được? Phần lần mọi người chưa bao giờ trải qua những gì họ chịu đựng, họ phải chết trong sự bẩn thỉu, trong nóng nực, trong cái đói và kiệt sức. Tôi rất tự hào vì đã có mặt ở đó và cũng tự hào về những chiến hữu cùng chia sẻ gian nan. Tôi đã chiến đấu cho tổ quốc và giờ tôi sở hữu 1 trang trại rộng 120 mẫu. Đối vời tôi vậy là quá đủ, chỉ cần như vậy.


    Enrique Pujals, 50 tuổi, trung đội trưởng, đại đội Alpha, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tại Ia drang được chuyển từ trạm cấp cứu dã chiến tại X-ray lên máy bay tải thương C-141 rồi cuối cùng đến quân y viện Walter Reed ở Washington, D.C. Anh mất 7 tháng chữa trị đùi và chân đã bị vỡ nát. Trở lại chiến đấu vào tháng 7 năm 1966 và phục vụ kỳ hạn thứ 2 bằng cách làm cố vấn tại quận Long Bình ở Việt Nam. Anh phục viên với hàm đại úy năm 1971 và trở về quê ở Puerto Rico hành nghề luật. Vào ngày thứ 5 trước lễ Tạ Ơn năm 1986, vết thương bên hông phải của anh lại trở chứng, anh lại phải lên bàn mổ, cùng nơi mà anh đã ở vào lễ Tạ Ơn năm 1965. Pujals gần như phải chấm dứt nghiệp luật sư. ‘Mong ước lớn nhất của tôi là quay lại quân ngũ.’ Anh nói “Và vì không thể nên tôi muốn làm việc gì tương tự như vậy, càng giống quân đội càng hay’. Anh đã lập gia đình và có 4 đứa con.


    Jim Rackstraw, 49 tuổi, chỉ huy trung đội trinh sát, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại X-ray, đã phục vụ kỳ hạn thứ 2 ở Việt Nam với chức vụ đại đội trưởng 1 đại đội súng trường trong sư đoàn 25 bộ binh. Năm 1974 anh được điều chuyển sang quân cảnh. Anh giờ là đại tá và là chỉ huy lực lượng cảnh binh của Bộ tư lệnh lục quân Hoa Kỳ (Forscom) tại Atlanta, Georgia.


    Cyril R. (Rick) Rescorla, 53 tuổi, trung đội trưởng, đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh, hòan thành nghĩa vụ ở Việt Nam với đại đội Bravo và đi giảng dạy tại trường sĩ quan trong 1 năm. Anh hoàn tất nhiệm vụ năm 1967 nhưng chuyển qua lực lượng dự bị cho đến khi nghỉ hưu năm 1990 với hàm đại tá. Rescorla đã đi học và lấy bằng thạc sĩ và bằng luật trong các đại học ở Oklahoma rồi sau đó đi làm cho 1 công ty an ninh. Hiện nay anh làm phó ban an ninh của 1 công ty môi giới chứng khoán lớn ở thành phố New York. Anh đã có vợ và 2 đứa con độ tuổi thiếu niên. Rescorla vẫn giữ cây kèn trận của Pháp nhặt được trên bãi chiến trường Albany. Năm 1991 anh đã bàn giao nó cho hội cựu chiến binh trận Ia Drang để dùng làm vật trưng bày.


    Bill Riddle, 52 tuổi, sĩ quan tiền sát pháo binh phối hợp với đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, hoàn thành nghĩa vụ mùa hè năm 1966. Anh trở về nhà ở Salinas, California sống với vợ và ba con trai. Anh hành nghề buôn bán lốp xe suốt 21 năm qua.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Edward Charles Robinson, 55 tuổi, phi công trực thăng Huey tại X-ray, đã phục vụ thêm kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam. Anh đã về hưu với hàm đại tá năm 1983. Anh có 2 bằng thạc sĩ, công tác trong ngành công nghiệp quốc phòng và hiện sống ở Alexandria, Virginia.


    William Roland, 49 tuổi, tiểu đội trưởng tiểu đội súng trường, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại X-ray, đã quay lại Việt Nam phục vụ kỳ hạn thứ 2. Anh phục viên với hàm thượng sĩ nhất và về sống ở Columbus, Georgia.


    Gordon P. (Rosie) Rozanski, 54 tuổi, S-4 (sĩ quan tiếp liệu), tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh, đã bị thương nặng ở bụng, 2 tay và cả 2 chân trong chiến dịch Bồng Sơn đầu năm 1966. Anh lại đến Việt Nam phục vụ thêm 2 kỳ hạn nữa; 1 trong lực lượng đặc biệt (biệt kích) và 1 trong 1 đơn vị quân báo. Rozanski đã trở lại thung lũng Ia Drang trong các chuyến công tác thám báo tất cả 5 lần và miêu tả đấy là 1 khu ‘nghĩa địa’. Cuối những năm 1970, anh đã giải ngũ với hàm thiếu tá và bị nhiều thương tật. Hiện anh ở Golden, Colorado, và là chủ 1 công ty buôn bán đồ cổ.


    Karen Metsker Rudel, 28 tuổi, con gái của đại úy Thomas Metsker, sĩ quan tình báo tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại bãi đáp X-ray, bị tử trận ngày 14 tháng 11 năm 1965, đang sống ở ngoại ô Boston với chồng là Scott. Họ có 3 con, 2 gái tên Abigail và Alison cùng 1 trai tên là Thomas Alexander. Karen là 1 nhà thiết kế tạo mẫu làm việc free-lance và phụ giúp công việc trong công ty xây dựng của chồng.


    Ernie Savage, 48 tuổi, là người thứ 4 tiếp nhận quyền chỉ huy trung đội 2 (trung đội bị mất tích) của trung úy Henry Herrick, đại đội Bravo, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại LZ X-ray, đã giải ngũ sau 20 năm phục vụ với hàm trung sĩ nhất vào năm 1982. Anh đang làm việc tại Fort Benning, Georgia, làm thanh tra chất lượng huấn luyện của lực lượng dự bị.


    James A Scott, 69 tuổi, thượng sĩ của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh đã phục vụ kỳ hạn thứ 2 tại Việt Nam thời gian 1970-1971 với chức vụ thượng sĩ nhất. Scott phục viên với hàm thượng sĩ nhất năm 1973 sau 30 năm, 10 tháng, 20 ngày quân ngũ. Được vinh thưởng huy hiệu chiến đấu của bộ binh với 1 ngôi sao, 6 huân chương sao đồng, 3 huân chương quả tim tím, 1 dải băng cho sự cống hiến tại chiến trường châu Âu với 4 ngôi sao trận đánh cùng, 1 mũi tên cho các cuộc đổ bộ, 1 cho sự phục vụ tại Triều Tiên với 2 ngôi sao trận đánh, 1 dải băng phục vụ ở Việt Nam với 4 ngôi sao trận đánh và 1 huy hiệu khen ngợi của tổng thống. Ông hiện sống cùng vợ là Kornelia tại Columbus, Georgia nơi ông tham gia giảng dạy cho chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị ROTC trong các trường trung học. Scott và Basil Plumley thường xuyên gặp uống cà phê cùng nhau mỗi thứ 6 và cùng nhau ông lại thời kỳ oanh liệt, về 2 tiểu đoàn anh em trong trung đoàn 7 kỵ binh và nhiều chuyện sâu nặng khác. Scott nói: “Khi lên đường sang Việt Nam tôi đã cá với Plumley 1 thùng bia là tôi sẽ bị thương trước và sẽ được về nhà vào dịp Giáng Sinh.
    Hắn đồng ý và tôi đã thắng cược nhưng mà hắn ta chỉ mới trả đến lúc này có 1 chai.” Còn Plumpley nói: “Scott là gã rất keo kiệt…”


    Pat Selleck, 51 tuổi, lính điện đài của trung đội trinh sát, tiểu đoàn 1, trung đoàn 7 kỵ binh tại X-ray, được giải ngũ ngày 29 tháng 11 năm 1965. Anh trở về với công việc cũ là làm cho các công ty điện thoại. Anh nghỉ hưu năm 1990 và hiện ngụ ở Peekskill, New York.


    John Setelin, 48 tuổi, tiểu đội trưởng trong đại đội Bravo, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh rời Việt Nam với 3 huân chương quả tim tím và được giải ngũ với hàm trung sĩ. Anh về làm chủ 1 cửa hàng buôn bán và sửa chữa vũ khí. Anh sống với vợ là Theresa, cùng 1 cô con gái 6 tuổi tên Megan tại Glen Allen, Virginia. Anh là thành viên của hội cựu binh sư đoàn 1 kỵ binh không vận và phụ tá cho Bill Kreischer điều hành hội cựu binh trận Ia Drang.


    James Haskell Shadden, 50 tuổi, lính súng cối, đại đội Delta, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh, đã sống sót sau hơn nửa tá ca mổ và hết 1 năm trong quân y viện chữa trị các vết thương bị dính tại bãi đáp Albany. Trong lần phẫu thuật cuối cùng để gỡ bỏ xương bánh chè bên trái vỡ nát và nối xương chân trái đã làm cho nó bị liệt và ngắn hơn chân phải 3cm. Sở thương binh đã chứng nhận 1 cách vô cảm và bủn xỉn rằng Shadden chỉ bị thương tật 30%. Anh học cơ khí và làm việc nhiều năm cho đến khi có những vấn đề nghiêm trọng ở hông và lưng do đứng làm việc quá lâu. Anh đã lập gia đình và có 4 đứa con. Shadden hiện đang sống trong 1 trang trại rộng 7 mẫu ở ngoại vi Tellico Plains, Tennessee, và làm 1 số công việc lặt vặt bán thời gian.


    William, M. D. Shucart, bác sĩ phẫu thuật của tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh tí nữa đã hoàn thành kỳ hạn phục vụ của mình vào hè năm 1966 thì anh bị gãy lưng trong 1 vụ rơi máy bay trực thăng Chinook. Anh được chuyển về phi trường Clark rồi tới quân y viện Fitzsimmons tại Denver. Shucart nói: “Thật là thú khi họ chỉ nghĩ tôi là lính bình thường và tôi cũng không thèm nói gì với họ. Họ đã không phát hiện ra tôi là bác sĩ cho đến khi tôi được xuất viện khi mà tôi đã nói chuyện với họ 1 lúc lâu và nói cách điều trị thương binh của họ dở ẹc’. Anh được giải ngũ tháng 11 năm 1966 và đến sống ở Boston năm 1981. Giờ đây bác sĩ Shucart của LZ Albany là trưởng khoa phẫu thuật thần kinh tại đại học y khoa Tufts.


    Jack P Smith, 47 tuổi, trở lại đại đội Charlie, tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 kỵ binh sau khi lành vết thương và hoàn tất kỳ hạn phục vụ của mình. Anh phục viên với hàm trung sĩ, đi học đại học và giờ đây anh là phóng viên thời sự cho kênh ABC Television's Weekend News. Anh hiện đang sống ở Washington, D.C.

Chia sẻ trang này