1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm (Hồi ký của Trung tướng - PGS Lê Hữu Đức)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi quyenlinh66, 14/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm (Hồi ký của Trung tướng - PGS Lê Hữu Đức)

    Đây là những hồi ức của Trung tướng - PGS Lê Hữu Đức, nguyên là Cục trưởng Cục tác chiến, Bộ Tổng tham mưu thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975.

    Bản đăng trên báo Quân đội nhân dân, tôi copy lại dể các bạn tham khảo.
  2. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm
    Trung tướng - PGS LÊ HỮU ĐỨC

    Tháng 4-1973 Bộ Tổng tham mưu thành lập tổ Trung tâm chuyên xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976. Tổ gồm 4 đồng chí, do đồng chí Lê Trọng Tấn (hồi ấy là thiếu tướng)-Phó tổng tham mưu trưởng được chỉ định làm tổ trưởng, các đồng chí: đại tá Vũ Lăng, Cục trưởng và 2 thượng tá: Võ Quang Hồ và Lê Hữu Đức-Cục phó Cục Tác chiến là ủy viên. Một tuần dành hai ngày để nghiên cứu (thứ ba và thứ tư), tại phòng làm việc của anh Tấn trong khu A. Nội dung nghiên cứu có 5 vấn đề:
    - Một là, nghiên cứu tình hình địch, ta, lực lượng so sánh giữa ta và địch, mạnh yếu của ta và địch sau Hiệp định Pa-ri.
    - Hai là, chọn hướng tấn công chủ yếu và mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy.
    - Ba là, phương pháp tác chiến chiến lược.
    - Bốn là, những khó khăn cần khắc phục.
    - Năm là, cuộc tấn công nên bắt đầu từ năm nào là thích hợp nhất.
    Tập Tổng kết công tác Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng chí Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo và viết lời giới thiệu, đã khẳng định: ?oTừ giữa năm 1973 đến đầu năm 1975, Bộ Tổng tham mưu tập trung vào 3 việc lớn:
    - Xây dựng kế hoạch chiến lược và từng bước bổ sung, hoàn chỉnh, chiến lược cơ bản giải phóng hoàn toàn miền Nam.
    - Chỉ đạo tác chiến ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước làm thất bại kế hoạch lấn chiếm, bình định của địch.
    - Chỉ đạo tác chiến ?otạo thế?, chuẩn bị chiến trường, xây dựng lực lượng, huấn luyện quân sự và chi viện ngày càng lớn cho miền Nam, nhằm tạo lực, tạo thế toàn diện cho chiến trường? (tr.175).
    Tài liệu trên cũng khẳng định: ?oBộ Tổng tham mưu (trực tiếp là Cục Tác chiến) bắt đầu xây dựng kế hoạch chiến lược cơ bản giải phóng miền Nam từ giữa năm 1973. Quá trình đó đã 8 lần sửa chữa qua ý kiến bổ sung của Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị...? (tr.176).
    Trong 5 nội dung của bản kế hoạch chiến lược cơ bản, 3 nội dung đầu gồm: đánh giá địch, chọn hướng tấn công chủ yếu và phương pháp tác chiến chiến lược là khó khăn nhất, hắc búa nhất, đau đầu nhất, nghĩ nát óc đối với tổ Trung tâm. Qua theo dõi và phục vụ các hội nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị, chúng tôi thấy đó cũng là những nội dung mà các đồng chí lãnh đạo tập trung trao đổi, trăn trở nhiều, thẳng thắn tranh luận, lắng nghe nhau để đi đến thống nhất. Không chỉ các hội nghị thông qua lần thứ nhất, thứ hai... mà đến các hội nghị thông qua lần thứ bảy (từ 30-9 đến 8-10-1974) và lần thứ tám-lần cuối cùng (18-12-1974) đến 8-1-1975, có các đồng chí lãnh đạo chủ yếu các chiến trường cũng được mời dự, tập trung được trí tuệ lớn của toàn Đảng, cùng thảo luận sôi nổi, tập trung nhiều thời gian tranh luận rất kỹ 3 nội dung đầu.
    Không có sự phân công rành mạch từ đầu trong tổ Trung tâm, nhưng anh Tấn bao giờ cũng chủ động phát biểu trước làm nền cho toàn tổ góp ý kiến, nhất là những vấn đề hóc búa như đánh giá địch và phương pháp tác chiến chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lần này. Anh luôn nhắc chúng tôi cần nắm vững yêu cầu và nhiệm vụ chiến lược của cuộc Tổng tiến công là phải tiêu diệt bằng được hơn một triệu quân ngụy được Mỹ trang bị đầy đủ, trong một thời gian nhất định thì mới giải phóng được miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện đúng Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Yêu cầu và nhiệm vụ chiến lược ấy khác hoàn toàn với cuộc tấn công tết Mậu Thân 1968, cũng khác hoàn toàn với cuộc tấn công chiến lược năm 1972.
    Cơ sở đánh giá địch là những phân tích, nhận định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Sau khi Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, Bộ Chính trị đã có dự kiến: ?o... tình hình có thể phát triển theo hai khả năng: hoặc giữ được hòa bình, hoặc chiến tranh trở lại, không thể có ảo tưởng địch sẽ thi hành một cách nghiêm chỉnh vì chúng rất lo ngại trước nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn? (dự kiến của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục và các Khu ủy vào cuối tháng 1-1973(1). Tiếp đến tháng 5-1973, Bộ Chính trị lại nhận định: ?o... Thực tế ngày càng rõ, tình hình phát triển theo khả năng thứ hai, vì Mỹ không ngừng tiếp tay ngụy lấn chiếm và bình định, điên cuồng đánh phá cách mạng, hòng xóa bỏ vùng giải phóng, đẩy lùi lực lượng cách mạng?(2).
    Tổ Trung tâm nghiên cứu tình hình địch một cách toàn diện, cố gắng thấy hết chỗ mạnh và chỗ yếu của địch và ta, hết sức khách quan, tuyệt đối không chủ quan. Chúng tôi nghiên cứu tình hình quân ngụy, bộ máy chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau khi Mỹ và chư hầu rút gần 60 vạn quân chiến đấu và phần lớn vũ khí kỹ thuật lớn; lực lượng răn đe của Mỹ ở Đông Nam Á, tình hình lực lượng tay sai của Mỹ ở Lào và Cam-pu-chia; tình hình quân sự của bọn chư hầu Mỹ ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Phải vắt óc phân tích tìm cho ra những chủ trương, âm mưu và biện pháp chiến lược mới của Mỹ và ngụy sau Hiệp định Pa-ri. Mỹ thua, phải rút hết quân chiến đấu nhưng vẫn thâm độc thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam. Trước mắt, tăng viện trợ quân sự, vũ khí đạn dược, các trang bị chiến tranh; đốc Nguyễn Văn Thiệu tập trung lực lượng thực hiện các kế hoạch ?obình định 3 năm: 1973-1975?, kế hoạch ?obình định 6 tháng từ 3-1973 đến 8-1973?, ?okế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt?, đặc biệt nham hiểm nhất là ra sức xây dựng quân đội ngụy nhanh là trong 3 năm, chậm là 5 năm (1974-1979) thành một đội quân ngụy mạnh nhất ở khu vực và châu lục, nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang và tổ chức cách mạng của ta ở miền Nam, hy vọng chia cắt vùng vĩnh viễn miền Nam.
  3. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi nhất trí, sau khi quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu rút khỏi miền Nam thì quân ngụy đã bắt đầu suy yếu hơn trước nhiều. Nhưng cũng phải công nhận ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn còn có một số điểm mạnh: Một là, quân số còn đông, có tổ chức, có kinh nghiệm chiến đấu. Chúng đang có kế hoạch tăng quân chủ lực ngụy lên 70 vạn, gồm 13 sư đoàn và 14 trung đoàn, có khả năng đưa lên đến 14-15 sư đoàn; địa phương quân có 369 tiểu đoàn và liên đội, sẽ thành lập 30-40 trung đoàn; phòng vệ dân sự là 1,1 triệu (có 23 vạn vũ trang) sẽ đưa lên 1,5 triệu (có 40 vạn vũ trang). Khả năng cơ động còn cao với sự tiếp tục viện trợ của Mỹ. Không quân ngụy hiện có 51 phi đoàn, với 1.110 máy bay, sẽ tăng máy bay chiến đấu lên gấp đôi. Xe tăng thiết giáp có 22 thiết đoàn (1.789 xe), sẽ tăng 3 thiết đoàn M-48. Pháo binh có 66 tiểu đoàn (1.360 khẩu), sẽ tăng thêm 4 tiểu đoàn pháo nòng dài 175mm. Hai là, chúng còn chiếm và kiểm soát nhiều vùng đông dân, các thành phố, các thị xã, các trục giao thông quan trọng. Ba là, hệ thống ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở có nhiều kinh nghiệm chống phá cách mạng, kìm kẹp nhân dân vùng chúng kiểm soát.
    Nhưng vì là đội quân tay sai nên địch cũng đã bộc lộ những điểm yếu rất cơ bản: mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung nên quân số đông mà nhiều vùng quan trọng chưa được củng cố. Đặc biệt, gần 60 vạn quân chiến đấu Mỹ và chư hầu phải rút, cùng phần lớn binh khí kỹ thuật hiện đại, làm cho quân ngụy mất chỗ dựa trực tiếp và chủ yếu, nên thế và lực của quân ngụy suy yếu rất nhiều. Nội bộ quân ngụy, kể cả ngụy quyền dễ bị phân hóa nếu bị đánh đau, đánh mạnh.
    Qua thảo luận về tình hình địch, nổi lên 2 điểm mà tổ Trung tâm tranh luận rất sôi nổi: Một là, quân ngụy bắt đầu suy yếu, nhưng yếu đến mức độ nào? Có phải yếu đến mức ta mới đánh mạnh, đánh đau, tiêu diệt một bộ phận sinh lực là chúng bắt đầu đổ vỡ, hay còn có sức chống đỡ kéo dài một thời gian? Nghiêng về khả năng địch còn có sức chống đỡ, nên ta phải chuẩn bị mọi mặt để có thể chiến đấu liên tục trong 2 năm (có khi phải qua năm thứ 3), bằng nhiều chiến dịch chiến lược, liên tục tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, làm thay đổi nhanh so sánh lực lượng có lợi cho ta trong một thời gian ngắn, thì mới có khả năng giành thắng lợi trọn vẹn. Hai là, khi quân ngụy bị đánh đau, có nguy cơ bị sụp đổ, liệu Mỹ có dám đem quân chiến đấu trở lại không? Nếu có là bao nhiêu và nhằm mục đích gì? Mỹ đã thua và phải rút quân chiến đấu về nước thì đưa quân trở lại không phải dễ, nhưng ta phải luôn luôn cảnh giác với lực lượng răn đe của Mỹ ở Đông Nam Á, gồm không quân, hải quân ở các căn cứ: Thái Lan, Phi-líp-pin, Đài Loan, Nam Triều Tiên... (56 tàu chiến, 1.020 máy bay kể cả máy bay oanh tạc chiến lược và 15.200 quân). Trong chiến tranh ở Triều Tiên, khi quân Mỹ cùng Nam Triều Tiên bị quân dân Bắc Triều Tiên cùng Giải phóng quân Trung Quốc đánh mạnh, phải rút về cực Nam bán đảo Triều Tiên, thì Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên để cứu (ngày 16-9-1950, 2 sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ). Điều cần chú ý là, bán đảo Triều Tiên ở phía đông cũng như phía tây phần lớn là bờ biển; ở nước ta, bờ biển cũng dài hơn 3.000km, nếu từ Cửa Việt vào mũi Cà Mau cũng gần 1.800km, lại có nhiều bãi đổ bộ thuận lợi.
    Tổ Trung tâm kết luận: Mỹ không dám đưa quân chiến đấu vào gây lại chiến tranh, nhưng có thể chiếm đóng một vài vùng dọc ven biển miền Trung, nhằm ngăn chặn, làm chậm cuộc tấn công chiến lược của ta, tạo điều kiện để chúng có thời gian củng cố khu vực rộng lớn Đồng bằng sông Cửu Long, hòng mặc cả với ta trong thế thua. Vấn đề Mỹ có dám đưa quân chiến đấu trở lại không và nhằm mục đích gì, được các hội nghị thông qua của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thảo luận, cân nhắc kỹ. Cụ thể thông qua lần thứ nhất ghi rõ: ?oLúc đầu, Mỹ cố dùng quân ngụy trực tiếp đối phó với ta, Mỹ viện trợ trang bị kỹ thuật. Nếu ngụy khó khăn, Mỹ mới chi viện bằng không quân, hải quân, tiếp theo là cố vấn và quân chư hầu. Trước nguy cơ ngụy sụp đổ thì Mỹ mới dùng bộ binh?. Lần thông qua thứ hai nhấn mạnh: ?oPhải chú ý đến lực lượng răn đe của đế quốc ở Đông Nam Á?. Lần thứ ba và thứ tư nhận định: ?oQuân đội đế quốc không còn trên đất nước ta nhưng lực lượng không quân, hải quân răn đe của Mỹ ở Đông Nam Á có thể sẵn sàng can thiệp?.
    Đặc biệt, hội nghị Bộ Chính trị mở rộng thông qua lần thứ bảy (30-9 đến 8-10-1974) và hội nghị thông qua lần thứ tám - lần cuối cùng (18-12-1974 đến 8-1-1975) có các đồng chí ở chiến trường tham dự.
    Lúc này, ta đã giành thắng lợi lớn Thượng Đức ở Quân khu 5 (29-7-1974 đến 7-8-1974) và nhất là thắng lợi Phước Long (13-12-1974 đến 6-1-1975) ở miền Đông Nam Bộ. Phước Long là một tỉnh nhỏ, nhưng lần đầu tiên một tỉnh chỉ cách Sài Gòn-Gia Định 120km về phía bắc-đông bắc, nhưng Mỹ làm ngơ. Hai chiến thắng trên được xem là đòn ?otrinh sát chiến lược? về thái độ và khả năng can thiệp của Mỹ. Liên tục từ phát ngôn của Nhà Trắng đến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Sơ-lớt-xin-giơ và nhất là của Tổng thống Pho (22-1-1975): ?o... Sẽ không có hành động nào khác ngoài việc viện trợ bổ sung cho Sài Gòn. Sẽ không can thiệp vào miền Nam Việt Nam nếu xét ra không phù hợp với hiến pháp và pháp luật?, giội thêm một gáo nước lạnh vào đầu bọn ngụy.
    Ấy vậy mà hội nghị Bộ Chính trị mở rộng lần thứ bảy vẫn khẳng định: ?oNếu ta chuẩn bị chu đáo, nắm chắc thời cơ đánh đổ ngụy quyền nhanh, gọn, có thể Mỹ không vào. Nếu nguy cơ ngụy sụp đổ lớn có thể Mỹ dùng không quân, hải quân can thiệp ở miền Nam, mở rộng ra miền Bắc, khả năng dùng lục quân Mỹ can thiệp có ít. Ta vẫn không loại trừ Mỹ đưa vào miền Nam vài ba sư đoàn, chiếm một số căn cứ, không cho ta phát triển tấn công rồi mặc cả. Mỹ can thiệp không phải để mở rộng chiến tranh như trước kia, mà có thể để trở lại thi hành Hiệp định, chấp nhận chính phủ 3 thành phần. Mỹ vào tuy không đảo lộn được cục diện, nhưng chúng sẽ gây khó khăn cho ta và hạn chế thắng lợi của ta. Do đó, ta phải vừa đánh vừa tiếp tục theo dõi phản ứng của Mỹ, hạn chế khả năng can thiệp của chúng?.
    Hội nghị thông qua lần thứ tám vẫn khẳng định: ?oKiềm chế Mỹ, đánh đổ ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó phản ứng quyết liệt của Mỹ bằng không quân, hải quân và quân ?ocứu hỏa?.
  4. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0

    Vấn đề lớn, khó khăn thứ hai cũng được tranh luận sôi nổi, bàn đi, tính lại rất kỹ, đó là chọn hướng tấn công chủ yếu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lần này. Truyền thống ông cha ta từ ?onhỏ thắng lớn?, ?oít địch nhiều?, ?ođoản binh chống trường trận?, ?onhân nghĩa thắng bạo tàn?, đã có những thời kỳ chỉ trải qua một ?ođòn sấm ran, chớp giật, trúc chẻ tro bay? mà quét sạch quân thù. Đó là chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất của Ngô Quyền, diệt và đánh tan gần 30 vạn quân Hoằng Thao (thời Nam Hán), chỉ trong vòng một ngày. Đây là cuộc chiến tranh bảo vệ nhanh nhất, ngắn nhất, kết thúc thời kỳ mất nước hơn 1000 năm, mở ra một kỷ nguyên độc lập lâu dài và phát triển rực rỡ của đất nước trong 5 thế kỷ (từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV), qua các triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần và Hậu Lê. Đó là trận tập kích 2 vạn quân Mông-Nguyên lần thứ nhất ở Đông Bộ Hầu (tức Gia Lâm ngày nay) vào đêm 29-1-1258. (Tính từ lúc quân địch chỉ tiến một đường từ Vân Nam vào Lào Cai đến khi phải rút chạy là gần 2 tháng). Đến chiến thắng vang dội của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ-Quang Trung, điển hình, trận đại phá quân Thanh bắt đầu từ đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), kết quả thắng lợi vào chiều ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), sau 5 ngày tốc chiến tốc thắng vô cùng vẻ vang của quân đội Tây Sơn.
    Tổ Trung tâm cũng nghiên cứu chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong 25 ngày đêm tiêu diệt gọn 15 vạn quân Minh, lần lượt diệt chủ tướng Liễu Thăng, Lương Minh, bắt Binh bộ Thượng thư Lý Khánh phải tự sát, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc tại cánh đồng Xương Giang (8-10 đến 3-11-1427). Giỏi ở chỗ, không chọn Đông Quan (tức Hà Nội bây giờ) tuy có 5 vạn quân nhưng thành cao, hào sâu; cũng không chọn gần 5 vạn quân của Mộc Thạnh ở Lào Cai, tuy bọn này yếu nhất nhưng không hiểm, có diệt được bọn này cũng không có tác động đến toàn cục; hơn nữa, thời gian tiến quân và rút lui từ Đông Quan lên Lào Cai và về cũng đủ thời gian cho Liễu Thăng đưa đại quân vào giải vây cho Vương Thông, thì chắc chắn nhân dân ta còn bị bọn quân Minh giày xéo hơn 10 năm nữa. Tập trung diệt 15 vạn quân của Liễu Thăng mới xem là mạnh, nhưng là bọn địch đang vận động thoát ly thành quách; mặt khác, tài thao lược của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở chỗ chọn đúng đối tượng tác chiến gắn liền với nghệ thuật tác chiến, giỏi ở chỗ lấy 5 vạn quân ta chống lại 15 vạn quân địch, thì chỉ có cách chia cắt chúng thành 4 khúc và bằng 3 trận phục kích và 1 trận tập kích mới bảo đảm toàn thắng, đúng tư tưởng ?olấy yếu đánh mạnh, hay đánh bất ngờ, lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục?.
    Ở Tây Nguyên-B3 vẫn phải nghiên cứu cách đánh rất táo bạo, sáng tạo nhưng chắc thắng, mà thắng lớn, thắng to, thắng quyết định. Để đạt yêu cầu đó, kế hoạch tấn công Buôn Ma Thuột phải thật chủ động, sáng tạo, bảo đảm trong mọi tình huống đều phải chắc thắng. Vì vậy, phải có 2 kế hoạch: kế hoạch tấn công trường hợp địch chưa dự phòng, tức lực lượng địch ở Buôn Ma Thuột chỉ có trung đoàn 53. Phải bằng mọi cách đến ngày N, giờ G tình hình địch ở Buôn Ma Thuột không có gì thay đổi. Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tổng tư lệnh phải giúp chiến trường thực hiện được phương án này. Nhưng cũng phải dự kiến địch có dự phòng, tăng thêm lực lượng bộ binh cho Buôn Ma Thuột thì phải chuyển qua kế hoạch diệt viện binh địch trước, sau đó mới tấn công mạnh vào thị xã. Trường hợp này ta gặp khó khăn, nhưng công tác chỉ huy và tham mưu là phải luôn luôn chủ động sáng tạo.
    Một điều nữa ở đây là, phải nghiên cứu đề nghị tăng lực lượng cho Quân khu 5, nhất là các binh khí kỹ thuật lớn, đủ sức khống chế đi đến cắt đứt hoàn toàn các trục đường chiến lược hiểm yếu: 19, 21 và 14; Quân khu 5 phụ trách đường 19. Vấn đề nghi binh cũng rất quan trọng, hiện nay địch lo đề phòng Kon Tum và Plây-cu, chúng cho ta không có và không thể tấn công Buôn Ma Thuột, nên nghệ thuật tài giỏi là phải tìm mọi cách: bằng mọi phương tiện hiện đại, nửa hiện đại và thô sơ tiếp tục "ru ngủ" chúng để ta bất ngờ đánh nhanh, mạnh vào Buôn Ma Thuột.
    Chúng tôi cũng dự kiến đòn tiêu diệt lớn ở khu vực Buôn Ma Thuột cũng gần 2-3 tháng, có thể hết mùa khô 1974-1975, đòn tấn công vào Quân khu 1-quân đoàn 2 cũng có thể lấn qua mùa mưa năm 1975 một ít. Tiếp đến mùa khô 1975-1976, sẽ thuận lợi cho đòn tiêu diệt quyết định cuối cùng. Chúng tôi thấy nếu quân dân ta nỗ lực, khắc phục muôn vàn khó khăn, dưới sự lãnh đạo tài giỏi, đoàn kết, sáng tạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương làm được như vậy là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chưa một ai trong chúng tôi nghĩ là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chỉ diễn ra trong 55 ngày đêm.
    Sáng 22-5-1973, chúng tôi đang thảo luận, cụ thể là rà xét lại bảo đảm thật chặt chẽ, chuẩn xác, thì trực ban Văn phòng Bộ Tổng tham mưu báo Văn phòng đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn mời một đồng chí thủ trưởng Cục Tác chiến sang nhà riêng báo cáo tình hình. Cũng tưởng anh Ba cần nghe tình hình hàng tuần nên anh Vũ Lăng đề nghị cử tôi đi. Vì từ đầu năm 1972, thủ trưởng Cục đã phân công tôi báo cáo thường xuyên tình hình với thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu, thủ trưởng Bộ Quốc phòng và 4 đồng chí trong Bộ Chính trị (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ). Ngoài ra, tôi còn được dự hội nghị Bộ Chính trị-Quân ủy Trung ương bàn về quân sự. Riêng với anh Ba Duẩn, trong thời gian các chiến dịch lớn, hàng ngày đúng 19 giờ tôi phải có mặt tại nhà riêng của anh Ba để báo cáo tình hình, nhận các chỉ thị của đồng chí Bí thư thứ nhất.
    Anh Tấn nói: "Có lẽ anh Ba cần tình hình, Đức sang báo cáo. Chúng mình chờ đến 9 giờ cậu chưa về thì chúng mình cứ tiếp tục trao đổi. Trưa, Vũ Lăng phổ biến lại cho Đức để chiều ta có thể tiếp tục thảo luận. Cũng cần tranh thủ thời gian hoàn thành chu đáo bản kế hoạch càng sớm càng tốt".
    Tôi báo cáo xong, khoảng 15 phút, tôi đang thu xếp tài liệu để ra về, bỗng đồng chí Bí thư thứ nhất hỏi: "Bộ Tổng tham mưu đang làm gì?". "Thưa anh, chúng tôi đang xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm". "Tốt quá, đồng chí có thể báo cáo cho tôi nghe được không?". Vì đã thảo luận gần 2 tháng, nên các ý kiến tranh luận đã cắm sâu trong trí nhớ; tôi báo cáo liên tục trong 2 giờ rưỡi (08 giờ 30 phút - 11 giờ 00).
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0

    Càng báo cáo càng phấn khởi, vì anh Ba tập trung nghe, luôn nhìn thẳng người báo cáo mà không cắt ngang, biểu thị anh rất đồng tình. Thường mà không đồng tình thì anh nói ngay: "Nói thế là không đúng, ta chuyển sang vấn đề khác, vừa nói anh vừa dùng tay phải ra hiệu thôi". Tôi vừa kết thúc báo cáo, anh hỏi ngay: "Các đồng chí nghiên cứu thấy có gì khó khăn không?", "Báo cáo có rất nhiều khó khăn như: lần đầu tiên bộ đội chủ lực ta đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, nhiều quân đoàn, không chỉ cán bộ các cấp mà cơ quan Bộ Tổng tư lệnh-Bộ Tổng tham mưu cũng còn ít kinh nghiệm; lần đầu tiên đánh xuống đồng bằng trống trải, lại ban ngày, có trụ nổi với máy bay, xe tăng địch không; đặc biệt, lần đầu tiên tấn công các thành phố, ta có chiếm được không, chiếm xong có giữ nổi không để buộc địch phải ứng cứu thì ta mới có điều kiện diệt viện... Nhưng những khó khăn này, Quân ủy Trung ương-Bộ Tổng tư lệnh-Bộ Tổng tham mưu có thể giải quyết được. Có hai khó khăn cần có sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và của anh thì mới giải quyết được". Anh hỏi ngay: "Vậy có những khó khăn gì?". "Báo cáo: Một là quân số bổ sung, từ trước đến nay hàng năm ta bổ sung cho miền Nam 6-7 vạn quân, những năm đánh lớn như Mậu Thân 1968 và năm 1972 là 10 đến 12 vạn. Nay ta đánh lên liên tục 2 năm, dự kiến phải 15 vạn một năm, là cần 30 vạn, bảo đảm trong tay các tư lệnh chiến trường luôn luôn có quân kịp thời bổ sung, để bảo đảm chiến đấu từ mùa khô qua mùa mưa. Quân tăng thì khung cán bộ cũng tăng, trường trại, lương thực, trang bị đều phải tăng. Nhưng khó khăn chính là từ trước ta chỉ mới tuyển ở khu vực nông thôn đồng bằng, ít khi đụng đến đường phố, trường học và cơ quan". Anh Ba trả lời ngay: "Không lo, phải lấy cả ở đường phố, cơ quan, trường học. Kỳ này bàn với anh Đồng để có kế hoạch giải quyết. Còn khó khăn thứ hai là gì?", "Đó là phương tiện làm đường, mở rộng và củng cố tuyến đường chi viện chiến lược 559. Mấy năm qua ta xây dựng được tuyến đường Trường Sơn, đây là nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam; đường 559 vươn đến đâu thì thắng lợi đến đấy. Nhưng phương tiện cơ bản là thô sơ hoặc bán cơ giới; nay ta cần vận chuyển gấp nhiều đơn vị bộ binh, nhiều đơn vị binh chủng lớn phải mở rộng và củng cố gấp". Anh Ba hỏi ngay, vậy cần gì? "Chúng tôi chưa bàn kỹ với Bộ tham mưu Tổng cục Hậu cần, Bộ tham mưu 559, nhưng cũng cần 200-250 phương tiện làm đường như: chặt, cắt, vạt, đào, xén, đầm và có chỗ cần rải nhựa...". Anh Ba cũng nói ngay: "Không đáng lo lắm, tháng 9 năm nay đồng chí Phi-đen sang thăm ta, chúng tôi sẽ bàn với các đồng chí Cu-ba, chắc các đồng chí sẽ ủng hộ. Các đồng chí Cu-ba dùng đường ăn bán cho Nhật và mua những phương tiện ấy, nhưng không chở về La Ha-ba-na mà chở vào cảng Hải Phòng cho ta". Tiễn tôi ra về anh dặn: "Chiều nay mời cả tổ và anh Tấn đúng 14 giờ sang làm việc". Về tới Cục, chưa kịp ăn trưa, tôi báo cáo bằng điện thoại với anh Tấn: "Báo cáo anh thắng lợi rồi anh ạ. Anh Ba nghe tôi báo cáo mà không cắt ngang. Đặc biệt là anh Ba có hướng giải quyết 2 khó khăn chính". Anh Tấn cũng rất mừng: "Chiều nay mình sẽ báo cáo những nội dung như cậu báo cáo sáng nay. Chỉ gọn trong 2 tiếng. Cậu tranh thủ ăn đi, chợp mắt vài phút để chiều đủ sức làm việc".
    Đúng hai giờ chiều, anh Tấn, anh Lăng và tôi có mặt. Tôi nhớ vắng anh Hồ, sau này tôi biết anh Hồ đã tranh thủ báo cáo trước với anh Ba. Anh Tấn cũng báo cáo trong 2 giờ liền. Anh Ba chỉ chăm chú nghe, không hỏi mà cũng không cắt ngang. Anh chiêu đãi chúng tôi món đào hộp Nhật, do anh Nguyễn Văn Trân, Bí thư Trung ương Đảng ta dự đại hội Đảng Cộng sản Nhật mang về. Trước khi chúng tôi ra về, anh nói ngắn gọn, chắc nịch: "Tôi đang suy nghĩ như vậy, hôm nay nghe ý kiến của tổ Trung tâm của Quân ủy Trung ương củng cố suy nghĩ ấy cho tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị".
    Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ giọng chắc nịch và nét mặt rất vui của anh. Trên đường về, anh Tấn dặn chúng tôi: "Thế là đúng rồi. Chúng mình phải cố gắng hơn nữa, nhất là vấn đề phương pháp tác chiến chiến lược sao cho thật nhịp nhàng, tạo được sức mạnh ngay từ những trận đầu mở màn. Vấn đề tuyệt mật, các cậu chớ trao đổi với ai, để tớ báo cáo lại ý kiến anh Ba với anh Văn và anh Dũng".
    Sáng thứ ba tuần sau-29-5-1973, anh Tấn phổ biến ý kiến của anh Dũng và anh Văn cho toàn tổ. Anh Dũng chỉ thị phải nghiên cứu đánh vào Buôn Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch; đánh được vào đấy mới thắng to. Còn anh Văn thì làm đường là rất hợp gu của anh, vì có đường mới sử dụng được pháo lớn, xe tăng, mới đánh lớn, đánh đau, đánh hiểm mới giành hoàn toàn bất ngờ. Anh Văn chỉ thị phải bàn kỹ với anh em Công binh cố gắng khắc phục khó khăn về địa hình, về hoạt động của địch, nhất định phải mở đường qua sông Sê-rê-pốc vào gần Buôn Ma Thuột. Anh Văn còn nhắc kinh nghiệm làm đường ở Điện Biên Phủ, Tây Bắc, Cánh Đồng Chum, bắc Quảng Trị. Đường quan trọng lắm.
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Được sự phê chuẩn bước đầu của đồng chí Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng, đồng chí Bộ trưởng-Tổng tư lệnh-Bí thư Quân ủy Trung ương, đồng chí Tổng tham mưu trưởng-Phó bí thư thứ nhất Quân ủy Trung ương, tổ Trung tâm dự thảo lần thứ nhất kế hoạch chiến lược cơ bản "Đề cương báo cáo kế hoạch chiến lược dự thảo lần thứ nhất, số 306/Tg1 và được Bộ Chính trị-Quân ủy Trung ương thông qua ngày 5-6-1973".
    Về chọn phương hướng chiến trường và phương hướng chủ yếu của đòn chủ lực đã ghi rõ:
    1/ Chiến trường chủ yếu là Nam Bộ:
    - Có đồng bằng sông Cửu Long đông dân nhiều của;
    - Có thành phố Sài Gòn.
    2/ Hướng chủ yếu của đòn chủ lực:
    - Tây Nguyên;
    - Miền Đông;
    - Trị Thiên - Quảng Đà.
    Chủ yếu là Tây Nguyên vì:
    - Địa hình tốt, bảo đảm phát huy được binh khí kỹ thuật;
    - Kết hợp được đòn chủ lực và tấn công nổi dậy ở đồng bằng khu 5:
    - Bảo đảm được liên tục tấn công;
    - Có điều kiện bảo đảm cơ sở vật chất;
    - Địch hiện nay tương đối yếu...".
    Quá trình tiếp tục nghiên cứu được sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Tổng tư lệnh, Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị tổ Trung tâm xây dựng và dự thảo đến lần thứ 8 mới hoàn chỉnh. Quá trình ấy cũng có lúc ta nghiêng về Tổng khởi nghĩa, đặt Tổng khởi nghĩa lên hàng đầu thì phương hướng là các thành phố lớn, mục tiêu chủ yếu là Sài Gòn, Đà Nẵng, Sài Gòn là trọng điểm số 1, Đà Nẵng là trọng điểm số 2; còn Tây Nguyên và Quân khu 5 trở thành hướng phối hợp. Đó là dự thảo thứ 3 và lần thứ 6. Nhưng khi xây dựng kế hoạch "giành thắng lợi ở miền Nam vài ba năm "thì phương hướng chính vẫn là các thành phố lớn. Mục tiêu hàng đầu là cơ quan đầu não của ngụy quân ngụy quyền: mục tiêu số 1 vẫn là Sài Gòn, tiêu diệt 3 sư đoàn ngụy, tạo điều kiện tấn công và nổi dậy ở Sài Gòn". Tây Nguyên-nam Quân khu 5 tiêu diệt 2 sư đoàn ngụy, giải phóng Tây Nguyên nối liền miền Đông Nam Bộ... Tiếp đó, lực lượng ta ở Tây Nguyên còn 3 sư đoàn thọc xuống miền Đông làm lực lượng dự bị cho tấn công Sài Gòn; đó là dự thảo lần thứ tư và thứ năm. Để hoàn chỉnh vùng giải phóng căn cứ rừng núi, mở rộng hành lang chiến lược, đợt tháng 3, 4 và 5-1975 ta mở một chiến dịch quy mô 1-2 sư đoàn phối hợp toàn Miền, hướng chính là Tây Nguyên, nhằm giải phóng Đức Lập, Đắc Song; mở tiếp một chiến dịch tiêu diệt địch trên đường 14 giữa Plây-cu và Buôn Ma Thuột, phối hợp với Đức Lập (dự thảo lần thứ bảy ngày 30/9-8/10/1974).
    Nhìn lại truyền thống của ông cha ta về chọn hướng và mục tiêu chủ yếu đã được Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi-những nhà chiến lược thiên tài đúc kết thành phương châm bất hủ: "Bậc thánh võ trị đời xưa, đánh vào chỗ không có thành, công vào chỗ không có lũy, chiến ở chỗ không có trận, nhẹ nhàng như mây rơi trên không, dựng lên cuộc đời vô sự", hoặc: "Biết được thực hư của người rồi thì nên đánh vào chỗ mềm mà không nên đánh vào chỗ cứng. Vì đánh vào chỗ cứng thì chỗ mềm cũng thành cứng, đánh vào chỗ mềm thì chỗ cứng lại thành mềm, chính là thế". Còn Nguyễn Trãi: "Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ có địch, đánh vào chỗ không có địch. Như vậy, sức chỉ mất một nửa mà công thì gấp đôi".
    Bác Hồ luôn luôn giáo dục và nhắc nhở cán bộ quân sự chúng ta: "Phải tránh chỗ địch mạnh". Thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của cuộc chiến tranh ở chiến dịch Biên Giới và đặc biệt chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Điện Biên Phủ đã chứng minh hùng hồn chân lý ấy. Ngược lại, 3 chiến dịch năm 1951 vào Trung du, đường 18 và Hà Nam Ninh đánh vào chỗ địch mạnh, không thu được thắng lợi.
    Tư tưởng quân sự thời đại Hồ Chí Minh qua 28 năm đánh Pháp và đánh Mỹ rút ra: "Phải chọn đúng hướng địch yếu, sơ hở và rất hiểm yếu, vì không hiểm yếu, có thể địch không ứng cứu, tức không đưa những đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng đến cứu nhau, thoát ly công sự thì ta mới có điều kiện tiêu diệt chúng trong vận động, tức đánh theo sở trường của bộ đội chủ lực ta. Một kinh nghiệm rất quý là phải tìm bằng mọi cách bắt địch phải ứng cứu, đó là điều kiện cơ bản hàng đầu, nhưng đồng thời lại phải có kế hoạch ngăn chặn chia cắt địch: gần xa, chìm nổi, dày đặc, nhiều tầng nhiều lớp đi đến bắt địch chỉ ứng cứu lần lượt, đủ sức chủ lực ta lần lượt tiêu diệt chúng. Nếu để địch ào ạt đưa quân ứng cứu lớn thì chủ lực ta không đủ sức tiêu diệt gọn, chiến sự có thể kéo dài, ta có thể thương vong nhiều, mặt khác cũng để thu hút Mỹ đưa một bộ phận quân chiến đấu trở lại cứu bọn ngụy. Cụ thể, không để xảy lại tình hình như đợt 2 năm 1972 ở bắc Quảng Trị, bắc Kon Tum và bắc An Lộc".
    Kinh nghiệm sốt dẻo của chiến dịch Biên giới và Điện Biên Phủ là khi ta tiêu diệt được một lực lượng gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất của địch, thuộc lực lượng dự bị chiến lược của chúng, tương đương một sư đoàn thì ta tạo được một sự đổ vỡ lớn, đập nát hệ thống phòng ngự cơ bản của địch trên một diện rộng, tạo một bước ngoặt đột biến, tạo thời cơ lớn cho chiến tranh. Sau chiến dịch Biên giới, Pháp phải cử tướng Revers- Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp nghiên cứu tình hình tại chỗ. Revers đã đề nghị bỏ cả miền Bắc Đông Dương về vĩ tuyến 16 còn sau Điện Biên Phủ ta giải phóng được nửa nước.
  7. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0

    Với lực lượng còn lại, toàn miền Nam, địch tổ chức và bố trí thành 4 quân khu-quân đoàn theo kiểu "nặng hai đầu, nhẹ ở giữa". Tập trung lực lượng mạnh ở quân khu 1-quân đoàn 1 (từ thành cổ Quảng Trị đến Huế-Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi) để sẵn sàng đối phó với khối chủ lực của ta ở miền Bắc và ở quân khu 3-quân đoàn 3 (miền Đông Nam Bộ) để bảo vệ Sài Gòn-Gia Định. Còn lực lượng quân ngụy thuộc quân khu 2-quân đoàn 2 (từ Bình Định đến sau Bình Thuận và Tây Nguyên) và quân khu 4-quân đoàn 4 (đồng bằng sông Cửu Long) tương đối yếu hơn.
    Lực lượng cụ thể và thế bố trí của quân ngụy trên từng quân khu-quân đoàn như sau: Quân khu 1-quân đoàn 1 có 5 sư chủ lực (có 2 sư tổng dự bị chiến lược), 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo lẻ, có 418 khẩu; 5 thiết đoàn và 6 chi đội xe tăng thiết giáp, có 449 xe; 1 sư đoàn không quân có 96 máy bay chiến đấu. Phần lớn lực lượng quân chủ lực giữ Huế-Đà Nẵng. Quân khu 2-quân đoàn 2 có 2 sư chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân; 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng thiết giáp, có 447 xe; 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo có 382 khẩu; 2 sư đoàn không quân có 138 máy bay chiến đấu. Phần lớn chủ lực rải ra giữ Tây Nguyên và các thành phố, các thị xã lớn ở đồng bằng ven biển miền Trung. Ở quân khu 3-quân đoàn 3 có 3 sư chủ lực, 7 tiểu đoàn biệt động quân; 14 tiểu đoàn và một số đại đội pháo có 376 khẩu; 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng thiết giáp có 655 xe; 2 sư đoàn không quân có 250 máy bay chiến đấu. Toàn bộ lực lượng chủ lực triển khai theo vòng cung từ tây bắc, bắc và đông bắc bảo vệ thành phố Sài Gòn từ xa trên 50km. Ở quân khu 4-quân đoàn 4 có 3 sư chủ lực, 18 liên đoàn biệt động quân; 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo lẻ có 380 khẩu; 5 thiết đoàn và 17 chi đội xe tăng thiết giáp có 493 xe; 1 sư đoàn không quân có 72 máy bay chiến đấu; chủ lực tập trung bảo vệ Cần Thơ và Chương Thiện.
    Thế địch đã suy yếu, chúng lại phạm một sai lầm lớn là đánh giá thấp khả năng ta: "Năm 1975, ********* không thể đánh lớn khắp miền Nam như Mậu Thân 1968, càng không thể như năm 1972. Chỉ có thể hoạt động ở một số vùng trọng điểm ở Tây Nguyên hoặc miền Đông Nam Bộ. Không thể có khả năng tấn công các thành phố lớn, chỉ có thể tấn công các thành phố, thị trấn như Gia Nghĩa... Mục tiêu chính của ********* là đánh chiếm một số căn cứ nhỏ xung quanh Tây Ninh để xây dựng trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính là giành lại 2 triệu dân ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long". Chính vì thế, chúng không điều chỉnh lại bố trí chiến lược của quân ngụy.
    Được anh Tấn chỉ định phát triển trước về chọn hướng tiến công chủ yếu, anh Vũ Lăng đề nghị loại trừ quân khu 4-quân đoàn 4 của địch, vì đây là "sân sau" của địch, nhiều sơ hở, yếu và rất hiểm yếu, nhưng vì ta không có điều kiện đưa pháo lớn, xe tăng, thiết giáp nên không thể đánh lớn, hoàn toàn không thể đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn để giải phóng miền Nam. Có lẽ đây là vấn đề được nhất trí nhanh nhất. Anh Lăng cũng đề nghị không mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đánh ngay vào quân khu 3-quân đoàn 3 ngụy, mặc dầu ở đây có cơ quan đầu não của ngụy quyền, ngụy quân trung ương. Vì đây là hướng địch mạnh, trước mắt có 3 sư đoàn chủ lực, nhưng chỉ một vài ngày sau địch có thể điều thêm 2-3 sư đoàn, trước hết là điều một sư đoàn của quân khu 4-quân đoàn 4 lên ngay, tiếp đến khi phát hiện hướng tấn công chủ yếu của ta là Sài Gòn-Gia Định, địch sẽ điều hai sư đoàn dự bị chiến lược ở quân khu 1-quân đoàn 1 về. Mặt khác, là một chiến trường được Mỹ-ngụy tổ chức khá chặt chẽ, hệ thống sân bay nhiều: Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Mỹ Tho, Vũng Tàu; đường sá vững chắc; hệ thống pháo binh và sân bay dã chiến cho trực thăng chiến đấu nhan nhản. Địa hình lại bằng phẳng, phần lớn là rừng cao su; từ Sài Gòn-Gia Định lên Tây Ninh, Sa Mát, Lộc Ninh, An Lộc, Phước Long, Biên Hòa-Xuân Lộc... chỉ 100-200km. Ta khó chia cắt ngăn chặn địch, khó tiêu diệt gọn từng trung đoàn, lữ đoàn trong một thời gian ngắn. Đặc biệt khó bảo đảm giành thắng lợi lớn mở đầu có tính chấn động lớn đến thế bố trí chiến lược của địch. Toàn tổ nhất trí thế trận giằng co có thể diễn ra khi địch có 5 sư chủ lực; mặt khác đã không tiêu diệt lớn quân ngụy ngay từ đầu thì quân Mỹ sẽ can thiệp bằng không quân, hải quân, thậm chí huy động đội quân cứu hỏa nhanh hơn.
    Hơn nữa ta tập trung lực lượng tấn công quân khu 3-quân đoàn 3 ngụy, trong khi toàn bộ đội hình chưa bị đánh đau, địch có điều kiện tổ chức tấn công, phản công đánh phá tuyến hậu cần chiến lược của ta ở những khu vực nhạy cảm như đường 9, ngã ba Đông Dương: tây đường 18-Hạ Lào-Đông Bắc Miên vùng Bản Hét. Chỉ cần chúng chốt giữ một tuần cũng đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của cuộc tổng tấn công.
    Tuy phải tranh luận gay gắt vì cũng có đồng chí muốn tấn công từ đầu vào Sài Gòn-Gia Định theo gợi ý của cấp trên. Tôi nhớ anh Tấn đã "nổi nóng" là "sao Buôn Ma Thuột nhỏ lại cô lập thì cậu cho khó mà cậu lại ưng húc vào Tây Ninh, Thủ Dầu Một trước khi vào được Sài Gòn. Cậu thử vạch kế hoạch làm sao mà diệt, đánh quỵ 5 sư đoàn ngụy để chiếm giữ được Sài Gòn...". Cuối cùng toàn tổ cũng thống nhất không thể mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn-Gia Định. Tôi nhớ mãi câu nói của anh Vũ Lăng: "Đề nghị anh Tấn cứ báo cáo cấp trên nếu mở đầu vào Sài Gòn-Gia Định nhất định thất bại".
  8. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Anh Vũ Lăng cũng đề nghị không mở đầu tấn công vào Quân khu 1, Quân đoàn 1 vì đây là khu vực mạnh nhất của địch, luôn luôn sẵn sàng đối phó với khối chủ lực ở miền Bắc. Địa hình lại hẹp, bằng phẳng, khá trống trơn, ta khó phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật. Là chiến trường, địch cũng đã chuẩn bị khá kỹ; hệ thống đường sá, hệ thống hỏa lực của không quân và pháo binh khá dày đặc, chặt chẽ, các sư đoàn ngụy dễ ứng cứu cho nhau. Ngoài hỏa lực trên đất liền thì hỏa lực của Hạm đội 7 Mỹ rất dễ can thiệp. Dẫu ta có khắc phục làm đường từ Nam Đông-Khe Tre đánh thẳng xuống quốc lộ 1A, cắt đường ở quãng Phú Lộc-bắc đèo Hải Vân, đánh đúng hướng rất hiểm, cắt đôi thế trận chiến lược của địch ở Huế-Đà Nẵng thì ta cũng chỉ đạt được bất ngờ có tính chiến thuật đối với tập đoàn Huế-Đà Nẵng. Còn đối với địch trên toàn miền Nam, tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 là không bất ngờ về chiến lược, là đánh theo kiểu "bóc vỏ" từ Bắc vào Nam, lực lượng ta sẽ bị hao mòn, còn sức đâu mà đánh vào hang ổ cuối cùng của địch ở Sài Gòn. Năm 1972, đánh theo kiểu này là hay, là sáng tạo nhưng đối với yêu cầu và mục đích cơ bản của cuộc tổng tấn công và nổi dậy lần này là phải tiêu diệt bằng được một triệu quân ngụy thì không nên mở đầu tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 địch. Cuộc tổng tấn công cũng sẽ thất bại. Tuy cũng có ý kiến cho rằng tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 có điều kiện thuận lợi là hậu phương chiến dịch gần miền Bắc, có điều kiện đánh lâu dài vì đạn dược, vũ khí lớn, phương tiện chiến tranh, hậu cần trang bị, lương thực và quân bổ sung dễ, kịp thời. Đúng là điều kiện bảo đảm hậu cần rất quan trọng nhưng quyết định là có chắc thắng không, có thể tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch trong một thời gian nhất định không, đặc biệt là có thể tạo điều kiện cho các trận tiêu diệt tiếp theo để thực hiện tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân ngụy không? Cuối cùng, toàn tổ nhất trí mở đầu cuộc tổng tấn công không nên tấn công vào Sài Gòn-Gia Định và Huế-Đà Nẵng, nhất định sẽ thất bại.
    Vậy chỉ còn quân khu 2-quân đoàn 2 của địch. Chiến trường này của địch có hai khu vực. Khu vực Tây Nguyên có 5 tỉnh và khu vực đồng bằng miền Trung dọc bờ biển có 7 tỉnh. Là chiến trường yếu, sơ hở nhất của địch trong 4 quân khu-quân đoàn. Sơ hở yếu, nhưng lại rất hiểm yếu, vì mất "mái nhà nam Đông Dương" thì thế bố trí chiến lược của địch ở miền Nam bị cắt làm đôi. Tây Nguyên nối liền vùng đồng bằng bằng mấy đường giao thông chiến lược: 19, 21 và 14. Nếu các tuyến đường huyết mạch ấy bị cắt đứt, thì Tây Nguyên bị tách rời không chỉ với đồng bằng miền Trung mà cả chiến trường miền Nam nói chung. Nói đến quân khu 2-quân đoàn 2 của địch, trước hết phải nói đến khu vực Tây Nguyên, vì có chiếm được "mái nhà nam Đông Dương" này thì ta mới có điều kiện đưa binh khí kỹ thuật lớn đánh chiếm vùng đồng bằng miền Trung, thực hiện đòn chia cắt chiến lược vô cùng quan trọng (sau này đồng chí Trường Chinh thường gọi là "Mũi giáo chia cắt chiến lược quyết định"). Ở Tây Nguyên, địa hình rừng núi, nhiều đèo, nhiều dốc hiểm trở, kín đáo, hạn chế tối đa các trang bị hiện đại của địch; trái lại, phát huy tối đa binh khí kỹ thuật lớn của ta, hệ thống vận chuyển chiến lược 559 đã đi qua Tây Nguyên, đảm bảo hậu cần-kỹ thuật cho phép quân ta chiến đấu lâu dài. Tiến công vào Tây Nguyên nhất định địch phải ứng cứu, vì vai trò quyết định của "mái nhà nam Đông Dương", nhưng có một điều rất quan trọng là địch không thể ào ạt tăng quân khi các trục đường huyết mạch: 19, 21 và 14 bị ta khóa chặt; chỉ có thể đổ quân bằng không vận, mà tăng viện bằng đường không thì rất hạn chế: 2-3 ngày mới đổ được một trung đoàn hay lữ đoàn có đầy đủ trang bị. Mặt khác, không thể chở các loại trang bị nặng như: xe tăng, pháo 155mm trở lên. Xét nhiều mặt, ta có điều kiện giành thắng lợi lớn cho đòn mở đầu, tạo điều kiện rất thuận lợi cho những trận tiếp, vì ta có điều kiện tiêu diệt trong vận động...
    Cuối cùng, tổ nhất trí hướng tiến công chủ yếu cho toàn cuộc tổng tiến công là Nam Bộ, vì có đồng bằng sông Cửu Long đông người, nhiều của, dự trữ chiến lược; đặc biệt có Sài Gòn-Gia Định, hang ổ chiến công của ngụy quân, ngụy quyền trung ương. Nhưng mở đầu tiến công nên nhằm quân khu 2-quân đoàn 2 của địch, cụ thể là Tây Nguyên-nơi ta có đầy đủ điều kiện tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch ngay từ đầu, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch.
    Nhưng mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược vào Tây Nguyên nên bắt đầu từ Kon Tum, Plây-cu hay Buôn Ma Thuột. Tức chọn mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công, trên cơ sở đã chọn đúng hướng tiến công chủ yếu (cũng tức là chọn điểm đột phá khẩu mở đầu cho cuộc Tổng tiến công). Anh Vũ Lăng đề nghị anh Tấn là để tôi phát biểu trước, vì trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi là trưởng phòng Tác chiến (hồi ấy còn gọi là trưởng ban), rồi tham mưu trưởng trung đoàn chủ lực đầu tiên của Liên khu 5. Đông xuân 1953-1954, tôi về Cục Tác chiến giúp Bộ chỉ đạo chiến trường miền Nam ở sở chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Mường Phăng. Đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ, từ đầu năm 1965 đến hết năm 1971, tôi ở Tây Nguyên-B3 một thời gian khá dài. Anh Tấn cười, nói vui là "nhất trí thôi, mời thổ công Tây Nguyên phát biểu". Anh Tấn dùng câu nói của anh Lê Đức Thọ trả lời anh Trường Chinh khi lần đầu tiên thấy tôi phục vụ Bộ Chính trị, "đồng chí ở đâu về" - "Đồng chí Đức, thổ công Tây Nguyên".
  9. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Tôi khái quát tình hình địa hình, hoạt động tác chiến của ta và đối phó của địch trên chiến trường Tây Nguyên suốt 9 năm chống Pháp, đến khi Mỹ vào tới sau ngày ký hiệp định Pa-ri. Từ đó rút ra điểm mấu chốt, quan trọng là Buôn Ma Thuột luôn luôn là nơi địch yếu và sơ hở, nhưng rất hiểm yếu. Tây Nguyên vốn có 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thuộc khu 15; sau này sáp nhập cùng khu 5 và khu 6 thành Liên khu 5. Còn mặt trận B3 (thường cũng nói gọn là Tây Nguyên) được thành lập từ ngày 1-5-1964, chỉ gồm 3 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc. Xét về địa hình, sườn tây B3 thoải, mấp mô, rừng kín, tiếp giáp các tỉnh miền Đông Cam-pu-chia và Hạ Lào; nhưng sườn đông thì nhiều đèo, nhiều dốc hiểm trở, rừng cây bạt ngàn. Phía bắc núi và rừng ôm sát các thị trấn Đắc Tô-Tân Cảnh... và thị xã Kon Tum, ta dễ tiếp cận. Xích vào nam, thị xã Plây-cu rất trống, toàn là rừng gianh và rừng khọc, mùa khô rụng hết lá; ta rất khó tiếp cận thị xã Plây-cu. Tận phía nam là thị xã Buôn Ma Thuột, ở sâu trong lòng địch, xung quanh đều là rừng gianh và rừng khọc, ta rất khó tiếp cận. Từ toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) đến khi thành lập mặt trận B3, ta đánh địch từ phía đông, dựa vào các tỉnh vùng tự do dọc bờ biển miền Trung, tức ta đánh vỗ mặt; chỉ từ sau ngày 1-5-1964, ta mới bắt đầu đánh địch từ phía tây-một hướng rất hiểm, lại sơ hở; ta kết hợp đông tây cùng đánh. Vì đặc điểm địa hình, địa vật như vậy, vì địa bàn xuất phát tiến công của ta lại xa, nên có thể khẳng định gần như suốt 9 năm chống Pháp, chưa có một đơn vị chủ lực của ta từ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn bám được đường 14 nối liền 3 tỉnh lỵ của mặt trận B3. Trong lúc đó, các đội công tác không chỉ bám, mà còn vượt qua đường 14 khá xa về phía tây: Đắc Sút-Đắc Lây ở Kon Tum; Lắc ở Gia Lai; Buôn Hồ, Buôn Đôn ở Đắc Lắc. Chủ lực ta cũng có nhiều trận đánh vận động, công kiên diệt gọn tiểu đoàn cơ động hay cứ điểm cỡ đại đội, đại đội tăng cường của địch là: Kom Plông (đông bắc Kon Tum 35-40km), Cửu An, Tú Thủy, đường Hoàng Hoa Thám xung quanh An Khê; Bà Lá, Ai Na; Marak ở Đắc Lắc. Tức còn cách đường 14 và phía đông chừng 30-40km. Chỉ trong thế trận tiến công chung trong Đông Xuân 1953-1954, chủ lực của Liên khu 5 tấn công giải phóng toàn tỉnh Kon Tum kể cả tỉnh lỵ, phần lớn vùng đồng bằng và rừng núi tỉnh Gia Lai (trừ thị xã Plây-cu), bắt đầu đánh trận vận động phục kích ở đèo Chư Rế bắc thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 15-20km về đông bắc, trên đường 14, diệt gọn 1 tiểu đoàn; sau đó được lệnh lui quân thực hiện Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ. Như vậy đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, ta mới đánh lớn ở Kon Tum và Gia Lai, nhưng Đắc Lắc- Buôn Ma Thuột vẫn chưa sờ tới.
    Trong kháng chiến chống Mỹ, nhờ có đường vận chuyển chiến lược 559, ta mở mặt trận B3 và bắt đầu đánh từ phía sườn tây. Trong Xuân Mậu Thân 1968, ta không tấn công được vào các thị xã Kon Tum, Plây-cu, chủ lực ta đánh vòng ngoài; nhưng ở thị xã Buôn Ma Thuột, trung đoàn 33 đánh chiếm được một số mục tiêu phụ trong thị xã, giữ được 3 ngày. Có lẽ đây là trận đánh lớn nhất của ta vào thị xã Buôn Ma Thuột kể từ ngày toàn quốc kháng chiến. Tiếp đó, là các sư đoàn 325A, 325B, 304, 320, 316 cùng quân dân B3 lập công. Trong cuộc tấn công chiến lược năm 1972, chủ lực mặt trận B3 lập 2 kỷ lục: Một là, một sư đoàn của ta được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng và được một trung đoàn pháo chi viện đã tiêu diệt gọn một lực lượng địch gần một sư đoàn trong công sự vững chắc chỉ trong vòng 10 giờ. Hai là, một trung đoàn được tăng cường một đại đội xe tăng, được một trung đoàn pháo binh cơ giới chi viện đã tiêu diệt gọn một lực lượng địch tương đương một trung đoàn trong công sự vững chắc chỉ trong 3 giờ. Sau đó, chiến dịch kết thúc vì không phát triển được vào thị xã Kon Tum. Phía thị xã Plây-cu và Buôn Ma Thuột, chủ yếu là Plây-cu, ta dùng bộ đội đặc công và pháo kích phá hủy nhiều căn cứ pháo binh, sân bay, kho tàng, gây cho địch nhiều thiệt hại.
    Điểm lại từ đầu như vậy để thấy, do địa hình, do tác chiến của ta đều tập trung vào khu vực Kon Tum, Plây-cu nên bố trí của địch cũng tập trung chủ yếu vào hướng Kon Tum-Plây-cu. Trong kháng chiến chống Pháp, thời kỳ đầu, khu vực Tây Nguyên nằm trong chiến trường Nam Trung Bộ và cao nguyên Trung phần; đến năm 1950, tướng Đờ-lát tách Tây Nguyên thành chiến trường trực tiếp vốn Bộ tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương. Dẫu chiến trường nào thì địch vẫn tập trung đối phó chủ yếu ở Kon Tum-Plây-cu. Sở chỉ huy luôn ở Plây-cu, còn Buôn Ma Thuột chỉ là hậu phương, gồm các kho tàng, bệnh viện. Khi Mỹ vào, lúc cao nhất cũng bố trí một sư đoàn ở Tây Nguyên: một lữ đoàn ở Đắc Tô-Tân Cảnh, một lữ đoàn và sở chỉ huy sư đoàn ở Plây-cu, một lữ đoàn ở sân bay Hòa Bình, Buôn Ma Thuột; nhưng mỗi lần bị đánh đau, địch vội vã điều lữ đoàn ở Plây-cu lên tăng cường cho Kon Tum và lữ đoàn ở sân bay Hòa Bình lên Plây-cu. Buôn Ma Thuột là sở chỉ huy hậu phương và hệ thống kho tàng, căn cứ sửa chữa.
  10. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    hay quá! hay quá! hay quá!

Chia sẻ trang này