1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xây Dựng - Lĩnh vực chuyên môn, còn đây...hay là đã mất ?

Chủ đề trong 'Xây dựng' bởi Dumper, 21/11/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Uhm...Trước hết, dạo qua và...ngắm lại về quy trình thực hiện của 1 số nước cái đã...

    1. Quản lý chất lượng công trình xây dựng ở Mỹ
    a) Quản lý nhà nước của Mỹ về CLCTXD.

    - Bộ máy chính quyền Mỹ chia làm 3 cấp: Chính quyền Liên bang, chính quyền Bang và chính quyền địa phương. Nếu không có yêu cầu của Quốc hội, chính quyền liên bang thường không trực tiếp quản lý CLCTXD. Khi có văn bản của Quốc hội thì Quốc hội trao quyền cho Bộ trưởng Bộ Phát triển nhà ở và đô thị tiến hành những kiểm tra điều tra như đảm bảo quy định về quản lý chất lượng được thực hiện một cách cưỡng chế.

    Do nguyên nhân lịch sử, phần lớn quyền lực hành chính của Mỹ tập trung trong tay chính quyền bang. Chính quyền bang có quyền phát ngôn về chất lượng công trình.

    Chính quyền địa phương là cơ quan chủ quản hành chính trực tiếp quản lý chất lượng công trình, có quyền lực tối cao đối với chất lượng công trình. Chính quyền địa phương có cơ quan riêng quản lý xây dựng gọi là Cục xây dựng được tổ chức như sau:

    • Văn phòng Cục
    • Trung tâm xin phép và cho phép.
    • Ban thẩm tra kế hoạch (hạt nhân trong QLCL)
    • Ban kiểm tra (Lực lượng chủ yếu của Cục)

    Sự coi trọng của Chính phủ dành cho chất lượng: Khi phát hiện ra khả năng xấu nghiêm trọng về chất lượng ảnh hưởng tới con người và tài sản chính quyền bang hoặc địa phương phải lập tức thông báo cho xã hội biết, ra lệnh thu hồi hoặc ngừng thi công.

    b)/ Biện pháp quản lý chất lượng ở Mỹ.

    */ ở Mỹ dùng mô hình 3 bên chính để quản lý chất lượng sản phẩm xây dựng trong quá trình xây dựng:

    • Bên thứ nhất là Nhà thầu người sản xuất tự chứng nhận chất lượng sản phẩm của mình.

    • Bên thứ 2 là sự chứng nhận của bên mua (Là Chủ đầu tư thông qua tư vấn giám sát) về chất lượng sản phẩm có phù hợp với tiêu chuẩn và các quy định của công trình hay không.

    • Bên thứ 3 là sự đánh giá độc lập nhằm định lượng chính xác phục vụ mục đích baỏ hiểm hoặc khi giải quyết tranh chấp.
  2. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    2. Quản lý chất lượng của cộng hoà Pháp

    • Điểm xuất phát:
    Quản lý chất lượng của Pháp dựa trên việc bảo hiểm bắt buộc đối với công trình xây dựng các hãng bảo hiểm từ chối bảo hiểm cho công trình khi công trình không có đánh giá về chất lượng.

    • Quan điểm quản lý chất lượng:

    Ngăn ngừa là chính. Dựa trên kết quả thống kê đưa ra các công việc và giai đoạn bắt buộc phải kiểm tra để ngăn ngừa nguy cơ xảy ra chất lượng kém.

    • Nội dung kiểm tra:

    * Giai đoạn cần kiểm tra:

    - Phệ duyệt thiết kế: chất lượng thiết kế
    - Thi công: Biện pháp thi công, cách tổ chức thi công.

    * Nội dung kỹ thuật:

    - Mức độ vững chắc của công trình
    - An toàn PCCC và ATLĐ
    - Tiện nghi cho người sử dụng.

    • Kinh phí chi cho kiểm tra chất lượng công trình : 2% tổng giá thành.

    • Bảo hành và bảo trì: Luật quy định, các chủ thể có trách nhiệm bảo hành và bảo trì sản phẩm của mình trong vòng 10 năm.

    • Cưỡng chế bảo hiểm công trình xây dựng.

    - Pháp là một nước điển hình thực hiện chế độ bảo hiểm công trình mang tính cưỡng chế.

    - Mọi đơn vị có liên quan tới xây dựng công trình : Chủ công trình , đơn vị thiết kế, thi công, Công ty kiểm tra chất lượng, nhà sản xuất chế phẩm xây dựng, kiến trúc sư, công trình sư...đều phải nộp bảo hiểm cho Công ty bảo hiểm.

    - Pháp quy định bảo hành công trình là 10 năm , vì vậy tiền bảo hiểm phải được cân nhắc tuỳ thuộc mức độ rủi ro của công trình xây dựng, uy tín của Nhà thầu, mức độ của công tác quản lý chất lượng...và thường tiền bảo hiểm chiếm từ 1,5% đến 4% giá thành công trình .

    Thông qua cưỡng chế bảo hiểm công trình, công ty bảo hiểm tích cực thúc đẩy thực hiện chế độ giám sát quản lý chất lượng chặt trong giai đoạn thi công nhằm đảm bảo chất lượng công trình thì công ty bảo hiểm không phải gánh chịu chi phí sửa chữa, duy tu công trình.

    Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình đã buộc các bên phải tích cức tham gia vào giám sát quản lý chất lượng công trình và vì lợi ích của mình, bảo vệ tối đa lợi ích hợp pháp của Nhà nước và người sử dụng.
  3. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    3. QLCLCTXD ở Trung Quốc
    a) Pháp Quy hoá vị trí của QLCLCTXD.

    Sau 13 năm nghiên cứu, trải qua nhiều giai đoạn tập trung tâm huyết của nhiều người, ngày1 tháng 11 năm 1997 " Luật Xây dựng" đã được hội nghị lần thứ 28 - Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 8 thông qua, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã ký lệnh ban hành ngày 3/11/1997. Xuất phát lập pháp của Quốc hội nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là phải đưa thị trường xây dựng vào quy định của luật pháp để nâng cao chất lượng công trình xây dựng.

    ở Trung Quốc, ngành xây dựng phát triển cực kỳ nhanh chóng từ khi mở cửa cải cách. Thành tựu thì vô cùng to lớn nhưng cũng để lại những sự không hoàn thiện của thị trường khá rõ ràng. Các doanh nghiệp xây dựng có khuynh hướng coi trọng sản xuất coi thường quản lý; coi trọng giá trị sản lượng xem nhẹ hiệu quả; quan tâm tới tiến độ, giá rẻ bỏ mặc chất lượng. Các chủ đầu tư chia nhỏ công trình để giao thầu, đòi và nhận hối lộ phổ biến; ép giá, ép tiến độ để lấy thành tích...Những hành vi này ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng làm cho sự cố liên tiếp xảy ra. Vì vậy "Luật Xây dựng " Trung Quốc không chỉ có mục đích lập pháp cơ bản là bảo đảm chất lượng và an toàn mà trong nhiều điều xác định việc bảo đảm chất lượng và an toàn là nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng.

    b) Thực hiện chế độ giám sát quản lý xây dựng công trình một cách toàn diện.

    Chủ tịch Đặng Tiểu Bình chỉ rõ : "Chúng ta cần phải học cách sử dụng phương pháp kinh tế để quản lý kinh tế. Tự mình không hiểu thì phải học tập những người biết, học tập phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài" chế độ giám sát quản lý xây dựng được cả thế giới công nhận là chế độ quản lý xây dựng tiên tiến được Trung Quốc vừa áp dụng thí điểm thành công và từ 1996 được áp dụng toàn diện ở nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Đây là công việc thuộc phạm vi trách nhiệm của Chủ đầu tư và được uỷ thác cho một tổ chức được chuyên nghiệp hoá để thực hiện việc giám sát quản lý đối với toàn bộ quá trình đầu tư và xây dựng một công trình. Như vậy điều quan trọng trong giám sát quản lý không chỉ nằm ở " giám sát" mà còn nằm nhiều ở "quản lý" nghĩa là phải giúp Chủ đầu tư quản lý toàn bộ công trình về 3 mặt kiểm soát đầu tư, kiểm soát tiến độ và kiểm soát chất lượng nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của dự án.

    Tất nhiên ở Trung Quốc cũng đã trải qua giai đoạn mà chế độ giám sát quản lý hoàn chỉnh được hiểu là giám sát chất lượng với trách nhiệm hữu hạn. ở đây có lỗi của chủ đầu tư là thích bao biện, muốn giữ lợi ích và không thích giao quyền cho đơn vị tư vấn giám sát. Nhưng cũng có lỗi chủ quan của các đơn vị tư vấn là đội ngũ và tổ chức của mình chưa thể thích ứng với nhu cầu của công tác thực tế. Thể hiện chủ yếu là các nhân viên mới tiếp cận, kinh nghiệm về nghiệp vụ quản lý chưa được đào tạo và cơ cấu lứa tuổi của đội ngũ kỹ sư giám sát cũng không hợp lý. Vì vậy chương trình đào tạo kỹ sư tư vấn giám sát quản lý của Trung Quốc được coi là nhiệm vụ cấp bách. Về phía quản lý của chính quyền cần tăng cường thẩm tra chặt chẽ tư chất của đơn vị tư vấn giám sát, tập trung đào tạo nâng cao trình độ của các nhân viên giám sát quản lý. Chúng ta đang học Trung Quốc về bước đi và mô hình QLCLCTXD bởi những thành công của Trung Quốc trong quá trình tiếp cận để hội nhập thông lệ và tập quán quốc tế là gần gũi với phương pháp luận của chúng ta.
  4. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    4. QLCLCTXD ở Cộng hoà Liên bang Nga.
    a/ Hệ thống quản lý Nhà nước về CLCTXD.

    ở Liên bang Nga, giúp cho Chính Phủ thống nhất QLNN về CLCTXD là Uỷ ban Nhà nước về xây dựng và Bộ Quốc phòng Nga. Bộ Quốc phòng có hệ thống độc lập của mình để QLCL các công trình quân sự. Lực lượng từ Bộ tới các Binh chủng, quân khu khoảng 150 người. Trong khi đó, UBNN về xây dựng chịu trách nhiệm giúp Chính Phủ thống nhất QLNN về CLCTXD trên toàn lãnh thổ (Các Bộ, Ngành, vùng...gồm 89 chủ thể). Giúp cho Bộ trưởng chủ nhiệm Uỷ ban thực hiện chức năng QLNN về CLCTXD là Tổng cục QLNN về CLCTXD Liên bang cùng hệ thống của mình. Lực lượng công chức thực hiện chức năng QLNN của hệ thống lên tới hơn 3000 người, các nhân viên QLNN về CLCTXD được quản lý chặt chẽ về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. Họ muốn được tuyển chọn phải qua các khoá học và thi để được cấp thẻ và sau 3 năm lại sát hạch. Chương trình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và thi cử được thống nhất toàn Liên bang. Các trường hợp thi được có thể được thi lại sau 3 tháng. Nếu bị trượt tiếp, buộc phải chuyển công tác. Chất lượng đội ngũ công chức và sự hoạt động thống nhất của hệ thống nên Tổng cục QLNN về CL Liên bang cập nhật kịp thời thông tin về tình hình CLCTXD toàn lãnh thổ và đặc biệt trong việc chỉ đạo đối với các sự cố công trình xây dựng.

    b/ Cộng hoà Liên bang Nga áp dụng mô hình Tư vấn giám sát QLXD.

    Trong 2 năm gần đây UBNN về XD Liên bang Nga đã thực hiện việc xây dựng mô hình hoạt động xây dựng với sự tham gia của các doanh nghiệp tư vấn giám sát QLXD chuyên nghiệp. Bạn đã xây dựng chương trình đào tạo Kĩ sư tư vấn giám sát thống nhất và uỷ quyền cho 18/89 chủ thể được tổ chức đào tạo kỹ sư tư vấn giám sát tại các trường hoặc Viện. Sau khi đã phúc tra kết quả thi tuyển của các Hội đồng thi, UBNN về XD Liên bang Nga thực hiện và uỷ quyền cho các nước cộng hoà xét và cấp giấy phép đăng kỹ kinh doanh cho các doanh nghiệp tư vấn hành nghề tư vấn giám sát QLCLCTXD. UBNN về XD Liên bang Nga coi việc xây dựng đội ngũ kỹ sư tư vấn giám sát có tính chuyên nghiệp cao mang tính quyết định của tiến trình đổi mới công tác QLCLCTXD.
  5. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Uhmm....Còn ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ?

    5. Thực trạng công tác QLCLCTXD ở Việt Nam.

    5.1. Công cuộc mở cửa và những đổi mới trong lĩnh vực QLCLCTXD.

    Sự nghiệp đổi mới đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng. Cùng với sự phát triển nền kinh tế quốc dân liên tục, nhanh chóng và lành mạnh, quy mô hoạt động xây dựng trong những năm qua ngày càng mở rộng, thị trường xây dựngngày càng sôi động, tính xã hội của quá trình xây dựng ngày càng cao, địa vị của ngành xây dựng trong phát triển kinh tế và xã hội ngày càng quan trọng. Ngành xây dựng nước ta đã thực sự góp phần tạo nên dáng vóc mới của đất nước với các công trình giao thông hiện đại, các công trình công nghiệp như điện, dầu khí, vật liệu xây dựng...và nhiều cao ốc trong đô thị như Văn phòng, khách sạn...đạt các chuẩn mực quốc tế.

    Chỉ trong một thời gian ngắn, ngành xây dựng nước ta cũng đạt được sự tăng tốc khá hoàn hảo có khả năng tiếp cận và làm chủ các công nghệ, kỹ thuật xây dựng hiện đại của thế giới, đồng thời tạo sự thay đổi quan trọng trong nhận thức về quản lý trong đó có công nghệ quản lý chất lượng công trình xây dựng.

    Nhìn nhận về sự đổi mới trong lĩnh vực QLCLCTXD thời gian qua chúng ta cần nhìn lại sự đổi mới theo hướng phứp chế hoá hoạt động xây dựng ngày một hoàn thiện theo tiến trình đổi mới nền kinh tế.

    a/ Sự đổi mới trong hệ thống văn bản pháp lý về quản lý xây dựng.

    1. Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981: Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản.
    (lấy nguyên tắc hạch toán kinh tế và hiệu quả đầu tư làm thước đo của quản lý xây dựng cơ bản)

    2. Nghị định 385/HĐBT ngày 7/11/1990: Sửa đổi bổ sung thay thế NĐ/232/CP.(bản chất đối tượng quản lý nền kinh tế nhiều thành phần)

    3. Nghị định 177/CP ngày 20/10/1994: Đã điều chỉnh khái niệm quản lý xây dựng cơ bản thành" Quản lý đầu tư và xây dựng" và "quản lý công trình xây dựng" thành quản lý "dự án đầu tư".
    4. Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996: "Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng"
    (Phù hợp dần với nền kinh tế hàng hoá) Thể chế hoá rõ các chủ thể.

    5. Nghị định 52/1999/NĐ_CP ngày 8/7/1999 "Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng" (cải cách hành chính và phân rõ quản lý các nguồn vốn - Điều chỉnh vị thế của chủ đầu tư) .

    6. Và trong giai đoạn hiện nay, ban hành 1 loạt các nghị định mới, nhưng theo nhận định...là quay trở lại điểm...ban đầu.

    b/ Đổi mới nhận thức về quản lý CLCTXD

    Tư tưởng:

    Thay thế cơ chế thanh tra để phát hiện chất lượng kém sang cơ chế ngăn ngừa không để xảy ra chất lượng kém trong công trình xây dựng.

    Nội dung:

    - Xác định rõ vai trò quản lý Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng.
    - Kiểm soát chất lượng công tác thiết kế và chi phí.
    - Kiểm soát chất lượng vật liệu, chế phẩm và thiết bị.
    - Giám sát biện pháp tổ chức thi công và chất lượng thi công.
    - Nghiệm thu đánh giá chất lượng trước khi đưa vào sử dụng. áp đặt chế độ bảo hành và chế tài đối với Nhà thầu xây dựng.

    5.2 Những tồn tại hiện nay trong lĩnh vực QLCLCTXD :

    Tình hình chất lượng kém ở một số công tình và mỗi năm có trên 20 sự cố công trình nghiêm trọng cũng là hệ quả của những bất cập hiện nay của công tác QLCLCTXD. Không kể các nguyên nhân khách quan về chủ quan lĩnh vực QLCLCTXD còn nhiều tồn tại:

    - Thứ nhất: Chúng ta chưa thực sự có hệ thống quản lý thống nhất về CLCTXD. Ngoài Bộ Xây dựng, Bộ GTVT có hệ thống tổ chức dọc (tuy còn nghiệp dư và không đồng đều) thì hầu như các Bộ, Ngành chưa có cơ quan được phân công thực hiện độc lập chức năng QLNN về CLCTXD.

    - Thứ hai: Hệ thống QLNN về CLCTXD ở các địa phương thực sự bất cập về năng lực và tổ chức. Nhiều Sở XD, Sở XD chuyên ngành ở một số địa phương không có cơ quan độc lập có chức năng QLNN về CLCTXD. Nhiệm vụ này đôi khi lại ghép với các phòng nghiệp vụ khác của Sở. Theo sự phân cấp hiện nay trên 99% các công trình thuộc dự án nhóm C,B đều được giao phó cho các địa phương quản lý. Đây thực sự là một nhiệm vụ hết sức nặng nề.

    - Thứ ba: Việc thực thi luật pháp trong thực tế còn thấp. Các Chủ đầu tư đặc biệt là các dự án nguồn vốn NS vẫn là những "Ông chủ hờ". Họ không chịu rủi ro và không bị ràng buộc chặt chẽ về luật pháp nên sự thực hiện nghiêm túc chế độ QLCL đều tuỳ thuộc vào sự giác ngộ. Các Chủ đầu tư không thực hiện, chúng ta chưa có một chế tài đối với họ. Vì vậy, công tác QLCL theo các quy định được thực hiện ở các giai đoạn chiếu lệ, hình thức và không có người chịu trách nhiệm chính.

    - Thứ tư: Mô hình giám sát quản lý là một bước đổi mới về quan hệ sản xuất song lực lượng giám sát quản lý của ta hầu như chưa được hình thành. Các nhân viên giám sát chưa được đào tạo, rèn luyện những tố chất cần thiết cho nghề nghiệp như sự hiểu biết pháp luật, kiến thức quản lý, trình độ chuyên môn, hiểu biết kinh tế và đạo đức nghề nghiệp. Thực sự nghề giám sát quản lý chưa được coi là một nghề. Tồn tại này là trở ngại chủ quan lớn nhất trong việc thực thi biện pháp QLCL chủ động.
    - Thứ năm: về phía lãnh đạo cũng đang là trở ngại của quá trình áp dụng các mô hình quản lý tiến tiến này. Lãnh đạo của các chủ thể thường dùng ít thời gian cho việc cập nhật kiến thức và không ít người trong họ không hiểu thấu đáo các chế độ quản lý mới, thay vào đó chủ yếu hô hào hoặc dùng quyền lực để phủ quyết.
  6. Dumper

    Dumper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2014
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Vấn đề kỹ thuật

    Cuối cùng, bắt đầu từ một câu hỏi : kỹ thuật tư vấn là một nghề kinh doanh hay một nghề nghiệp thông thường - Tôi muốn chỉ ra rằng cho dù kỹ thuật tư vấn vừa là một nghề kinh doanh vừa là một nghề nghiệp thông thường như mọi nghề khác nó vẫn là một nghề dựa trên nền tảng kỹ thuật. hông một kỹ sư tư vấn nào thành công được mà lại không nghiên cứu kỹ thuật, thiết kế, và việc phân xử của tổ chức tư vấn là phải phân minh. Cũng không thể thành công được nếu không có khả năng kỹ thuật cao, giống như một bác sỹ muốn thành đạt thì phải có ý thức về y học thật tốt.

    Sự xuống cấp của dịch vụ tư vấn

    Nghề tư vấn sẽ bị đe dọa bởi bất kỳ sự xuống cấp có thật nào trong dịch vụ đem lại cho khách hàng. Sự suy tàn hay xuống cấp được đo bằng số lượng hoặc chất lượng. Mối đe dọa này nảy sinh từ sự cạnh tranh về giá cà. Tất cả những khách hàng thuộc khu vực kinh tế quốc doanh hay tư nhân rất coi trọng việc cạnh tranh giá cả trong quá trình lựa chọn các kỹ sư tư vấn, không còn nghi ngờ gì nữa là họ sẽ nhận được những dịch vụ chưa phải là tối ưu Các nhà tư vấn tham gia vào cuộc cạnh tranh giá cả sẽ bị xúi giục để rồi hạ thấp những đề nghị về tiền thù lao của mình, bằng cách giàm khối lượng và chất lượng dịch vụ mà họ mang lại cho khách hàng dưới mức yêu cầu mà qua mức đó mới có thể mang lại được một dịch vụ tốt. Hơn nữa, những khoản thù lao bất hợp .lý do nguyên nhân của việc cạnh tranh về giá cả sẽ giảm sự khuyến khích trong công việc của nhà tư vấn phảitập trung chú ý đến lợi ích của khách hàng. Lợi ích của khách hàng được xếp vào hàng thứ yếu khi thực hiện và quản lý hợp đồng để cho nhà tư vấn không bị ảnh hưởng do sự thua thiệt.

    Mối đe dọa do sự xuống cấp trong dịch vụ gây ra do sự cạnh tranh giá cả không phải là một kiểu đe dọa không đi tới đâu. Những tác động của Bộ Tư pháp dẫn tới việc xoá bỏ tất cả những điều cấm chi về cạnh tranh giá cả trong điều luật về luân thường đạo lý của một số hiệp hội kỹ thuật đang xảy ra. Thêm nữa, cùng với sự tồn tại của Bộ luật Brooks là những điểm ban hành một khuôn mẫu truyền thống trong việc lựa chọn các nhà tư vấn cho các đề án thuộc về Liên bang, những nỗ lực của Chính phủ nhằm xoá bỏ quá trình này vẫn đang gây những ảnh hưởng mạnh. Để tồn tại được với mối đe doạ này, cũng cần phải có sự hướng dẫn khách hàng cũng như phải có sự liên hệ chặt chẽ hơn của kỹ sư tư vấn với các Hiệp hội chuyên ngành của họ trong các giải pháp chính trị gây ảnh hưởng tới luật pháp.

    Gìn giữ những chuẩn mực về đạo đức của nhà tư vấn.

    Trong hoạt động kỹ thuật tư vấn, phải lưu ý tới sự chấp nhận rộng rãi của các nhà tư vấn đối với những quy định được đề ra trong một số bộ luật về chuẩn mực đạo đức do nhiều hiệp hội chuyên nghiệp thảo ra. Thành công của nghề tư vấn và hình ảnh trước công chúng của nghề này được coi trọng là do đại đa số các kỹ sư tư vấn coi trọng các giá trị đạo đức. Điều quan trọng là những tiêu chuẩn cao này phải được duy trì, không phải chỉ vì nó là một yếu tố bảo đảm tính độc lập cho nghề nghiệp mà còn là yếu tố khuyến khích khách hàng sử dụng các dịch vụ của kỹ sư tư vấn. Những việc rắc rối mà trong đó có chuyện các nhà tư vấn hối lộ hay trả tiền cho các chính trị gia hoặc sử dụng tiễn quỹ để vận động nhằm để được ký hợp đồng hoặc có một loạt trường hợp người ta phát hiện ra rằng các nhà tư vấn phạm sai lầm do có những sự đụng độ không được tiết lộ ra về lợi ích, sẽ là những điều rất có hại .Lại cũng có những trường hợp mà trong đó, dưới áp lực cạnh tranh vế giá cả, các nhà tư vấn đã mang lại những dịch vụ bất hợp lý dẫn tới tốn kém, không hiệu quả, hoặc cung cấp những phương tiện không đủ chất lượng, chưa kể là còn có sự hư hỏng hay sứt mẻ nữa. Những sự việc như thế sẽ không khuyến khích những khách hàng trong khu vực kinh tế tư doanh lẫn nhà nước sử dụng các dịch vụ của kỹ sư tư vấn và vô tình làm tăng áp lực của các nhà chính trị mà những người năy sẽ can thiệp ngày một sâu hơn vào nghề tư vấn.

    Việc gìn giữ những tiêu chuẩn cao về đạo đức nghề nghiệp trở nên khó khăn do quy mô của nghề này đang ngày một mở rộng. Sự cạnh tranh mạnh mẽ, kết quả của việc tăng nhanh số lượng các nhà/tư vấn và bản chất quay vòng của thị trường tư vấn, tạo nên áp lực đối với những tiêu chuẩn vể đạo đức được công bố thông qua các văn bản qui phạm pháp luật. Sự ủy quyên của các Hiệp hội chuyên nghiệp nhằm khống chế việc kiểm soát nghế nghiệp của họ, thông qua việc ép buộc phải theo những tiêu chuẩn đạo đức, bị từ chối. Những hoạt động giáo dục được tăng cường do các Hiệp hội chuyên ngành và các nhà tư vấn tư nhân thực hiện là điều rất cần thiết. Nghề tư vấn sẽ bị suy yếu một cách đáng kể nếu nó không nhận thức và thích ứng được với sự thách thức này.

    P/S : Thế nên, Với tất cả những gì đã từng trải qua trong 15 năm của ngành xây dựng này, giờ...tôi cảm thấy chán. Nếu bạn cần bất kỳ 1 sự tư vấn nào về xây dựng, đừng ngần ngại và hãy gọi ĐT cho tôi, may ra sẽ có 1 sự tư vấn tốt hay ít ra là cũng...không tệ. (0913743070)

Chia sẻ trang này