1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xin hỏi một số thông tin về tướng lĩnh Việt Nam(danh sách trang 5)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lav, 19/10/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Không biết mình nên có thể viết mấy bài nữa về các người lính, sỹ quan ưu tú nữa không như Uông Xuân Lý,Vương Đình Nhỏ, Ngô thị Tuyển,La Thị Tám như người bạn anh Cao trên mạng PM cho mình chắc đề tài đó để dành vì vĩ đại quá chắc phải tập hợp các cao thủ để viết.
    Đây là bài viết của Thượng tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam trong nhận xét đại tướng Đoàn Khuê
    Trong lịch sử xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, có một điều gần như là trùng hợp, đó là việc các đồng chí đã từng đảm đương chức vụ Tổng tham mưu trưởng của quân đội ta, từ Đại tướng Hoàng Văn Thái, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Lê Trọng Tấn, Đại tướng Lê Đức Anh đến Đại tướng Đoàn Khuê đều là những nhà hoạt động cách mạng kỳ cựu, có đồng chí đã phải trải qua lao tù của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Do dày dạn kinh nghiệm tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự trong những năm tháng hoạt động bí mật nên khi được Đảng, Nhà nước giao cho chức vụ Tổng tham mưu trưởng, các đồng chí đều là những nhà tham mưu giỏi.
    Với Đại tướng Đoàn Khuê, những năm tháng hoạt động cách mạng bí mật, những năm tháng đấu tranh trong nhà tù của thực dân Pháp ở Buôn Ma Thuột (1941-1945) đã góp phần quan trọng vào việc hình thành phong cách, bản lĩnh tham mưu của một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cao cấp của quân đội ta.
    Đại tướng Đoàn Khuê là người có đóng góp to lớn trong công tác tham mưu chiến dịch đối với Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thời kỳ đồng chí giữ cương vị Phó chính ủy quân khu, trực tiếp tham gia chỉ huy các chiến dịch trong địa bàn Quân khu 5 (1964-1975). Đây là một địa bàn chiến lược quan trọng của chiến trường miền Nam Việt Nam và chiến trường Đông Dương, là nơi quân chiến đấu Mỹ đổ vào đầu tiên, nơi đây tập trung tất cả các sắc lính chiến đấu viễn chinh, chuyên nghiệp của Mỹ ở miền Nam Việt Nam: lính thủy đánh bộ, lính dù, kỵ binh không vận, kỵ binh thiết giáp, bộ binh... Quân khu 5 còn là chiến trường thường xuyên có khoảng một nửa, lúc cao nhất là hai phần ba quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện kẻ địch có lực lượng quân sự đông hơn và nhiều hơn ta về số quân và binh khí kỹ thuật... làm thế nào ta có thể giữ được thế tiến công, quyền chủ động tiến công và tổ chức chiến đấu thắng lợi. Bộ Tư lệnh Quân khu 5, trong đó có Phó chính ủy Đoàn Khuê đã tìm ra lời giải đáp. Đồng chí Đoàn Khuê cùng với lãnh đạo, chỉ huy Quân khu đã bám sát chiến trường, từng bước tổng kết kinh nghiệm, thực tiễn hoàn chỉnh về lý luận và chỉ đạo thực tiễn một loại chiến dịch mới: chiến dịch tiến công tổng hợp. Đây là một loại chiến dịch độc đáo, khác với chiến dịch tiến công của chiến tranh quy ước cả về mục đích, nội dung, tổ chức sử dụng lực lượng và phương thức tiến hành chiến dịch... thể hiện sự phát triển của chiến tranh toàn dân, toàn diện lên trình độ cao. Loại hình chiến dịch này thể hiện rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh và khởi nghĩa, tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ của nhân dân, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh, kết hợp hai lực lượng, kết hợp ba thứ quân, phối hợp ba vùng chiến lược trong hoạt động chiến dịch. Hai chiến dịch tiến công tổng hợp: chiến dịch Ba Gia (bắc Quảng Ngãi) từ ngày 28 tháng 5 năm 1965 đến ngày 20 tháng 7 năm 1965 và chiến dịch Bắc Bình Định từ ngày 8 tháng 4 năm 1972 đến ngày 2 tháng 6 năm 1972 được mở ra trên địa bàn Quân khu 5 là hai chiến dịch tiến công tổng hợp điển hình.
    Vai trò tham mưu của Bộ chỉ huy và lãnh đạo Quân khu 5 trong chiến dịch Ba Gia là đã mạnh dạn, táo bạo mở chiến dịch tiến công tổng hợp quy mô nhỏ ở một địa bàn đồng bằng, đông dân, có vị trí xung yếu ở sát quận lỵ Sơn Tịnh và thị xã Quảng Ngãi. Nơi này, địch không mạnh và có sơ hở, là nơi hiểm yếu và rất nhạy cảm đối với địch, buộc chúng phải phản ứng dây chuyền, tạo điều kiện cho ta đánh viện từ nhỏ đến lớn, từ tiêu diệt tiểu đoàn tiến lên tiêu diệt chiến đoàn địch, tạo nên trận then chốt quyết định gây sôi động trên toàn địa bàn chiến dịch. Đồng thời xác định đúng trọng điểm tiến công quân sự ở Tây Sơn Tịnh và trọng điểm nổi dậy ở Sơn Tịnh, Bình Sơn, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành. Ba ngày sau khi chiến đoàn địch bị tiêu diệt, lãnh đạo địa phương đã nhạy bén trước thời cơ, kịp thời huy động 10 vạn quần chúng đã được tổ chức và phát động xuống đường kéo vào thị xã Quảng Ngãi và các quận lỵ đấu tranh với khí thế sục sôi của phong trào khởi nghĩa. Đây là cuộc nổi dậy có ý nghĩa chiến dịch làm cho ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động, tạo điều kiện thuận lợi cho mũi tiến công quân sự tiếp tục diệt địch.
    Với chiến dịch tiến công Bắc Bình Định, Bộ chỉ huy và lãnh đạo Quân khu 5 đã xác định đúng trọng điểm tiến công quân sự ở huyện Hoài Ân và trọng điểm nổi dậy ở Hoài Nhơn, xác định đúng trận mở màn chiến dịch bằng trận tiêu diệt cứ điểm Gò Lôi, uy hiếp quận lỵ Hoài Ân, buộc địch phải mở cuộc hành quân giải tỏa, tạo điều kiện cho ta đánh trận then chốt tiêu diệt Chiến đoàn 40 của địch ở quận lỵ Hoài Ân.
    Sau khi giải phóng huyện Hoài Ân, chiến dịch không phát triển theo hướng Hoài Nhơn, là điểm nổi dậy, mà chuyển hướng tiến công giải phóng bắc Phú Mỹ nhằm cô lập hoàn toàn địch ở Hoài Nhơn, tạo điều kiện thuận lợi cho ta phát triển ra Hoài Nhơn, thực hành kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, bắt gọn toàn bộ Trung đoàn 41, Sư đoàn 22 ngụy và bọn bảo an, dân vệ, giải phóng hoàn toàn Hoài Nhơn và Bắc Bình Định.
    Thắng lợi của hai chiến dịch tiến công tổng hợp ở Quân khu 5 cùng với thắng lợi của chiến dịch tiến công tổng hợp ở Trà Vinh, Quân khu 8 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã góp phần độc đáo vào sự phát triển của nghệ thuật quân sự nói chung, nghệ thuật chiến dịch nói riêng của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
    Từ năm 1987 đến năm 1991, Đại tướng Đoàn Khuê được Đảng, Nhà nước giao trọng trách là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là thời kỳ Đại tướng có những đóng góp lớn cho công tác tham mưu chiến lược. Quán triệt đường lối đổi mới về kinh tế, chính trị, đặc biệt là về quân sự, quốc phòng của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại tướng Đoàn Khuê đã cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo, chỉ huy Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng và Nhà nước từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh và đối ngoại trong điều kiện mới của cách mạng nước ta. Với tư duy chính trị-quân sự sắc sảo, tầm nhìn xa trông rộng, Đại tướng Đoàn Khuê đã góp phần quan trọng vào việc đánh giá tình hình thế giới, khu vực và cục diện cách mạng nước ta, các khả năng đe dọa an ninh của Tổ quốc và chế độ để đề ra và tổ chức thực hiện thành công cuộc điều chỉnh chiến lược quan trọng từ đề phòng chiến tranh xâm lược quy mô lớn chuyển sang đối phó với xung đột vũ trang bộ phận, ?ochiến tranh phá hoại nhiều mặt?, tiếp đó là chống ?odiễn biến hòa bình?, bạo loạn lật đổ, đề phòng chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau. Trên cơ sở đó, đã bố trí lại lực lượng, tăng cường lực lượng và tổ chức phòng thủ trên các hướng, các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng biển đảo và biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, văn hóa. Bảo đảm khả năng phòng thủ của từng địa phương và cả nước trong nhiều tình huống khác nhau của thời bình, đồng thời chuẩn bị động viên thời chiến, đề phòng chiến tranh xâm lược. Đưa quân tình nguyện Việt Nam ở Lào và Cam-pu-chia về nước sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang.
    Đất nước ta chuyển từ có chiến tranh sang hòa bình xây dựng, thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, từng bước hội nhập vào khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, đồng chí Đoàn Khuê đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực lý luận, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xác lập những quan điểm, nhiệm vụ cơ bản của quân đội, quân sự, quốc phòng trong điều kiện mới và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Nổi lên là những kết quả quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đánh bại chiến lược ?odiễn biến hòa bình?, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, sẵn sàng các tình huống thời bình, chuẩn bị chuyển thế trận quốc phòng toàn dân thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên cả nước và trên từng địa phương, trên thực tế tổ chức tốt việc kết hợp các hoạt động quốc phòng với các hoạt động đối ngoại; đồng thời tăng cường mở rộng đối ngoại quân sự theo đúng quan điểm, nguyên tắc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước góp phần xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, nâng cao vị thế và uy tín của quân đội ta, của nước ta trên trường quốc tế, góp phần củng cố hòa bình, an ninh ở khu vực và trên thế giới.
    Đồng chí Đoàn Khuê vừa là người lãnh đạo, chỉ đạo vừa là một cán bộ tham mưu đề xuất, trực tiếp triển khai thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng trên cả nước, vùng lãnh thổ, tỉnh (thành), huyện (quận) cho đến xã (phường); từng bước góp phần giải quyết những vướng mắc, khuyết điểm về nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng trong quá trình hoạch định và triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài, trung, ngắn hạn cũng như các chính sách có liên quan. Đồng chí Đoàn Khuê còn là người chủ trì triển khai thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về xây dựng các tỉnh (thành phố), huyện (quận, thị xã) thành khu vực phòng thủ vững chắc và thiết lập cơ chế lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp quốc phòng, trực tiếp chỉ đạo nhiều cuộc diễn tập khu vực phòng thủ của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nhờ vậy, công tác quốc phòng ở địa phương được tiếp tục tăng cường và đi dần vào nền nếp vững chắc, phù hợp với hoàn cảnh mới, công tác tuyển quân, xây dựng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên, giáo dục quốc phòng toàn dân, công tác hậu phương quân đội... được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân tích cực tham gia.
    Thời kỳ đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê làm Tổng tham mưu trưởng, sau đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp kiên quyết giảm một số lượng lớn quân thường trực đi đôi với nâng cao chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, đồng thời tăng cường xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh, sẵn sàng động viên và mở rộng lực lượng khi cần và nâng cao chất lượng dân quân, tự vệ phù hợp với nhiệm vụ thời bình ở từng cơ sở. Đồng chí có nhiều đóng góp to lớn vào thực hiện chủ trương xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tiếp tục phát huy bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp ?oBộ đội *****?. Đồng chí Đoàn Khuê cùng với Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo, chỉ huy Bộ Quốc phòng xác định xây dựng quân đội về chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, là cơ sở xây dựng các mặt khác, tạo nên một sức mạnh tổng hợp để chống chiến lược ?odiễn biến hòa bình?, bạo loạn lật đổ, đấu tranh chống các quan điểm sai lầm, làm thất bại âm mưu ?ophi chính trị hóa? quân đội, chia rẽ quân đội với nhân dân, hạ thấp và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhân dân của các thế lực thù địch. Là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội, đồng chí luôn bám sát thực tiễn, bám sát đơn vị, nhà trường, thao trường, đôn đốc, kiểm tra, chân tình chỉ bảo, giúp đỡ, biểu dương, phê bình cấp dưới kịp thời. Đồng chí đã có nhiều chỉ thị, hướng dẫn quan trọng về đổi mới công tác giáo dục, huấn luyện bộ đội, bổ sung, hoàn thiện 3 quan điểm, 8 nguyên tắc và 6 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội, xây dựng chính quy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện... Đến nay, những nội dung đó đang được tiếp tục tổ chức thực hiện đi vào chiều sâu.
  2. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Câu đúng mà MDB phải viết là Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
    Các huynh đừng đả kích MDB nữa, MDB cũng nên thấy rõ sự thật là cái gì đúng thì anh em phải nhận là đúng, còn mình sai thì học hỏi thêm có gì đâu. Không nên thù hằn vậy. Tứ hải giai huynh đệ. Có là kẻ thù đ nữa nhưng anh hùng vẫn trọng anh hùng.

    Bổ sung cho huynh MDB về bác VNG và bác Vũ Anh về đội tuyên truyền giải phóng quân đầu tiên.
    1- Phất cờ Nam Tiến
    Sau thắng lợi giòn giã từ hai trận Phay Khắt và Nà Ngần, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ) dừng chân chừng mươi ngày ở vùng Thiện Thuật (Cao Bằng) để nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ, bổ sung trang bị và luyện tập trước khi bước vào nhiệm vụ mới ngay trong dịp Tết Ất Dậu. Anh Văn (bí danh và cũng là tên gọi thân mật ông Võ Nguyên Giáp hồi đó) biên thư báo cáo ***** và Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng về kết quả hoạt động vừa qua, dự kiến công việc sắp tới và đề nghị Liên tỉnh ủy chỉ thị cho các châu chọn người để bổ sung vào Đội quân giải phóng.
    Chỉ ít ngày sau, Đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng đã phát triển thành đại đội. Ban chỉ huy VNTTGPQ trước đây (Hoàng Sâm, Xích Thắng) nay thành cán bộ đại đội. Cán bộ trung đội cũng được xếp đủ cả cấp trưởng và cấp phó. Lễ thành lập đại đội tuy không nhiều nghi thức như ngày ra đời Đội VNTTGPQ bữa trước nhưng cũng rất trang nghiêm, với đội ngũ đông hơn, trang bị khá hơn và nhất là trong khí thế của đội quân vừa chiến thắng. Ngay sau đó, đại đội xuất quân đúng vào những ngày giáp Tết. Không kể chiến sĩ cũ mới, ai cũng phấn khởi lên đường hòa mình vào phong trào "Mùa xuân chiến đấu" mà Liên tỉnh ủy vừa phát động, tuy trong thâm tâm không khỏi có phút bâng khuâng khi nghĩ đến cái Tết đầu tiên xa nhà.
    Một bộ phận Quân giải phóng tách ra đi phát triển cơ sở chính trị ở hướng Nậm Ty - từ Tinh Túc đến Phia Uắc, một tổ trinh sát được phái đi nghiên cứu vị trí địch và chuẩn bị cho trận đánh sắp tới, còn đại bộ phận theo các anh Văn và Hoàng Sâm tiến quân lên hướng châu Bảo Lạc. Đây là cuộc hành quân đường dài với rất nhiều gian khổ thử thách, từ trung tâm Cao Bằng lên hướng tây bắc của tỉnh, gần biên giới Việt - Trung, để chuẩn bị cho trận chiến đấu mới - trận Đồng Mu
    Sau ba trận đầu tiên của Đội quân giải phóng, anh Văn dành thời gian ghi thêm những bài học vỡ lòng của cuộc đời binh nghiệp. Sau này, trong suốt cuộc trường chinh một phần ba thế kỷ, một trong những phong cách lãnh đạo chỉ huy rất riêng của Võ Nguyên Giáp là kịp thời chắt lọc và ghi chép từng kinh nghiệm cụ thể trên mỗi chặng đường chinh chiến, mỗi giai đoạn đối mặt với tướng lĩnh cầm đầu quân đội viễn chinh nhà nghề của địch. Hàng loạt công trình nghiên cứu về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng mà ông trực tiếp biên soạn hoặc chỉ đạo biên soạn, là một kho tàng đồ sộ về khoa học quân sự, về kinh nghiệm cầm quân mà Đại tướng - thày Võ - anh Văn để lại cho hậu thế, bắt đầu từ những bài học a - b - c được ghi chép thông qua mấy buổi đầu ra quân, từ Phay Khắt - Nà Ngần đến Đồng Mu.
    Theo kế hoạch "Mùa xuân chiến đấu", ngay từ trung tuần tháng 2 năm 1945 (mồng 2 Tết Ât Dậu), toàn Đội chia thành nhiều hướng hành quân về phía Nam , vừa đi vừa triển khai một đợt vũ trang tuyên truyền rầm rộ từ tây bắc Cao Bằng đến vùng giáp ranh Cao Bằng - Bắc Cạn. Trên từng hướng, các tổ đội vũ trang dùng mọi hình thức , từ mít tinh trong từng thôn bản, đến dán khẩu hiệu, phân phát truyền đơn kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng, tham gia đoàn thể cứu quốc, cùng đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa, đánh Pháp - đuổi Nhật, giành độc lập tự do. Đi đôi với việc đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền là trực tiếp giúp các thôn, bản về công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ địa phương làm nòng cốt cho phong trào ở cơ sở đồng thời chọn người phát triển Đội quân giải phóng. So với những ngày nóng bỏng của cuộc khủng bố trắng hồi mùa thu năm trước, phong trào chung trong toàn liên tỉnh, nhất là ở vùng trung tâm Cao Bằng đã khác hẳn. Hòa nhịp với thanh thế ngày càng vang dội của Quân giải phóng, rất nhiều cơ sở chính trị quần chúng được phục hồi và phát triển, đã tác động sâu sắc đến thái độ chính trị của các tầng lớp nhân dân các dân tộc Cao - Bắc - Lạng. Trong khi quần chúng sôi nổi ủng hộ cách mạng, nô nức "đi giải phóng" thì bọn lính đồn nơm nớp lo sợ bị tiến công. Bọn tổng đoàn, xã đoàn, ngay cả những tên Việt gian ********* nổi tiếng ở nhiều địa phương đã không dám lộng hành như trước. Nhiều phần tử lừng chừng đã ngả dần theo cách mạng. Cục diện chung đó là môi trường thuận lợi cho hoạt động vũ trang tuyên truyền của Đội.
    Từ cuối tháng 2 năm 1945, trước tình hình trong và ngoài nước chuyển biến ngày càng thuận lợi cho phong trào cứu quốc, Liên tỉnh ủy chỉ thị cho Đội đẩy mạnh hoạt động cả về chính trị và vũ trang, chuẩn bị sẵn sàng đón thời cơ lớn. Hoạt động của Đội trong phong trào Mùa xuân chiến đấu bắt đầu mang nội dung mới: tiến mạnh về phía Nam. Chưa bao giờ bài ca của Đội, bài Phất cờ Nam tiến - mà anh Văn chỉ thị cho anh Khang (tức Hoàng Văn Thái) sáng tác hồi thành lập Đội VNTTGPQ tháng 12 năm 1944 , lại có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ và thiết thực như những ngày Đội tiến nhanh trên trục đường từ Ngân Sơn sang Chợ Rã xuống Chợ Đồn, Chợ Chu. Tiếng hát vang lên sau trận phục kích do Hoàng Sâm chỉ huy, tiêu diệt gọn đoàn xe vận tải của địch trên đường Nà Ngần - Đèo Gió (khi đó gọi là Ben-le - Bel Air). Tiếng hát lan đến khắp các châu huyện đang nô nức thành lập các đội vũ trang của địa phương. Đó là "những đội quân đàn em" mà ***** đã tiên đoán khi Cụ chỉ thị cho chú Văn thành lập "đội quân đàn anh" cuối năm trước.
    Ngày 7 tháng 3, các ông Phạm Văn Đồng và Vũ Anh đến thăm, đánh dấu một mốc chuyển biến mới trong hoạt động của Đội. Các ông thông báo cho ông Giáp về cục diện chiến tranh thế giới, tình hình phát triển của phong trào cứu quốc trong cả nước, đặc biệt là những triệu chứng phát xít Nhật sắp lật đổ đế quốc Pháp. Điều quan trọng là các ông chuyển đạt chỉ thị của *****. Trước khi lên đường sang Côn Minh gặp đại diện Đồng Minh, Cụ dặn: Đội phải khẩn trương tiến quân xuống phía Nam, nhanh chóng đánh thông đường liên lạc với miền xuôi.
    Chỉ ít ngày sau đó, qua những câu chuyện bà con đi chợ bàn tán về việc quân Nhật kéo đến chiếm đồn Nguyên Bình, bắt đồn trưởng Pháp làm tù binh, ông Giáp khẳng định tin Nhật làm đảo chính lật Pháp. Đội tiếp tục con đường Nam tiến trong không khí khác hẳn những cuộc hành quân đêm, bí mật len lỏi trèo đèo lội suối như những ngày đầu ra quân. Trên từng chặng đường tiến quân giữa thanh thiên bạch nhật, dưới lá cờ đỏ sao vàng giương cao, Đội liên tiếp tổ chức những cuộc mít tinh quần chúng, giải thích rõ về thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Công tác vận động binh lính người Việt trong hàng ngũ địch ngày càng đem lại kết quả thiết thực. Lính dõng ở các đồn lẻ nộp súng, giao đồn; châu đoàn, xã đoàn nộp triện?
    Thực hiện chủ trương nhanh chóng khơi thêm nước cho cá vẫy vùng , sẵn sàng đón thời cơ lớn, như chỉ thị của Tổng bộ *********, nhiều cán bộ của Liên tỉnh cũng tham gia Nam tiến, cùng Đội Quân giải phóng chia thành nhiều hướng tiến quân mở rộng địa bàn hoạt động. Hoàng Sâm, Quang Trung tiến về hướng Phủ Thông, Bắc Cạn; Hoàng Văn Thái sang Lục An Châu; Lê Thiết Hùng xuống mạn Thất Khê, Bình Gia, vốn là địa bàn đang hoạt động của Đàm Minh Viễn và Hoàng Minh Thảo; Lê Quảng Ba theo hướng Bảo Lạc rồi chuyển hướng tây sang Bắc Mê-Bắc Quang? Riêng ông Võ Nguyên Giáp cùng "đại quân" tiến thẳng xuống Chợ Rã. Sự xuất hiện của Quân giải phóng sớm làm thay đổi toàn diện bộ mặt của huyện lỵ miền ngược này. Chính quyền địch nhanh chóng tan rã. Binh lính đồn Chợ Rã xin nộp vũ khí rồi trở về nhà. Viên đồn trưởng người Pháp xin cấp giấy để chạy sang bên kia biên giới Việt-Trung. Cờ đỏ sao vàng rợp đường phố. Nhân dân đổ ra đường đón bộ đội về nhà, chăm lo cho anh em nghỉ ngơi ăn uống, ân cần chu đáo như đối với người thân đi xa mới về. Mọi việc quan trọng liên quan đến đời sống chính trị xã hội của địa phương đều được bà con đến "xin ý kiến các đồng chí *********", từ cách tổ chức đoàn thể cứu quốc, cách đề phòng và đối phó nếu quân Nhật kéo đến, việc tranh chấp ruộng đất trong địa phương, cả đến việc cưới xin của các đôi trai gái... Từ thực tế bộ mặt chính trị đã hoàn toàn thay đổi của địa phương, một vấn đề được Võ Nguyên Giáp khẳng định: Điều kiện đã chín muồi để thành lập chính quyền cách mạng cấp châu, huyện. Đây là vấn đề rất mới, chưa hề được thảo luận trong Liên tỉnh ủy.
    Đây là bài viết của bác Trần Trọng Trung, chắc bác cũng thông cảm mượn bài của bác để học hỏi.
  3. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Topic này nhằm tôn vinh công lao của các vị tướng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.Tớ xin gộp lại để xem cho tiện hơn,nếu thiếu hay nhầm các bạn bổ sung nhé
    * Đại tướng Võ Nguyên Giáp: nguyên Bộ trưởng bộ quốc phòng,nguyên Tổng tư lệnh QDNDVN
    * Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: nguyên chủ nhiệm tổng cục chính trị
    * Đại tướng Văn Tiến Dũng : nguyên tổng tham mưu trưởng, tư lệnh chiến dịch HCM,nguyên Bộ trưởng bộ quốc phòng
    * Đại tướng Lê Đức Anh: nguyên tư lệnh quân khu 9, phó tư lệnh B2, phó tư lệnh chiến dịch HCM,nguyên Bộ trưởng bộ quốc phòng,nguyên *************
    * Đại tướng Hoàng Văn Thái: nguyên tư lệnh B2, phó tổng tham mưu trưởng, thứ trưởng quốc phòng
    * Đại tướng Lê Trọng Tấn: nguyên phó tổng tham mưu trưởng, phó tư lệnh chiến dịch HCM
    * Đại tướng Chu Huy Mân: tư lệnh kiêm chính uỷ quân khu 5
    * Đại tướng Nguyễn Quyết: nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội
    * Đại tướng Đoàn Khuê: nguyên Tổng tham mưu trưởng,nguyên Bộ trưởng quốc phòng
    * Đại tướng Mai Chí Thọ: nguyên Bộ trưởng bộ nội vụ(công an)
    * Đại tướng Phạm Văn Trà: Bộ trưởng quốc phòng
    *******************
    * Thượng tướng Hoàng Cầm: nguyên tư lệnh quân đoàn 4 Cửu Long
    * Thượng tướng Trần Văn Trà: nguyên tư lệnh miền Nam,tư lệnh B2,Phó tổng tham mưu trưởng QDNDVN
    * Thượng tướng Nguyễn Hữu An: nguyên Tham mưu trưởng B3, phó tư lệnh mặt trận Quảng Trị 1972, tư lệnh quân đoàn 2 Hương Giang
    * Thượng tướng Hoàng Minh Thảo: nguyên tư lệnh B3,nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng
    * Thượng tướng Vũ Lăng: nguyên tư lệnh chiến trường Tây Nguyên 1975, tư lệnh quân đoàn 3 Tây Nguyên
    * Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp: nguyên chính uỷ B3, chính uỷ quân đoàn 3 Tây Nguyên
    * Thượng tướng Lê Khả Phiêu: nguyên Tổng bí thư,Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
    * Thượng tướng Chu Văn Tấn: nguyên tư lệnh Quân khu Việt Bắc,phó chủ tịch Quốc Hội
    * Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng
    * Thượng tướng Đàm Quang Trung: nguyên tư lệnh quân khu 4,Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Hội đồng dân tộc
    * Thượng tướng Phùng Thế Tài: nguyên tư lệnh phòng không không quân, phó tổng tham mưu trưởng
    * Thượng tướng Nam Long: nguyên chính ủy quân khu 4, phó GĐ học viện quân sự
    * Thượng tướng Đào Đình Luyện: nguyên thứ trưỏng Bộ Quốc Phòng
    * Thượng tướng Phạm Thanh Ngân: nguyên chủ nhiệm tổng cục chính trị
    * Thượng tướng Lê Minh Hương: Cố vấn an ninh quốc hội
    * Thượng tướng Phùng Quang Thanh: Tổng tham mưu trưởng QDNDVN
    * Thượng tướng Lê Văn Dũng: Chủ nhiệm Tổng cục chính trị
    * Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu: Thứ trưởng bộ quốc phòng
    * Thượng tướng Nguyễn Minh Châu: nguyên tư lệnh quân khu 6,7,tư lệnh đoàn 232,phó tổng thanh tra quân đội
    * Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh: nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
    *Thượng tướng Giáp Văn Cương: nguyên tư lệnh hải quân
    * Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên: nguyên Thứ trưởng Quốc phòng
    * Thượng tướng Trần Văn Quang: nguyên tư lệnh quân khu Trị Thiên
    **********
    * Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên: nguyên tư lệnh QK4, tư lệnh binh đoàn 559 Trường Sơn
    * Trung tướng Hoàng Thế Thiện: nguyên chính uỷ đoàn 559, chính ủy quân đoàn 4 Cửu Long
    * Trung tướng Đinh Đức Thiện: nguyên chủ nhiệm tổng cục hậu cần
    * Trung tướng Đồng Văn Cống: nguyên phó tư lệnh QGPMNVN
    * Trung tướng Nguyễn Hoà: nguyên tư lệnh quân đoàn 1 Quyết Thắng
    * Trung tướng Trần Quý Hai: nguyên phó tổng tham mưu trưởng, chỉ huy trưởng chiến trường Quảng Trị cuối 1972
    * Trung tướng Vương Thừa Vũ: nguyên phó tổng tham mưu trưởng
    * Trung tướng Trần Độ: nguyên Chính uỷ B2
    * Trung tướng Doãn Tuế: nguyên tư lệnh pháo binh
    * Trung tướng Lê Quang Hoà: nguyên phó tư lệnh chiến dịch HCM
    * Trung tướng Cao Văn Khánh: nguyên phó tổng tham mưu trưởng
    * Trung tướng Lê Chưởng: nguyên chính uỷ quân khu Trị-Thiên
    * Trung tướng Nguyễn Bình: nguyên tư lệnh chiến trường Nam Bộ
    * Trung tướng Nguyễn Ân: nguyên Sư trưởng Sư 304
    * Trung tướng Đàm Văn Nguỵ: nguyên Tư lệnh Quân khu 1
    * Trung tướng Nguyễn Văn Tiên: nguyên Tư lệnh không quân (Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 307)
    * Trung tướng Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Phiệt: nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Tên lửa 77(người đã bằng 2 quả đạn bắn rơi 2 máy bay B52)
    * Trung tướng Nguyễn Đôn: nguyên Tư lệnh Quân khu 5
    * Trung tướng Lê Hữu Đức: nguyên Cục Trưởng Cục tác chiến - Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam
    * Trung tướng Trần Hanh: Anh hùng Lực lượng Vũ trang, nguyên Tư lệnh Sư đoàn không quân Thăng Long, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
    * Trung tướng Trần Nhẫn: nguyên Phó Tư lệnh sư đoàn Phòng không Hà Nội, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân
    * Trung tướng Đặng Quân Thuỵ: nguyên Tư lệnh Quân khu 2
    * Trung tướng Nguyễn Đức Soát: Phó Tổng tham mưu trưởng
    * Trung tướng Hoàng Minh Thi: nguyên chính uỷ quân đoàn 1
    * Trung tướng Nguyễn Quốc Thước: Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Cựu chiến binh Việt Nam
    * Trung tướng Phạm Hồng Sơn : cục phó cục quân huấn bộ tổng tham mưu, phó viện trưởng HVQS cấp cao.
    * Trung tướng Song Hào : ???
    * Trung tướng Phạm Hồng Cư : cục trưởng cục văn hoá tổng cục chính trị, phó tư lệnh kiêm chủ nhiệm chính trị quân khu 2.
    * Trung tướng Đào Trọng Lịch: nguyên Tổng tham mưu trưởng QDNDVN
    * Trung tướng Phan Trung Kiên: ủy viên T.Ư Đảng, nguyên Tư lệnh Quân khu 7,thứ trưởng Bộ Quốc Phòng
    * Trung tướng Nguyễn Khắc Dương: nguyên ủy viên T.Ư Đảng, Tư lệnh Quân khu 4
    * Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh: nguyên tư lệnh Quân khu 7 và 8
    * Trung tướng Chu Duy Kính: nguyên tư lệnh quân khu Thủ đô
    * Trung tướng Nguyêfn Chánh: nguyên Tư lệnh kiêm bí thư liên khu uy? khu 5
    * Trung tướng Lê Tự Đồng: nguyên tư lệnh quân khu Trị thiên Huế,Chủ tịch Hội Cựu chiến binh TT-Huế
    * Trung tướng Nguyễn Văn Rinh: Thứ trưởng Bộ quốc phòng
    * Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh: nguyên tư lệnh Quân đoàn 2
    * Trung tướng Trần Tất Thanh: nguyên tư lệnh Quân khu 2
    * Trung tướng Lê Văn Hân: Phó chủ nhiệm TCCT
    * Trung tướng Lê Trung Thành: Phó chủ nhiệm TCHC
    * Trung tướng Lê Hải Anh: Phó tổng tham mưu trưởng
    * Trung tướng Phạm Hồng Lợi: Phó tổng tham mưu trưởng
    * Trung tướng Phạm Văn Long: uỷ viên Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị
    * Trung tướng Phạm Tuân: Tổng cục trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
    * Trung tướng Đỗ Trung Dương: Phó tổng Tham mưu trưởng
    * Trung tướng Hoàng Kỳ: tư lệnh quân khu 3
    * Trung tướng Trịnh Ngọc Huyền: tư lệnh Bộ đội Biên phòng
    * Trung tướng Nguyễn Thế Trị: Giám đốc Học viện Quốc phòng
    * Trung tướng Phạm Văn Tánh: Tư lệnh Quân khu Thủ đô
    * Trung tướng Lê Văn Hân: Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Chủ tịch Ủy ban chuyên trách của Chính phủ
    * Trung tướng Bùi Văn Huấn: Ủy viên TƯ Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị,nguyên tham mưu trưởng quân khu 2
    * Trung tướng Nguyễn Khắc Nghiên: Tư lệnh Quân khu 5
    * Trung tướng Nguyễn Văn Hưởng: Thứ trưởng Bộ Công An
    * Trung tướng Phùng Khắc Đăng: Phó chủ nhiệm TCCT
    * Trung tướng Lê Thế Tiệm: Thứ trưởng thường rực Bộ Công An
    * Trung tướng Nguyễn Việt Thành: Tổng cục phó Tổng cục cảnh sát
    * Trung tướng Ma Thanh Toàn: Tư lệnh Quân khu 2
    * Trung tướng Nguyễn Khánh Toàn: Thứ trưởng Bộ Công An
    **********
    * Thiếu tướng Nguyễn Thị Định: nguyên phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam VN,Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
    * Thiếu tướng Nguyễn Sơn: nguyên tư lệnh liên khu 4
    * Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa : nguyên cục trưởng quân giới
    * Thiếu tướng Hoàng Đan: nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn II
    * Thiếu tướng Nguyễn Hòa: nguyên Tư lệnh Quân đoàn I
    * Thiếu tướng Lê Linh: nguyên Chính ủy Quân đoàn II
    * Thiếu tướng Lê Văn Tưởng: nguyên Chính ủy Đoàn 232
    * Thiếu tướng Nguyễn Quang Bích: nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không Không quân(người trực chỉ huy trận đánh đầu tiên trong chiến dịch 12 ngày đêm lịch sử đánh trả B52 trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng.)
    * Thiếu tướng Nguyễn Thế Lâm: nguyên Tư lệnh pháo binh
    * Thiếu tướng Võ Bẩm: nguyên Tư lệnh đầu tiên của Bộ đội Trường Sơn (còn gọi là Đoàn 559).
    * Thiếu tướng Lê Văn Tri: nguyên tư lệnh không quân
    * Thiếu tướng Lê Thiết Hùng: ???
    * Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ: ???
    * Thiếu tướng Trần Văn Danh: nguyên trưởng ban tình báo,phó tham mưu bộ tư lệnh giải phóng miền Nam
    * Thiếu tướng Phạm Hồng Minh: Phó Tư lệnh Chính trị Quân khu 4
    * Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm: nguyên Chỉ huy trưởng Đoàn J22(tình báo)
    * Thiếu tướng Đoàn Chương: nguyên giám đốc nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân
    * Thiếu tướng Kim Tuấn: nguyên Tư lệnh Binh đoa?n Tây Nguyên,sư trưởng 320
    * GS.TS Thiếu tướng Lê Thế Trung: Chủ tịch Hội đồng tư vấn chuyên môn ghép tạng
    * Thiếu tướng Nguyễn Văn Dũng: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
    * Thiếu tướng Cao Pha: nguyên Trưởng phòng quân báo chiến dịch Biên Giới 1950
    * Thiếu tướng Trần Văn Thảo: Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát
    * Thiếu tướng Phạm Chuyên: Giám đốc Công an Hà Nội

    Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt
    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời

    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 18:44 ngày 02/11/2003
  4. B.40

    B.40 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Còn thiếu nhiều lắm bác ới
    Dưới đây là bài giới thiệu về Tướng Kim Tuấn nguyên sư trưởng 320 trong chiến dịch tây nguyên
    Còn Ông Trân Văn Quang lúc về hưu là Thượng tướng , sau là chủ tịch hội cụu chiến binh
    Ngoài ra còn Thiếu tướng Lê Tự đồng Nguyên tư lênh Quan khu Trị thiên Huế năm 1975 nữa
    Thiếu tướng Kim Tuấn tên thật la? Nguyêfn Công Tiến, sinh nga?y 26-10-1926 quê xaf Tân Ước, huyện Thanh Oai, ti?nh Ha? Tây, sinh trươ?ng trong một gia đi?nh viên chức nghe?o đông anh em. Năm 17 tuô?i, Kim Tuấn theo cha va?o la?m công nhân xe lư?a lưu động trên các tuyến Ha? Nội, Ha?i Pho?ng va? La?o Cai. Cách mạng Tháng 8 tha?nh công được 6 tháng, Kim Tuấn va?o bộ đội va? được cư? đi học trươ?ng Vof bị lục quân Trâ?n Quốc Tuấn khóa đâ?u tiên. Khi ra trươ?ng, đô?ng chí được bô? sung vê? trung đoa?n 35 cu?a Liên khu II. Năm 1948, do chiến đấu dufng ca?m đô?ng chí được tặng thươ?ng huân chương Chiến Công hạng 3. Trong chống Myf đô?ng chí la? sư đoa?n trươ?ng chiến đấu ơ? Tây Nguyên; Năm 1977 la? Tư lệnh Binh đoa?n Tây Nguyên. Nga?y 20-12-1979 đô?ng chí được tặng danh hiệu Anh hu?ng lực lượng vuf trang.
    Nhưfng giây phút cuối cu?ng cu?a anh hu?ng liệt sif Kim Tuấn đaf được các bạn chiến đấu ơ? Binh đoa?n Tây Nguyên kể lại:
    Cuối tháng 2-1979, Binh đoa?n Tây Nguyên được lệnh giao mặt trận lại cho bộ đội gia?i phóng cu?a Bạn đê? vê? nhận nhiệm vụ mới. Nga?y 16-3-1979, cuộc giao ban Binh đoa?n trong nga?y có các đô?ng chí chi? huy Bạn cu?ng dự đê? kiê?m tra việc ba?n giao giưfa hai bên, xác định nhiệm vụ các đơn vị trên các mặt trận. Bộ đội Bạn đaf phấn khơ?i đa?m nhiệm thay thế giưf vưfng trận tuyến. Riêng Mặt trận thuộc ti?nh B, quân địch mới ra lấn chiếm...Tư lệnh Kim Tuấn đaf quyết định đê? lại 1 tiê?u đoa?n đâ?y đu? vuf khí hạng nặng cu?ng Bạn chiến đấu đánh địch nếu chúng lấn ra va? tu?y ti?nh hi?nh, sau một thơ?i gian sef ba?n giao lại cho Bạn.
    Sau khi giao ban, các đơn vị đi đâ?u điện vê? báo cáo đaf đến địa điê?m quy định va? đaf nhận nhiệm vụ mới. Các đơn vị ha?nh quân trên đươ?ng cufng báo cáo vê? đang hoa?n tha?nh nhiệm vụ an toa?n, suôi se?. Đô?ng chí Kim Tuấn lệnh cho sư đoa?n cuối va? cơ quan Bộ Tư lệnh, bộ phận cuối cu?ng sáng nga?y mai lên đươ?ng ha?nh quân vượt biên giới. Nhưng trong đêm ấy, điện thoại ơ? mặt trận báo vê? quân địch đang chuâ?n bị nống ra va? đê? nghị Binh đoa?n tăng thêm lực lượng ơ? lại giúp Bạn.
    Trước ti?nh hi?nh như vậy, Tư lệnh Kim Tuấn quyết định: sư đoa?n cuối đê? một tiê?u đoa?n ơ? lại chơ? lệnh, co?n lại tiếp tục thực hiện việc ha?nh quân theo kế hoạch. Một sư đoa?n phó va? ban chi? huy trung đoa?n có tiê?u đoa?n ơ? lại sef cu?ng với Tư lệnh sáng 17-3 lên thị sát mặt trận va? sef quyết định nhiệm vụ.
    Sáng 17-3-1979, một chiếc com-măng-ca trên có 1 ba?o vệ, 1 cán bộ tác chiến đưa Tư lệnh Kim Tuấn tiến ra Mặt trận cu?ng với chiếc xe bọc thép cu?a trung đoa?n A va? một chiếc xe bọc thép cu?a các đô?ng chí chi? huy mặt trận cu?a Bạn, đi kha?o sát chiến trươ?ng.
    Trên đươ?ng, tới đoạn nguy hiê?m địch ơ? trên núi thươ?ng bắn lén, đoa?n xe dư?ng lại, đơn vị trợ chiến va? bộ binh xa? súng nhiê?u lâ?n va?o núi, rư?ng đê? ba?o vệ cho đoa?n xe được an toa?n.
    Sau khi im tiếng súng, mặt trận trơ? lại yên lặng, đoa?n tiếp tục lên trận tuyến thị sát quân địch. Qua được mươ?i phút, một phát súng B40 tư? trên núi bắn xuống, trúng chiếc com-măng-ca thứ 3 có Tư lệnh Kim Tuấn ngô?i bên cạnh ngươ?i lái xe...
    Chiếc trực thăng cấp cứu chơ? Kim Tuấn va? các thương binh khác vê? đến sân bay Pô-chen-tông, nhưng đô?ng chí đaf trút hơi thơ? cuối cu?ng, vifnh biệt đất nước Chu?a Tháp nga?y 17-3-1979. Nga?y 26 tháng 3 năm 1979, đô?ng chí được Trung ương Đa?ng, Bộ Quốc pho?ng, đô?ng đội chiến đấu va? gia đi?nh tiêfn đưa trên mâm pháo phu? lá Quốc kỳ tư? Quân y viện 108 đến nơi an nghi? cuối cu?ng ơ? Nghifa trang Mai Dịch.
    Thần Tiễn
  5. caothaiuy

    caothaiuy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    885
    Đã được thích:
    0
    Bác Binhminhlaky ơi,còn thiếu thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên và các trung tướng:
    1.Nguyễn Phúc Thanh. Nguyên TL QĐ2
    2.Nguyễn Văn Rinh. Thứ trưởng BQP
    3.Đào Trọng Lịch Tổng tham Mưu trưởng(Đ/c đã mất trong tại máy bay ở CHDCND Lào)
    4.Trần Tất Thanh. TL QK2 (Cũng mất trong tai nạn trên)
    5.Lê Trung Thành PTL QK3
    6.Nguyễn Văn Cốc.Chánh Thanh tra Bộ QP
    7.Phạm Tuân. CN Tổng cục CNQP&KT
    8.Lê Hải Anh PhóTTMTrưởng
    9.Trương Công thìn.Phó TTMTrưởng
    10.Đỗ Trung Dương.Phó TTMTrưởng
    11.Hoàng Kỳ.TL QK 3
    11.Trịnh Ngọc Huyền(TL Bộ đội Biên phòng,ông mới đc phong)
    12.Lê thế Trị GĐ Học Viện Quốc phòng
    13.Phạm văn Long Phó CN TCCT
    14.Phạm Văn Tánh TL QKTĐ (Hiện là chánh Thanh tra Bộ)
    15.Lê Văn Hân Phó CN TCCT
    16.Trần Trác.PCN TCHC
    Và nhiều tướng nữa mà tôi k liệt kê hết được vì đợt phong quân hàm vừa qua(Tháng 6)có nhiều chức danh đc phong đến trung tướng như cục trưởng ở BTTM,Tuy nhiên tôi xin phép được đính chính lại về Ông Vũ Ngọc Nhạ (Nguyễn Văn Nhã) là khi hoà bình lập lại ông k giữ các trọng trách nữa mà chỉ tập trung viết sử thôi,vì công lao tô lớn nên nhà nước đã phong tặng quân hàm thiếu tướng cho ông chứ không phải vì chức vụ,đây cũng là trường hợp đặc biệt.Về các Vị thiếu tướng xin phép không liệt kê vì quá nhiều(Vài hàng nghìn vị từ hoà bình lập đến giờ)Nhưng xin phép bổ sung một thiếu tướng mà nhiều người nguỡng mộ:Ông Vũ Ngọc Phan GS.TS.Thấy thuốc ND ông nguyên Phó Viện trưởng Viện TW 108,ông là người được nhiều sự cảm phục về công lao,tài đức của ông đối với đât nước nói chung và ngành Y nói riêng....Caothaiuy
  6. hhv

    hhv Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/08/2001
    Bài viết:
    756
    Đã được thích:
    0
    nhân đây để các bậc hậu sinh hiểu biết thêm về các nhân vât nổi tiếng trong lịch sử hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc ta, bác nào có ảnh các vị tướng xin post lên. Em xin bắt đầu bằng Đại Tướng Văn Tiến Dũng (nhandan.org.vn)
    I watch how the moon sits in the skyOn a dark night shining with the light from the sunThe sun doesn't give light to the moonAssuming the moon's going to owe it oneIt makes me think of how you act to meYou do favors and then rapidly<BR
  7. MTH

    MTH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/05/2002
    Bài viết:
    917
    Đã được thích:
    0
    Tướng Lê Thế Trung (không biết có đúng tên của ông ko) bên quân y.
    Em ơi Hà Nội phố
    Ta còn em tà áo nhung huyết dụ
    Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa
    Phường cũ bên danh người đẹp lụa
    Ngõ phố nào in dấu gót hài hoa.
    MTH@
  8. anhkhoayy

    anhkhoayy Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    483
    Đã được thích:
    0
    Đồng chí Đào Trọng Lịch ko phải là Tổng Tham Mưu Trưởng đâu ạ . Vào thời gian đấy là Thượng Tướng Đào Đình Luyện mới là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
    Trong lễ Truy Điệu các Đồng Chí thì chân dung của Thượng Tướng Đào Đình Luyện là to nhất và đứng ở giữa .
    Em nói thế có đúng ko a ?.
    Sáng tháng 5 trời trong xanh quá .
    Bốn phương tụ về Ba Đình
  9. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0

    Chuyện này phải hỏi mấy người trong nước nhưng mình nghe đài nước ngoài nói là tướng Đào Trọng Lịch bị mất trong trên máy bay Mi8. Còn thượng tướng Đào Đình Luyện mất vì bệnh mà. Chắc phải nhờ mấy cao thủ kiểm tra lại giùm.
    Bây giờ viết vài dòng về tướng Nguyễn Thị Định để chị em phụ nữ hãnh diện vì VN mình nhiều nữ tướng xứng đáng là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu như câu "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh."
    Mong rằng về nhà chồng các chị em phát huy trở thành "nội tướng" tức là tham mưu trưởng còn chồng thì phải là tổng tư lệnh.
    Nguyễn Thị Định quê Lương Hoà, Giồng Trôm, Bến Tre. Tham gia Cách mạng 1936. NZm 1940-1943 bị địch bắt giam tại Trạm giam Bà Rá. NZm 1945 Nguyễn Thị Định tham gia lãnh đạo chính quyền tỉnh Bến Tre. NZm 1960 Bí thư tỉnh uỷ Bến Tre. NZm 1965 nhập ngũ. NZm 1974 được phong quân hàm Thiếu tướng. NZm 1980 Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Đại biểu Quốc hội khoá VI, VII, VIII. NZm 1987-1992 Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
    Nguyễn Thị Định sinh ra trong một gia đình nông dân giầu truyền thống yêu nước. Là người phụ nữ thông minh, đôn hậu, khiêm nhường. Có sức thuyết phục đối với mọi tầng lớp phụ nữ và nhân dân trong nước và quốc tế.
    Ngay từ những nZm 1946, đất nước bị chia cắt hai miền. Nguyễn Thị Định đã là một phái viên của Nam Bộ bất chấp hiểu nguy trước phong ba bão tố và sự vây hãm của kẻ thù, bí mật vượt trên 3000km đường biển ra Hà Nội nhận chỉ thị của Trung ương và chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường. Trên đường về Nguyễn Thị Định đã hình thành được đưòng dây vận tải từ Bắc vào Nam. Chuyến vượt biển mở đường của Nguyễn Thị Định đã trở thành bài học kinh nghiệm hoạt động của phong trào chiến tranh du kích Việt Nam. Tháng 9/1972 chuyến hàng chi viện đầu tiên của Trung ương đến miền Nam đã mở ra "Con đường Hồ Chí Minh trên biển" và đoàn vận tải mang biển số "962" đã trở thành đơn vị vận tải anh hùng trên chiến trường ven biển Nam Bộ.
    NZm 1959 hiệp định Giơnevơ về Việt Nam bị vi phạm nghiêm trọng, nguỵ quyền tay sai đế quốc với luật 10/59 lê máy chém khắp miền Nam để khủng bố phong trào Cách mạng. Nguyễn Thị Định là người khởi xướng và lãnh đạo chủ chốt phong trào Đồng Khởi ở Mỏ Cày, Bến Tre, mở đầu phong trào Đồng khởi trong toàn tỉnh và vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Từ phong trào Đồng khởi xuất hiện cái tên "Đội quân tóc dài" là những phụ nữ thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi không một tấc sắt trong tay song lại có sức mạnh phi thường đã phá vỡ nhiều thủ đoạn thâm độc, nhiều cuộc càn quét lớn của địch. Thắng lợi của "đôi quân tóc dài" đã hình thành phương châm "Hai chân, ba mũi giáp công" của đường lối chiến tranh nhân dân ở Việt nam. Đội quân tóc dài niềm tự hào của dân tộc nỗi khiếp sợ của kẻ thù đã ghi lại dấu ấn một thời kỳ lịch sử oanh liệt của dân tộc.
    Từ 1976, đất nước thống nhất, Nguyễn Thị Định từ một nữ tướng kiên cường mưu lược trong chỉ huy chiến đấu, trong hoà bình xây dựng Nguyễn Thị Định đã trở thành nhà quản lý lãnh đạo đất nước trung thực và liêm khiết chZm lo đến đời sống của những người dân nghèo khổ, những người bị oan ức. Nguyễn Thị Định đã dành nhiều tâm lực ở cuối đời vào ý tưởng nhân vZn cao đẹp đỡ đầu Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, - một công trình vZn hoá có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với phụ nữ và nhân dân Việt Nam.
    Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thị Định đã được nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương cao quý và phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Giải thưởng hoà bình Quốc tế Lê Nin. Giáo sư sử học Christine Whate trường Đại học Tổng hợp Hawai Mỹ đã viết thư gửi Nguyễn Thị Định bằng tiếng Việt Nam: "Tôi cảm thấy rất vinh hạnh khi viết thư này gửi thZm Bà - một người phụ nữ nổi tiếng và có một vai trò quan trọng trong lịch sử thế giới, một tấm gương của người phụ nữ chân chính. Tôi rất sung sướng khi sử dụng cuốn hồi ký của Bà để dạy cho sinh viên nước mình về truyền thống Cách mạng Việt Nam".
    NZm 1992 Nguyễn Thị Định qua đời sau một cơn đau tim đột ngột, hầu hết các tỉnh, thành Hội phụ nữ trong cả nước đều lập bàn thờ để tưởng nhớ đến Bà, theo triết lý dân gian: "Sống làm tướng chết thành thần". Nhân dân Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Tây nơi thờ Hai Bà Trưng đã rước bát hương thờ Bà Nguyễn Thị Định về thờ trong khu đền Hai Bà như một vị nhân thần mới. Nhiều địa phương đã đặt tên trường học Nguyễn Thị Định, quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo hiếu học mang tên Nguyễn Thị Định.... Hình ảnh Nguyễn Thị Định đã trở thành bất tử trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.
  10. hhv

    hhv Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/08/2001
    Bài viết:
    756
    Đã được thích:
    0
    Đại Tướng Hoàng Văn Thái sau năm 1945 là Tổng Tham Mưu Trưởng chứ không phải phó TTM trưởng
    Đại tướng Lê Đức Anh là phó tư lệnh chiến dịch HCM&lt;--- bác nào confirm cho em cái này cái
    I watch how the moon sits in the skyOn a dark night shining with the light from the sunThe sun doesn't give light to the moonAssuming the moon's going to owe it oneIt makes me think of how you act to meYou do favors and then rapidly<BR

Chia sẻ trang này