1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xin hỏi quá trình hình thành mỏ dầu ??

Chủ đề trong 'Khoa học công nghệ và môi trường' bởi thanh786, 21/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanh786

    thanh786 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2005
    Bài viết:
    806
    Đã được thích:
    0
    Xin hỏi quá trình hình thành mỏ dầu ??

    Xin hỏi quá trình hình thành mỏ dầu,tại sao ở samạc châu phi lại có dầu mỏ ?
  2. con_ma_kem

    con_ma_kem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
    Theo mình được biết , dầu mỏ được hình thành trong tự nhiên là nhờ quá trình phân huỷ các chất hữu cơ của vi sinh vật trong tình trạng yếm khí . Qua thời gian , các chất mùn được chuyển hoá tạo thành những hợp chất hydrocacbon phức tạp , gọi là dầu mỏ .
    Còn việc các mỏ dầu ở sa mạc , thềm lục địa ,ngoài đại dương hay bất cứ đâu theo mình chỉ đơn giản là vsv cứ làm cái công việc tạo ra dầu mỏ của nó mà chẳng thèm quan tâm đến bên trên nó ( vỏ trái đất ) cho nó định cư ỏ chỗ nào (hic... giá mà tụi nó kéo nhau sang VN mà tạo ra dầu mỏ thì nước mình đỡ vả biết mấy , bạn nhỉ )
  3. thanh786

    thanh786 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2005
    Bài viết:
    806
    Đã được thích:
    0
    anh có gi vsc nghĩa là gì vậy ?
  4. thanh786

    thanh786 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2005
    Bài viết:
    806
    Đã được thích:
    0
  5. con_ma_kem

    con_ma_kem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
    VSV (chứ kô phải vsc ) tức là vi sinh vật đấy nhóc , học năm mấy roài mà "kém tắm " thế ? VSV thực hiện các phản ứng hoá sinh trong điều kiện yếm khí , dưới sự nén ép của vỏ TĐ , các lớp trầm tích chứa nhiều thành phần hữu cơ qua thời gian bị vsv phân huỷ tạo thành dầu mỏ .
    Nếu muốn hiểu rõ hơn thì dzô thư viện trường tìm mấy quyển sách về sự hình thành dầu mỏ mà đọc , kiến thức anh có hạn , chú em thông cảm !
  6. thanh786

    thanh786 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2005
    Bài viết:
    806
    Đã được thích:
    0
    tôi không phải là dân chuyên về hoá dầu mà chỉ thích biết vậy thôi ,tôi cũng biết dầu mõ là do chất hửu cơ tích tụ tạo nên,nhưng một điều tôi cực kì thắc mắc là tại sao ở sa mạc lại có mõ dầu ,chả nhẻ ở đó từng tồn tại biển hay rừng rậm lâu năm .tôi lâu nay vẩn chỉ cho rằng chỉ có ở biển mói có dầu lửa
  7. con_ma_kem

    con_ma_kem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
    dzậy chứ chú không nghĩ là ở thời đại của khủng long ( hoặc có thể trước nữa ) cũng có dầu mỏ à ? mà từ hồi đó tới giờ thì chuyện biển biến thành sa mạc , sa mạc thành biển thì có gì khó hiểu đâu ?
  8. madpriest

    madpriest Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/11/2005
    Bài viết:
    49
    Đã được thích:
    3
    Từ thời cổ đại lục địa châu Phi chưa bị khô hạn như bây giờ, có thể đã là rừng nhiệt đới nên thảm thực vật phong phú, sau đó do biến động địa chất rìa lục địa bị nâng lên tạo thành các "bức tường" nên ở giữa châu phi trở nên khô hạn, =>sa mạc. Do đó châu Phi có dầu mỏ không có gì là lạ.
    http://www.agu.edu.vn/courseware/index.asp?cid=DIALYKHUVUC&mid=1&pid=8
  9. bxduc

    bxduc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2011
    Bài viết:
    0
    Đã được thích:
    0
    Dầu mỏ được phát hiện và khai thác công nghiệp tại Ả Rập Saudi vào ngày 3 tháng 3 năm 1938, nơi có trữ lượng dầu được sản xuất lớn nhất thế giới.
    Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường… Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa.
    Quá trình hình thành dầu mỏ
    Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ:
    Thuyết sinh vật học
    Đa số các nhà địa chất coi dầu lửa giống như than và khí tự nhiên là sản phẩm của sự nén và nóng lên của các vật liệu hữu cơ trong các thời kỳ địa chất. Theo lý thuyết này, nó được tạo thành từ các vật liệu còn sót lại sau quá trình phân rã xác các động vật và tảo biển nhỏ thời tiền sử (các cây cối trên mặt đất thường có khuynh hướng hình thành than). Qua hàng thiên niên kỷ vật chất hữu cơ này trộn với bùn, và bị chôn sâu dưới các lớp trầm tích dày. Kết quả làm tăng nhiệt và áp suất khiến cho những thành phần này bị biến hoá, đầu tiên thành một loại vật liệu kiểu sáp được gọi là kerogen, và sau đó thành một hydrocarbons khí và lỏng trong một quá trình được gọi là catagenesis. Bởi vì hydrocarbons có mật độ nhỏ hơn đá xung quanh, chúng xâm nhập lên phía trên thông qua các lớp đá ngay sát đó cho tới khi chúng bị rơi vào bẫy bên dưới những tảng đá không thể ngấm qua, bên trong những lỗ xốp đá gọi là bể chứa. Sự tập trung hydrocarbons bên trong một bẫy hình thành nên một giếng dầu, từ đó dầu lỏng có thể được khai thác bằng cách khoan và bơm.
    Các nhà địa chất cũng đề cập tới “cửa sổ dầu” (oil window). Đây là tầm nhiệt độ mà nếu thấp hơn thì dầu không thể hình thành, còn cao hơn thì lại hình thành khí tự nhiên. Dù nó tương thích với những độ sâu khác nhau ở những vị trí khác nhau trên thế giới, một độ sâu ‘điển hình’ cho cửa sổ dầu có thể là 4-6 km. Cần nhớ rằng dầu cũng có thể rơi vào các bẫy ở độ sâu thấp hơn, thậm chí nếu nó không được hình thành ở đó. Cần có ba điều kiện để hình thành nên bể dầu: có nhiều đá, mạch dẫn dầu xâm nhập, và một bẫy (kín) để tập trung hydrocarbons.
    Các phản ứng tạo thành dầu mở và khí tự nhiên thường như những phản ứng phân rã giai đoạn đầu, khi kerogen phân rã thành dầu và khí tự nhiên thông qua nhiều phản ứng song song, và dầu cuối cùng phân rã thành khí tự nhiên thông qua một loạt phản ứng khác.
    Thuyết vô cơ
    Cuối thế kỷ 19 nhà hóa học người Nga Dmitri Ivanovich Mendeleev đã đưa ra lý thuyết vô cơ giải thích sự hình thành của dầu mỏ. Theo lý thuyết này dầu mỏ phát sinh từ phản ứng hóa học giữa cacbua kim loại với nước tại nhiệt độ cao ở sâu trong lòng trái đất tạo thành các hiđrocacbon và sau đó bị đẩy lên trên. Các vi sinh vật sống trong lòng đất qua hàng tỷ năm đã chuyển chúng thành các hỗn hợp hiđrôcacbon khác nhau. Lý thuyết này là một đề tài gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học, tạo thành trường phái Nga – Ukraina trong việc giải thích nguồn gốc dầu mỏ.
    Thuyết hạt nhân
    [​IMG]Lý thuyết thứ ba, được giải thích trong nguyệt san khoa học Scientific American vào năm 2003, cho rằng các hợp chất hyđrocacbon được tạo ra ởi những phản ứng hạt nhân trong lòng Trái Đất.
    Lịch sử
    Do nhẹ hơn nước nên dầu xuất hiện lộ thiên ở nhiều nơi, vì thế loài người đã tìm thấy dầu hằng ngàn năm trước Công Nguyên. Thời đó dầu thường được sử dụng trong chiến tranh. Còn rất nhiều dấu tích của việc khai thác dầu mỏ được tìm thấy ở Trung Quốc khi dân cư bản địa khai thác dầu mỏ để sử dụng trong việc sản xuất muối ăn như các ống dẫn dầu bằng tre được tìm thấy có niên đại vào khoảng thế kỷ 4. Khi đó người ta sử dụng dầu mỏ để đốt làm bay hơi nước biển trong các ruộng muối.
    Mãi đến thế kỷ 19 người ta mới bắt đầu khai thác dầu theo mô hình công nghiệp, xuất phát từ việc tìm kiếm một chất đốt cho đèn vì dầu cá voi quá đắt tiền chỉ những người giàu mới có khả năng dùng trong khi nến làm bằng mỡ thì lại có mùi khó ngửi. Vì thế giữa thế kỷ thứ 19 một số nhà khoa học đã phát triển nhiều phương pháp để khai thác dầu một cách thương mại. Năm 1852 một nhà bác sĩ và địa chất người Canada tên là Abraham Gessner đã đăng ký một bằng sáng chế sản xuất một chất đốt rẻ tiền và đốt tương đối sạch. Năm 1855 nhà hóa học người Mỹ Benjamin Silliman đề nghị dùng axit sunfuric làm sạch dầu mỏ dùng để làm chất đốt.
    Người ta cũng bắt đầu đi tìm những mỏ dầu lớn. Những cuộc khoan dầu đầu tiên được tiến hành trong thời gian từ 1857 đến 1859. Lần khoan dầu đầu tiên có lẽ diễn ra ở Wietze, Đức, nhưng cuộc khoan dầu được toàn thế giới biết đến là của Edwin L. Drake vào ngày 27 tháng 8 năm 1859 ở Oil Creek, Pennsylvania. Drake khoan dầu theo lời yêu cầu của nhà công nghiệp người Mỹ George H. Bissel và đã tìm thấy mỏ dầu lớn đầu tiên chỉ ở độ sâu 21,2 m.
    Thành phần
    [​IMG]Các thành phần hóa học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp chưng cất phân đoạn. Các sản phẩm thu được từ việc lọc dầu có thể kể đến là dầu hỏa, benzen, xăng, sáp parafin, nhựa đường v.v.
    Một cách chính xác thì dầu mỏ là hỗn hợp của các hiđrôcacbon, là hợp chất của hiđrô và cacbon.
    Trong điều kiện thông thường, bốn alkan nhẹ nhất — CH4 (mêtan), C2H6 (êtan), C3H8 (prôpan) và C4H10 (butan) — ở dạng khí, sôi ở nhiệt độ -161.6 °C, -88.6 °C, -42 °C, và -0.5 °C tương ứng (-258.9°, -127.5°, -43.6°, và +31.1 °F).
    Các chuỗi trong khoảng C5-7 là các sản phẩm dầu mỏ nhẹ, dễ bay hơi. Chúng được sử dụng làm dung môi, chất làm sạch bề mặt và các sản phẩm làm khô nhanh khác. Các chuỗi từ C6H14 đến C12H26 bị pha trộn lẫn với nhau được sử dụng trong đời sống với tên gọi là xăng. Dầu hỏa là hỗn hợp của các chuỗi từ C10 đến C15, tiếp theo là dầu điêzen/dầu sưởi (C10 đến C20) và các nhiên liệu nặng hơn được sử dụng cho động cơ tàu thủy. Tất cả các sản phẩm từ dầu mỏ này trong điều kiện nhiệt độ phòng là chất lỏng.
    Các dầu bôi trơn và mỡ (dầu nhờn) (kể cả Vadơlin®) nằm trong khoảng từ C16 đến C20.
    Các chuỗi trên C20 tạo thành các chất rắn, bắt đầu là sáp parafin, sau đó là hắc ín và nhựa đường bitum.
    Khoảng nhiệt độ sôi của các sản phẩm dầu mỏ trong chưng cất phân đoạn trong điều kiện áp suất khí quyển tính theo độ C là:
    Xăng ête: 40-70 °C (được sử dụng như là dung môi)
    Xăng nhẹ: 60-100 °C (nhiên liệu cho ô tô)
    Xăng nặng: 100-150 °C (nhiên liệu cho ô tô)
    Dầu hỏa nhẹ: 120-150 °C (nhiên liệu và dung môi trong gia đình)
    Dầu hỏa: 150-300 °C (nhiên liệu )
    Dầu điêzen: 250-350 °C (nhiên liệu cho động cơ điêzen/dầu sưởi)
    Dầu bôi trơn: > 300 °C (dầu bôi trơn động cơ)
    Các thành phần khác: hắc ín, nhựa đường, các nhiên liệu khác
    Khai thác
    Muốn khai thác dầu, người ta khoan những lỗ khoan gọi là giếng dầu. Khi khoan trúng lớp dầu lỏng, dầu sẽ tự phun lên do áp suất cao của khí dầu mỏ. Khi lượng dầu giảm thì áp suất khí cũng giảm, người ta phải dùng bơm hút dầu lên hoặc bơm nước xuống để đẩy dầu lên.
    Phân loại
    Ngành công nghiệp dầu mỏ phân chia “dầu thô” theo khu vực mà nó xuất phát (ví dụ “West Texas Intermediate” (WTI) hay “Brent”) thông thường theo tỷ trọng và độ nhớt tương đối của nó (“nhẹ”, “trung bình” hay “nặng”); các nhà hóa dầu còn nói đến chúng như là “ngọt”, nếu nó chứa ít lưu huỳnh, hoặc là “chua”, nếu nó chứa đáng kể lưu huỳnh và phải mất nhiều công đoạn hơn để có thể sản xuất nó theo các thông số hiện hành.
    Các thùng (barrel) tiêu chuẩn trên thế giới là:
    [​IMG]Hỗn hợp Brent, bao gồm 15 loại dầu mỏ từ các mỏ thuộc hệ thống mỏ Brent và Ninian trong khu vực lòng chảo Đông Shetland trên biển Bắc. Dầu mỏ được đưa vào bờ thông qua trạm Sullom Voe ở Shetlands. Dầu mỏ sản xuất ở châu Âu, châu Phi và dầu mỏ khai thác ở phía tây của khu vực Trung Cận Đông được đánh giá theo giá của dầu này, nó tạo thành một chuẩn (benchmark) đánh giá dầu.
    West Texas Intermediate (WTI) cho dầu mỏ Bắc Mỹ.
    Dubai được sử dụng làm chuẩn cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương của dầu mỏ Trung Cận Đông.
    Tapis (từ Malaysia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nhẹ Viễn Đông).
    Minas (từ Indonesia, được sử dụng làm tham chiếu cho dầu mỏ nặng Viễn Đông).
    Giỏ OPEC bao gồm:
    Arab Light Ả Rập Saudi
    Bonny Light Nigeria
    Fateh Dubai
    Isthmus Mexico (không OPEC)
    Minas Indonesia
    Saharan Blend Algérie
    Tia Juana Light Venezuela
    OPEC cố gắng giữ giá của giỏ Opec giữa các giới hạn trên và dưới, bằng cách tăng hoặc giảm sản xuất. Điều này rất quan trọng trong phân tích thị trường. Giỏ OPEC, bao gồm hỗn hợp của dầu thô nặng và nhẹ là nặng hơn cả Brent và WTI.
    Tầm quan trọng kinh tế của dầu mỏ
    Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất cả các phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo (plastic) và nhiều sản phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là “vàng đen”.
    Tùy theo nguồn tính toán, trữ lượng dầu mỏ thế giới nằm trong khoảng từ 1.148 tỉ thùng (barrel) (theo BP Statistical Review 2004) đến 1.260 tỉ thùng (theo Oeldorado 2004 của ExxonMobil). Trữ lượng dầu mỏ tìm thấy và có khả năng khai thác mang lại hiệu quả kinh tế với kỹ thuật hiện tại đã tăng lên trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất vào năm 2003. Người ta dự đoán rằng trữ lượng dầu mỏ sẽ đủ dùng cho 50 năm nữa. Năm 2003 trữ lượng dầu mỏ nhiều nhất là ở Ả Rập Saudi (262,7 tỉ thùng), Iran (130,7 tỉ thùng) và ở Iraq (115,0 tỉ thùng) kế đến là ở Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Kuwait và Venezuela. Nước khai thác dầu nhiều nhất thế giới trong năm 2003 là Ả Rập Saudi (496,8 triệu tấn), Nga (420 triệu tấn), Mỹ (349,4 triệu tấn), Mexico (187,8 triệu tấn) và Iran (181,7 triệu tấn). Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ từ năm 1991 khi sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm.
    Vì tầm quan trọng kinh tế, dầu mỏ cũng là lý do cho những mâu thuẫn chính trị. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã sử dụng dầu mỏ như vũ khí trong cuộc xung đột Trung Đông và tạo ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979.
    [​IMG]Ảnh hưởng dầu mỏ đến môi trường
    Dâu mỏ bị tràn ra biển gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đời sống sinh vật biển . Dầu mỏ đem đốt cũng gây ra ô nhiễm vì sinh ra nhiều khí như SO2 , CO2 . Xe cộ, máy móc … chạy bằng xăng góp phần làm Trái Đất nóng lên .
    Các nguồn năng lượng khác
    Do trữ lượng dầu mỏ có hạn nên các nguồn nhiên liệu tái sinh như năng lượng mặt trời, năng lượng gió đang được tìm cách sử dụng với một hiệu quả kinh tế đáng kể. Tế bào nhiên liệu (fuel cell), sử dụng hiđrô làm nguyên liệu, cũng là một ngành công nghệ mới có nhiều triển vọng để thay thế cho dầu mỏ trong tương lai.

Chia sẻ trang này