1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xin nhờ các bạn box Văn học giúp...

Chủ đề trong 'Văn học' bởi tinyhuong, 09/04/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    Nhân tiện bác pagoda nhắc đến James Joyce, nhờ chị tinyhuong hay ai đó vô ni chỉnh sửa hộ em bản dịch một truyện ngắn của ông ta :
    http://www.ttvnonline.net/forum/topic.asp?whichpage=3&TOPIC_ID=47411
  2. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    Ôi, em cám ơn Tiny và Gallivant huynh nhiều lắm, nhưng mà không cần làm mối cho em đâu ạ. Em thích cái gì đến tự nhiên hơn...
    Không có gì đâu ạ, chỉ cần làm được điều gì đó cho Tiny hay các bác vui là em thấy vui rồi .
    Em tiếp tục nhá.
    *****​
    2.Văn học Pháp thế kỷ 18
    Văn học Pháp thế kỷ 18 tuy nhiều hình nhiều vẻ nhưng đều diễn ra trên những dấu hiệu chung của thời đại. Đó là một nền văn học xa lạ với quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Các nhà văn tuy mức độ khác nhau nhưng đều có ý thức sử dụng ngòi bút như một thứ vũ khí để phơi bày ra ánh sáng triều đình phong kiến mục nát, xã hội đầy rẫy những tệ nạn xấu xa phi lý, cũng như cuộc sống khổ cực của nhân dân. Nhiều tác phẩm vang lên ý chí đấu tranh cho quyền tự do chính trị và quyền bình đẳng công dân, có gia trị như những lời kêu gọi, động viên quần chúng tiến lên làm cách mạng.
    Thế kỷ văn học này trải qua 4 giai đoạn :
    -Từ đầu thế kỷ đến 1715 : giai đoạn báo hiệu thời đại mới. Tinh thần phê phán trật tự của thế kỷ cổ điển bắt đầu thoáng hiện trong các tác phẩm của Fénelon, Bayler, Fôngtơnen trong cuộc tranh luận giữa phái Cũ và phái Mới, cũng như trong hài kịch của Rênha, Lơxagiơ.
    -Giai đoạn thứ hai : kéo dài từ 1715-1750. Đây là thời kỳ đặt nền móng vững chắc cho phong trào ánh sáng. Một nền văn học mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức được xác lập rõ rệt với các tác phẩm thuộc nhiều thể loại thơ, bi kịch, tiểu thuyết khảo luận của những tên tuổi rực rỡ như Montesquieu, Voltaire. Bên cạnh đó, ta còn gặp các tiểu thuyết của Lơxagiơ, Prêvôxt, Marivô miêu tả đời sống hiện thực của những con người bình thường.
    -Giai đoạn thứ ba (1750-1789)giai đoạn sôi nổi và phong phú nhất, mở đầu bằng sự xuất hiện của Bách Khoa Toàn Thư, một công trình tập thể đồ sộ do nhà văn, nhà triết học nổi tiếng D.Diderot lãnh đạo việc biên soạn.Bên cạnh, Voltaire vẫn tiếp tục sáng tác với một ngòi bút khỏe khoắn lạ thường. Đây là thời kỳ nổi lên của nhiều cây bút sắc sảo như D. Diderot, Jean-Jacques Rousseau, và muộn hơn chút nữa là Beaumarchais. Nếu như trong giai đoạn trước, lý trí đóng vai trò vô cùng quan trọng trong văn học, thì đến nay, xuất hiện yếu tố mới : tình cảm. Tính đa cảm dần dần lấn át tính duy lý mớ ra chủ nghĩa tình cảm của Rousseau, người báo hiệu chủ nghĩa lãng mạn trong văn học thế kỷ sau.
    -Cách mạng 1789 mở ra giai đoạn cuối cùng (1789-1799). Bão táp cách mạng kéo dài trong nhiều năm, tạo ra điều kiện cho sự phát triển chưa từng thấy của loại văn chương báo chí và hùng biện. Trong văn học giai đoạn này, ta còn thấy nổi lên xu hướng đi tìm cảm hứng ở cổ đại Hi Lạp, La Mã. Dấu hiệu ấy xuất hiện trong thơ, bi kịch và cả trong nghệ thuật tạo hình. Tác giả tiêu biểu là hai anh em André Chénier và Mari Josep Senier.
    Văn học thế kỷ 18 là biểu hiện sự cố gắng liên tục đổi mới và sáng tạo về hình thức thể loại.
  3. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    a. Diễn biến của thể loại kịch
    Tiếp tục thế kỷ 17, thời đại này vẫn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của kịch. Tuy nhiên sự tan rã của chủ nghĩa cổ điển vẫn bộc lộ hết sức rõ ràng. Bi kịch là thể loại ưu thế của chủ nghĩa cổ điển, đến lúc đó hầu như đã mất vị trí quan trọng trên văn đàn. Nó không bị tàn lụi hẳn nhờ có Voltaire, nhưng bi kịch của ông là bi kịch tư sản, khác rất nhiều so với bi kịch cổ điển thuần túy.
    Các tác giả của thế kỷ ánh sáng dồn nhiều hơn vào hài kịch với các tác giả như : Regnard (1655-1709), Lesage (1668-1747), Destouches (1680-1754)...Nhà hài kịch lớn nhất của thời kỳ này là Mariveaux (1668-1763), tác giả của 27 vở hài kịch bằng văn xuôi ...
    +Hài kịch Mariveaux rất đa dạng về dề tài nhưng tác giả tỏ ra có năng khiếu rõ rệt phân tích tâm lí tình yêu. Do đó, ông tạo cho hài kịch của mình một vẻ riêng, không theo truyền thống của Môlie. Nội dung kịch phản ánh tư tưởng của giai cấp tư sản tiên tiến bấy giờ như phê phán các thành kiến đẳng cấp, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
    +Một cái mốc khác của thể loại hài kịch nửa đầu thế kỷ 18 gắn với tên tuổi La Chauseé (1691-1751), người sáng lập ra loại hình "hài kịch sướt mướt". Theo ông, có thể hoàn toàn loại trừ cái cười ra khỏi hài kịch và thay vào đó là những tình cảm xúc động. (hổng hiểu ?!)
    Diễn biến của bi kịch và hài kịch nửa đầu thế kỷ dẫn đến hợp điểm sau năm 1750 ở sự ra đời của kịch đram (drama ?), một thể loại xóa nhòa ranh giới giữa bi kịch và hài kịch với nội dung xúc động nói về những con người bình thường thuộc Đẳng cấp Thứ Ba, có đạo đức và tình cảm phong phú.Nội dung kịch đram còn khác với nội dung hài kịch nửa đầu thế kỷ ở chỗ xem xét các vấn đề một cách mới mẻ trên tinh thần của thế kỷ triết học, do đó mà có ý nghĩa XH và ý nghĩa chiến đấu sâu sắc hơn. Người sáng tạo ra kịch đram là Diderot, sau đó nhiều nhà văn khác như Sedaine (1719-1797)...tiếp tục sáng tác kịch đram.
    Cách mạng càng đến gần, kịch đram càng tỏ ra không còn đáp ứng với thị hiếu của công chúng nữa, mọi người đã quá nhàm với những tình cảm xúc đồg trên sân khấu. Yêu cầu thời đại đòi hỏi cái gì đó mãnh liệt hơn, cách mạng hơn là ca ngợi đạo đức chung chung. Nhà hát có hiện tượng quay về với những thể loại hài kịch và bi kịch thuần túy, nhưng nội dung hoàn toàn mới mẻ. Tác giả tiêu biểu nhất cho loại bi kịch mới là M.J.Chénier (1764-1811), em trai của nhà thơ A. Chénier (1762-1794). Còn loại hài kịch mới gắn liền với danh tiếng của Beaumarchais (1732-1799).
  4. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    b.Những chặng đường của tiểu thuyết
    Tiểu thuyết cũng như hài kịch được xếp vào loại hình thấp của thế kỷ cổ điển, thì sang thế kỷ 18, lại phát triển rất mạnh mẽ, đầy triển vọng.
    Trong thế kỷ trước, tiểu thuyết có hai dòng :
    -(1) Dòng tiểu thuyết kiểu cách đáp ứng thị hiếu của tầng lớp quý tộc.
    -(2) Dòng tiểu thuyết có xu hướng hiện thực tuy còn thô sơ.
    Tiểu thuyết thế kỷ 18 kế thừa cả 2 dòng trên, nhưng chủ yếu là dòng thứ hai, điều đó phù hợp với thời đại mới.
    Xu hướng tiểu thuyết ấy chủ yếu phát triển nửa đầu thế kỷ và gắn liền với tên tuổi Lesage, Mariveaux, Prévost.

    +Lesage, tác giả hài kịch Tuycarê, đồng thời cũng là một nhà tiểu thuyết. bộ tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông la Truyện Gin Bla ở Xăngtian (1715-1735). Tiểu thuyết tuy lấy Tây Ban Nha làm bối cảnh nhưng nhằm phơi bày bức tranh phong tục với thói hư tật xấu của XH Pháp nửa đầu thế kỷ.
    +Mariveaux, cũng như Lesage, vừa sáng tác hài kịch vừa sáng tác tiểu thuyết. Cuộc đời Marian(1731-1741) và Người nông dân thành đạt (1735-1736) là hai tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông. So với Lesage, tiểu thuyết của Mariveaux đi sâu hơn vào đời sống hiện thực. Không phải những khung cảnh Tây Ban Nha xa lạ mà chính là Paris, nước Pháp, với những con người thuộc tầng lớp dưới trong xã hội. Ông không chú trọng miêu tả những tình tiết phiêu lưu li kì mà thiên về phân tích tâm lý tinh tế, hướng về những con người tầm thường bé nhỏ ấy.
    +Prévost (1697-1763) nổi tiếng với tác phẩm Manông Lexcô. Tiểu thuyết vẽ ra một cách sinh động bức tranh phong hóa suy đồi trong môi trường XH nơi Manông và người yêu của cô là Đê Griơ sống. Đây cũng là một cuốn tiểu thuyết hay về phương diện miêu tả tình yêu say đắm, đồng thời mang nhiều nét riêng tư của chính tác giả.
    Chặng đường thứ hai, hết sức quan trọng của tiểu thuyết Pháp thế kỷ này là sự xuất hiện của thể loại tiểu thuyết mới, thường gọi là "truyện triết học", một sáng tạo độc đáo của thời đại bấy giờ.
    +Mở đầu rực rỡ cho loại này là Những bức thư Ba Tư (1721), cuốn tiểu thuyết bằng 161 bức thư của Montesquieu (1689-1755).Nhà văn muốn dựng lên bức tranh đối chiếu phương Đông, phương Tây. Phương Đông, nhìn qua lăng kính tác giả, một người Pháp, còn phương Tây lại được miêu tả qua lăng kính của hai vị khách Ba Tư. Do đó, bao nhiêu cái hay, cái lạ hoặc lố bịch, hài hước đều phút chốc hiện lên trước mắt chúng ta mới mẻ, sinh động, đầy sức hấp dẫn, nghệ thuật. Cuốn tiểu thuyết đồng thời cũng là một thiên luận văn xuất sắc. Tinh thần phê phán XH phong kiến của nhà văn- triết gia Montesquieu hầu như thấm từng trang tác phẩm. Ông còn viết những thiên luận văn khác như Suy xét về những nguyên nhân thịnh suy của người La Mã (1734), Tinh thần pháp luật (1748).
    Đi tiếp con đường của Montesquieu, từ sau 1745, bắt đầu xuất hiện hàng loạt truyện triết học của Voltaire (1694-1778), kéo dài sang đến tận thế kỷ sau. Đến Diderot, truyện triết học chuyển hóa thành "đối thoại triết học" với các kiệt tác Cháu ông Ramô (1761) và Jacque-người theo thuyết định mệnh (1773)
    Chặng đường thứ ba gắn với tên tuổi của J.J.Rousseau (1712-1778) với các tác phẩm Juyli hay nàng Hêlôizơ mới (1761), Êmin hay về giáo dục (1762), Những điều bộc lộ (1765-1770). Với các tiểu thuyết ấy, Rousseau trở thành người đặt nền móng cho chủ nghĩa tình cảm trong văn học, đóng góp một sắc thái riêng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng và nền văn học giàu tính chiến đấu của thế kỷ này.
    Emin hay về giáo dục là một tác phẩm độc đáo cả về nội dung hình thức lẫn thể loại, nội dung đề cập đến việc giáo một em bé tưởng tượng tên là Emin từ khi mới ra đời cho đến lúc khôn lớn. Tác phẩm thể hiện sự kết hợp giữa tư duy logic của luận văn và tư duy bằng hình ảnh của tiểu thuyết. Tác phẩm là một thiên luận văn về giáo dục chứ không phải là một tiểu thuyết luận đề. Rousseau quan niệm : "Tất cả đều hoàn hảo khi từ bàn tay Tạo Hóa đi ra, tất cả đều suy thoái trong bàn tay con người". Mục đích của giáo dục, theo ông, là bảo tồn con người bẩm sinh tốt đẹp ấy. Quan điểm giáo dục của ông mang tính phủ định, hơi có tính chất cực đoan, biểu hiện tư tưởng phản kháng của ông đối với XH phong kiến đương thời, phê phán sự nhồi nhét kiến thức. Phương châm giáo dục của ông theo tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái, không gò bó, phù hợp lứa tuổi, tôn trọng nhân cách trẻ em, giáo dục trong thực tiễn sinh động, giáo dục văn hóa kết hợp với lao động, giáo dục tri thức kết hợp tình cảm. Người thầy cần hướng trẻ em vào những tình cảm tự nhiên, tốt đẹp, biết yêu mến người nghèo, thương xót những nỗi đau khổ của đồng loại...
    Rousseau có ảnh hưởng đến cả một lớp nhà văn cuối thế kỷ 18, tạo nên trường phái Rousseau. Trong các nhà văn ấy, Bernadin de Saint-Pierre (1737-1811) nổi lên hơn cả với cuốn tiểu thuyết Paul và Viecghini (1787).
    Được sửa chữa bởi - oshin vào 14/04/2002 08:31
  5. pagoda

    pagoda Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Không rõ có phải NguoiThaoLuan định hỏi câu này không
    --------------------------------------------------------------------------------
    Và suốt bao năm qua nàng vẫn chưa biết được tên của vị linh mục trong bức ảnh ngả vàng treo trên tường, trên chiếc đàn đạp hơi, cạnh bản in màu của the promises made to Blessed Margaret Mary Alacoque ( cái này dịch là cái gì nhể ?? )
    (to be continued...)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Không rõ có phải NguoiThaoLuan định nói đến câu này không?
    Câu này có thể dịch là :
    'Những lời tuyên hứa của Thánh Nữ Margaret Mary Alacoque'
    Thánh Nữ Margaret Mary Alacoque ( thế ki thứ 17) là người, sau khi được chữa khỏi bệnh nhờ sựhiện hình của Đức Mẹ đồng trinh . Rồi sau khi đuợc Chúa hiện hình đã hiến dâng đời mình cho Chúa. Bà ra nhập dòng tu Chúa chịu nạn năm 1617.
    Năm 1675, bà đuợc thọ ân sự khải thị Chúa và đã thực hiện 12 lời tuyên hứa ( the promissed made ... :->) để tỏ rõ sự hi sinh và tinh thần xả kỉ để cứu chuộc cho nhân loại ...

    V@
    [/size=4

    V@
    [/size=4
  6. Marie

    Marie Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/06/2001
    Bài viết:
    214
    Đã được thích:
    0
    Cái đoạn này làm em Marie nhớ phim Cậu bé Emin của Nga hồi trước, mà có cái cảnh giới thiệu ông bố tức quá hét "Eminnnnnnnnnn" bay cả nóc nhà. Hihihi..phim đen trắng của Nga í, xem buồn cười lém.
    Đã bao nhiêu nước chảy qua cầu rùi...
    Em Marie
    Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình.
  7. Marie

    Marie Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/06/2001
    Bài viết:
    214
    Đã được thích:
    0
    Anh Pagoda ui, em Marie có ý kiến: dịch The promisses made to Blessed Margaret Mary Alacoque thành "Những lời tuyên hứa của Thánh Nữ MMA" thì dễ hiểu cho người Việt mình dưng mà thực ra là hông sát lắm về nghĩa đâu.
    Em Marie chưa đọc truyện mà cũng hông biết về MMA dưng mà cứ theo ngữ pháp tiếng Anh thì made tomade by có nghĩa khác hẳn nhau. Cái khác là ở chỗ ai làm chủ thể của hành động. Trong các trường hợp khác thì dịch như trên là được rùi, dưng mà bối cảnh cái tình huống lần này là 2 chủ thể đặc biệt: Chúa và bà MMA nên là phải cẩn thận hơn.
    Nếu mà made to tức là nhấn mạnh vào lời hứa của Chúa, nhấn mạnh vào quyền năng và sự cứu chuộc của Chúa với con người. Còn made by thì sẽ là nhấn mạnh vào những nỗ lực của bà MMA. Hai cái đó - nếu mừ ai có xem xét về tôn giáo - sẽ thấy ý nghĩa khác nhau lém đó vì đối với người theo đạo thì lời hứa về sự cứu chuộc của Chúa là thiêng liêng lắm đó; còn về nỗ lực của bà MMA thì chuyện nhỏ hơn nhiều mừ.
    Em chỉ nói thêm chút vậy cho rõ heng. Em chưa đọc sách nên cũng hông biết đâu mừ chỉ nói theo ngữ pháp tiếng Anh thôi đó nghe. Đừng mắng em tội nghiệp em Marie nhé. Em chào các anh các chị ạ.
    Em Marie
    Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình.
  8. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    ***Voltaire (1694-1778)-Cây đại thụ của văn học Pháp thế kỷ 18***
    Voltaire vừa là nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà viết truyện, vừa là nhà sử học, nhà hoạt động XH sôi nổi trong thế kỷ ánh sáng Pháp (còn gọi là "thế kỷ của Voltaire"). Voltaire-một nhà văn sống gần bao trùm thế kỷ, luôn giương cao ngọn cờ đầu của phong trào ánh sáng, một bộ óc bách khoa trong thế kỷ của Bách Khoa Toàn Thư, một cây bút vô cùng phong phú và đa dạng.
    +Một bộ phận sáng tác đáng chú ý của Voltaire là những vở bi kịch. Ông viết tất cả 52 vở kịch, trong đó có 27 vở bi kịch, còn lại là một số vở hài kịch và ca kịch ít quan trọng hơn.Bi kịch của Voltaire đều là những vở 5 hồi bằng thơ đúng như yêu cầu của chủ nghĩa cổ điển. Nhưng khi nhìn vào các đề tài, ta bắt đầu thấy có những nỗ lực muốn đi tìm cái mới. Cổ đại Hi-La không còn là nguồn đề tài duy nhất, tác giả mở rộng cảm hứng ra rất nhiều khu vực khác như Xyri (Zairơ), Arap Xêut (Mahomet), Peru (Anzirơ), Trung Hoa (Đứa trẻ mồ côi của Trung Hoa) và cả nước Pháp thời trung cổ (Ađêlait đuy Gexlanh)...Điểm đổi mới khác nữa trong các vở của Voltaire so với các bi kịch cổ điển là khán giả không chỉ "nghe" mà còn được "xem" kịch với những quang cảnh, màu sắc, âm thanh gợi tả chứ không chỉ là những cuộc trò chuyện của các nhân vật trong phòng hay ngoài hàng hiên như trước. Chủ đề các vở kịch là chủ đề chung trong sáng tác của Voltaire : chống chuyên chế, chống tôn giáo, chế giễu mê tín dị đoan, phê phán cuồng tín, ca ngợi lý trí, tuyên truyền cho lòng khoan dung...
    +Voltaire thành công hơn cả với thể loại truyện (contes). So với thơ và kịch, truyện của ông xuất hiện muộn hơn nhiều. Truyện là nơi tập trung khá đầy đủ những khía cạnh chủ yếu trong tư tưởng Voltaire trước các vấn đề mấu chốt của thời đại. Có thể kể tên các truyện chính sau đây : Ảo tưởng của Babuc (1746), Zadich hay Số mệnh (1747), Micromêga (1752), Truyện Xcarmantado (1756), Căng*** hay chủ nghĩa lạc quan (1759), Janno và Côlanh (1764), Chất phác (1767), Nàng công chúa ở Babylon (1768), Con bò mộng trắng (1774)...Ba tác phẩm tiêu biểu nhất trong ba giai đoạn : Zadich, Căng***, Chất phác.
    Truyện của Voltaire mang dáng dấp của thể loại truyện dân gian, nhẹ nhàng, giản dị, những yếu tố hiện thực lẫn lộn với những yếu tố hoang đường kỳ ảo, có thần thánh, có những nhân vật khổng lồ đi du lịch từ hành tinh này sang hành tinh khác. Tuy nhiên, ông còn ***g vào trong đó nội dung tư tưởng triết học. Truyện (contes) trở thành truyện triết học (contes philosophiques). Lớp vỏ kỳ quặc, hoang đường của truyện giúp tác giả có thể truyền đi những tư tưởng triết học của thời đại ánh sáng mà vẫn tránh được sự đàn áp của các thế lực thống trị.
    Đặc điểm trên của truyện triết học chi phối cả cách xây dựng nhân vật. Trong truyện của Voltaire có thể phân loại 2 kiểu nhân vật khác nhau :
    -Một kiểu được xây dựng trên cơ sở những mẫu người có thật trong cuộc đời. Tính cách của họ được khái quát hóa thành những hình tượng nghệ thuật. Thường thì nhà văn đơn giản hóa, chỉ lấy ra một vài khía cạnh nào đấy rồi khuếch đại lên thành mấy nét phác họa sơ lược nhưng vẫn đậm tính chân thực . Ví dụ như Ôgun (Zadich) là hình ảnh sắc nét của bọn người giàu có quen hưởng thụ nên sinh phát phì...
    -Kiểu nhân vật thứ hai-thường là các nhân vật trung tâm truyện- được xây dựng theo một cách hoàn toàn khác. Đó là Zadich, Căng***, Chất phác trong các truyện cùng tên, hay đôi tình nhân Amazăng, Formôzăngtơ trong Nàng công chúa ở Babylon...Những nhân vật này ít tính chất chân thực, trái lại, đậm màu sắc lí tưởng, những nhân vật có cốt cách phù hợp với lí trí của nhà văn hơn là phản ánh hiện thực. Ngay đến tên của nhân vật cũng mang ý nghĩa tượng trưng : Chất phác, Căng*** (tiếng Pháp có nghĩa là ngây thơ, thật thà), Zadich (tiếng Arap có nghĩa là người ngay thẳng)...Tính cách các nhân vật này hao hao nhau. Ai cũng trẻ trung, xinh đẹp, đức hạnh, hiền lành, chất phác, thật thà, thông minh, tài trí... Không phải ngẫu nhiên họ đều được tác giả xây dựng thành những thanh niên sinh ra và lớn lên ở các xứ phương Đông xa lạ hoặc sống từ bé với một bộ tộc da đỏ ở Bắc Mĩ, vì như vậy họ không bị ảnh hưởng của môi trường Pháp bấy giờ và sẽ có thái độ khách quan, đúng đắn khi phê phán những điều trái tai gai mắt, trái với lí trí. Có thể nói Zadich, Căng***, Chất phác, Amazăng, Formôzăngtơ...đều là hiện thân của các triết gia trong thế kỷ ánh sáng, đi chu du khắp nơi trong thiên hạ và phê phán XH. Họ chính là Tác giả khoác áo nhân vật, vận dụng lí trí để đánh giá hiện tượng. Xét cho cùng, các nhân vật ấy đều có tên chung là Lí trí.
    Trong truyện triết học của Voltaire, những vấn đề triết lý sâu sắc không những được kết hợp bnhuần nhuyễn với một thể loại truyện dân gian nhẹ nhàng mà còn được trình bày bằng một văn phong hết sức trong sáng và súc tích. Nhiều khi nhà văn chỉ cần một đôi dòng là đủ làm nổi bật lên được một tình huống hay một tính cách nào đấy. Và thấm vào trong từng trang sách là tiếng cười, khi hóm hỉnh, khi châm biếm hài hước, khi vui đùa, nhưng cũng có khi cay nghiệt khiến cho kẻ thù có thể chết được !
  9. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    3.Văn học Đức thế kỷ 18
    Nếu như ở Anh, cách mạng tư sản nổ ra sớm hơn thì ở Đức, tình hình kinh tế và xã hội lại lạc hậu và phát triển chậm chạp hơn nhiều. Vào thời kỳ này, trong khi Anh, Pháp đã trở thành những quốc gia tập trung từ lâu thì Đức vẫn còn là nước phong kiến cát cứ gồm 360 công quốc nhỏ bé. Giai cấp tư sản Đức thời kì này còn quá yếu ớt.
    Do đặc điểm lịch sử ấy nên sắc thái của phong trào ánh sáng Đức không giống với các nước khác. Yêu cầu nổi lên hàng đầu bấy giờ là đánh thức tinh thần dân tộc trong nhân dân, góp phần vào sự nghiệp thống nhất dân tộc. Về phương diện này, các nhà văn Đức đã thực hiện một cách xuất sắc. Nỗ lực của các nhà văn, nhà thơ, từ Gottsched đến Lessing, từ Bodmer đến Goethe đều tập trung vào việc đấu tranh để xây dựng nền văn học dân tộc. Ta ít gặp tính chất chiến đấu sôi sục, mang đậm màu sắc chính trị như trong văn học Pháp cùng thời kì.
  10. Oshin

    Oshin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/01/2002
    Bài viết:
    653
    Đã được thích:
    0
    a. Từ Gottsched đến Klopstock
    +J.C.Gottsched (1700-1766) là nhà văn, giáo sư văn học, cống hiến to lớn nhất của ông là góp phần xây dựng một ngôn ngữ văn học dân tộc, làm trong sáng ngôn ngữ Đức.
    Trong thơ ca Đức bấy giờ thịnh hành lối văn học baroque, coi nhẹ nội dung, tính tư tưởng và những vấn đề XH của tác phẩm văn học, đồng thời chú ý quá đáng đến hình thức. Gottsched chống lại khuynh hướng ấy và đem đối lập nó với những nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa cổ điển Pháp. Ông đặc biệt quan tâm đến sân khấu, dịch tác phẩm của Cornây và Raxin, các nhà bi kịch cổ điển Pháp, coi như là mẫu mực để noi theo. Ở đây, trong cái ưu cũng có cả cái nhược điểm : ông chưa xuất phát từ chính mảnh đất dân tộc trong khi đấu tranh để xây dựng một nền văn học mới.
    +J.J.Bodmer (1698-1783) và J.J.Breitinger (1701-1776), cả hai đều là giáo sư trường đại học Zurich, đứng đầu trường phái Thụy Sĩ, đối lập với trường phái Leipzig của Gottsched. Hai ông phê phán khuynh hướng mô phỏng các nhà văn Pháp của Gottsched và chủ trương văn học phải trở về với truyền thống thơ ca dân gian và thơ ca cổ của Đức. Hai ông góp phần không nhỏ vào việc thức tỉnh ý thức dân tộc và cải cách văn học Đức theo hướng dân tộc hóa.
    +Nếu như Gottsched, Bodmer, Breitinger chủ yếu là các nhà nghiên cứu lý luận và phê bình văn học ở nửa đầu thế kỷ, thì từ sau 1750, trên văn đàn nổi lên tên tuổi của F.Klopstock (1724-1803), nhà thơ Đức đầu tiên được đông đảo quần chúng yêu thích. Ông rất chú ý đến những truyền thống và lịch sử dân tộc. Bản trường ca Mexiat (Der Messias,1748-1773), gồm 20 khúc ca đã có tiếng vang rộng lớn. Khi cách mạng Pháp bùng nổ, Klopstock là người Đức đầu tiên làm thơ ca ngợi.
    b.G.E.Lessing (1729-1781) là nhà tư tưởng, nhà phê bình văn học, nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch danh tiếng. Những bức thư về nền văn học hiện đại (1759-1765), Laocôôn hay về giới hạn của hội họa và thơ ca (1766), Kịch trường Hamburg (1767-1769) là những công trình có giá trị lý luận văn học và tính chiến đấu cao. Lesing được xem như người sáng lập ra ngành sân khấu Đức, và khái quát hơn, cha đẻ của nền văn học dân tộc mới ở Đức.
    Lessing xuất phát từ thế giới quan duy vật, kịch liệt phê phán tất cả các khía cạnh thuộc hệ tư tưởng phong kiến Đức. Không tham gia trường phái nào, cả Gottsched hay Bodmer, nhưng ông chống lại khuynh hướng mô phỏng chủ nghĩa cổ điển Pháp của Gottsched. Ông kêu gọi các nhà văn quay về với những truyền thống dân tộc, chủ trương văn học phải hướng về nhân dân, đưa lên sân khấu những nhân vật bình dân với tất cả tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của họ. Lessing cũng góp sức vào việc xây dựng khoa mĩ học duy vật. Ông đề xuất phải miêu tả nhân vật gắn bó với môi trường XH, xây dựng những mâu thuẫn trong kịch căn cứ vào những mâu thuẫn có thật trong đời sống. Cùng với Diderot ở Pháp, ông là người mở đường cho chủ nghĩa hiện thực.
    c.Trào lưu văn học "Bão táp và xung kích" (Sturm und Drang)
    Trào lưu văn học "Bão táp và xung kích" xuất hiện khoảng năm 1770, do một số nhà văn, nhà thơ trẻ ở nhiều thành phố khác nhau trên toàn nước Đức, gặp gỡ nhau tại thành phố Strasburg và thành lập. Trào lưu nổi lên những cây bút sau đây : J.G.Herder (1744-1803), nhà lí luận, với tác phẩm Sự giống nhau giữa nghệ thuật thơ ca Anh và Đức; F.Klinger (1752-1831) là tác giả vở kịch "Bão táp và xung kích", cùng tên trào lưu...Tham gia trào lưu "Bão táp và xung kích" còn phải kể đến Goethe và Schiller thời trẻ, nhũng tên tuổi làm vẻ vang văn học Đức thế kỷ 18.
    "Bão táp và xung kích" là giai đoạn phát triển cao của phong trào ánh sáng ở Đức. Tên gọi trào lưu nói lên đầy đủ tinh thần chiến đấu sục sôi, tuy nó không phải là một tổ chức chính trị, cũng không phải là một phong trào cách mạng.Tuy nhiên, đó chỉ là một trào lưu tự phát trong văn học. Các tác giả phản kháng tình trạng XHPK trì trệ nhưng lại chưa nhìn ra con đường thay đổi nó như thế nào. Nhiều người phản kháng chỉ để phản kháng, thậm chí có khi sự phản kháng lại mang màu sắc phẫn nộ vô chính phủ.
    Mặc dầu còn thiếu sót và chỉ tồn tại trong một thời gian không lâu, khoảng 20 năm, trào lưu "Bão táp và xung kích" đã mở ra một giai đoạn mới trong văn học Đức. Sau khi trào lưu này tàn lụi, văn học Đức bước vào giai đoạn cổ điển chủ nghĩa, chậm hơn một thế kỷ so với chủ nghĩa cổ điển Pháp, tính chất cũng khác.

Chia sẻ trang này