1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xin phép được mở một chủ đề về Kinh Dịch

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi Hayyeunhuchuayeulannao, 02/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hayyeunhuchuayeulannao

    Hayyeunhuchuayeulannao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    Xin phép được mở một chủ đề về Kinh Dịch

    Chào các bác, hôm trước tôi có đọc bài của 1 bac viết về Kinh Dịch hay quá nên tôi có mua một quyển KINH DỊCH trọn bộ về đọc, nhưng thú thật trình độ kém không thể nào hiểu nổi cách bói toán xem quẻ trong đó, nếu bác nào ở đây có kiến thức về Kinh dịch rất mong các bác chỉ giáo để anh em được sáng mắt. Xin đa tạ các bác.
  2. fanmatic

    fanmatic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/06/2002
    Bài viết:
    7.045
    Đã được thích:
    0
    Bát quái là tám quẻ, mỗi quẻ là một ký hiệu (phù hiệu) gồm ba vạch (hào), chồng lên nhau, hoặc toàn vạch đứt (hào âm ?" ?") như quẻ Khôn, hoặc toàn vạch liền (hào dương ?"?") như quẻ Càn, hoặc kết hợp cả vạch đứt và vạch liền (sáu quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài). Để dễ nhớ ký hiệu tám quẻ người xưa bày ra khẩu quyết: Càn tam liên; Khôn lục đoạn; Chấn ngưỡng vu; Cấn phúc uyển; Khảm trung mãn; Ly trung hư; Đoài thượng khuyết; Tốn hạ đoạn, nghĩa là: Càn ba liền; Khôn sáu khúc; Chấn chén ngửa; Cấn chén úp; Khảm bụng đầy; Ly ruột rỗng; Đoài hở trên; Tốn đứt dưới.
    Tám quẻ tượng trưng cho tám yếu tố trong thiên nhiên (Càn: trời; Khôn: đất; Chấn: sấm; Cấn: núi; Tốn: gió; Khảm: nước; Ly: lửa; Đoài: đầm nước), và mỗi quẻ còn mang thêm nhiều ý nghĩa tượng trưng riêng liên quan người, vật, v.v... Chẳng hạn: Càn: cương kiện; Khôn: nhu thuận; Chấn: động; Cấn: tĩnh; Tốn: nhập vào; Khảm: sa xuống; Ly: sáng sủa; Đoài: vui vẻ...
    Ý nghĩa tượng trưng của mỗi ký hiệu (quẻ) trong bát quái có thể mở rộng phù hợp với ý nghĩa căn bản của biểu tượng. Như quẻ Càn, từ cái nghĩa là trời, cương kiện lại được mở rộng thành: vua, cha, rồng, ngựa, vàng, ngọc, v.v... Vì thế, tám quẻ mở rộng ra đến cùng cực thì có thể bao quát các hiện tượng, trạng thái của vũ trụ vạn vật; mà vũ trụ vạn vật gom tóm lại thì có thể quy về bát quái. Do đó, Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ phát biểu: ?oBát quái có thể dùng tượng trưng cho muôn vật...? (Dịch kinh đại toàn. California: tác giả xb., 1997, Tập III. tr. 579.)
    Ý nghĩa này của bát quái trong mối tương quan giữa bát quái và vũ trụ vạn vật đã lý giải vì sao khi xây dựng Đền thánh Cao Đài (1931-1955) tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, thị xã Tây Ninh ngày nay, thì phần kiến trúc mệnh danh Bát quái đài chính là nơi tín đồ Cao Đài thờ Thượng đế theo nghĩa thờ đấng Tạo hóa đã tạo lập vũ trụ càn khôn. Ngay khi mới mở đạo Cao Đài, ngày 24-10-1926 thánh giáo của Cao Đài Tiên ông cũng giảng về mối tương quan giữa bát quái và vũ trụ như sau: ?oNên Thầy khai bát quái mà tác thành càn khôn thế giái...? (Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Sài Gòn: Nhà in Tam Thanh, 1928, tr. 42.)
    Ở phía bắc huyện Hoài Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, có một nơi gọi là Bát quái đài hay Bát quái đàn, mà theo truyền thuyết đấy là nơi Phục Hy bắt đầu vạch ra bát quái. Nhưng Bát quái đài của Cao Đài có ý nghĩa khác hẳn.
    Bát quái đài ở Đền thánh (có tám cột rồng vàng ở tám góc của bát quái) là nơi thờ đức Ngọc Hoàng Thượng đế (Cao Đài Tiên ông) và chư thần thánh, tiên phật. Bát quái đài gồm mười hai bậc (mỗi bậc cao 10cm, có tám cạnh) bằng đá mài màu vàng xây chồng lên nhau, nhỏ dần từ dưới lên trên. Bậc chót hết đặt trên nền cao hơn mặt đất 2,4 mét (bội số của 12), như vậy bậc trên cùng cách mặt đất 3,6 mét (bội số của 12).
    Mười hai bậc của Bát quái đài tượng trưng cho mười hai tầng trời, gồm có cửu trùng thiên (chín tầng: tầng 1, tầng 2, Thanh thiên, Huỳnh thiên, Xích thiên, Kim thiên, Hạo nhiên thiên, Phi tưởng thiên, Tạo hóa thiên) cộng thêm ba tầng nữa: Hư vô thiên, Hội nguơn thiên, Hỗn nguơn thiên.
    Theo giáo lý Cao Đài, Thượng đế là Đấng thập nhị khai thiên (lập ra mười hai tầng trời), số 12 là số riêng của Trời. Cho nên khi lạy Trời thì 3 lạy, mỗi lần lạy gật đầu 4 cái, tương đương 12 lạy. Thánh giáo Cao Đài: ?oThập nhị khai thiên là Thầy, chúa cả càn khôn thế giới (...). Số mười hai là số riêng của Thầy.? (Thánh ngôn hiệp tuyển. Bổn thứ nhứt. Sài Gòn: nhà in Tam Thanh, 1928, tr. 12.)
    2. Bát quái theo truyền thống kinh Dịch
    Theo truyền thuyết, Phục Hy tạo ra bát quái tiên thiên, các quẻ theo thứ tự: Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Văn Vương tạo ra bát quái hậu thiên, các quẻ theo thứ tự: Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Kiền, Khảm, Cấn. Trong bài Kinh Dịch với thiền Cao Đài trên tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ, số 3 (25).1999, phần nào ý nghĩa của hai bát quái này đối với hành giả đã được trình bày khái quát. (Hoặc xem Lê Anh Dũng, Giải mã truyện Tây du. Nxb Trẻ, 2000, tr. 53, 56 (bài Ngọn gió trong lò).
    3. Bát quái dân gian
    [​IMG]
    Trong dân gian, thầy bói có khi dùng loại bát quái này. Nó gồm tám quẻ xếp đặt như sau (kể theo chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Nghiên cứu kinh Dịch, John Blofeld ngờ rằng có thể do các thầy bói không nắm chắc về bát quái nên sắp đặt sai vị trí, hoặc là có một nguyên do hợp lý nào khác nhưng ta chưa hiểu rõ. (John Blofeld, I ching (the Book of Change). New York: E.P. Dutton & Co. Inc., 1965, p. 218.)
    Bát quái dân gian còn thường dùng trong phong thủy, nhằm thay đổi hướng ?otà khí?, chuyển vận xấu thành vận tốt cho người chủ những ngôi nhà chẳng may tọa lạc ở những vị thế mà thuật phong thủy cho là bất lợi. Người ta thường treo bát quái trừ tà ở truớc nhà, trước cửa, trên khung cửa, nhằm che chắn hay ?ohóa giải? những hướng xấu (tà khí) từ bên ngoài đi vào nhà. Chẳng hạn, chủ nhà thường treo bát quái trong các trường hợp như sau:
    ?" cửa chính nhà mình trực diện cửa chính nhà khác;
    [Trường hợp này, nếu một nhà đã treo bát quái thì nhà đối diện thường cũng phải treo bát quái để ngăn chặn ?otà khí? do nhà hàng xóm tống khứ vào nhà mình (!).]
    ?" đòn dông (đầu hồi) mái nhà khác hoặc kèo quyết của nhà khác chỉa thẳng vào nhà mình;
    [Kèo quyết là hai cây kèo tại góc chịu cả hai mái chái giáp nhau. Nhiều đền, chùa, miếu... vì thế thường tạo dáng cho nơi hai mái chái giáp nhau cong quớt lên trời, để tránh gây ảnh hưởng xấu cho nhà khác.]
    ?" góc tường nhà người khác (hình chữ L) như mũi nhọn chỉa vào nhà mình;
    ?" hàng rào nhà người khác tạo hình những mũi tên nhọn chỉa vào nhà mình;
    ?" một con đường, một cầu thang chạy thẳng vào cửa chính nhà mình;
    ?" trước nhà mình có một chướng ngại vật án ngữ (cột đèn, cột điện thoại, vách tường hậu nhà trước mặt, nghĩa địa, miệng cống, toa-lét, v.v...);
    ?" nhà mình xoay về hướng tây-nam (phong thủy cho là hướng của... quỷ!), v.v...
    (Xem Albert Low, Practical feng shui for the home. Selangor Darul Ehsan: Pelanduk Publications, 1998, pp. 12, 28, 54, 106, 440, và rải rác trong sách.)
    4. Bát quái Cao Đài
    [​IMG]
    Bát quái đài của Đền thánh Cao Đài Tây Ninh có một đặc điểm khác hẳn các thuyết Dịch lý truyền thống. Như trên đã nói, Bát quái đài gồm mười hai bậc; ở bậc thứ mười hai cẩn tám quẻ bát quái, nhưng không theo thứ tự tiên thiên của Phục Hy (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn), mà cũng không theo thứ tự hậu thiên của Văn Vương (theo chiều kim đồng hồ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Bát quái Cao Đài ở Đền thánh đổi chiều xoay Bát quái hậu thiên, tám quẻ được đặt ngược chiều kim đồng hồ tức là cùng chiều với chiều quay của trái đất quanh mặt trời. Như vậy, chỉ có hai quẻ Chấn (hướng đông) và Đoài (hướng tây) giữ nguyên vị trí, sáu quẻ còn lại đều đổi chỗ (ở đây, hình minh họa Bát quái hậu thiên đã không đặt Nam trên và Bắc dưới theo truyền thống kinh Dịch Trung Hoa, để dễ đối chiếu với Bát quái Cao Đài).
    Tại sao Cao Đài đổi chiều Bát quái hậu thiên như vậy? Theo sử quan Cao Đài, lịch sử văn minh, tư tưởng triết giáo của nhân loại trải qua ba thời kỳ (xem thêm Lê Anh Dũng, Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926. Huế: Nxb Thuận Hóa, 1996, tr. 15-22):
    - Nhất kỳ và Nhị kỳ Phổ độ là chiều vãng, chiều đi ra;
    - Tam kỳ Phổ độ là chiều lai, chiều đi vào.
    Con đường của đạo Cao Đài (cũng gọi Đại đạo Tam kỳ Phổ độ) là con đường phản phục hay quy nguyên phản bản. Nói cách khác: Bát quái hậu thiên của Văn vương là chiều vãng (nhất tán vạn, của Nhất và Nhị kỳ Phổ độ); còn Bát quái Cao Đài là chiều lai (vạn quy nhất) của Tam kỳ Phổ độ.
    Trong kiến trúc Đền thánh Tây Ninh, Bát quái đài nằm về hướng đông. Khi đặt ngôi thờ Thượng đế (cũng là Thái cực Thánh hoàng, Đấng sáng tạo vũ trụ) ở hướng đông thì tương ứng với cung Chấn của Bát quái đài. Chấn là sấm động, là tiếng nổ. Theo giáo lý Cao Đài, vũ trụ được tạo thành từ một tiếng nổ. Thực vậy, dường như đã có phần nào tương đồng với lý thuyết ?obig-bang? khi thánh giáo Cao Đài ngày 23-9 Bính Tý (06-11-1936) giảng về sự tạo lập vũ trụ như sau: ?o... nổ tung ra một tiếng vang lừng dữ dội phi thường, làm cho rúng động cả không gian ... Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái cực trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn quyền hành, thống chưởng cả càn khôn vũ trụ ... hóa sanh muôn loài vạn vật.? (Đại thừa chơn giáo. Sài Gòn: Cao Đài Chiếu Minh xb., 1950, tr. 410.)
    Ÿ
    Là một tôn giáo bản địa, đạo Cao Đài quả thực đã có những nét rất riêng khi ?onói khác? truyền thống cũ của triết giáo phương Đông, mà Bát quái Cao Đài là một trường hợp điển hình, nhưng không phải là duy nhất. Điều ấy cho thấy Cao Đài là một cái tên thoạt nghe tưởng quen, nhưng hóa ra lại rất lạ, mà hành trình tìm kiếm bản sắc Cao Đài vẫn còn là một mảnh đất mới cho nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
    ----------------------
    thấy cái bài này post lên[:D]
  3. blowjob

    blowjob Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/11/2005
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0

    Ra mắt Trung tâm Nghiên cứu Kinh Dịch đầu tiên ở ĐNA11:30'' 18/06/2005 (GMT+7)
    (VietNamNet) - Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Kinh Dịch đầu tiên ở Đông Nam Á (thuộc Hội Nghiên cứu Khoa học Đông Nam Á- Việt Nam) đã làm lễ ra mắt sáng 17/6.

    Kinh Dịch từ nhiều thế kỷ nay đã góp mặt ở Việt Nam như một bộ phận có phần huyền bí của hệ thống triết học phương Đông. Có thời Kinh Dịch bị "đổ oan" là gắn với thứ bói toán, mê tín dị đoan nên không được chú ý nghiên cứu phát triển. Bởi vậy, sự ra đời của Trung tâm này là niềm vui lớn của những người bấy lâu âm thầm say mê Dịch học.
    Nhiệm vụ của trung tâm là nghiên cứu, phân tích về Kinh Dịch đại cương, Kinh Dịch chuyên ngành và văn hoá cổ phương Đông. Một nhiệm vụ quan trọng khác là ứng dụng Kinh Dịch vào lĩnh vực dự trắc, tư vấn thiết kế xây dựng và quy hoạch các công trình kiến trúc. Ngoài ra, trung tâm cũng làm công việc dự trắc cho cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu trên tất cả các lĩnh vực, từ hoạt động kinh doanh tới các sự việc hằng ngày; bao gồm cả giải toả các vướng mắc về mặt tâm lý, đưa ra lời khuyên về ứng xử trong quan hệ đời thường...
    Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, Kinh Dịch là một tác phẩm dân gian có từ rất lâu đời, đã có những khái niệm cơ bản trong thời đại nhà Trụ. Văn Vương là người có công đầu trong việc hoàn cỉnh và đưa ra hệ thống 64 quẻ, thuộc tiên thiên bát quái và viết hào từ cho các quẻ này. Chu Công Đán, em trai Văn Vương, là người chỉnh lý và đưa ra hệ thống Hậu thiên bát quái. Khổng Tử là người có công lớn nhất trong việc tập hợp chỉnh lý Kinh Dịch. Ở nước ta, các tác giả như Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê đã từng chuyển ngữ Kinh Dịch.
    Trao đổi với chúng tôi, Ths. Trần Mạnh Linh, GĐ Trung tâm, cho biết: "Tiếng là bây giờ mới chính thức thành lập trung tâm, nhưng thực tế hoạt động nghiên cứu của chúng tôi đã bắt đầu từ lâu và ngày càng mạnh từ sau khi CLB Kinh Dịch Hà Nội ra đời vào năm 2002".
    Bước đầu Trung tâm mới có khoảng 20 thành viên, chọn từ hơn 200 hội viên CLB Kinh Dịch HN, đều là những người từng nghiên cứu Kinh Dịch khá sâu sắc. Năm 1999 ông Trần Mạnh Linh mở những lớp đào tạo Kinh Dịch đầu tiên ở HN. Tuy nhiên, sự đào tạo này cũng mới chỉ có sự công nhận trong nội bộ CLB. "Thời gian tới, chúng tôi sẽ cố gắng để có được chứng chỉ có tầm rộng lớn hơn"- ông Linh nói.
    Hiện nay ở nước ta có hai luồng quan điểm khác nhau về nguồn gốc của Kinh Dịch. Trái với suy nghĩ lâu nay rằng Kinh Dịch là do người Trung Hoa sáng tạo nên, một số học giả cho rằng học thuyết này phải là di sản của dân tộc Lạc Việt. Khi được hỏi quan điểm của Trung tâm về vấn đề này, ông Trần Mạnh Linh nói: "Cá nhân tôi thì cho rằng đến thời điểm này chưa có cơ sở nghiên cứu nào để khẳng định Kinh Dịch là của người Việt. Tuy nhiên, trong chính trung tâm cũng có hai luồng ý kiến trái ngược. Tuy nhiên khi giảng dạy, giáo trình của chúng tôi sẽ vẫn thống nhất theo quan điểm cũ".
    ? D.Huyền
    http://www.vnn.vn/vanhoa/vandekhac/2005/06/455873/
  4. nhakinhdoanhtheomangvidai

    nhakinhdoanhtheomangvidai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    132
    Đã được thích:
    0
    Cái này thú vị thật, nhưng phải bỏ rất nhiều công sức tìm hiểu và chiêm nghiệm ngay chính cuộc sống của mình!
    Trước đây khi làm gì cũng hay lấy mấy đồng tiền bát quái ra gieo quẻ, nhất là những lúc làm ăn thất bát, khủng hoảng niềm tin về chính mình, thì tìm đến với bói toán càng nhiều. Nhưng nghiệm thấy, các quẻ hào xâu xa quá, chẳng thể nào luận nổi, và với mấy ông thày mình, giáo sư tiến sĩ nghiên cứu và tâm linh và đông phương học, cùng 1 quẻ mình gieo mà mỗi ông 1 phách, chả biết tin ai!
    Túm lại: tin vào mình là điều quan trọng nhất trong cuộc sống!

Chia sẻ trang này