1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Xứ Thanh kính chào quý khách: Lịch sử - Văn hoá- Địa lý - Danh lam thắng cảnh - Lễ hội - Nghề truyền

Chủ đề trong 'Thanh Hoá' bởi ke_tron_tu, 26/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Những người lần đầu tiên ra Thanh Hoá được ăn con cá bống bốp sông Mã tần lá lốt sẽ tin rằng con cá này không thể chế biến cách nào ngon hơn. Con cá bống bốp nhỏ bằng ngón chân cái, gần giống con cá bống dừa trong Nam, nhưng thịt dai và ngọt hơn. Cá chỉ mổ bỏ ruột còn tất cả vẫn để nguyên, nấu và nêm nếm như nước xúp, trước khi ăn cho lá lốt xắt nhỏ vào và tắt lửa ngay. Lá lốt trong Nam bộ có thể tìm thấy ở mọi nơi, nó cũng được đưa vào bữa ăn nhưng chưa ai chế biến nó thành món canh ngon tuyệt như dân Thanh Hoá.
  2. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Thời Hùng Vương:
    Nước Văn lang chia thành 15 bộ trong đó có bộ cửu Chân. Bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang thời các vua Hùng là miền đất khó xác định địa giới rành mạch, có thể bao gồm Thanh Hoá, một phần đất Nghệ An và đất phía nam Ninh Bình ngày nay

    Thời thuộc Hán: (111 tCn đến năm 210)
    Đất Thanh Hoá ngày nay là một phần quận Cửu hân, thống thuộc Nộ Giao Chỉ. Các huyện thuộc Hán vào khoảng 7 huyện: * 1. Huyện Tư Phố: Tức là vùng đất huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh và một phần huyện Ðông Sơn, một phần huyện Quảng Xương và gômg cả huyện Hoằng Hoá. * 2. Huyện Cư Phong: Tức là vùng từ bắc huyện Tĩnh Gia kéo sang huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Quảng Xương, Ðông Sơn đến huyện Thọ Xuân. * 3. Huyện Ðô Lung: Tức là vùng đất Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Quan Hoá (cũ). Về sau gọp Ðô Lung và Vô Biên. * 4. Huyện Dư Phát: Tức là từ cửa Vích (Lạch Trường-Hậu Lộc) kéo sang Hà Trung, Nga Sơn và Vĩnh Lộc. Về sau gộp Dư Phát và Tư Phố. * 5. Huyện Hàm Hoan: Tức là Nghệ An ngày nay. * 6. Huyện Vô Thiết (cũng gọi là Vô Công): là vùng đất bắc Thạch Thành, một phần Cẩm Thuỷ-Ninh Bình. * 7. Huyện Vô Biên: Tức là miền đất tương đương với huyện Ngọc Lặc, Thường Xuân-Lang Chánh.
    Thời thuộc Tuỳ - Ðường
    - Nhà Tuỳ (từ 581- 617): Ðặt lại tên cũ là quận Cửu Chân (đổi Châu thành Quận) Quân cửu Chân đời nhà Tuỳ gồm 7 huyện: Cửu Chân, Di Phong, Tư Phố, Long An, Quân An, An Thuận, Nhật Nam. - Nhà Ðường (từ 618- 905): Sau khi duyệt nhà Tuỳ, nhà Ðường sắp xếp lại toàn bộ chế độ hành chính và phân chi, quân. Vũ Ðức thứ 5 (622), nhà Ðường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lĩnh 10 châu trong đó có ái Châu Cửu Chân quận 9tức Thanh Hoá). ái Châu đời Ðường gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Trường Lâm.

    Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều (từ 210-581):
    Thời này Ðào Hoàng xin "tách đất Cửu chân mà đặt huyện Cửu Ðức". Quận Cửu Ðức tách ra là huyện Hàm Hoan đời hán, phần tương đương với Nghệ An ngày nay. Như vậy quận Cửu Chân cuối đời Tam Quốc là phần đất tương đương với Thanh Hoá ngày nay. Quận Cửu Chân thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều bao gồm 7 huyện: * 1. Huyện Tư Phố: Vẫn là huyện Tư Phố đời Hán. * 2. Huyện Di Phong: Là huyện Cư Phong đời Hán. * 3. Huyện Trạm Ngô: Là huyện Tư Phố và Di Phong, có thể cắt từ phần đất của hai huyện trên mà đặt ra. * 4.5 Huyện Kiến Sơ và huyện Phù Lạc: Theo Ðào Duy Anh thì hai huyện này sẽ ghép thành huyện Sùng Bình đời Ðường, ở về phía đông ái Châu" có lẽ gồm cả miền Hà Trung, Thạch Thành, Vĩnh Lộc..." song có nhiều khả năng huyện Kiến Sơ thuộc Hoằng Hoá, Hậu lộc, Nga Sơn, Hà Trung còn Phù Lạc là vùng huyện Quảng Xương và nam Hoằng Hoá. * 6. Huyện Thường Lạc: Là miền Ðông nam Thanh Hoá tương đương với huyện Tĩnh Gia. *7. Huyện Tùng Nguyên: Tương đương với huyện Nông cống, Triệu sơn, Như Xuân, Như Thanh. - Nhà tề (479-502) Bỏ huyện Ninh Di (có lẽ ghép với huyện bên cạnh) Ðổi huyện Ðô Lung thành Cát Lung - Nhà Lương (502-557) Lấy quận Cửu Chân đặt là ái Châu. Tên ái Châu có từ đây và đất Thanh Hoá từ quận chuyển thành Châu. - Nhà trần (từ 557-581): Vẫn giữ ái Châu như cũ. Năm 581 nhà Tuỳ diệt nhà Trần.

    Nhà Ðinh - Lê -Lý:
    Ðinh Tiên Hoàng chia nước thành 10 đạo, có lẽ các huyện thuộc ái Châu vẫn giữ nguyên như cũ. Nhà Lý chia nước thành 24 bộ, riêng châu ái thì gọi là trại, sau gọi là phủ Thanh Hoá vào năm Thuận Thiên (nhà Lý) thứ nhất, địa danh Thanh Hoá bắt đầu từ đây

    Nhà Trần - Hồ

    Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông 1397) đổi làm trấn Thanh Ðô lúc này gômg 7 huyện và 3 Châu ( mỗi châu có 4 huyện). Bảy huyện: Cổ Ðằng ( một phần huyện Hoằng Hoá ngày nay), Cổ Hoằng ( một phần huyện Hoằng Hoá ngày nay), Ðông Sơn (là huyện Ðông Sơn ngày nay), Cổ Lôi (huyện Thọ Xuân và một phần huyện Thường Xuân) Vĩnh Ninh (huyện Vĩnh Lộc ngày nay), Yên Ðịnh (huyện Yên Ðịnh ngày nay), Lương Giang (huyện Thiệu Hoá và một phần của huyenẹ Thọ Xuân). Ba Châu: Châu Thanh Hoá, gồm các huyện: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang. Châu ái, gồm các huyện: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga. Châu Cửu Chân, gồm các huyện: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên giác, Nông Cống. Nhà Minh lại đổi Thiên Xưng là phủ Thanh Hoá như cũ, có thêm 2 huyện: Lôi Dưng (vùng Thọ Xuân và bắc Thiệu Yên), Thuỵ Nguyên (vùng nam Thiệu Yên và tây Ðông Sn)


  3. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Nhà Lê - Nguyễn
    Ðặt phủ Thanh Hoá trong đạo Hải Tây (là đạo trấn giữ các vùng đất bờ biển nước Ðại Việt), rồi chia nước chia ra làm 13 thừa tuyên. Thanh Hoá là 1 trong 13 thừa tuyên ấy. Suốt thời vua Lê, thừa tuyên Thanh Hoá gồm 4 phủ, 16 huyện và 4 châu: - Phủ Thiệu Thiên (phủ Thiệu nay là Thiệu Hoá) có 8 huyện: huyện Thuỵ Nguyên (trước đó là huyện Lưng Giang) có 1 hưng, 44 xã, 5 trang, 1 vạn, 8 phường, trại; huyện Vĩnh Phúc (trước đó là huyện Vĩnh Ninh, nay là Vĩnh Lộc) có 2 hưng, 24 xã, 2 trại, 1 sở, 1 vạn; huyện Ðông Sn có 75 xã; huyện Lôi Dưng (Thọ Xuân ngày nay) có 63 xã, 30 châu, sở, trang; huyện Yên Ðịnh có 57 xã, 16 trang, 8 phường, 1 vạn; huyện Cẩm Thuỷ có 4 sách, trang, 1 trại; huyện Qung Bình (tức Quan Hoá, Bá Thước ngày nay) có 4 xã, 24 sách, 3 trang. Sở (tức tỉnh lỵ) đóng ở Dưng Xá (Thiệu Dưng, Thiệu Hoá ngày nay), ty (c quan qun lý cấp tỉnh) đóng ở Doanh Xá (Thiệu Khánh, Thiệu Hoá ngày nay). - Phủ Hà Trung có 4 huyện: huyện Hoằng Hoá (trước đó là huyện Cổ Ðằng) có 67 xã, 2 trang, 1 sở; huyện Thuần Lộc (trước đó là huyện Thuần Hựu, ngày nay là huyện Hậu Lộc) có 1 hưng, 38 xã, 1 sở, 3 trang, 1 phường, 1 vạn; huyện Nga Sn có 34 xã, 1 trang, huyện Tống Sn (ngày nay là huyện Hà Trung) có 30 xã, 33 trang, 3 trại. - Phủ Tĩnh Gia có 3 huyện: huyện Nông Cống có 15 xã, 24 sách, 3 sở, 1 trang, 1 phường; huyện Ngọc Sn (ngày nay là huyện Tĩnh Gia) có 54 xã, 4 phường, 1 trang, 1 vạn; huyện Qung Xưng có 51 xã. - Phủ Thanh Ðô (tức phần đất phía t ngạn sông Chu và sông Âm) có 4 châu, 1 huyện: huyện Thọ Xuân có 4 động; châu Khai Na (nay là huyện Quan Hoá) có 10 động; châu Sầm (nay là Sầm Nưa thuộc Lào) có 10 động. Còn có phủ Trường Yên (trước đó là thành Hoá Ngoại) ngày nay là tỉnh Ninh Bình nên ở đây không chép. (Hưng tưng đưng tổng gồm nhiều xã; xã tưng đưng xã hoặc thôn, làng; châu là huyện miền núi; sách là một bn tức là thôn ở miền núi; phường là một thị tứ tức tụ điểm dân cư là các nghề phi nông nghiệp; vạn là một tụ điểm cư dân của dân ngư nghiệp; trang, trại và sở là đất của một dòng họ tưng đưng với đồn điền) Năm Gia Long thứ 1 (1802) gọi lại bằng trấn Thanh Hoá, có 4 phủ, 16 huyện như cũ, riêng 4 châu chia lại làm 3 châu là: Quan Da, (tức là huyện Quan Hoá), Lang Chánh và Tàm Châu. Năm Minh Mệnh thứ XII (1831) đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu có tên ngày nay là tỉnh Thanh Hoa, chia lại chút ít: - Chia phủ Thiệu Hoá làm 2: phủ Thiệu Hoá và phủ Qung Hoá. - Hợp huyện Thọ Xuân và châu Lang Chánh làm một gọi là châu Lang Chánh thuộc phủ Thọ Xuân. - Hợp Tàm Châu và Quan Da làm một gọi là châu Quan Hoá thuộc phủ Thọ Xuân. Năm sau (1832) đặt thêm châu Thường Xuân cho thuộc phủ Qung Hoá. Ðổi tất c động làm xã, sách. Năm thứ XIX (1838) đặt thêm huyện Mỹ Hoá nay là một phần đất Hoằng Hoá. - Ðổi Thuỵ Nguyên làm Thiệu Hoá. - Ðổi Qung Ðịa (hay là Qung Tế) làm Thạch Thành. - Ðổi Lôi Dưng làm Thọ Xuân. - Ðổi Ngọc Sơn làm Tĩnh Gia. Năm Thiệu Trị thứ I (1841) lại đổi là tỉnh Thanh Hoá. Thế là từ những năm đó, tên gọi các đn vị hành chính cấp huyện đã quen thuộc cho đến ngày nay. Ðời Minh Mệnh cũng đã cố định các lỵ sở: - Tỉnh lỵ (hay trấn lỵ) Thanh Hoá trong năm Gia Long thứ 3 (1804) đã dời từ Dưng Xá (Ðông Sn) đến tổng Thọ Hạc, xây thành Thanh Hoá, tục gọi là Hạc Thành; ngày nay là thành phố Thanh Hoá. (đời Lê, trấn lỵ Thanh Hoá ở địa phận các xã Yên Trung và Yên Lâm thuộc hụ Thuỵ Nguyên, sau dời về Dưng Xá) - Lỵ sở phủ Hà Trung ở xã Bình Lâm, huyện Nga Sơn (trước ở xã Duy Tinh, huyện Hậu Lộc). - Lỵ sở huyện Hậu Lộc ở xã Duy Tinh (trước là phủ lỵ Hà Trung). - Lỵ sở huyện Hoằng Hoá ở thôn Thọ Lộc, xã Bút Sơn (đời Lê thì ở xã Tử Ðà). - Lỵ sở phủ Quảng Hoá ở xã Nhân Lộ, huyện Vĩnh Lộc (trước ở xã Biện Hạ - tức là Bồng Hạ). - Lỵ sở huyện Cẩm Thuỷ ở xã Quan Phác (trước ở xã Thuý Doanh). - Lỵ sở phủ Thiệu Hoá ở xã Kiến Trung, huyện Thuỵ Nguyên (trước ở xã Yên Lãng dời đến xã Mật Vật đến xã Bằng Trình). - Lỵ sở huyện Ðông Sn ở xã Thọ Hạc (trước ở xã Cổ Ðô dời đến xã Thạch Khê). - Lỵ sở huyện Yên Ðịnh ở xã Ða Lộc (trước ở xã Lê Xá). - Lỵ sở phủ Thọ Xuân ở xã Xuân Phố, huyện Lôi Nguyên (trước ở xã Thịnh Mỹ). - Lỵ sở phủ Tĩnh Gia ở thôn Liên Xá, huyện Ngọc Sơn (trước ở xã Hi Châu dời đến thành Thổ Sn, xã Vân Trai). - Lỵ sở huyện Qung Xưng ở xã Cung Thượng (trước ở thôn Nang, xã Hưng Lễ). - Lỵ sở huyện Nông Cống ở thôn Tống Công, xã Châu Chuế. Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm Minh Mênh thứ X (1831) thì đất Thanh Hoá thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, mức cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía Tây 1 độ 40 phân.

  4. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Thời thuộc Pháp:
    Thời thuộc Pháp, tỉnh Thanh Hoá thuộc quản lý của triều đình Huế, có dinh công sứ Pháp bên ngoài Hạc Thành; trong thành có các chức quan đầu tỉnh là tổng đốc, bố chánh và án sát, dưới có các quan phủ và huyện, tri châu, dưới nữa là chánh tổng, lý trưởng, (lý trưởng là quan qun lý xã do dân bâù và được quan huyện thay mặt triều đình thừa nhận). Số tổng, xã, thôn làng như cũ nhưng từ huyện trở lên thì gọn lại còn 5 phủ, 9 huyện, 5 châu ở miền núi và 1 thuỷ c phường tức là "tổng nổi" của dân chài lưới, đó là: - Phủ Hà Trung, phủ Thiệu Hoá, phủ Thọ Xuân, phủ Tĩnh Gia và phủ Qung Hoá. - Huyện Nga Sơn, huyện Nông Cống, huyện Hậu Lộc, huyện Hoằng Hoá, huyện Ðông Sn, huyện Qung Xưng, huyện Cẩm Thuỷ, huyện Yên Ðịnh, huyện Thạch Thành. - Châu Thường Xuân, châu Ngọc Lặc, châu Lang Chánh, châu Quan Hoá, châu Như Xuân. - Một thủy cơ phường gồm 13 làng có chánh tổng đóng ở Bến Ngự - Lò Chum, TP Thanh Hoá. Năm 1925, Pháp và triều đình Huế cắt 4 tổng: Thiết ống, Cổ Lũng, Sa Lung và Ðiền Lư của châu Quan Hoá ra đặt thành một châu mới gọi là Tân Hoá; ngoài 4 tổng hay là 4 mường: mường Khô (Ðiền Lư), mường ống (Thiết ống), mường Khoàng (Cổ Lũng), mường Ai (Sa Lung) ra, Tân Hoá còn bao gồm mường Lau (Ban Công), mường Kỷ (Kỳ Tân), mường Ca Gia (Văn Nho) và mường Pa Khán (La Hán) nữa.
    Sau cách mạng tháng 8 năm 1945:
    [​IMG]
    Chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà qui định dưới tỉnh chỉ còn huyện và xã cho nên không còn phủ và châu nữa, mặc dù các tên riêng vẫn như cũ. Riêng phủ Qung Hoá đổi thành huyện Vĩnh Lộc, châu Tân Hoá đổi thành huyện Bá Thước để kỷ niệm Cầm Bá Thước
    Như vậy, tỉnh Thanh Hoá gồm 9 huyện cũ cộng với 5 huyện do phủ đổi thành và 6 huyện do 6 châu đổi thành là 20 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ. Từ tháng 5/1954 qui định dưới huyện thì xã là cấp hành chính nhỏ nhất, các huyện đặt lại tên xã mới theo nguyên tắc lấy một chữ của tên huyện đặt trước hoặc sau tên cũ của xã hoặc làng, hoặc thôn thành tên xã như hiện nay, trừ một số huyện miền núi và riêng huyện Tĩnh Gia, Nông Cống thì không làm như vậy. Năm 1965, Chính phủ thành lập một huyện mới bằng việc tháp nhập 20 xã của Nông Cống và 13 xã của Thọ Xuân thành huyện Triệu Sơn. Năm 1977, Chính phủ quyết định sáp nhập các huyện: - Nga Sơn và Hà Trung thành huyện Trung Sơn, huyện lỵ là Lèn. - Thiệu Hoá (tả ngạn sông Chu) và Yên Ðịnh thành huyện Thiệu Yên, huyện lỵ ở Kiểu (xã Yên Trường). - Thiệu Hoá (hữu ngạn sông Chu) và Ðông Sơn thành huyện Ðông Thiệu, huyện lỵ ở Rừng Thông (xã Ðông Xuân). Từ năm 1981, Ðông Thiệu gọi là Ðông Sơn. - Ngọc Lặc và Lang Chánh thành huyện Lương Ngọc, huyện lỵ ở phố Cống (xã Ngọc Khê). - Vĩnh Lộc và Thạch Thành thành huyện Vĩnh Thạch, huyện lỵ ở phố Giáng (Vĩnh Thành). Năm 1981, Chính phủ lại tách các huyện Trung Sơn thành Hà Trung và Nga Sơn, Lưng Ngọc thành Lang Chánh và Ngọc Lặc, Vĩnh Thạch thành Vĩnh Lộc và Thạch Thành như cũ. Năm 1981, Chính phủ thành lập 2 thị xã mới là Bỉm Sơn và Sầm Sơn. Ngày 1/5/1994, tại Nghị định số 07/CP, Chính phủ quyết định thành lập thành phố Thanh Hoá trên cơ sở hành chính thị xã Thanh Hoá. Ngày 18/11/1996, Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ra Nghị định số 72/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện: - Huyện Quan Hoá chia thành 3 huyện: Quan Hoá, Quan Sn, Mường Lát. - Huyện Như Xuân chia thành 2 huyện: Như Xuân, Như Thanh. - 2 huyện Ðông Sơn và Thiệu Yên thành 3 huyện: Ðông Sơn, Thiệu Hoá, Yên Ðịnh. Ngày 6/12/1996, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có chỉ thị số 31 TC/UB thực hiện Nghị định 72/CP. Theo chỉ thị này, từ ngày 1/1/1997, các huyện chính thức hoạt động theo đn vị hành chính mới gồm 24 huyện, 2 thị xã, 1 thành phố.
  5. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Các dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Ðọ. Văn hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá: Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.
    Văn hoá núi đọ
    1. Di chỉ núi Ðọ: Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 7km về phía Bắc - Tây Bắc. Ðây là một hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Người vượn nguyên thuỷ đã sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ. Những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay... đã được phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều. Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây nam.
    2. Núi Quan Yên:
    Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông - Ðông nam), thuộc xã Ðịnh Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con người sơ kì thời đại đồ đá cũ. So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn, nhưng kĩ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kĩ thuật của loài vượn sơ kì thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ - xưởng. Căn cứ vào trình độ kĩ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 - 30 người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng. Ðời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.
    Hậu kì thời đại đồ đá cũ - văn hoá sơn vi
    Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay đã sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh. Dấu vết của họ đã được tìm thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).
    1. Mái đá Ðiều:
    Ðây là một di tích được phát hiện năm 1984 (thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá Thước), chỉ trong 4m2 hố thám sát đã thu được hơn 300 hiện vật thuộc thời đại đá cũ. Trong các năm 1986 - 1989, do tầm quan trọng của di tích này, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với Bungari tiến hành khai quật 3 lần. Kết quả thu được hàng ngàn hiện vật đá gồm công cụ kiểu văn hoá Sơn Vi, bàn nghiền... và nhiều nhất là mảnh tước, với bốn công cụ bằng xương thú. Ðặc biệt, tại đây đã tìm thấy 10 mộ cổ, trong đó có một mộ song táng, có hai bộ xương chớm hoá thạch còn tương đối nguyên vẹn mà chưa nơi nào ở Việt Nam phát hiện được di cốt nguyên vẹn như thế trong văn hoá Sơn Vi. Người vượn đã sinh sống ở mái đá Ðiều, các cư dân nguyên thuỷ sống trong các hang: Thung Khú (thuộc làng Man) hang Ma Xá, mái đá nước hang Anh Rồ, đã tạo thành một cụm di tích có niên đại từ hậu kì đá cũ đến văn hoá Hoà Bình, thuộc xã Hạ Trung huyện Bá Thước. Năm 1989, các hang Lang Chánh I, II, III, (thuộc xã Lâm Sa, huyện Bá Thước), được các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác với các nhà khoa học Mỹ tiến hành khai quật và nghiên cứu. Hiện vật phát hiện ở các di chỉ này chủ yếu là công cụ bằng đá gồm các loại: mảnh tước đã tu chỉnh, rìu ngắn, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ có rìa lưỡi ngang... được xác định là công cụ của chủ nhân văn hoá Sơn Vi muộn, kéo dài đến văn hoá Hoà Bình.
    2. Hang Con Moong:
    Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong - một di tích nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương - thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Di tích này được khai quật năm 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hoá đã sinh sống từ hậu kì thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới. Tầng văn hoá ở Con Moong dầy tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có sự ngắt quãng. Tại lớp văn hoá sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (đã được xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ C14 là hơn 12.000 năm cách ngày nay) các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu, công cụ 1/4 viên cuội, được tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội. Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền - những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng máng, được dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật; là những công cụ bằng xương có hình mũi nhọn được chế tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn. Xương, răng động vật cũng phát hiện được khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng... Cũng giống như ở mái đá Ðiều, tầng văn hoá ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã phát hiện được 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) đã xác định được 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 - 60 tuổi), hai trẻ em và 1 người không xác định được giới tính. Tất cả các hài cốt được chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo. Như vậy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng với văn hoá Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân của văn hoá Sơn Vi Thanh Hoá đã cư trú trên một vùng rộng lớn phía Bắc, Tây bắc của tỉnh và tương đối tập trung. Theo những phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kì thời đại đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh ngày nay. Trong thời đại đá cũ, cư dân nguyên thuỷ đã sinh sống trên địa bàn Thanh Hoá. Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lí, do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây - Tây bắc, những chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá đã cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để sinh tồn, đã tạo nên một nền văn hoá mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá.
  6. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Thời đại đồ đá mới.
    Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình - nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm, tức vào đầu thời Toàn Tần.

    Trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá, và chính họ - cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này.

    Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình - nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm, tức vào đầu thời Toàn Tần. Trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá, và chính họ - cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này. I. Những vết tích của văn hoá hoà bình. 1. Hang Con Moong (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành). Ðây là một hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300 m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá Hoà Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác. Công cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo....từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ. Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú - loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp - để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 85m3 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc...và các loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ. 2. Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác: Cũng như ở Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hoà Bình của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảmh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ thuật mài đá. ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Ðồng Ðông: 3,5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Hoá chắc rằng, ngoài những công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây... Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người Hoà Bình ở Thanh Hoá. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Ðồng Ðông... các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn. Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình. Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã chuyển từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí... và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sỉnh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải chí. Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Ðọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình. II. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá bắc sơn ở Thanh hoá: Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, mái đá Ðiều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III...và đặc biệt rõ ở hang Con Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình. Nhưng thành tưụ kĩ thuật lớn nhất của cư dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hoà Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong - lớp trên cùng- có độ dày từ mặt đất từ 0,2m - 1,2m, đã thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận, và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. III. Cư dân văn hoá đa bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước. Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang thế Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động - nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam. 1. Văn hoá Ða Bút: Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, Cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cứu hệ thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Ða Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.

  7. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá vật thể

    Văn hoá đông sơn - Niềm tự hào của tỉnh thanh
    [​IMG]
    Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân của nó là những người Việt cổ. Nói đến Văn hoá Đông Sơn là nói đến trống đồng, nó gần như là tuyệt đỉnh của nghệ thuật đúc đồng với kỹ thuật phát triển đạt tới đỉnh cao của thế giới cổ đại mà cho đến nay khiến cả thế giới phải khâm phục. Văn hoá Đông Sơn thời các Vua Hùng được khởi dựng vùng châu thổ, trung du nhiều sông ngòi, có nghề trồng lúa nước sớm phát triển, một ngành luyệnh kim đạt tới đỉnh cao
    Người Việt cổ đã sớm định hình tính cách cần cù, sáng tạo, thông minh, tài khéo ngay từ buổi đầu hình thành dân tộc. Văn hoá Đông Sơn được phát hiện từ xứ Thanh. Năm 1924, bên bờ sông Mã, trong những bãi bờ bị sạt lở, tình cờ một người nông dân làng Đông Sơn ra sông câu cá bỗng dưng đã tìm thấy đồ đồng ở nơi sạt lở ấy. Từ những phát hiện của người nông dân Đông Sơn và qua kết quả khai quật tiếp đó, những di vật tìm thấy ở khu di tích này đã gây tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới. Năm 1934, nhà khảo cổ học người Áo Hai-nơ Ghen-đéc đã đề nghị gọi tên nền văn hoá đồ đồng này là " Văn hoá Đông Sơn". Từ đó đến nay tên văn hoá Đông Sơn được dùng phổ biến trên toàn thế giới. Niên đại Văn hoá Đông Sơn là nền văn minh thuộc đời Đồng thau và Sắt sớm, cách ngày nay trên dưới 2000 năm của một nhà nước hùng mạnh dựa trên một nền nông nghiệp lúa nước phát triển, kỹ nghệ đúc đồng hoàn hảo, bên cạnh những ngành nghề thủ công đặc sắc của một cộng đồng cư dân có đời sống văn hoá tinh thần đa dạng, có cơ cấu tổ chức xã hội cao. Cư dân Việt cổ thời đại Đông Sơn cư trú chủ yếu trên ba dòng sông lớn đó là: sông Hồng, sông Mã và sông Cả (sông Lam). Họ thường lập làng trên những gò đất cao bên dòng sông, một số ít cư trú ở đồng bằng và một bộ phận sống rải rác ở vùng trước núi gần nguồn nước. Nhà ở thời Đông Sơn chủ yếu là nhà sàn hình thuyền có mái cong vút, sau thời Đông Sơn những cư dân Việt cổ mới dần ở nhà đất. Người Đông Sơn đàn ông cởi trần, đóng khố, đàn bàn đan dệt từ những sợi tơ, đay, gai và áo lá để làm quần áo mặc. Những cư dân Đông Sơn đã dựa vào nguồn thực vật và thuỷ sản phong phú ngay trên địa bàn mình cư trú để làm thức ăn, đồ nếp là nguồn thức ăn chính mà họ ưa thích. Phương tiện giao thông đi lại chủ yếu là dùng thuyền mà khởi nguồn là những cây tre được ghép lại, là cây gỗ được khoét rỗng thành thuyền độc mộc và sau này là những chiếc thuyền được chế tác khá hoàn hảo tiện lợi như hình vẽ in trên mặt trống đồng. Người Đông Sơn sống hoà mục, bình đẳng. Theo nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét thì "Lúc bây giờ vua tôi cùng đi cày, cha con cùng tắm không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc, cùng nhau vui chơi vô sự, gọi là đời rất hồn nhiên...". Khi mới phát hiện sự choáng ngợp của nền văn minh rực rỡ này, các nhà học giả phương tây không thể giải thích nổi vì sao, tại một khu vực còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu ở vào thời điểm vài thập kỷ đầu của thế kỷ trước, mà trong quá khứ hai ngàn năm, lại có thể nảy sinh một quốc gia có nền văn minh cao đến như vậy mà họ đã đi tìm nguồn gốc từ những yếu tố du nhập bên ngoài, với trung tâm Châu Âu là điểm chói sáng, phát toả tạo lập nên Đông Sơn. Thế nhưng, khi Đông Sơn toả sáng, đồng thời nó cũng hấp thụ nhiều yếu tố bên ngoài trong suốt thời gian tồn tại. Qua bộ di vật đồ Đồng, người ta nhận ra thành tồ Điền (Vân Nam), Bản Chiềng (Thái Lan), SamrongSen (Campuchia)... Song chất Đông Sơn vẫn không hề nhạt nhoà. Đó dường như là một bài học còn nguyên tính thời sự, khi đất nước trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế. Hiên nay, di chỉ khảo cổ học và những địa điểm về văn hoá Đông Sơn trên đất Thanh Hoá có tới 120 di tích, đang phân bổ ở khắp các vùng miền: miền biển, đồng bằng, trung du và miền núi, nhưng tập trung chủ yếu ở đồng bằng. Sông Mã, sông Chu đôi bờ của hai con sông lớn của tỉnh Thanh là nơi có di tích Đông Sơn dày đặc, đó là cái nôi văn hoá Đông Sơn của vùng đất này. Ở đôi bờ sông Mã, sông Chu hàm chứa di tích Đông Sơn qua các thời kỳ phát triển tiền Đông Sơn, Đông Sơn và sau Đông Sơn. Di tích văn hoá Đông Sơn ở đây có đủ diện mạo: di tích cư trú, cư trú - mộ táng, di tích mộ táng và di tích di chỉ xưởng được tìm thấy ở làng cổ Đông Sơn, núi nấp, Thiệu Dương, Quỳ Chử... Văn hoá Đông Sơn trong ngót một thế kỷ qua đã và đang được nghiên cứu phát huy. Văn hoá Đông Sơn vẫn được trao quyền qua nhiều thế hệ những kinh nghiệm về sản xuất và những kỹ năng trong cuộc sống, đó là kỹ thuật chế tác luyện kim... Ngày nay, những làng nghề như làng Chè xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá, nghề đúc đồng truyền thống vẫn được phát huy và là nguồn thu nhập chính của các nghệ nhân và thợ đúc Trà Đông. Kỹ thuật thêu dệt thổ cẩm và trang trí các hoạ tiết hoa văn trên những tấm phá, cạp váy, khăn áo của phụ nữ dân tộc được đồng bào Mường, tỉnh Thanh Hoá luôn yêu thích, họ chỉ giỏi thêu dệt, chọn vải, nhuộm màu, sáng tác mầu hoa văn mà còn truyền nghề cho lớp trẻ về kỹ thuật và hoa văn đặc sắc theo hoạ tiết in trên trống đồng Đông Sơn. Trong sinh hoạt hội hè, tín ngưỡng tâm linh, những dấu ấn Văn hoá Đông Sơn còn được lưu truyền qua lời ca, điệu múa, pồn pông, dân ca, múa đèn Đông Anh, âm nhạc cồng chiêng, khua luống có ở cả miền xuôi và miền núi. Tín ngưỡng cầu ánh sáng mặt trời, cầu mưa... vẫn được thể hiện trong các lễ tục, lễ hội vào đầu năm mới, xuống đồng, mừng cơm mới... Văn hoá Đông Sơn - rực rõ nền văn minh Việt cổ tiềm ẩn nhiều vấn đề chưa được khám phá, cần phải được dày công nghiên cứu và đầu tư kinh phí hơn nữa để giải mã. Văn hoá Đông Sơn, nền văn hoá cuội nguồn, thể hiện sức mạnh trường tồn và mang dấu ấn đặc sắc của văn hoá dân tộc mà cha ông xưa đã tạo dựng nên. Nền văn hoá ấy đã đạt đến đỉnh cao về kỹ thuật, về tinh thần chống xâm lược, tinh thần hoà mục, cởi mở và đổi mới. Những tinh thần ấy ngày nay được Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) và mới đây là kết luận Hội nghị 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc khẳng định rõ. Những giá trị của nền Văn hoá Đông Sơn mãi là nền tảng của tinh thần, là động lực để đưa dân tộc ta không ngừng đổi mới phát triển, xây dựng đất nước, quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh và hạnh phúc.
    Văn hoá Ðông Sơn và Bộ Cửu Chân thời Hùng Vương
    Di chỉ Ðông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hoá), thời Ðồng Thau là quan trọng nhất trong khảo cổ học Việt Nam, nổi tiếng trên thế giới, được đặt tên cho nền văn hoá Việt Nam ở giai đoạn cách đây 2.820 + 60 năm. Lần đầu tiên ở Việt Nam, có một nền văn hoá bao trùm một địa bàn cỡ quốc gia từ Hoàng Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam, đó là nền Văn hoá Ðông Sơn.
    Riêng ở Thanh Hoá, đồ đồng Ðông Sơn đã có mặt khắp mọi miền trong tỉnh, cho tới tháng 7/1986 đã phát hiện 85 di tích. Ðồ đồng Ðông Sơn đã gồm đủ bộ công cụ, chiến cụ và nhạc cụ của người nông dân đương thời, trước khi có máy móc. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm đúc nổi các hoa văn trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô tả sinh hoạt văn hoá của người Việt thời bấy giờ. Thời Ðông Sơn, nghề dệt vải rất phát triển, chất lượng sản phẩm rất tốt, đẹp, di vật còn đến tận ngày nay. Chuôi kiếm đồng là cả một pho tượng mô tả người phụ nữ vừa đẹp về kiểu dáng vừa tiện cầm nắm. Trống đồng Ðông Sơn là nhạc khí đẹp nhất, âm lượng tốt nhất và có kích thước lớn nhất trong các di vật thời đại Ðồng Thau, Thanh Hoá là nơi phát hiện 80% số lượng các trống đồng có ở Việt Nam và thế giới. Như vậy, Thanh Hoá có những di chỉ sau đây được đặt tên cho các nền văn hoá khảo cổ: Núi Ðọ (đá cũ), Ða Bút (đá mới), Hoa Lộc (đồng đá) và Ðông Sơn (đồng thau). Bộ Cửu Chân mà lãnh thổ được xác định đầu tiên và không thay đổi của tỉnh Thanh Hoá là một trong 15 bộ của sự phân chia hành chính của thời các vua Hùng, về sau là quận, châu, trấn ở thời xưa và là tỉnh ngày nay. Ðịa danh Cửu Chân cùng với văn hoá thuần Việt Ðông Sơn còn kéo dài được nhiều thế kỷ sau Công nguyên, từ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (thế kỷ III sau CN) cho mãi đến thế kỷ X, những người xuất thân từ xứ này đều được gọi là người Cửu Chân.



    Được tchyp sửa chữa / chuyển vào 17:06 ngày 01/09/2006
  8. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0

    Văn hoá phi vật thể
    Ẩm thực xứ Thanh
    [​IMG]
    Nhắc đến Thanh Hoá, đến hương vị quê Thanh không thể không kể đến đặc sản nem chua còn gọi là nem quả. Từng quả nem đã đại diện cho tình cảm gắn bó của người xứ Thanh lưu luyến tiễn chân du khách. Chỉ bằng bì lợn, thính, thịt lợn, gia vị, chiếc lá đinh lăng bánh tẻ quấn ngoài cùng một ít bí quyết gia truyền mà cái khối nhỏ vuông vắn có màu xanh của lá chuối, màu trắng của lạt mà làm say lòng người đến
    Nem chua Hạc Thành. Chè lam Phủ Quảng. Bánh gai Tứ Trụ. Cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá trà Sầm Sơn, Hải Thanh, Tĩnh Gia.
    Nhắc đến Thanh Hoá, đến hương vị quê Thanh không thể không kể đến đặc sản nem chua còn gọi là nem quả. Từng quả nem đã đại diện cho tình cảm gắn bó của người xứ Thanh lưu luyến tiễn chân du khách. Chỉ bằng bì lợn, thính, thịt lợn, gia vị, chiếc lá đinh lăng bánh tẻ quấn ngoài cùng một ít bí quyết gia truyền mà cái khối nhỏ vuông vắn có màu xanh của lá chuối, màu trắng của lạt mà làm say lòng người đến.
    Kế đến phải kể đến đặc sản tiết canh dê cùng các sản phẩm từ dê. Dê phải kén thứ dê núi ở vùng núi đá Hà Trung, Vĩnh Lộc. Với bàn tay khéo léo và kỹ thuật pha chế điêu luyện, bát tiết canh dê như một bức hoạ tuyệt vời với các gam màu xen kẽ: đỏ của tiết, xanh của rau, vàng của vừng lạc, đen xám của dê song lại rất mát, nhắm kèm với rượu ngâm mật dê thì mới hợp khẩu vị. Nhân nói về rượu, xin thưa ngon nhất phải kể đến rượu Nga Liên (Nga Sơn) được chưng cất bởi giống gạo nếp cái đã được chọn lựa cẩn thận. Nhấp một chút rượu đã có cảm giác thơm đầu lưỡi mùi nếp mới, cay của men say.... Thứ đến là rượu làng Quảng. Tuy chỉ nấu bằng gạo tẻ, song không biết là do men, do nước hay do bí quyết nhà nghề mà độ rượu rất cao, rất đậm song lại rất êm...
    Mấy năm gần đây, một số món ăn Huế đã "du nhập" vào Thanh Hoá, đặc biệt là các món ăn từ hến. Hội nghị liên hoan, gặp gỡ, sinh nhật, cải thiện cuối tuần, thậm chí nghỉ mát Sầm Sơn cũng về Thành phố - A lô ! cơm hến !. Ðây cũng là dịp để hến làng Giàng tự khẳng định một lần nữa "vị thế" sẵn có của mình trong "họ". Với sự kết hợp giữa công thức và nguyên liệu của hai miền đã làm món hến sào, cơm rang hến, canh hến nao nức lòng người. Dường như với sự khác biệt về màu sắc (hến làng Giàng có vỏ màu vàng còn loại hến khác có vỏ màu đen) đã làm cho nước hến thêm ngon, thêm trong còn ruột hến thì thơm hơn, ngậy hơn.
    Nói đến làng Giàng thì không thể không kể đến Phi Cầu Sài rất hiếm có ở các địa phương khác, rất ngon, rất mát. Thỉnh thoảng lại thấy nhớ và bất chợt thoảng nghe đâu đây tiếng rao của bà bán hàng rong "Ai phi mua !".
    Chưa hết, còn một kho đặc sản khổng lồ của xứ Thanh mà đâu đâu cũng biết đó là nguồn hải sản dọc biển Hậu Lộc, Quảng Xương, Tĩnh Gia. Nào cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá chà... Cũng là ở biển nhưng con cua, con cá ở đây nó thơm và ngon một cách lạ lùng. Chính vì thế mà các loại mắm, nước mắm Thanh Hoá ngon nổi tiếng cả nước.
    Chớm Hè, mới tới địa phận Bắc thành phố du khách đã được chiêm ngưỡng từng "kim tự tháp" dừa xanh mọc hai bên đường "địa phận huyện Hoằng Hoá". Dường như tạo hoá đã thiên vị ban tặng cho mảnh đất Anh hùng, kiên cường trong kháng chiến loại dừa sai quả, nhiều nước và ngọt mát đến thế.
    Ai có dịp qua huyện Thọ Xuân thì không thể không mua bánh gai Tứ Trụ về làm quà. Cũng từ bột gạo nếp, đậu xanh, dừa, mỡ lợn nhưng khác là có thêm lá gai đã trở thành đặc sản Thanh Hoá. Còn sản phẩm nửa bánh, nửa kẹo nhưng lại rất hấp dẫn bởi cái cay của gừng tươi, cái thơm của bột gạo nếp, mật mía, lạc tạo nên một sản phẩm vừa cứng vừa giòn đó là Chè lam Phủ Quảng. Mà sắp tới, tỉnh đang có kế hoạch đầu tư khôi phục và phát triển sản phẩm này như một đặc sản dân tộc.
    Còn nhiều lắm, nào là cam Giàng, dứa Thạch Thành, mía Kim Tân, rồi ong Yên Khương, bánh đa cầu Bố, rượu cần dân tộc Thái... không thể kể hết được đã tạo nên một hương vị xứ Thanh rất gần gũi nhưng lại rất riêng.

  9. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0


    Danh nhân văn hoá lịch sử
    [​IMG]
    Hoàng Ðình ái (1527 - 1607)
    Phạm Bành (1825 - 1887)
    Lương Ðắc Bằng (1472 - ?)
    Lưu Ðình Chất (1566 - 1627)
    Nguyễn Chích (1382 - 1448)
    Nguyễn Hữu Dật (1604 - 1681)
    Hoàng Bật Ðạt (1842 - 1887)
    Ðinh Củng Viên (- 1294)
    Phạm Vấn (?- 1435)
    Hồ Nguyên Trừng (?)
    Trịnh Thị Ngọc Trúc(?)
    Bà Triệu (226 - 248)
    Cầm Bá Thước (1853 - 1895)
    Trịnh Duy Thuân (? - 1542)
    Nguyễn Thu (1799 - 1855)
    Nguyễn Mậu Tuyên (1518-1599)
    Trịnh Tuê (còn gọi là Trịnh Huê) ( 1704 - ?)
    Nguyễn Mộng Tuân (TK XV)
    Trịnh Tùng (1546 - 1623)
    Lê Bật Tứ (1562 - 1627)
    Ðào Duy Từ (1572 - 1634)
    Lê Trạc Tú (?)
    Lê Thánh Tông (1442 - 1497)
    Nguyễn Ðôn Tiết (1836 - ?)
    Tống Duy Tân (1837 - 1892)
    Lê Tắc (TK XIV)
    Ðại Thặng Ðăng (Pháp danh) (TK VIII)
    Cao Ðiển (1853 - 1896)
    Trần Hạng (1372 - 1399)
    Nguyễn Hữu Hào (1647 - 1713)
    Lê Hy (1646 - 1702)
    Nguyễn Hiệu (1664 - 1735)
    Lê Phụng Hiểu (? - ?)
    Lê Thị Hoa (TK I)
    Lê Hoàn (941 - 1005)
    Nguyễn Hoàn (1713 - 1791)
    Nguyễn Hoàng (1524 - 1613)
    Lê Văn Hưu (1230 - 1322)
    Hà Tông Huân (1697 - 1790)
    Trịnh Khả (1399 - 1451)
    Lương Hữu Khánh (TK XVI)
    Nguyễn Kim (? - 1545)
    Lê Ðình Kiên (1620 - 1704)
    Trịnh Kiểm (1503 - 1570)
    Lê Khôi (?- 1446)
    Nhữ Bá Sĩ (1787 - 1867)
    Trần Xuân Soạn (1849 - 1923)


    Được tchyp sửa chữa / chuyển vào 17:26 ngày 01/09/2006
  10. tchyp

    tchyp Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2004
    Bài viết:
    1.305
    Đã được thích:
    0
    Du lịch thanh hoá
    [​IMG]
    Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá lâu đời, Thanh Hoá là quê hương của nền văn hoá Ðông Sơn rực rỡ, của nhiều vị Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá nổi tiếng. Khu di tích lịch sử Lam Kinh (ở Thọ Xuân) cùng các lăng tẩm, bia mộ của các Vua và Hoàng hậu triều Lê, thành Nhà Hồ (ở Vĩnh Lộc) - công trình kiến trúc bằng đá kỳ vĩ, đến thờ - lăng Bà Triệu (ở Hậu Lộc) - thờ nữ tướng xứ Thanh đánh giặc Ðông Ngô từ những năm đầu Công nguyên... và nhiều di tích lịch sử văn hoá khác trên đất quê Thanh là những trang sử hào hùng ghi lại truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc. Xứ Thanh không những giàu có về các di tích lịch sử văn hoá mà còn được thiên nhiên ban tặng biết bao cảnh đẹp hiếm có. Từ Hàm Rồng kỳ thú đến Bến En hoang dã mộng mơ, suối cá " thần" hấp dẫn ở Cẩm Lương - Cẩm Thuỷ, động Từ Thức nên thơ... đặc biệt bãi biển Sầm Sơn đầy nắng gió quyến rũ du khách trong những ngày hè nóng nực. Người xứ Thanh nồng hậu, mến khách vẫn gìn giữ được sinh hoạt văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Múa đèn Ðông Sơn, trò Xuân Phả, khua luống, hội cồng chiêng cùng các điệu hò sông Mã vẫn còn xuất hiện nhiều trong các lễ hội truyền thống ở các vùng quê. Ðặc sản quê Thanh như bánh gai Tứ Trụ, chè lam Phủ Quảng, dưa hấu Mai An Tiêm, nem chua Hạc Thành, nước mắm Du Xuyên, tôm, cua, cá, mực Sầm Sơn... ai đã một lần thưởng thức thì khó mà quên được. Có thể nói tiềm năng du lịch của Thanh Hoá thật đa dạng và phong phú. Không một vùng đất nào của quê Thanh lại không có những nét riêng mới lạ thu hút khách du lịch. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch, khám phá nét đẹp xứ Thanh, Du lịch Thanh Hoá xin trân trọng giới thiệu với quý khách xa gần các chương trình du lịch nội tỉnh.
    -Thành phố Thanh Hoá: là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh, có lịch sử ra đời và phát triển trên 200 năm. Ðến với thành phố Thanh Hoá, khách du lịch có thể tới tham quan nhiều di tích văn hoá lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Cách thành phố Thanh Hoá 3 km về phía Bắc, trên trục quốc lộ 1A là quần thể danh lam thắng cảnh - di tích văn hoá lịch sử Hàm Rồng mà tương lai không xa, với dự án tổng kinh phí đầu tư 296 tỷ đồng, nơi đây sẽ trở thành khu du lịch văn hoá có tầm cỡ quốc gia. Những đồi thông ngút ngàn đan xen những thung lũng thơ mộng, bao quanh là dãy núi hình 9 khúc rồng nhấp nhô uốn lượn theo dòng sông Mã. Ðộng Long Quang trên núi đầu Rồng là nơi mà du khách có thể thả sức ngắm nhìn toàn cảnh sơn thuỷ hữu tình độc đáo. Ðộng Tiên Sơn nằm ở núi Rồng là nơi lưu giữ những kiệt tác của tạo hoá. Không những thế, giờ đây Hàm rồng còn là một bảo tàng lịch sử văn hoá đồ sộ. Mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất, cây cầu đều trở thành một hiện vật sống ghi lại những chiến công hiển hách của quân và dân Hàm Rồng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hàm Rồng vẫn đứng vững, hiên ngang, tượng trưng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trên sườn núi Cánh Tiên, dòng chữ "Quyết thắng" đã làm nhụt chí kẻ thù, một Hàm Rồng chưa đầy 2 km vuông đã có tới 6 đơn vị và nhiều cá nhân Anh hùng... Ngoài ra, du khách có thể tới tham quan Thái Miếu nhà Lê - một hình ảnh thu nhỏ của Vương triều Lê trước sự chiêm ngưỡng, bái vọng của nhân dân. Ðền vừa được trùng tu, tôn tạo lại song cơ bản vẫn giữ nguyên nét kiến trúc mang đậm dấu ấn 2 thời kỳ hậu Lê và thời Nguyễn. Bảo tàng Thanh Hoá, công viên Thanh Quảng, khu văn hoá tưởng niệm Bác Hồ, nhà thờ Công giáo... cũng là những nơi dừng chân hấp dẫn của khách du lịch. Hàng năm có khoảng 100.000 khách tới thành phố Thanh Hoá tham quan, du lịch trong đó khoảng 2.400 khách quốc tế.

    Được tchyp sửa chữa / chuyển vào 17:23 ngày 01/09/2006

Chia sẻ trang này