1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Về Trương Vĩnh Ký Và Một Số Vấn Đề Văn Bản, Lối Nhìn ...

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi culan, 17/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Về Trương Vĩnh Ký Và Một Số Vấn Đề Văn Bản, Lối Nhìn ...

    sưu tầm

    [.......]
    Từ ngày ông qua đời đến nay và qua nhiều cuộc đổi đời, đã có nhiều công trình biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có. Trong bài này chúng tôi với chủ ý đặt lại một số vấn đề nghiên cứu căn bản, do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi vấn về con người và sự nghiệp Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là người mở đường báo chí và văn học chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX. Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, ... nhưng mỗi người một cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh hướng người Việt lúc bấy giờ đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.

    1 - Người ta thường phê phán Trương Vĩnh Ký làm việc với kẻ thù ngoại bang tức người Pháp. Bước đầu là làm thông ngôn cho Hải quân Pháp là những người sẽ đánh chiếm lục tỉnh. Phê phán dễ nếu không đặt vào hoàn cảnh của đương sự. Sau khi đi tu đạo Thiên-Chúa không thành và du học từ năm 14 tuổi ở Poulo Penang, ông về thọ tang mẹ năm 1858 (2), lúc đó 21 tuổi và nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng là lúc triều đình vua Tự Đức gay gắt cấm đạo, từ năm 1848 đến năm 1861 sáu lần ra chiếu cấm đạo, như chỉ dụ 13 (1860) nói rõ không cho người theo đạo làm quan chức và nếu đang làm quan phải bỏ đạo nếu không sẽ bị hình phạt ("thắt cổ chết ngay"). Có đạo là một "tội hình", Trương Vĩnh Ký sẽ làm nghề gì nếu không làm rẫy ruộng, nhưng ông lại mồ côi, không thân thích! Năm 1860, sau khi trốn khỏi trường Cái Nhum nơi ông tá túc và dạy trẻ em, vì bắt đạo, ông phải trốn lên Sài-Gòn ở và làm việc cho giám mục Lefèbvre, nên khi người Pháp cần thông ngôn gấp vì không thể tiếp xúc với dân chúng, chính giám mục này đã tiến cử Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho trung tá Hải quân Jauréguiberry, tư lệnh Sài-Gòn. Lúc này thành Gia-Định đã thất thủ, Trương Vĩnh Ký lập gia đình năm 1861 ở Chợ Quán. Nhưng công việc này không được lâu vì Trương Vĩnh Ký đã có thái độ và quyết tâm làm theo ý nguyện của ông. Theo một tài liệu ông Nguyễn Đình Đầu mới tìm thấy, Trương Vĩnh Ký từng tỏ ra dù hợp tác với Pháp, vẫn cho họ biết ông có con đường của ông. Một bức thư của chỉ huy trưởng D'Ariès gửi đô đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử Trương Vĩnh Ký : "trong số người Nam nói được ngôn ngữ của chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Ký là biết khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân sự của chúng ta", nhưng D'Ariès than phiền thái độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23 tuổi này: "từng là nhân viên Sở Sự vụ bản xứ Sài-Gòn, ông ta đã bị sa thải vì thiếu mẫn cán và tận tụy, rất thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc, nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta". Dù vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn chọn Trương Vĩnh Ký và đưa ra các điều kiện để D'Ariès chuyển lại họ Trương "40 đồng một tháng và phải luôn có mặt tại Sài-Gòn". Nhưng Trương Vĩnh Ký không chấp thuận điều kiện đó và nhân tiện bộc lộ tư cách của ông khiến D'Ariès bực tức trong thư sau đề ngày 28-5-1861: "Tính kiêu căng và các yêu sách của ông ta hơn tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng về ông ta (...) đòi 110 đồng với quyền làm công việc mà ông ta ưa thích và rút lui khi nào không còn thích hợp..." (3). Léonard Charnier là người đã đánh hạ đồn Chí Hòa ngày 24-2-1861.

    14 tàu chiến của liên-quân Pháp và Tây-ban-nha bắn vào cửa Hàn (Đà Nẵng) lần đầu ngày 1-9-1858, và cũng như sau này tấn công Bắc-kỳ lần thứ nhất (1873), người Pháp đều gặp nhiều khó khăn vì người Việt theo đạo Thiên-Chúa đã không hưởng ứng nổi dậy làm nội ứng như người Pháp tiên liệu. Ngày 17-2-1859, hải quân Pháp và Tây-ban-nha đã chiếm thành Gia Định, rồi đến tháng 12-1861 chiếm hết ba tỉnh miền Đông Nam-kỳ, đưa đến hoà ước Nhâm Tuất (5-6-1862). Trương Vĩnh Ký ra Đà Nẵng làm thông ngôn trong việc ký hoà ước và đòi bồi thường chiến phí này, ông đã tỏ ra có khả năng nghị luận và thẳng thắn khi phải tế nhị giữa hai bên, đã được cả hai phe để ý. Cho nên tháng 6-1863 cụ Phan Thanh Giản đã yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho phái đoàn đi Paris và Madrid xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông - trong khi đó một số người như "sử gia" Vũ Ngự Chiêu sai lầm khi nói ông làm cho Pháp, tức theo phái đoàn Pháp. Không thành, và rồi ba tỉnh miền Tây cũng bị Pháp chiếm nốt. Cụ Phan Thanh Giản đã phải uống thuốc độc tự vận ngày 20-6-1867 sau khi đành nộp thành Vĩnh Long cho Pháp để tránh chết chóc cho người dân vì cụ đã thấy và hiểu ta không thể chống cự lại khí giới tối tân của người Pháp. Trương Vĩnh Ký lựa chọn con đường hợp tác sau mới rõ ra là ảo tưởng vì người Pháp không thực tâm "khai hóa", nhưng lúc đó, họ Trương không có lựa chọn khác. Đó chỉ là bước đầu vì Trương Vĩnh Ký đi xa hơn và để lại cho hậu thế một gia tài văn hóa quan trọng mà chúng ta nên bình tâm luận xét. Cụ Phan hiểu thế yếu đã tự xử cho trọn đạo quân-thần, Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương tự tìm cái chết cũng cho phải đạo. Cụ Nguyễn Đình Chiểu ở hoàn cảnh khác, cũng trốn tránh kẻ thù, không hợp tác. Tất cả trung thành với đạo nho, hôm nay có người phê bình là "hủ nho" (4). Trong bối cảnh lịch sử đó, Trương Vĩnh Ký đã lựa chọn con đường hợp tác với kẻ thù và mong chờ cơ hội để người Pháp hiểu con người Việt Nam, cũng là cách để người công-giáo trở về với dân tộc - như Nguyễn Trường Tộ sau này, chứng minh với người Pháp là người Việt theo đạo Thiên-Chúa không hẳn sẽ dễ bảo, dễ theo Pháp để phản bội lại dân tộc! Hôm nay chúng ta phê bình dễ dàng, vì không sống trong hoàn cảnh. Còn phê bình hợp tác với kẻ thù, sau ông, "chúng ta" cũng đã hợp tác với kẻ thù Trung-Hoa rồi Pháp và Mỹ! Nếu suy luận từ những thư tín của các vị thừa sai thì cũng nên xem lại những lá thư mà ông Nguyễn Đình Đẩu đã khám phá như nói trên! Ngoài ra, cũng nên ghi nhận Trương Vĩnh Ký từng làm thông ngôn cho sứ thần Tây-ban-nha yết kiến vua Tự Đức năm 1870 và làm việc cho đại sứ nước này ở Trung-Hoa năm 1874!

    còn tiếp

    ...........................
    Cù Lần

    Được culan sửa chữa / chuyển vào 17/11/2002 ngày 08:48
  2. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    (by Nguyễn Vy-Khanh )
    2 - Trương Vĩnh Ký làm báo cho Pháp: Gia Định Báo lúc đầu là một thứ công báo của chính quyền thực dân Pháp, nhưng từ 1869 (nghị định 189 ngày 16-9-1869), Trương Vĩnh Ký, một cộng tác viên từ 1865, được cử làm Chánh-tổng-tài và Huình Tịnh Paulus Của làm chủ bút, Tôn Thọ Tường, Trương Minh Ký, v.v., trong ban biên tập. Gia Định Báo được thêm phần truyền bá chữ quốc ngữ, khuyến khích dùng thứ chữ này để viết báo viết văn - báo khuyến khích độc giả viết chuyện ở các địa phương họ ở bằng chữ quốc ngữ; và cổ động cho lối học mới. Từ 4 trang lên 16 trang. Vô tình, Gia Định Báo đã đóng vai trò tiền phong truyền bá cái về sau gọi là văn học chữ quốc ngữ. Đến năm 1874, J. Bonet được cử làm chánh tổng tài thay Pétrus Ký, thì tờ Gia Định Báo trở lại với vai trò thông tin tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa và rút lại 4 trang như trước. Trương Vĩnh Ký chỉ làm báo cho Pháp một thời gian ngắn trong suốt quá trình hoạt động văn hóa của ông. Ngoài ông ra, làm báo theo lệnh Pháp hay nhận tiền của Pháp còn có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Đức Quỳnh, ... Nếu thêm danh tính các khuôn mặt lớn khác đã làm báo cho Pháp, Trung-cộng, Liên Xô, cho Mỹ trước và sau 1975,... danh sách sẽ dài ra!
    ...........................
    Cù Lần
  3. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    3 - Chữ quốc ngữ : Trương Vĩnh Ký thông thạo nhiều thứ tiếng và cả chữ Nôm chữ Hán, nhưng ông đã có cái nhìn thực tiễn khi cổ động việc xử dụng chữ quốc ngữ để thay thế hai thứ chữ không đến được dân gian. Ông viết, phiên âm và phiên dịch các tác phẩm chữ Nôm, Hán qua chữ quốc ngữ, mà các bản dịch Tứ Thư Ngũ Kinh đã là những công trình quí hiếm vì trước đó chưa bậc tiền bối nào đã dịch ra chữ Nôm! Ông lại soạn tự điển và viết sách văn phạm tiếng Việt, làm chuyện đến lúc đó chưa ai làm qui mô. Trong bộ Sơ Học Qui Chánh (Manuel des écoles primaires) gồm 3 tập mà cuốn đầu Syllabaire Quốc ngữ xuất bản năm 1876, Trương Vĩnh Ký đã cho biết "Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện ..." (5)
    Cuốn Chuyện Đời Xưa (6) của Trương Vĩnh Ký in năm 1866 là ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ quốc ngữ; chúng tôi nhấn mạnh ấn phẩm vì trước ông đã có những bản viết tay bằng chữ quốc ngữ của các vị thừa sai và tu sĩ người Việt, như Bento Thiện đã viết về lịch sử Việt Nam năm 1659, và đã có những cuốn tự điển của A. de Rhodes (Đắc Lộ), Tabert và Phan Văn Minh, v.v. Tập từ điển của Tabert (1838) có phụ lục chuyện Inê Tử Đạo Văn gồm 560 câu thơ lục bát.
    Người ta đã cho rằng vì ông làm tay sai cho thực dân và vì là người theo đạo Thiên-Chúa nên cổ động chữ quốc ngữ là chữ của thực dân và nhà Chung. Phạm Long Điền mạnh ý này nhất. Ở đây cũng nên nêu một hiểu lầm khác: trước nay dư luận vẫn cho rằng các vị thừa sai người Bồ rồi Pháp đã buộc người Việt theo đạo Thiên-Chúa phải dùng chữ quốc ngữ và có người còn gán tội người Thiên-Chúa giáo đã đồng hoá chữ Nôm và Hán là chữ của "ngoại đạo". Đây chỉ là một thuần suy diễn thiếu căn bản lịch sử. Những khám phá gần đây ở Việt Nam của nhóm các linh mục Thanh Lãng và Nguyễn Hưng đã góp phần làm sáng tỏ sự "mất gốc" của người Việt Nam theo đạo Thiên-Chúa : chỉ riêng thế kỷ XVIII, các nhà tu hành và giáo dân đạo Thiên-Chúa đã biên soạn khoảng 14 tác phẩm chữ Nôm gồm khoảng 1 triệu hai trăm ngàn chữ với bốn ngàn hai trăm trang hiện còn tìm được, trong khi trong cùng thời gian, họ chỉ biên soạn khoảng 700 trang chữ quốc ngữ, tức sáu lần ít hơn (7)! Vậy đồng hoá người theo đạo Thiên-Chúa với chữ quốc ngữ làm "mất nước" và mất "hồn nước" tựu trung cũng chỉ một huyền thoại, một suy diễn thiếu căn bản lịch sử! Ngoài ra có những tu sĩ Việt Nam đã có cái nhìn nếu không dân tộc thì cũng đi trước thời đại, như linh mục Lữ-Y Đoan đã diễn dịch Kinh Thánh thành Sấm Truyền Ca năm 1670. Ông đã dùng những ý niệm và ngôn ngữ của tam giáo á-đông và văn hóa dân gian Việt Nam để hiểu và diễn dịch Kinh Thánh và giới giáo quyền từ thời đó đã không cho phổ biến vì "trái" luật đạo - cho đến thời Vaticano thứ hai (1962-65) (8). Một trí thức dù theo đạo vẫn không mất gốc, Trương Vĩnh Ký sau này cũng đi theo con đường của ông! Sự thực thì chữ quốc ngữ trước hết là một phương tiện cho các nhà truyền giáo dùng trong nội bộ giúp nhau ghi lại và hiểu tiếng Việt, rồi đến các cộng đoàn đạo, đến giữa thế kỷ XVIII chữ quốc ngữ phát triễn hơn vì lý do cấm đạo và việc xử dụng bắt đầu tiện lợi. Theo nhà nghiên cứu Rolland Jacques, chữ quốc ngữ lúc đầu chủ yếu mô tả phát âm nhằm giúp người ngoại quốc mới học, nhưng về sau khi đã phổ biến đối với người Việt thì khía cạnh âm-vị-học được ưu tiên hơn, dấu vết hãy còn đó trong các tự điển và tranh luận về các cách phiên âm Nôm ra quốc ngữ (9)!
    Thứ nữa là lý luận chữ quốc ngữ là chữ của thực dân xâm lược. Đây là một suy diễn khác. Chữ quốc ngữ nguyên do các thừa sai người Bồ-đào-nha và người Nhật sang truyền đạo ở Việt Nam từ những năm 1620 lập ra để tiện lợi hoá việc biên chép và giao thiệp. Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) chỉ là người đã phụ trách việc tu chính lại những tự điển đã có lúc đó nhưng phổ biến hạn chế trong nội bộ, và in ấn cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên : Tự điển Việt-Bồ-La / Dictionarivm annamiticvm, et tatinvm... (xin chú ý: Việt-Bồ-La chứ không có chữ Pháp trong cuốn tự điển này cũng như cuốn kể sau!), và Phép Giảng Tám Ngày.../ Cathechismvs pro ìs.... Ông đã tổng soạn lại những công trình trước đó của các thừa sai người Bồ (10) và lúc linh mục Đắc Lộ người Pháp in ấn cuốn tự điển nói trên năm 1651, Pháp chưa đem hải thuyền chiếm Việt Nam vì lúc đó là thời của Bồ-đào-nha và Tây-ban-nha làm chủ mặt biển, và đến một thế kỷ rưỡi sau, khi giám mục Bá-Đa-Lộc cầu cứu vua Pháp giúp chúa Nguyễn Ánh, vua Louis XVI dù đã ký hiệp ước Versailles hứa giúp chúa Nguyễn vẫn không hề nghe theo để lợi dụng cơ hội xâm chiếm Việt Nam ! Thứ nữa, giáo sĩ Đắc-Lộ đi á-đông truyền giáo đã thề phục vụ vua Bồ-đào-nha. Suy luận có thể diễn dịch từ sinh quán Avignon của ngài ở Pháp. Ngộ nhận thứ hai do câu văn A. de Rhodes viết tường trình chuyến đi lần sau. Trong Divers voyages et missions (Paris, 1653) đoạn cuối chương 19, phần 3, ông viết như sau : "J'ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l'Orient, pour l'assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j'y trouverais moyen d'avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises...". Chữ "soldats" ở đây phải hiểu theo nghĩa thứ nhì là "chiến sĩ" mà phải là "chiến sĩ phúc-âm, nhà truyền giáo", thứ nữa không nên quên sinh quán của ngài là đất của giáo hoàng! Lính Pháp vào năm 1653 chưa lên đường đi chiếm thuộc địa mà Hội Truyền giáo Paris cũng chỉ được lập sau đó, năm 1661! Những người chỉ tra từ điển thường, đã cố ý bới móc chi tiết với ý bôi xấu, bẻ quặt lịch sử dễ rơi vào cái bẫy kiến thức chủ quan, thiên kiến hoặc ám ảnh paranoiac! Cuốn A. de Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11) là một thí dụ điển hình, một thủ thuật khả nghi, vơ địch chính trị làm đồng minh để chống địch tôn giáo, thu góp bài viết mù mờ lý luận, thường đã cũ 30, 50 năm và cũng không cho biết diễn biến tư tưởng các người viết, coi thường độc giả ! Trong nước, sau nhiều "cơn bão", cái nhìn của người nghiên cứu đã theo sự thật. Mới đây trong Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp của Viện Ngôn ngữ học do Tòa đại sứ Pháp ở Hà-nội giúp xuất bản, Lý Toàn Thắng đã đánh giá lại sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối với sự thành hình chữ Quốc ngữ kết luận de Rhodes chỉ là người đóng góp một phần và chữ quốc ngữ của ông dù khá hoàn chỉnh vẫn chưa có hình thức như nay, do đó "cũng không thể nói là ông đã kiện toàn hay hoàn thành chữ quốc ngữ" (12) mà nên dành công đó cho Pigneau de Béhaine!
    ...........................
    Cù Lần
  4. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Thật ra chỉ là một tình cờ của lịch sử mà chữ quốc ngữ đã trở thành công cụ cai trị của người Pháp. Phải nói chính người Pháp đã "lợi dụng" thứ chữ lúc đó đã thông dụng trong giới tu hành đạo Thiên-Chúa để làm ngôn ngữ công văn và hành chánh, sau đó người Pháp mới có ý muốn người Việt quên đi văn hóa dân tộc để dễ đồng hoá khi cho dịch Hán Nôm ra quốc ngữ. Và chính người Pháp đã đánh sai dư luận, như Georges Taboulet trong La Geste francaise en Indochine đã viết "Cha Alexandre de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào Việt Nam" (13). Một loại tuyên truyền chính trị ! Người Việt thiển cận đã không tham chiếu và đã lập lại luận điệu của ... thực dân! Dĩ nhiên có những vị thừa sai thực dân như giám mục Puginier đã tiếp tay cho nước Pháp của họ khi đánh Bắc-kỳ lần thứ nhất, nói là để vinh danh "nước Chúa" thật ra chỉ vì quyền lợi nước họ, hai thế kỷ sau câu viết gây hiểu lầm (ngoan cố) của A. de Rhodes nói trên ! Ngoài ra lịch sử cũng ghi rằng các sĩ quan hải quân Pháp đã ngần ngại dùng các giáo sĩ trong việc đánh chiếm Nam-kỳ cũng như Bắc-kỳ! Pháp đến để bảo vệ người theo đạo đã trở thành huyền thoại, vì đó chỉ là cái cớ, phương tiện cho mưu đồ xâm lăng của thực dân! Và chữ quốc ngữ đã là công cụ của Pháp, trong thực tế lịch sử cũng không hẳn vậy vì sau vài bước đầu, thực dân Pháp đã thay thế chữ quốc ngữ bằng chữ Pháp trong chương trình giáo dục, chữ quốc ngữ trở thành thứ yếu, "chỉ là ngôn ngữ thông dụng chứ không phải là một ngôn ngữ văn hóa", nói theo Bằng Giang (14). Trương Vĩnh Ký đóng góp cả đời với tin tưởng ở chữ quốc ngữ, trong khi thực dân chỉ lợi dụng chữ quốc ngữ khi cần đến; nhưng cũng nhờ những tiền bối như ông, nếu không nước ta đã rơi vào tình trạng của Phi-luật-tân!
    Không những cổ động chữ quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký còn có một chủ trương rất dứt khoát về tiếng Việt. Có hai khía cạnh: thứ nhất ông chủ trương dùng tiếng Việt của tổ tiên khởi từ Bắc sau Nam tiến, thứ tiếng tìm thấy trong văn chương truyền khẩu và một số truyện Nôm như tuyện Kiều, Phan Trần,... Tức không pha chữ Hán, như thầy giảng Lữ-Y Đoan đã làm với Sấm-truyền ca trước thời Trương Vĩnh Ký. Câu văn cũng được Trương Vĩnh Ký chăm sóc và nếu so sách các văn bản lúc đầu như bài viết trên Gia-Định Báo và Chuyện Đời Xưa (1866) với các bài viết cuối đời ông sẽ thấy có sự "tiến bộ" tức hợp lý, sáng sủa và dễ hiểu hơn. Chính Phạm Long Điền cũng công nhận tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Paulus Của, .. không có nhiều lỗi chánh tả như tiếng Việt trên sách báo trong Nam hồi đầu thế kỷ XX (15)! Các nhà nghiên cứu văn học đã gọi đó là trường phái Trương Vĩnh Ký, đồng thời và sau ông có Nguyễn Trọng Quản, Trương Minh Ký, ... Nhưng bên cạnh có những người Nam viết sai theo nói sai. Chính đó là lý do văn viết trong Thầy Lazarô Phiền dễ hiểu hơn nhưng đã bị trường phái "bình dân" lấn lướt! Mà ngày nay hai khuynh hướng viết ngôn ngữ miền Nam này vẫn còn thấy rõ ở Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Phùng Nhân, ... hoặc Nguyễn Văn Sâm, Hồ Trường An, Kiệt Tấn.
    (còn nữa)
    ...........................
    Cù Lần
  5. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    4 - Ông đã viết rất nhiều sách báo giới thiệu đất nước và con người Việt Nam, dĩ nhiên bằng tiếng Pháp: Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, Précis de géographie de l'Indochine, Produits de l'Annam, Dictionnaire biographique Annamite,v.v. Ngoài ra ông còn biên soạn nhiều bộ sách khảo cứu bằng tiếng Việt như Đại Nam Tam Thập Nhứt Tỉnh Thành Đô,... Ông là người đầu tiên làm cái việc mà ngày nay người ta gọi là Việt-Nam-học, sau ông có G. Dumoutier, L. Cadière, v.v. Vì là người đầu tiên làm việc một cách khoa học nên đã bị nghi làm rapport cho "Tây" chăng ? Những công trình này đã được giải thưởng của Hội địa lý Pháp và được "quốc tế" nhìn nhận như những tài liệu căn bản. Tưởng cũng cần nhắc ở đây công dìu dắt Trương Vĩnh Ký ở bước đầu của một nhà truyền giáo người Pháp, Bovillevaux, người đã có công phát hiện Đế Thiên Đế Thích, Trương Vĩnh Ký vẫn hay nhắc đến với tên Việt "cố Long" (3), bạn của thân sinh ông thuở sinh thời, trong thực tế là cố đạo duy nhất đã ảnh hưởng lên Trương Vĩnh Ký nếu có!
    Việc giới thiệu này của ông đã bị các ông Mẫn Quốc, Phạm Long Điền, ... kết án là cung cấp tài liệu cho thực dân dễ chiếm hữu lãnh thổ Việt Nam. Đây là nói đến cuốn Chuyến Đi Bắc-kỳ năm Ất Hợi và bản báo cáo đính kèm gửi đô đóc Duperré! Ông Mẫn Quốc kết án ông có "nhiệm vụ đặc phái" làm " gián điệp, tình báo, giòi trong xương giòi ra"(16). Phạm Long Điền kết : "Chuyến đi Bắc-kỳ của Trương Vĩnh Ký năm 1876 không ngoài mục đích xem xét tình hình để báo cáo tường tận cho Soái phủ Nam-kỳ và từ đó, Soái phủ Nam-kỳ chuẩn bị tiến quân ra Bắc trong một cuộc xâm lăng đại qui mô nhằm đặt toàn cõi Đông dương dưới quyền thống trị của thực dân Pháp" (17). Có thể Trương Vĩnh Ký ngây thơ vì quá thành thật và tự tin vào vai trò trung gian của mình mà không thể ngờ là người Pháp lợi dụng ông chăng?
    ...........................
    Cù Lần
  6. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    5 - Phương pháp nghiên cứu của Trương Vĩnh Ký đã khoa học, bằng giả thuyết và văn bản. Đến hậu bán thế kỷ XX bên Âu tây mới có thuyết đề cao văn bản, thế mà Trương Vĩnh Ký ở hậu bán thế kỷ XIX đã xử dụng để nghiên cứu văn học ! Trương Vĩnh Ký đã xử dụng phương pháp khoa học tiến bộ so với phương pháp biên niên sử theo Trung Hoa của thời đó, ông là người đầu tiên biên soạn lịch sử Việt Nam mà lại bằng tiếng Pháp. Hai tập Petit cours d'histoire annamite (Giáo Trình Lịch Sử An-Nam) xuất bản năm 1875 và 1877, cả hai tổng cộng khoảng 462 trang. Tập 1 viết về thời lập quốc đến nhà hậu Lê (2874 AD - 1428), tập sau từ 1428 đến 1875. Ông là người đầu tiên đã chứng minh lịch sử Việt Nam đã khởi đầu từ hơn 4000 năm, theo ông thời xa xưa nhất của lịch sử Việt Nam khởi từ năm 2874 trước Công-nguyên với 20 đời vua Hồng Bàng, 18 đời vua Hùng Vương và đời Thục An Dương Vương (tr. 7-17). Vận dụng, khai thác nguồn văn thư tịch và truyền thuyết, truyện cổ, ông đã dựng cơ sở lịch sử cho thời "huyền sử", ông dựng lại đời sống, con người và xã hội thời xa xưa đó . Theo ông, "các sử gia biên niên xưa nhằm xu nịnh vua chúa, đã đặt ra những huyền thoại để khẳng định thiên mệnh của nhà vua. Còn dân gian thì trong các chuyện truyền khẩu, đã biết ngược dòng thời gian xa xôi trong cái thời điểm mà lịch sử không còn dấu vết, có chăng chỉ còn dấu tích trong các ngọn nguồn thâm sâu huyền hoặc của thần thoại. Người ta không thể coi thường những chuyện kể ở những thời xa xưa, bởi vì mặc dù chúng có khó hiểu, thậm xưng, hoặc không chặt chẽ nhưng người ta vẫn có thể rút ra, từ sự tưởng tượng và cả những nhận thức sai lầm trong đó, những kiến thức về những cái có thể có thực, hoặc ít ra là một phương hướng một dấu vết khả dĩ dùng được để tìm ra sự thực" (18).
    Thật vậy, ông đã vận dụng nhiều phương pháp khoa học và là người đi đầu viết lịch sử dân gian thay vì chỉ chú trọng giới vua chúa quan quyền, mà khi viết về mỗi triều đại ông cũng cả viết về đời sống xã hội cũng như các khía cạnh kinh tế, văn hóa, ngoại giao, v.v.. Không bị ràng buộc như các quan sử lịch triều, sống ở đất thuộc địa, lại có một căn bản bác học, nhờ đó ông có cái nhìn tổng quát và chứng tỏ cố gắng khách quan. Khi viết chuyện vua Lê Chiêu Thống chết bên Tàu được liệm để đưa về chôn ở quê nhà, khi liệm người ta đã tìm thấy tim vua còn tươi đầy máu, ông bàn "Đó chỉ là một chuyện bịa đặt không căn cứ, kết quả của những trò phỉnh gạt thô bỉ và phạm thượng ("C'est une invention fantaisiste, le résultat de quelque grossière et profane mystification" (tr. 207). Ông đã luận công tội các triều đại xưa và vinh danh các anh hùng dân tộc. Ngòi bút trở nên đanh thép khi viết về Hai Bà Trưng : "Suốt 149 năm (111 av CN đến 38 CN) nước An nam đã phải chịu đựng cái ách của các viên quan cai trị Trung quốc. Nhưng cuộc đô hộ rồi cũng phải bị tiêu diệt, như tất cả những gì bắt nguồn từ những quá độ của bạo lực: ách đô hộ đã bị bẻ gãy bởi bàn tay của một người phụ nữ"(19). Hay khi xét mặt trái chuyện Sĩ Vương : "Sĩ Vương đã du nhập sang ta nền văn học Trung quốc, cũng như đạo lý Khổng Tử, ép buộc nhân dân An-nam phải tiếp nhận làm của mình, và cấm dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam. Vì biện pháp nghiệt ngã ấy mà người An-nam đã hoàn toàn mất đi thứ chữ viết riêng của mình". (20). Xét chuyện xưa đưa đến phê phán nặng nề chuyện nay : "Dù người An-nam là công dân của nước Pháp hay của Bắc, Trung kỳ đều có chung một nguồn gốc. Dù bị ngăn chia (với phần còn lại nước Việt) vì vận mạng chính trị, chúng tôi vẫn phải phản đối mạnh mẽ cái chế độ cai trị lầm lạc đã biến dân chúng thành bầy thú của vua, và là một sự bóc lột trầm trọng, có tội với xứ sở". Ông liền ghi chú xin lỗi :"Nhưng xin người đọc đừng giận tôi vì trong tôi tràn ngập một nỗi buồn cay đắng khi thấy đất nước phải ra nông nỗi này, chuyện đáng ra không đáng phải xảy ra"(21). Đây là lần hiếm hoi ông lộ rõ bất bình đói với vua quan Tống-nho nhà Nguyễn. Bộ Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký xuất bản sau (1879) (8) cũng được viết ngoài vòng cương tỏa của triều đình nhà Nguyễn, như bộ của Trương Vĩnh Ký, nhưng bộ sử của họ Trương có cái nhìn quán triệt và tổng quan hơn nhiều! Cụ Nguyễn Văn Tố trong bài tiếng Pháp "Petrus Ký" trên tập Kỷ yếu của Hội Trí tri Bắc-kỳ năm 1937 đã dành 10 trong 42 trang để phân tích và phê bình cuốn sử này, đã đề cao phương pháp sử có cơ sở : ".. Đã đến lúc tính uyên bác Nam kỳ thay thế cho những quyển sách cũ kỹ ấy, đến lúc đó loại trừ, một mặt, tất cả những thứ tạp nhạp gọi là thông tin mượn ở sách vở Trung quốc và mặt khác dành một vị trí xứng đáng cho những dữ kiện chính xác và phong phú rất mực do sử ký ta cung cấp" (22). Trương Vĩnh Ký cũng đã để lại một bản thảo Truyện Đất Nam-kỳ lịch sử Đàng Trong bằng chữ quốc ngữ viết năm 1864 "xưng tụng các chúa Nguyễn bằng vua"(23). Ông còn tỏ ra là một nhà ngôn ngữ học thông thái, với những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt, á-đông và nhiều nước như Étude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les moeurs de l'Indochine, Analyse comparée des principales langues du monde, v.v. Những công trình được nhiều nhà nghiên cứu Việt và Âu-Mỹ đánh giá cao như J. Thomson trong Dix ans de voyages dans la Chine et l'Indochine (1873), J. Bouchot trong Un savant et compatriote cochinchinois : Petrus J.B. Trương Vĩnh Ký (1925), cả nhà ngữ học Cao Xuân Hạo trong nước qua bài "Trương Vĩnh Ký trong lịch sử ngôn ngữ học VN". (24).
    còn nữa
    ...........................
    Cù Lần

Chia sẻ trang này