1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bức ảnh có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 28/03/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
  2. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Sau Hiệp định Geneva năm 1954, Mỹ thay chân Pháp ở Việt Nam và dựng Ngô Đình Diệm làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Cuối tháng 7-1954, Ngô Đình Diệm đề nghị Bảo Đại hủy bỏ qui chế Hoàng Triều Cương Thổ và được chấp thuận ngày 10-8-1954. Ngày 11-3-1955, Bảo Đại phê chuẩn Dụ số 21 sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ Việt Nam và đặt khu vực này dưới quyền quản trị của Việt Nam Cộng Hòa (chỉ Xứ Thượng miền Nam Xứ Thượng miền Bắc thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa).

    Cùng ngày, Ngô Đình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 61 thành lập Tòa Đại Biểu Chính Phủ thay thế Tòa Khâm Sứ, bổ nhiệm ông Vĩnh Dự làm đại biểu chính phủ (tỉnh trưởng) tại Buôn Ma Thuột và ông Tôn Thất Hối làm đại biểu tại Đà Lạt. Trong cùng thời gian, Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu Pháp giao lại những cơ sở hành chánh và quân sự do họ nắm giữ, đồng thời chuẩn bị kế hoạch đưa những người di cư từ miền Bắc lên Tây Nguyên lập nghiệp.

    Đầu năm 1955, những người cầm đầu các dân tộc như Y Thinh Eban, Y Mot Nie Kđam, Y Say Mlô Buôn Du... đã dự kiến lập một tổ chức bí mật. Suốt năm 1956, nhóm này tuyên truyền gây ảnh hưởng.

    Ngày 10-8-1955 Pháp rút quân khỏi cao nguyên, chấm dứt chính thức chế độ Hoàng Triều Cương Thổ. Thành phần trí thức và sĩ quan Thượng tin rằng sau khi tiếp thu Tây Nguyên họ sẽ được Ngô Đình Diệm trọng dụng. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy, tất cả những chức vụ chỉ huy đều do những viên chức gốc Kinh từ đồng bằng lên nắm giữ. Những đơn vị quân đội Thượng (Sư đoàn 4 bộ binh, 7 tiểu đoàn cơ động cùng những đơn vị tác chiến khác, khoảng 10.000 người) đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Những cơ quan hành chánh, giáo dục và y tế đặt dưới quyền quản trị của Tòa Đại Biểu Chính Phủ.

    Tây Nguyên vào năm 1955 có khoảng 700.000 dân Thượng, đông hơn dân số Kinh vào thời điểm đó nhưng người Thượng chỉ đảm nhiệm những vai trò thứ yếu hay không có vai trò nào cả. Tại Darlac và Pleiku, các tỉnh trưởng còn buộc người Thượng phải ăn mặc chỉnh tề (đa số dân Thượng trong giai đoạn này vẫn còn đóng khố) khi vào những cơ quan công quyền trong thành phố.
    Thêm vào đó, thành phần di cư người Kinh tỏ ra khinh miệt người Thượng tại những vùng cộng cư.

    Giọt nước đã làm tràn ly là chính sách đồng hóa (diễn văn ngày 12-6-1955) và cải cách điền địa (Dụ số 57 ngày 22-10-1956) của Ngô Đình Diệm : phân biệt đối xử, bãi bỏ các tòa án phong tục, cấm dạy tiếng thổ ngữ và phủ nhận quyền sở hữu đất đai (polan) của người Thượng.

    Một phong trào chống đối ngấm ngầm hình thành, một số trí thức, cán bộ và binh sĩ Thượng bất mãn bỏ về làng, một số khác vẫn ở lại cơ quan nhưng không làm việc. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội 1956, ứng cử viên Touprong Hrou đơn vị Tuyên Đức - Lâm Đồng bị bỏ tù vì những tội vu vơ,

    Tây Nguyên có tầm quan trọng đặc biệt đối với các chiến lược gia Hoa Kỳ, đó là cửa khẩu ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội cộng sản miền Bắc vào miền Nam. Việc tranh thủ người Thượng gây nhiều tranh chấp giữa cơ quan CIA và Tòa Đại Sứ Mỹ trong chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ. Cơ quan CIA chủ trương võ trang trực tiếp người Thượng vì họ rất thiện chiến trong các rừng rậm.

    Năm 1956, nhiều phái đoàn MAAG (The US Military Assistance Advisory Group) được gởi lên cao nguyên quan sát tình hình. Từ đó, trong chiến lược chống Cộng của Hoa Kỳ, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng trang bị vũ khí cho thanh niên Thượng thành lập các đội Dân sự Chiến đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) và Lực lượng Đặc biệt (Special Force) và xây dựng cơ sở huấn luyện binh lính Thượng chống du kích. Đến 1962, chuyên viên và cố vấn Hoa Kỳ đã có mặt khắp Tây Nguyên. Ngô Đình Diệm (đắc cử Tổng thống ngày 24-10-1956) cũng cho thành lập Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng.

    Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chủ trương kêu gọi sự hợp tác về lâu về dài của người Thượng, đặc biệt là phát triển văn hóa, xã hội, y tế và tín ngưỡng nhằm nâng cao mức sống. Các mục sư tin lành được nhìn như sự tiếp nối của các giáo sĩ công giáo Pháp thời trước nên rất được mến mộ. Nhiều phái đoàn đặc vụ dân sự USOM, USAID, các tổ chức thiện nguyện đến chữa bệnh, hướng dẫn cách thức canh tác nông nghiệp, xây cất nhà cửa, giúp đỡ vật chất và sáng tạo chữ viết la tinh hóa của từng thổ ngữ để giảng dạy. Nhiều trường phổ thông vừa dạy tiếng địa phương, vừa dạy tiếng Việt và tiếng Mỹ được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum, Đà Lạt. Nhiều sinh viên Chăm và Thượng được ghi danh vào Viện Đại Học Đà Lạt.

    Năm 1957, Diệm phát hiện ra âm mưu của nhóm Y Thinh Eban, Y Mot Nie Kđam, Y Say Mlô Buôn Du... và buộc một số thành viên của nhóm đi nơi khác. Cũng trong năm này, Y Bham Ênuôl (người Ê Đê), Nay Luett (người Gia Rai) đã tiếp xúc với một số giáo sĩ nước ngoài trong Hội Truyền giáo phúc âm Liên hiệp Mỹ (CMA), các nhân viên tình báo Mỹ tại Sài Gòn, nhóm cố vấn chính trị thuộc MSU... Với mục đích phát triển lực lượng này để kiềm chế Chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã cung cấp tiền bạc để 2 người thành lập tổ chức.

    Y Bham Ênuôl , Nay Luett đã tập hợp được một số trí thức Thượng kết hợp lại thành một nhóm phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng trên Tây Nguyên với các chính quyền địa phương. Những người lãnh đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Ênuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp (nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr (trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor...

    Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Ênuôl công khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền "biệt lập" về hành chánh và chính trị.

    Trước sự chống đối này, Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ được nâng lên thành Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng (nghị định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế, nhằm kêu gọi người Thượng hợp tác với chính phủ xây dựng đất nước và chống cộng trong tinh thần Kinh Thượng bình đẳng và đoàn kết. Trong thực tế văn phòng này đã không đưa ra một chính sách nào cụ thể.

    Không được trả lời thỏa đáng, ngày 1 tháng 5 năm 1958, một số trí thức người Thượng, đứng đầu là ông Y Bham Ênuôl người Ê Đê, thành lập tổ chức BAJARAKA - chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên Tây Nguyên : BAhnar (người Ba Na), dJArai (người Gia Rai), RhAdé (người Ê Đê) và KAho (người Cờ Ho) - và vận động dân chúng Thượng đấu tranh bất bạo động yêu cầu chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử đối với các sắc tộc thiểu số. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội 1958 ông Y Prong Kbor đơn vị Đắc Lắc bị xóa tên

    Ngày 25 tháng 7 năm 1958, BAJARAKA gởi hai kháng thư, do ông Y Bham Ênuôl cùng 16 đại diện sắc tộc khác ký tên, tố cáo những hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các sắc tộc thiểu số; kể lại những đóng góp của các dân tộc miền núi trong việc chống lại quân phiệt Nhật, ********* và *********; yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng có một "lãnh thổ biệt lập". Thư viết bằng tiếng Pháp được gởi đến tòa Đại Sứ Pháp và Liên Hiệp Quốc, và thư viết bằng tiếng Anh gởi đến tòa đại sứ Hoa Kỳ và các tòa đại sứ khác tại Sài Gòn. Kháng thư viết bằng tiếng Anh, do giáo sư David Nuttle (người Mỹ) chuyển tới tòa đại sứ Hoa Kỳ, tỏ ý không muốn đặt Tây Nguyên trực thuộc vào chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà muốn được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hoa Kỳ. Trong kháng thư gởi Liên Hiệp Quốc, phong trào xin được sát nhập vào vương quốc Lào như người Pháp đã làm năm 1893.

    Ngày 30-7-1958, phong trào gởi một phái đoàn gồm bốn người về Sài Gòn gặp đại sứ Hoa Kỳ qua trung gian David Nuttle. Cùng thời gian, Y Bham Ênuôl thành lập Ủy Ban Tự Trị Trung Ương, trụ sở đặt tại Pleiku, chỉ huy tất cả các cơ quan tỉnh lỵ, quận huyện trên Tây Nguyên.

    Nhiều ủy ban địa phương được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Kontum và Di Linh. Ủy Ban tuyển mộ sĩ quan và binh lính Thượng đang phục vụ trong chính quyền miền Nam, chọn một lá cờ tượng trưng cho sự "biệt lập" (xanh dương, trắng và đỏ như cờ Pháp nhưng phía trên góc trái có 4 ngôi sao màu vàng tượng trưng cho bốn sắc tộc chính) và phổ biến một thư ngỏ mang tên "Nguyện vọng đấu tranh của đồng bào Thượng".

    Thư ngỏ này thực ra là một cáo trạng đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, liệt kê những hành vi phân biệt đối xử của người Kinh đối với người Thượng trong mọi lãnh vực, từ chính trị, hành chánh, an ninh quân sự, tư pháp, kinh tế đến văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.

    Trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào Bajaraka tổ chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột nhưng đều bị Diệm thẳng tay trừng trị, giải tán biểu tình, trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt (Y Bham Ênuôl, Y Dhơn Adrong, Y Dhê Adrong, Y Nuin Hmok, Y Wick Buôn Ya, Y Het Kpor, Y Tluốp Kpor, Y Sênh Niê, Y Bun Sor, Y Yu Êban, Y Thih Êban, Touneh Yoh, Siu Sip, Paul Nưr, Nay Luett...), những thành phần có uy tín như sĩ quan và công chức Thượng đang công tác trên cao nguyên đều bị thuyên chuyển về đồng bằng.

    Tháng 10-1958, Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh Thượng hợp tác chống cộng và hứa sẽ cải tổ sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội miền Thượng. Văn Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên, nhiều học sinh Thượng được đưa về Huế và các thành phố Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt học trong những trường trung học kỹ thuật. Một số cán bộ Thượng được đưa về Sài Gòn tu nghiệp tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn Phòng Xã Hội không hoạt động gì cả, các học sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ (bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ). Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn. Những lãnh tụ Thượng còn lại đều tỏ ra bất mãn nhưng bất lực.

    Đến đầu năm 1959, phong trào này coi như bị dập tắt nhưng nó cũng góp phần hình thành một đội ngũ “thủ lĩnh”, có “uy tín” chỉ đạo cuộc đấu tranh tiếp theo. Phong trào Bajaraka chính là tiền thân của FULRO và được coi là FULRO thế hệ thứ nhất.

    Trong cuộc bầu cử Quốc Hội 1960 ông Y Klong đơn vị Đắc Lắc bị buộc phải rút tên.

    Năm 1963, người Mỹ quyết định can thiệp mạnh tại Việt Nam. Tháng 11-1963 Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tất cả các biện pháp ban hành dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đều bị hủy bỏ. Nhờ sự can thiệp của Mỹ, tất cả những lãnh tụ phong trào BAJARAKA đều được thả. Paul Nưr, phó chủ tịch phong trào BaJaRaKa được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum, ông Y Bhăm Ênuôl, chủ tịch phong trào BaJaRaKa được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc.

    Tin tưởng được Mỹ ủng hộ, tháng 3-1964 những người lãnh đạo phong trào Barajaka thành lập Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên, tiếng Pháp: Front de Libération des Hauts Plateaux, viết tắt là FLHP (tên chính thức được mặt trận sử dụng) hay Mặt Trận Cao Nguyên. Lần này mặt trận có sự tham gia của nhiều sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại miền Trung. Mặt trận cho phổ biến một bản hiệu triệu bằng ba thứ tiếng (Pháp, Chăm và Rhadé) đòi quyền tự trị và chủ trương tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động.

    Mặt trận chia làm hai phe:

    Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham Ênuôl đại diện.
    Phe chủ trương bạo động, do Y Dhơn Adrong cầm đầu.

    Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham Ênuôl đại diện, tham gia mọi sinh hoạt chính trị trên khắp cao nguyên để giúp chính quyền miền Nam xây dựng một chính sách Thượng vụ thích hợp. Phe chủ trương bạo động, do Y Dhơn Adrong cầm đầu, kêu gọi cán bộ dân vệ và biệt kích Thượng gia nhập FLHP chống lại chính quyền.

    Sự kiện này làm giới chỉ huy quân sự miền Nam lo ngại, những cuộc hành quân trên Tây Nguyên từ tháng 3 đến tháng 5-1964, do tướng Vĩnh Lộc chỉ huy, để phá vỡ những căn cứ của quân Thượng. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1964, phe bạo động bị truy quét gắt gao phải chạy qua Campuchia lập căn cứ tại trại Bốt Chá - Rolland cũ (Camp Le Rolland), tỉnh Mondolkiri cách biên giới Việt Nam khoảng 15 km, tiếp tục tuyển mộ thanh niên Thượng tham gia FLHP chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

    Hoa Kỳ khuyến cáo Việt Nam Cộng Hòa thương thuyết với người Thượng để tìm một giải pháp sống chung. Ngày 5-5-1964, chính phủ miền Nam mời 64 nhân sĩ Thượng ôn hòa, đại diện các sắc tộc, về Sài Gòn họp để tổ chức một đại hội gồm 55 đại diện sắc tộc tại Pleiku ngày 26-8-1964 do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chủ trì.

    Lo sợ bị loại khỏi các cuộc thương thuyết, phe bạo động chuẩn bị một cuộc nổi dậy võ trang do đại úy Y Nam Êban chỉ huy. Ngày 19 tháng 9 năm 1964, các toán biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt và các đội Dân sự Chiến đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (Đắc Nông ngày nay) và Đắc Lắc giết chết 35 sĩ quan và binh sĩ người Kinh trung sĩ Klé chiếm thị trấn Bù Đăng, thiếu úy Y Bách Êban tấn công đồn Sarpa, Y Djao Niê tiến vào buôn Miga (Đức Lập), bắt sống quận trưởng quận Đức Lập; Y Bhan Kpor vây đồn Bù Đốp và Bu Briêng, phe bạo động làm chủ quốc lộ 14, đánh đồn Srépok rồi tiến vào Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh Buôn Ma Thuột kêu gọi thành lập một quốc gia độc lập.

    Kinh ngạc và giận dữ, ngày 20 tháng 9 năm 1964, Chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến thuật phản ứng mãnh liệt. Lệnh thiết quân luật được ban hành ngay sáng 20-9-1964, mọi ngả ra vào Buôn Ma Thuột đều bị chận xét gắt gao, Sư Đoàn 23 cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp được huy động đến vây quanh đài phát thanh, một số tiến về những những đồn bị chiếm đóng.

    Phe bạo động chống trả dữ dội. Các đồn Bù Đăng, Miga, Bu Briêng, Srépok và nhiều cầu trên quốc lộ 14 đều bị chiếm lại, trừ đồn Sarpa vẫn còn nằm trong tay phe bạo động. Khi phe bạo động sắp bị tiêu diệt thì đột nhiên chuẩn tướng Vĩnh Lộc nhận được khuyến cáo của Beachner, tham tán thứ ba tòa đại sứ Mỹ trên Cao Nguyên là nên thương thuyết.

    Ông Y Bham Ênuôl, đại diện phe ôn hòa, phó tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột, được mời đến Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 23 tham khảo ý kiến rồi được cử vào đài phát thanh thương thuyết với phe bạo động. Sau khi dàn xếp xong với phe bạo động, im tiếng súng, Y Bham được Beachner đưa về nhà riêng thảo luận.

    Buổi chiều cùng ngày, đại úy Darnell đích thân đưa những lãnh tụ Thượng khác (Y Bhim, Y Dhou) vào nhà Beachner họp.

    Cuộc thương lượng với đại diện Tòa Đại Sứ Mỹ và chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham Ênuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP, những chỉ huy phe bạo động (Y Dhơn Adrong, Y Sênh Niê, Y Nuin Hmok, Y Nam Êban) không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Kampuchea.

    Thỏa thuận xong, ngay chiều 20-9, Y Bham Ênuôl trốn sang Kampuchea, sau khi để lại một kháng thư gởi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đòi quyền tự trị trên cao nguyên. Tại biên giới, Y Bham Ênuôl được tướng nhảy dù Les Kosem (một người Khmer gốc Chăm) cùng Y Bun Sor ra đón và đưa về Camp le Rolland nghỉ ngơi rồi tức tốc được chở về Phnom Penh họp.

    Tại Kampuchea, những lãnh tụ FLHP họp ngày đêm chuẩn bị thành lập một phong trào đấu tranh mới. Chính quyền Kampuchea, qua trung gian Les Kossem, cật lực giúp đỡ sự ra đời một tổ chức mới qui mô hơn gồm đủ mọi sắc tộc. Lãnh tụ các nhóm Khmer Krom, Chăm và Thượng FLHP được quân đội hoàng gia Kampuchea đưa về Phnom Penh họp.

    Tối ngày 20-9-1964, dưới sự chủ tọa của Sihanouk, Les Kosem cho ra đời một tổ chức mang tên Mặt Trận Thống Nhất Các Sắc Tộc Thiểu Số (Front Uni des Races Minoritaires-FURM) gồm ba mặt trận:

    Mặt Trận Giải Phóng Champa (Front de Libération du Champa-FLC) tức FULRO Chăm, do một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm Les Kosem (bí danh Po Nagar) lãnh đạo.
    Mặt Trận Giải Phóng xứ Kampuchea Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom-FLKK) tức FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện.
    Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux-FLHP) do Y Bham Ênuôl cầm đầu.

    Nhưng danh xưng FURM không được Y Bham chấp thuận và sau nhiều bàn cãi sôi nổi các phe chọn một tên chung là Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị Áp Bức, tiếng Pháp là Front Uni de Lutte des Races Opprimées (Lutte chứ không phải Libération như nhiều người thường lầm tưởng), gọi tắt là FULRO để xưng danh trong các hoạt động tại Việt Nam và trên chính trường quốc tế.

    FULRO chọn cờ hiệu hình chữ nhật, ba màu : bên phải màu xanh lục (màu của rừng núi) có ngôi sao trắng nằm trong hình lưỡi liềm trắng tượng trưng cho người Chăm theo đạo Hồi tại Kampuchea và Việt Nam, ở giữa có 3 sọc trắng xen kẽ với 4 sọc xanh dương (màu của biển cả) tượng trưng cho bảy sắc tộc lớn người Thượng : Bahnar, Djarai, Radhé, Kaho, Sedang, Mnông, Mạ, bên trái là màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh), trên sọc màu đỏ có ba ngôi sao màu trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Champa, Thượng và Campuchia Krom.

    FULRO có ba cơ quan lãnh đạo:

    Hội đồng Tối cao do Chau Dera làm chủ tịch,
    Hội đồng Bảo trợ do Les Kossem làm chủ tịch, và
    Ủy ban Chấp hành Trung ương do Y Bham làm chủ tịch.

    Mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức thống nhất nhưng FULRO có ba lực lượng khác nhau :

    FULRO Khmer do Chau Dera làm chủ tịch, nhưng vì bận tổ chức đội phòng vệ cho Sihanouk tại Phnom Penh nên không thể sinh hoạt, mọi quyền hành đều nằm trong tay Les Kossem. Hội Đồng Tối Cao của Chau Dera đổi thành Ủy Ban Chấp Hành Tối Cao do Les Kosem lãnh đạo.

    FULRO Chăm, do Les Kosem chỉ huy, là tổ chức có tầm vóc nhất. (Kampuchea có 250.000 người Khmer gốc Chăm, đa số sinh sống tại Kompong Cham). Les Kosem còn kéo theo một số người Thượng và người Chăm vào FLC để gây thêm vây cánh và cho người về Việt Nam lôi kéo một số thanh niên Chăm qua ngõ Châu Đốc vào Kampuchia.

    Về đối nội, FULRO Chăm có ba ban.

    Ban tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam móc nối cơ sở, phá hoại do Huỳnh Ngọc Sắng, một người Chăm sinh sống tại Bình Thuận, làm đại diện.

    Ban kinh tài thu thập tiền đóng góp của dân chúng, tiếp tế cho hậu cứ của Y Bham Ênuôl tại Camp Le Rolland, do Tôn Ái Liên, một người Chăm tại Châu Đốc, làm trưởng ban và vợ Les Kossem, người nhận thầu cung cấp lương thực cho các căn cứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam để kiếm thêm tiền, làm phó.

    Ban phát triển giáo dục cử người đi du học ngoại quốc nghiên cứu về dân tộc Chăm. Về đối ngoại, Les Kosem vận động các quốc gia ngoại quốc và thành lập nhiều tổ chức Chăm tại hải ngoại ủng hộ nhóm FULRO Chăm.

    FULRO Thượng do Y Bham Ênuôl làm chủ tịch vẫn bị phân hóa thành 2 nhóm:

    Nhóm dân sự ôn hòa do Y Bham Ênuôl lãnh đạo chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa để FULRO Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức. Trong thực tế, Y Bham Ênuôl là "kẻ ăn nhờ ở đậu" vào Les Kosem nên không có thực quyền cụ thể nào ngoài uy tín cá nhân. Les Kosem có phương tiện nên nắm hết mọi quyền hành.

    Nhóm quân sự quá khích do Y Dhơn Adrong lãnh đạo chủ trương dùng bạo lực để thành lập quốc gia độc lập bằng cách uy hiếp những đồn bót quân sự, tấn công các chuyến xe đò dân sự trên các quốc lộ 14 và 22 cùng những liên tỉnh lộ khác của Việt Nam Cộng Hòa dọc vùng Tam Biên.

    Ngày 23-9-1964, ông Beachner và tướng Vĩnh Lộc cùng một số nhân sĩ Thượng thành lập Ban Đại Diện Lâm Thời Người Thượng tại Buôn Ma Thuột do ông Y Char Hdok (hiệu trưởng trường Nguyễn Du) làm chủ tịch, ông Y Chôn Mlô Duôn Du (nhân viên Nha Đặc Trách Thượng Vụ) làm cố vấn. Beachner cử Y Chôn Mlô Duôn Du làm trung gian thương nghị giữa Việt Nam Cộng Hòa và FLHP. Sau bốn ngày thương nghị, Y Chôn Mlô Duôn Du loan báo phe FLHP chấp nhận buông súng và thương nghị.

    Ngày 28-9-1964, tướng Nguyễn Khánh cùng tướng Vĩnh Lộc đến đồn Sarpa nhận sự đầu hàng của 233 binh sĩ FLHP. Lễ gắn huy chương cho những người Thượng có công hòa giải được diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh (Buôn Ma Thuột). Lợi dụng sự hòa giải, một số quân FLHP và các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng còn kẹt lại chạy sang Kampuchea gia nhập vào lực lượng của ông Y Bham Ênuôl đồn trú tại Camp Le Rolland.

    Hoa Kỳ muốn được rảnh tay trong nỗ lực tiến công tiêu diệt các mật khu cộng sản trên Tây Nguyên yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương thuyết với FULRO Thượng tìm một phương thức sống chung và hợp tác chống sự xâm nhập của quân cộng sản. Một đại hội các sắc tộc Thượng được triệu tập tại Pleiku từ ngày 15 đến 17-10-1964, gồm 73 thân hào nhân sĩ Thượng và đại diện chính quyền Sài Gòn để hình thành một chính sách Thượng vụ hợp tình hợp lý: tái lập quyền sở hữu đất đai và các tòa án phong tục, dạy tiếng Thượng ở cấp tiểu học, chấp nhận sự tham chính của người Thượng, giúp đỡ thiết thực hơn người Thượng và nâng Nha Đặc Trách Thượng Vụ thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ (trước đó, ngày 5-5-1964 Nha Công Tác Xã Hội miền Thượng đổi thành Nha Đặc Trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng, ngày 7-10-1964 trực thuộc Phủ Thủ Tướng).

    Nhóm Dân Sự ôn hòa, do ông Y Nhiam và bà Hzáp (vợ Y Dhê Adrong) đại diện, được phó đại sứ Hoa Kỳ Alexis Johnson và đại tướng Morton bảo trợ từ Kampuchea về Buôn Ma Thuột thành lập Ban Đại Diện Chính Phủ Lâm Thời Cao Nguyên.

    Để gây thanh thế, từ 29-7 đến 2-8-1965, nhóm Quân Sự cử 200 FULRO Thượng vượt biên giới tấn công và chiếm giữ đồn Buôn Briêng và khi rút lui còn dẫn theo 181 Dân Sự Chiến Đấu Thượng (dân vệ). Sau đó trung tá Y Djao Niê dẫn một trung đoàn FULRO Thượng về đóng tại Buôn Buor (Đắc Lắc), gần một cây cầu trên quốc lộ 14, kềm chế nhóm Dân Sự của Y Bham Ênuôl do Y Dhê Adrong làm đại diện tại Buôn Ma Thuột, lúc đó đang kêu gọi binh sĩ FULRO Thượng mang vũ khí về nộp chính quyền miền Nam.

    Trong thời gian này Quân Giải Phóng gia tăng áp lực tại miền Nam Việt Nam, Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị, do Y Bih Aleo lãnh đạo, cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức nhiều cuộc tấn công khắp Tây Nguyên.

    Ngày 2 tháng 8 năm 1965, Y Dhê Adrong cầm đầu một phái đoàn từ biên giới Kampuchea về Sài Gòn thương thuyết và một tuyên cáo chung về hợp tác Kinh - Thượng trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình và chống cộng được ký kết.

    Vài hôm sau, ngày 16-8-1965, từ Camp Le Rolland Y Bham Ênuôl gởi đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa một văn thư đòi : xác nhận lãnh thổ Thượng từ vĩ tuyến 17 đến Đồng Xoài gồm cao nguyên Kontum, Pleiku, Đắc Lắc, Phú Bổn, Đồng Nai thượng, Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức và một phần các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, gọi chung là Liên Bang Cao Nguyên trong Cộng Hòa Liên Bang Việt Nam; có quốc kỳ riêng; có quân đội riêng, giảm số người Việt Nam di cư lên cao nguyên bằng con số trước năm 1954.

    Y Bham đề nghị tổ chức các cuộc thương thuyết tại Buôn Ma Thuột hoặc tại Manille (Philippines) nhưng yêu sách này không được Sài Gòn chấp thuận. Ba tuần sau, ngày 23-8-1965, Y Dhê Adrong dẫn một phái đoàn khác từ Camp Le Rolland đến Buôn Ma Thuột họp. Phái đoàn Việt Nam, do hai tướng Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc đại dện, yêu cầu quân FULRO phải buông súng xuống mới chịu thảo luận.

    Buổi lễ nạp vũ khí của 500 FULRO Thượng tại Buôn Buor được cử hành ngày 15-9-1965, tướng Vĩnh Lộc đưa phái đoàn Y Dhê Adrong, Y Ngo Buôn Ya, Y Bun Sor, Y Nhiam Niê, Y Sênh Niê về Sài Gòn gặp đại diện của Hoa Kỳ (các ông Peterson và Anderson) và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để thảo luận về qui chế đặc biệt dành cho người Thượng, một lực lượng quân sự 150.000 người dưới sự chỉ huy của FULRO, một quốc kỳ tương đương với quốc kỳ của Việt Nam Cộng Hòa, một phái đoàn độc lập có quyền đi dự những hội nghị quốc tế, quyền tiếp đón trực tiếp các đại diện của Hoa Kỳ và các nước khác, quyền triệu tập một Đại Hội Đồng Dân Tộc Thiểu Số, thành lập một phái đoàn Đại Diện Dân Tộc Thiểu Số...

    Trong khi đó, từ 29-7 đến 2-8-1965, nhóm quá khích, sau khi tố cáo Y Bham Ênuôl bị mua chuộc, bí mật tổ chức bạo loạn, họ rải truyền đơn hô hào "Cao Nguyên của người Cao Nguyên !", "Thực dân Kinh cút đi !".

    Việc thương lượng hòa giải giữa chính quyền và phe FULRO đang diễn ra suôn sẻ thì từ ngày 12 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 1965, nhóm FULRO quá khích do Y Dhơn Adrong cùng Y Nuin Hmok và thiếu úy Y Nam Êban dẫn một nhóm FULRO gồm đại đội 296 Địa Phương Quân, trung đội 1/503 Nghĩa Quân Thượng do thượng sĩ Nay Rí chỉ huy tấn công đồn Phú Thiện (tỉnh Phú Bổn) sát hại 32 người và làm bị thương 26 người.

    Sau đó Y Nam Êban cùng Y Tam Uông, đội trưởng và đội phó đại đội 281, chỉ huy lính Thượng chiếm đồn Krong Pách, giết hết binh sĩ người Kinh;

    Tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Klam chỉ huy đột nhập Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Quảng Đức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO.

    Trong khi Chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, huy động Sư Đoàn 23 Bộ Binh và một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tấn công vào những nơi bị chiếm, bắt được một số tù binh và truy đuổi tàn quân FULRO thì đột nhiên Nguyễn Văn Thiệu, được sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ, ra lệnh cho Vĩnh Lộc nương tay và để những nhân vật quan trọng và sĩ quan cao cấp Thượng chạy sang Kampuchea.

    Nhận được tin nổi loạn tại Việt Nam Y Bham Ênuôl sai con rể là trung tá Y Em chận bắt những phần tử quá khích tại biên giới. Y Dhơn Adrong và Y Nuin Hmok bị Y Em bắt và đem về Camp le Rolland xử tử, Y Bun Sor chạy thoát về Phnom Penh báo cáo.

    Khi sự việc xảy ra Les Kossem không dám chống lại quyền lãnh đạo FULRO Thượng của Y Bham Ênuôl lên Camp le Rolland thương lượng và cho cài những người Chăm thân tín vào những chức vụ cao cấp bên cạnh Y Bham Ênuôl để kiềm chế những quyết định thân thiện Việt Nam của ông, là Đằng Năng Giáo (bí danh Yang Neh) làm đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch đặc trách chính trị và nội vụ, và Thiên Sanh Thi giữ chức tư lệnh Quân Khu 3 (Ninh Thuận và Bình Thuận) kiêm sư đoàn trưởng Sư Đoàn Po Romé. Y Bun Sor được Les Kosem phong làm phụ tá quân sự đặc trách FULRO Thượng tại Phnom Penh. Tuy không bằng lòng về sự canh chừng này, Y Bham Ênuôl vẫn ra lệnh cho Y Dhê Adrong về Việt Nam thương thuyết với Paul Nưr, đại diện chính quyền miền Nam.

    Các cuộc thương lượng kéo dài gần một năm. Để xoa dịu sự bất mãn của người Thượng, chính sách Thượng vụ phát họa ngày 17-10-1964 được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thi hành.

    Đầu năm 1966, Y Chôn Mlô Duôn Du và Nay Luett đặt Văn Phòng Liên Lạc thuộc Nha Đặc Trách Thượng Vụ ở Buôn Ma Thuột để thương nghị với Y Dhê Adrong.

    Ngày 12-2-1966, một đại hội Kinh Thượng được tổ chức tại Kontum lên án gắt gao nhóm quá khích và Tòa Án Quân Sự Vùng II Chiến Thuật, họp tại hội trường Diên Hồng Pleiku, xử những quân nhân Thượng phản loạn cấp thấp (4 tử hình, 1 chung thân, 3 khổ sai 20 năm và nhiều án khổ sai 10 năm).

    Ngày 22-6-1966 Nha Đặc Trách Thượng Vụ được nâng lên thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ, Paul Nưr làm đặc ủy trưởng, để chuẩn bị cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Paul Nưr và Y Bham Ênuôl.

    Tin tưởng vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, phong trào FULRO đòi hỏi rất quyết liệt và tỏ ra không nhân nhượng về yêu cầu thành lập Liên Bang Cao Nguyên Việt Nam, quyền có quốc kỳ, quyền có quân đội riêng và quyền đại diện chính thức.

    Lo sợ Y Bham Ênuôl phản bội lý tưởng ban đầu là tranh đấu giành độc lập cho Tây Nguyên, ngày 20-9-1966 Les Kosem và Chau Dera xua quân bao vây Camp Le Rolland rồi ép Y Bham Ênuôl ký giấy nhường lãnh thổ của của Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (từ sông Srê Pok (Nam Lào và đông bắc Kampuchea) đến Pleiku) cho Mặt trận Giải phóng Champa (FLC). Nhưng âm mưu này bất thành vì trung tá Y Em mang quân đến giải vây và bắt sống một số binh sĩ Khmer và Chăm đang vây Camp le Rolland. Y Bham được giải thoát, giấy nhượng đất bị xé.

    Ngày 2-6-1967, Y Bham Ênuôl đích thân cầm đầu một phái đoàn đến Buôn Ma Thuột thương nghị và yêu cầu chính quyền miền Nam sớm ban hành qui chế riêng cho người Thượng. Một đại hội các sắc tộc thiểu số trên toàn quốc được triệu tập trong hai ngày 25 và 26-6-1967 để đúc kết các thỉnh nguyện chung của người thiểu số. Ba văn kiện được đệ trình lên chính phủ là bản thỉnh nguyện, bản kiến nghị và bản tuyên ngôn, tất cả đều được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, long trọng chấp thuận và cam kết sẽ cho thực hiện.

    Ngày 29-8-1967, đại hội các sắc tộc được tổ chức tại Buôn Ma Thuột dưới sự chủ tọa của dưới sự chủ tọa của Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (tương đương Tổng thống), và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (tương đương Thủ tướng). Chính phủ ký sắc luật số 033/67 cùng ngày ban hành Qui Chế Đặc Biệt nâng đỡ người thiểu số theo kịp đà tiến bộ của dân tộc.

    Tháng 11-1967 Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa ủy nhiệm Bộ Phát Triển Sắc Tộc nghiên cứu một dự thảo luật về Hội Đồng Sắc Tộc.

    Sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy 1968, Mỹ thúc ép Sài Gòn phải hòa giải để đưa toàn bộ lực lượng FULRO trở về.

    Tháng 8-1968, Y Bham Ênuôl dẫn đầu một phái đoàn cao cấp gồm 28 người (Y Dhê Adrong, Y Prêh, Ksor Dút, Kpa Doh, Y Tôn, Thiên Sanh Thi, Huỳnh Ngọc Sắng, Zu Zol, Thạch Thân Apol, Chay Rithi, Sa Phol, Chau Chen, Chau Phước...) từ Camp le Rolland về Buôn Ma Thuột họp với Paul Nưr, Ya Ba, Châu Văn Mổ, Nay Luett, Nguyễn Hữu Oanh v.v... đòi hỏi những quyền lợi khác cho người Thượng nhưng không kết quả.

    Cuộc thương lượng cuối cùng ở cấp bậc cao nhất giữa Y Bham Ênuôl (với tư cách chủ tịch phong trào FULRO) và đổng lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng được tổ chức ngày 11-12-1968 đi đến một thỏa thuận như sau: phong trào FULRO được quyền có một hiệu kỳ nhưng không phải là quốc kỳ, Bộ Sắc Tộc được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do một người Thượng lãnh đạo, phái Đoàn Sắc Tộc sẽ được thiết đặt tại Buôn Ma Thuột, một tỉnh trưởng hay phó tỉnh trưởng người sắc tộc sẽ được đề cử tại những tỉnh có đông người sắc tộc cư ngụ, những lực lượng địa phương quân sắc tộc (Thượng) sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan sắc tộc (Thượng), một sĩ quan hay hạ sĩ quan sắc tộc (Thượng) sẽ được đề cử ngay trong những đơn vị quân đội chính qui có đông người sắc tộc... Lễ ký kết sẽ được cử hành tại Buôn Ma Thuột đầu năm 1969. Phái đoàn Y Bham Ênuôl về Camp le Rolland thu xếp đồ đạc chuẩn bị sang Việt Nam ở luôn.

    Sáng 30-12-1968, trước khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa đem trực thăng sang Camp Le Rolland đón Y Bham Ênuôl và lực lượng FULRO Thượng về Buôn Ma Thuột thì Les Kosem đã ra lệnh cho Y Bun Sor điều động hai trung đoàn Quân đội Hoàng gia Campuchia bao vây Camp le Rolland. Đằng Năng Giáo, Y Bhan Kpor, Y Nam Êban, Ksor Dút, Kpa Doh, Kpa Blan chỉ huy đội cảm tử ập đến bắt cóc Y Bham Ênuôl và gia đình đưa về Phnom Penh. Y Em cùng một số thân tín bỏ chạy vào rừng. Phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa vượt biên giới sang Camp Le Rolland phải quay trở về Buôn Ma Thuột.

    Cùng ngày Les Kosem lên Mondolkiri trấn an và thuyết phục binh sĩ FULRO Thượng còn lại phải tuân lệnh bộ chỉ huy FULRO mới đặt tại Phnom Penh. Từ đó Y Bham Ênuôl bị giam lỏng tại Phnom Penh dưới sự quản chế của Les Kosem. Một số thân tín Chăm và Thượng được Les Kosem thăng thưởng và cất nhắc lên những chức vụ chỉ huy.

    Ngày 31-12-1968 Les Kosem thành lập Hội Đồng Nội Các Lâm Thời FULRO, chủ tịch là Yang Neh (Đằng Năng Giáo), Souleiman (Thiên Sanh Thi) làm phó, đại tá Y Bhan Kpor tham mưu trưởng, trung tá Y Nam Êban tham mưu phó.

    Nội các này bị Les Kosem giải tán 10 ngày sau đó vì bất lực trong việc tổ chức điều hành. Để thay thế, Les Kosem thành lập một Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO gồm toàn người Chăm do chính ông làm chủ tịch, Souleiman làm phụ tá đặc trách quân sự, El Ibrahim phụ tá đặc trách hành chánh, Mohamet phụ tá đặc trách tiếp vận. Y Bun Sor được cử đi du học tại trường Sorbonne Paris, Pháp.

    Đầu năm 1969, Les Kosem giải tán Mặt Trận Cao Nguyên (FLHP) và cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa (Front de Libération des Hauts Plateaux et du Champa, gọi tắt là FLHPC) do Y Bhan Kpor làm chủ tịch. Y Bhan Kpor kêu gọi người Mỹ hãy ở lại Cao Nguyên với dân tộc Thượng.

    Ngày 1 tháng 2 năm 1969 hiệp ước cuối cùng được ký kết giữa ông Paul Nưr, đại diện Việt Nam Cộng hòa, và Y Dhê Adrong (thay vì Y Bham Ênuôl), đại diện FULRO dưới sự chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Văn Hương.

    Cờ Việt Nam Cộng Hòa treo cạnh cờ FULRO với những biểu ngữ "Tình đoàn kết Kinh Thượng muôn năm", "Hoan hô các anh em FULRO trổ về phục vụ quốc gia"...

    Theo tin tình báo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1969, có 5.471 người qui thuận gồm 2.257 sĩ quan, binh lính và nhân viên dân sự, 3.214 thân nhân gia đình và 895 súng ống đủ loại. Như vậy tổng cộng có gần 6.000 người qui thuận (ngày 15-9-1965 có hơn 500 người đã ra đầu thú). Trong lời bế mạc buổi lễ, Y Dhê Adrong tuyên bố : "Kể từ ngày hôm nay, phong trào FULRO không còn nữa trên Cao Nguyên, bất cứ ai sử dụng danh nghĩa FULRO sau này để phá hoại sự đoàn kết Kinh-Thượng sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành của chính quyền".

    Hồ sơ FULRO đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa coi như kết thúc, một giai đoạn hợp tác mới được mở ra. Nhưng thực tế đã không giản dị như vậy, người Chăm và Thượng vẫn chưa có một chỗ đứng danh dự như mong muốn, FULRO giải tán nhưng tình hình vẫn chưa yên, một số người trong các sắc tộc Thượng và Chăm vẫn chưa hài lòng, phong trào FULRO tiếp tục đấu tranh trong bóng tối.

    Tháng 6-1969, Les Kosem tạm ngưng khóa huấn luyện FULRO tại Phnom Penh, đưa các khóa sinh lên Mondolkiri và Rattanakiri thay thế lực lượng của Y Bham Ênuôl.

    FULRO Chăm được giao vai trò lãnh đạo tại Mondolkiri (Đặng Nô, Đồng Tập, Kinh Hoài Diệp...) và tại Rattanakiri (Đằng Năng Giáo, Kpa Toh, Tạ Văn Lành), nhưng nhóm FULRO Thượng tại đây không chấp nhận sự chỉ huy của Y Bhan Kpor, họ chỉ tuân phục Y Bham Ênuôl mà thôi.

    Ngày 29-7-1969 Les Kosem họp với Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Đại Đủ (Po Dharma), Thiên Sanh Thi, Hoàng Minh Mộ, Đặng Văn Thủy, Y Bhan Kpor, Y Nam Êban, Kpa Doh tại Phnom Penh tìm người làm chủ tịch FULRO nhưng không thành, Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO Chăm đảm nhận luôn việc điều hành nhóm FULRO Thượng.

    Năm 1970, Les Kosem sang Bangkok gặp hai vị tướng lục quân và không quân Thái gốc Chăm trong quân đội hoàng gia và những lãnh tụ Thái gốc Chăm thành lập Tổ Chức Người Chăm Chính Thống Tiến Bộ ủng hộ FULRO Chăm (Thái Lan có 400.000 người Thái gốc Chăm đến lập nghiệp từ thế kỷ 15).

    Sau đó Les Kosem đến Djakarta gặp tổng thống Sukarno và được hứa sẽ có 8.000 binh sĩ trong hai lữ đoàn nhảy dù (paracommando) Nam Dương sang yểm trợ FULRO Chăm phục hồi vương quốc Champa khi hữu sự.

    Les Kosem nhận viện trợ của Indonesia thông qua Suseno, tùy viên quân sự tòa đại sứ Indonesia tại Phnom Penh (Indonesia có khoảng hai triệu người Indonesia gốc Chăm, tổ tiên những người này đã sang Indonesia và Mã Lai lập nghiệp từ thế kỷ 14 đến 16).

    Quốc gia kế tiếp là Mã Lai và các nước Ả Rập (Algérie), Nhật Bản nhận giúp FULRO Chăm tu sửa lại các đền đài (Mã Lai có 200.000 người Mã Lai gốc Chăm lập nghiệp từ thế kỷ 14).

    Sau cùng Les Kosem sang Pháp và Châu Âu vận động nhân sĩ chính trị và tôn giáo Pháp tổ chức những cuộc hội thảo về văn minh Champa và cấp học bổng cho một số sinh viên Chăm vào học những trường đại học lớn tại Paris (Sorbonne), Aix en Provence...

    Trong các buổi hội thảo này, những trí thức Chăm và Pháp cho in những tài liệu nhắc nhở sự kiện Champa bị Việt Nam xâm thực và mong muốn được các chính quyền phương Tây giúp phục hồi hay nhìn nhận vương quốc cũ.

    Mỹ tiếp tục sử dụng FULRO vào việc phá hoại, gây tổn thất không nhỏ cho các căn cứ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là thời kỳ FULRO thế hệ thứ 2.

    Năm 1972, ở Đà Lạt và Campuchia xuất hiện một lực lượng “áo xanh miền núi” gồm các đối tượng FULRO cũ và một số thanh niên người dân tộc. Thực chất đây là tổ chức chính trị do Newman - giáo sĩ Tin lành người Mỹ ở Đà Lạt chỉ đạo và tổ chức.

    Cuối năm 1973, các thủ lĩnh FULRO đã móc nối với các tổ chức, cá nhân người Mỹ, đặc biệt là John Paul Van - Cố vấn tình báo Mỹ phụ trách công tác bình định. Biết rằng vai trò của Mỹ ở Việt Nam sắp chấm dứt và chính quyền Sài Gòn khó có thể tồn tại nên Mỹ đã quyết tâm gây dựng lực lượng FULRO hòng chống phá Việt Nam về sau này, phục vụ cho kế hoạch hậu chiến.

    Mỹ tuyên bố ủng hộ FULRO đấu tranh giành tự trị, mặt khác đạo diễn cho FULRO bắt mối với cán bộ ta ở địa phương dưới danh nghĩa đi tìm người Mỹ mất tích mà thực chất là để thâm nhập nắm tình hình cách mạng và hợp thức hóa vai trò của FULRO sau này.

    Tháng 9/1973, Kpă Kới cùng một số đối tượng chạy ra rừng hoạt động bất hợp pháp, đặt bộ chỉ huy ở rừng Buôn Phan, cách Buôn Ma Thuột 20 km do Kới làm chủ tịch lâm thời, còn Y Bhăm nằm tại Campuchia ra chỉ thị lãnh đạo.

    Đầu năm 1974, FULRO hoạt động rất mạnh ở Đăk Lăk và chuyển sang Pleiku. Ngày 20/9/1974, chúng gửi thư cho Tổng Thư ký LHQ kêu gọi dư luận quốc tế can thiệp để chính quyền Sài Gòn thừa nhận FULRO là đại biểu duy nhất cai quản toàn bộ miền núi Nam Đông Dương.

    Cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam xuân 1975 đã phá vỡ kế hoạch của FULRO và mưu đồ của các thế lực ********* quốc tế. Lúc này, địch chưa kịp triển khai cụ thể ý đồ sử dụng FULRO trong kế hoạch hậu chiến, trong khi giữa tháng 4-1975, Phnom Penh bị thất thủ, Y Bham Ênuôl cùng vợ con chạy vào tòa đại sứ Pháp tị nạn. Quân Khmer đỏ tràn vào tòa đại sứ bắt tất cả những ai không phải là người Pháp hay có quốc tịch ngoại quốc, toàn thể gia đình ông Y Bham Ênuôl bị quân Khmer đỏ hành quyết trong sân tòa đại sứ.
  3. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Fulro - dưới sự giật dây, hỗ trợ của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại nước ta. Từ đầu năm 1975 đến năm 1977, Fulro tiếp tục tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Một tên thủ lĩnh khác là Y Djao Niê tổ chức lại Fulro đồng thời kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mỹ và LHQ viện trợ, đã tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

    Sự liên hệ của FULRO với các thế lực bên ngoài bị gián đoạn... Tuy nhiên, lợi dụng lúc chính quyền ngụy tan rã, các đám FULRO trong nước cho là thời cơ đã đến nên nổi lên hoạt động vũ trang cướp vũ khí của quân đội Sài Gòn, chiếm cứ nhiều buôn làng, đòi chia sẻ quyền lực với chính quyền Cách mạng và tiến hành bắt cóc, ám sát cán bộ ta. Chúng thu gom phương tiện, vũ khí và số ngụy quân là người dân tộc để phát triển tổ chức.

    Từ tháng 6/1975, lợi dụng lực lượng tiếp quản vùng mới giải phóng còn mỏng, FULRO nổi lên hoạt động mạnh. Họ rải truyền đơn kích động người dân tộc, tổ chức hàng loạt các cuộc tiến công vào các đơn vị bộ đội, tổ công tác, các thị trấn, thị xã, phục kích, tập kích đường giao thông, bắt cóc cán bộ cơ sở. Nhóm cầm đầu FULRO đã cấu kết chặt chẽ và được sự giúp đỡ tích cực của một số nhà hành đạo ở Tây Nguyên. Đã có mục sư, chấp sự Tin lành người dân tộc trở thành sĩ quan FULRO.

    Được sự hỗ trợ của lực lượng tình báo, các lực lượng vũ trang ở Khu 5 đã tổ chức tấn công, truy quét FULRO, vận động quần chúng thiết lập củng cố chính quyền Cách mạng. Đầu năm 1977, FULRO vẫn tiếp tục tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Y Djao Niê tiếp tục tổ chức lại FULRO đồng thời kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mỹ và LHQ viện trợ.

    Trong thời gian từ năm 1979-1985, hoạt động FULRO đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp, buôn làng, giết hại nhiều cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. “Độc ác như Fulro!” Đó là câu nói cửa miệng của tất cả những người từng làm việc và sinh sống trên địa bàn Tây Nguyên những năm sau ngày nước nhà thống nhất. Trên khắp các đô thị, buôn làng, những cánh rừng, những núi đồi Tây Nguyên đều in dấu dày Fulro.

    Chúng đã liều lĩnh mở những cuộc tập kích bất ngờ nhằm khuấy động cuộc sống bình yên của nhân dân, phá hoại hệ thống kết cấu hạ tầng còn nghèo nàn, giết hại những cán bộ, chiến sỹ và cả những người dân vô tội ở các buôn làng. Đó là những tháng ngày Tây Nguyên u ám bởi bóng ma Fulro. Và máu trên các dốc núi, triền rừng đã đổ…

    Đại tá Vũ Linh (tức Tư Vũ, nguyên Trưởng Ty Công an Lâm Đồng, Cụm trưởng An ninh Tây Nguyên) vẫn chưa cất được ký ức trĩu nặng: “Hồi đó, ngày nào chúng tôi cũng nhận được tin cấp báo về những hoạt động và hành vi tội ác của bọn Fulro trên khắp địa bàn. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn độc ác nào, nhằm vào bất kể mục tiêu quân sự hay dân sự, sẵn sàng xả đạn vào cán bộ, công an, quân đội hay thường dân…”

    Theo tư liệu của đại tá Vũ Linh, năm 1975, cùng với toàn miền nam, Tây Nguyên được giải phóng. Bọn ********* choáng váng trước sự kiện bất ngờ này, nhưng ngay từ thời điểm đó, chúng đã thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của quân đội Sài Gòn bỏ lại và cơ cấu thành một tổ chức vũ trang do Kpă Kới làm Phó Tổng Tư lệnh kiêm Phó Chủ tịch Fulro.

    Lợi dụng tình hình Tây Nguyên mới giải phóng chưa ổn định, Fulro nổi lên hoạt động mạnh ở nhiều nơi. Chúng xuất hiện trên nhiều buôn làng rải truyền đơn, tuyên truyền miệng xuyên tạc chính sách của Đảng, nhà nước; dọa dẫm, kích động, lôi kéo nhân dân tham gia tổ chức của chúng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động khủng bố, tấn công vào các đơn vị bộ đội, các tổ công tác của ta; phục kích, giết hại và làm bị thương hàng trăm người; cướp súng đạn, hàng hóa, tập kích đường giao thông, đốt phá trụ sở. Hàng ngàn thanh niên trong các buôn làng bị Fulro lôi kéo, cưỡng bức vào rừng. Không khí Tây Nguyên vào thời kỳ đó thật u ám, nóng bỏng.

    Bên dưới Kới có Bộ Tổng Tham mưu do Y Bach Êban làm Tổng Tham mưu trưởng. Chúng bố trí lực lượng theo 4 vùng chiến thuật nhằm thực hiện âm mưu chống phá lâu dài, tiến tới “xây dựng một nhà nước tự trị”.

    Theo đó, vùng 1 (hay còn gọi là Quân khu 1) là miền tây Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; vùng 2 là Gia Lai, Kon Tum; vùng 3 là Đắc Lắc, Quảng Đức và vùng 4 là Lâm Đồng, Ninh Thuận. Trong đó, vùng 4 hoạt động mạnh nhất mà nóng bỏng nhất là địa bàn Lâm Đồng.

    Tại Lâm Đồng, đầu năm 1975, nổi lên tên Ha Nhang, vốn là một binh sỹ trong quân đội Sài Gòn, con của mục sư Ha Prông - chủ nhiệm Nam Thượng hạt (Sông Bé, Lâm Đồng và thị xã Bảo Lộc), có uy tín và ảnh hưởng trong lực lượng Fulro.

    Vùng 4, theo kế hoạch của Fulro, gồm cả các tỉnh nói trên, sẽ là vùng chiến thuật quan trọng nhất của chúng. Ha Nhang tự xưng là Tư lệnh vùng 4. Dưới sự chỉ huy của hắn, bọn Fulro tập kích vào các cơ quan Đảng, chính quyền. Ngày 8-4-1975, sau đúng 5 ngày Đà Lạt giải phóng, bọn chúng đã phục kích đội công tác do đồng chí K’Brèo - Thường vụ Huyện ủy Đức Trọng - làm Đội trưởng; làm đồng chí Hà Ban, một thành viên của đội hy sinh.

    Cũng trong thời điểm này, nhiều tên lãnh đạo cao cấp của Fulro như: Y Chôn Mlô Duôn Du, Y Bliêng Hmok, Y Nguê, Y Djao Niê, Nay Guh... đã bị bắt và đưa vào trại cải tạo tại Buôn Ma Thuột.

    Năm 1976, xã Tân Hội (huyện Đức Trọng, Lâm Đồng) mới thành lập, tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Nửa đêm, Fulro đột kích cướp thùng phiếu rồi bắn súng M16, M79 vào trường tiểu học vừa xây dựng xong, bắt cóc rồi sát hại một cán bộ xã. Tại xã Liên Đầm (Di Linh, Lâm Đồng), ngày 27-1-1977, Fulro đã bắt rồi thủ tiêu anh K’Trang, một dân thường. Chúng vứt xác anh bên quốc lộ 20 chỉ vì K’Trang không chịu theo chúng vào rừng.

    Đầu năm 1976, tại Gia Lai, một số tên cầm đầu Fulro lén lút móc nối hoạt động. Chúng bí mật củng cố lực lượng ngầm ở các buôn làng và tổ chức lực lượng vũ trang ngoài rừng. Ngày 14-6-1976, tên Y Toan Êban và Ksor Hit đi liên lạc với “Trung ương Fulro” từ Đắc Lắc trở về đã móc nối với các tên Nay Phun, Nayrông, R Cơmxik và 20 đối tượng khác đang lẩn trốn trên địa bàn huyện Chư Sê để thành lập khung chỉ huy gọi là “quân đoàn” 12 Fulro với 12 tên do Nay Phun làm “Tư lệnh”, R Cômsik làm “Tỉnh trưởng” Pleiku.

    Tháng 5-1976, một số tên cầm đầu Fulro Đêga bị ta bắt giam, gồm: Y Djao Niê, Nay Guh, Nay Ful, Nay Rông, Y Bliêng Hmok, Y Nguê... đã vượt ngục và ám sát ban lãnh đạo Fulro Đêga cũ (gồm Kpa Kới, Y Bach Êban, Y Dhê Buôn Dap...) để giành quyền lực.

    Sau cuộc “đảo chính đẫm máu” này, Y Djao Niê - Trung tá quân đội Sài Gòn cũ, đứng ra thành lập nội các mới, tự xưng là Thiếu tướng, Thủ tướng Fulro và đưa Nahria Ya Đuk, người Cơ Ho, sinh tại Đơn Dương, Lâm Đồng làm Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Tư lệnh vùng 4. Nội bộ Fulro lúc này đã bộc lộ rõ nét những mâu thuẫn, thù hằn và sát hại lẫn nhau.

    Đại bản doanh của “Đệ nhất Phó thủ tưởng” được đặt ở hang Ploóc Krong nằm sâu trong dãy Bi-doop - núi Bà - Lang Bian, một vùng rừng đại ngàn, hoang vu trải dài từ xã Đầm Ròn (nay là huyện Đam Rông, giáp tỉnh Đăk Lăk. quê hương của Ya Duck) đến gần hết các xã của huyện Lạc Dương, với chiều dài khoảng 90km, cách trung tâm TP. Đà Lạt 30km. Ông Ya Đuk nói rằng, hang Ploóc Krong xứng đáng được xếp vào loại “số 1” xét về giá trị...lẩn trốn, bởi nó vô cùng hiểm trở, hùng vĩ, địa thế thì không chê vào đâu được. Hang Ploóc Krong được bao bọc phía trước là ngọn núi Voi sừng sững sát quốc lộ 20 từ Đà Lạt đi Sài Gòn, có khả năng che chắn, bảo vệ. Tại núi Voi, “Bộ chỉ huy TW Fulro” cho đóng rất nhiều căn cứ với hàng trăm Fulro.

    Toàn huyện Lạc Dương lúc đó có đến trên 80% đồng bào DTTS sinh sống, hầu hết đều “giúp đỡ” Fulro, hoặc đã bị Fulro khống chế. Nếu có động, Fulro trong hang Ploóc Krong sẽ kịp thời được báo để mà chuẩn bị phản công hoặc sơ tán. Cửa hang ở độ cao khoảng 200m, lòng hang có sức chứa cả trăm người.

    Đặc biệt trong hang có cấu tạo một phòng riêng, rất đẹp như một hành cung dành riêng cho “Đệ nhất phó thủ tướng” Ya Đuk. Tại lối vào cửa hang cach vài cây số có nhiều trạm gác, quân Fulro thay phiên nhau túc trực ngày đêm. “Địa chỉ đen” này chính là nơi sinh ra những kế hoạch chống phá cách mạng, chống phá cuộc sống bình yên của các buôn làng…

    Một số chức sắc và binh lính Fulro nhận thức ra sự phi nghĩa, bỏ về làng làm nương rẫy, số khác buông súng đầu hàng. Bị quân ta truy quét gắt gao và nhiều dấu hiệu dẫn đến rã ngũ, Y Djao Niê đã dẫn hơn 2.000 tàn quân Fulro - Đêga chạy sang Campuchia và được Khmer Đỏ tiếp nhận, trở thành một lực lượng vũ trang trong bộ máy giết người của Pôn Pốt - Iêng Xary. Sau đó, Fulro lại quay về Tây Nguyên tiếp tục hoạt động chống phá, khủng bố.

    Trong khi “ngài Thủ tướng” đang bám gót Pôn Pốt bên kia biên giới, “Phó Thủ tướng thứ hai” Paul Yưh người Ê Đê mất uy tín, tất cả quyền lực Fulro nằm trong tay Ya Duck, thanh thế của ông ta rất mạnh. Biệt danh “hùm xám Tây Nguyên” của Ya Duck bắt đầu nổi lên từ lúc này.

    Đêm 23-7-1976, tại Đăk Lăk, khoảng 50 tên Fulro bất ngờ tập kích vào đơn vị bộ đội thông tin tại huyện Krông Buk làm 3 đồng chí hy sinh, 6 đồng chí bị thương. Ngày 16-1-1977, cũng tại Krông Buk, bọn Fulro giết đồng chí Ma Đôi - Bí thư chi bộ một xã thuộc huyện này, bắn bị thương Chủ tịch xã, cướp đi 23 súng và lôi kéo 17 du kích người dân tộc vào rừng.

    Từ tháng 8-1976 đến tháng 2-1977, chúng gây ra 5 vụ tập kích trên quốc lộ 19 và quốc lộ 25, chặn đường và giết hại 106 người. Tập kích 4 vụ vào các lâm, nông trường và các xã, bắt đi 29 người và lôi kéo, khống chế hàng trăm thanh niên vào rừng.

    Đầu năm 1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị 04/CT-TW về đẩy mạnh việc giải quyết vấn đề Fulro. Được Bộ Nội vụ tăng cường quân số, lực lượng Công an Lâm Đồng đã lập nhiều chuyên án “đánh” Fulro.

    Công an Lâm Đồng đã đánh 36 trận, thu 104 khẩu súng các loại, 51 lựu đạn, 587kg lương thực và nhiều tài liệu quan trọng, làm tan rã hai tiểu đoàn, tiêu diệt tên Thiếu úy - trưởng hai tiểu đoàn; phá 6 tiểu đoàn trù bị, 14 tổ chức chính quyền Fulro cấp xã; phá 2 tổ chức Fulro cấu kết với bọn ********* “Mặt trận tự quyết”; xóa sổ nhiều căn cứ của Fulro; bắt sống, gọi hàng 46 đối tượng, trong đó có những Fulro cộm cán.

    Tại Đăk Lăk, tháng 2-1977, lực lượng công an tỉnh xác lập 10 chuyên án đấu tranh với Fulro, phối hợp với Cục Cảnh sát bảo vệ, quân đội, du kích đánh 125 trận, tác động, lôi kéo về hàng 776 đối tượng, giáo dục 11.945 người là cơ sở tiếp tế cho Fulro ngoài rừng, thu 639 súng các loại. Bị ta truy quét mạnh, cuối năm 1977, 1.400 thành viên Fulro đã rời bỏ hàng ngũ. Fulro lâm vào thế bị động, giảm hẳn hoạt động vũ trang và các cuộc tập kích lớn trên đất Đăk Lăk.

    Từ năm 1977 - 1987, Bộ Nội vụ, Cục Nghiệp vụ, Công an các địa phương Tây Nguyên đã thực hiện hơn 55 chuyên án giải quyết vấn đề Fulro. Qua đấu tranh cơ quan An ninh đã đánh giá, hiểu rõ hơn nội tình của Fulro; tạo những bước ngoặt trong quá trình đấu tranh, giải quyết vấn đề Fulro ở địa phương và trên toàn Tây Nguyên.

    Sau các Hội nghị Công an toàn quốc, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) mà trực tiếp là Bộ trưởng Phạm Hùng đã tổ chức nhiều cuộc họp và trực tiếp chỉ đạo ngành công an các tỉnh Tây Nguyên phối hợp cùng các đơn vị của Bộ, quân đội, các địa phương cấp tốc tổ chức và triển khai các chuyên án để triệt phá tổ chức ********* nguy hiểm này. Chúng tồn tại thêm ngày nào là ngày đó tình hình vẫn rối ren, là máu của đồng chí, đồng bào vẫn đổ xuống mảnh đất vừa trải qua chiến tranh đang cần sự bình yên…”

    Trước thực tế ngày càng nhức nhối, ảnh hưởng đến việc ổn định và kiến thiết đất nước sau chiến tranh, các lực lượng vũ trang của ta đã mở hàng loạt chiến dịch hành quân quy mô lớn, truy quét tận sào huyệt của Fulro tại Đăk Lăk, Gia Lai, Lâm Đồng, Tuyên Đức…

    Khu ủy Khu 6 (gồm Lâm Đồng và Thuận Hải) thành lập Ban chỉ đạo truy quét Fulro mà Thường vụ Khu ủy là cơ quan trực tiếp phụ trách, bên dưới là các Ban chỉ đạo cấp tỉnh. Lực lượng vũ trang được đưa vào tấn công truy quét Fulro lúc này là Sư đoàn 10 (Bộ Quốc phòng), Trung đoàn 812 của Khu 6 và quân đội, công an các địa phương.

    Chúng ta cũng đã triển khai rất hiệu quả công tác vận động quần chúng, người tốt giáo dục người xấu, người thân lôi kéo người thân, đưa những người lầm lỗi trở về với gia đình, buôn làng. Kết quả, từ năm 1975 đến 1977 ta đã bắt, gọi về hàng 152 đối tượng, 2.539 đối tượng khác về đầu thú, thu 251 khẩu súng các loại, 17 lựu đạn, 1 máy đánh chữ.

    Ngày 9-2-1977, một toán Fulro ngoài rừng kết hợp với số hoạt động bí mật trong các buôn Puôr, buôn Cuôr Ta Ra (Buôn Ma Thuột) chặn bắt 26 người dân ở xã Hòa Đông, 5 người chống cự, bị chúng xả súng và dùng dao giết chết. Còn lại 21 người, chúng đưa vào rừng giết.

    Từ năm 1978 đến 1989, Fulro ở Gia Lai đã gây nên 215 vụ phục kích, tập kích với những hậu quả hết sức nghiêm trọng. Chúng đã bắn giết dã man 198 người, làm bị thương 169 người khác, đốt 38 nhà dân, 8 trụ sở xã, phá hỏng 6 ôtô, kéo ra rừng 842 người. Ngoài ra, chúng còn tổ chức hàng chục vụ đặt mìn, phá hủy cầu cống trên các tuyến giao thông.

    Điển hình là các vụ: đêm 26-3-1979, một toán Fulro tập kích vào 3 xã Ama Rơn, Ia Pia, Chư A Thai (huyện Ayun Pa) giết chết 9 người, bắn bị thương 12 người, đốt phá 3 nhà kho chứa 15 tấn lúa.

    Dù đã hơn 30 năm, nhưng ông Nguyễn Văn Sinh - hiện đang là Chủ tịch MTTQ huyện Lâm Hà (Lâm Đồng), trong lời kể về cái chết oan nghiệt của bố vợ ông do bọn Fulro gây ra, vẫn còn kinh hoàng. Đó là một đêm cuối năm 1979, khi buôn làng đang chìm trong giấc ngủ thì ngọn lửa bùng lên ở cuối thôn Bờ Sa.

    Tiếng người la hét hoảng loạn: “Fulro đốt nhà, bắt cóc mọi người đưa vào rừng rồi!” Sáng hôm sau, người thân của họ liều mình vào rừng tìm kiếm. Mọi người đau đớn chứng kiến xác những người nông dân hiền lành bị đánh đập, máu me đầy mình, móc mắt và treo lên cành cây bên bờ sông Đạ Dâng.

    “Tội” của họ chỉ là không có lương thực góp cho bọn chúng. Thiếu tá Liêng Bang, người chỉ huy đợt tập kích này, sau đó đã trở về đầu thú và hiện sống tại xã Đạ Đờn. Tiếp xúc với ông ta, tôi không có ý moi móc lại lỗi lầm xưa, nhưng Liêng Bang tỏ ra rất hối hận khi tôi nhắc lại hành vi man rợ đẫm máu đối với những người dân vô tội ấy…

    Không ai có thể nhớ hết những tội ác, những nỗi đau thương mà tổ chức ********* Fulro gây nên đối với người dân Tây Nguyên. Những chuyến xe khách dân sự ì ạch qua đèo An Khê, đèo Bảo Lộc, quốc lộ 14 bị bọn chúng bất ngờ tập kích, giết chết tất cả đàn ông, hãm hiếp phụ nữ và cướp tài sản.

    Trường học giữa buôn, bọn Fulro về thiêu cháy rụi, các cô giáo trẻ bị bọn chúng mang vào rừng hãm hiếp và vứt xác xuống suối. Những gia đình đồng bào, Fulro nghi ngờ cộng tác với chính quyền, chúng giết sạch cả nhà và chặt đầu treo lên cành cây. Chúng giết bất cứ ai, nếu người đó không theo chúng.

    Ông Lê Thành Danh, một người dân quê Nghi Thái, Nghi Lộc, Nghệ An vào Đắc Min (Đắc Nông ngày nay) xây dựng vùng kinh tế mới năm 1977, một năm sau đó ông và 5 người dân cùng làng bị bọn Fulro ném lựu đạn giết chết bên mé rừng khi họ đang phát cây khai hoang.

    Anh Tứ, con trai cả ông Danh, nhớ lại: “Hồi đó, tôi và những đứa em của mình còn nhỏ. Cả làng Đồi Hồng (xã Đức Minh) đi nhặt từng phần xương thịt cha tôi và những người xấu số khác. Bộ đội, du kích phải cảnh giới để mọi người lo hậu sự cho những người đã mất. Từ đó, những người dân trong làng không ai còn dám vào rừng nữa, nhiều người sợ hãi bỏ vùng kinh tế mới hồi hương…”

    8 giờ sáng 11-6-1980, Fulro phục kích trên đường vào Đăk Đoa, huyện Mang Yang bắn cháy 1 xe ôtô làm chết 16 người.

    Từ năm 1982-1985, FULRO được các thế lực quốc tế và tàn quân Pôn Pốt tiếp sức, củng cố căn cứ ở Mondolkiri và đưa được các toán đặc biệt về vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lập “mật cứ” đón gián điệp, biệt kích, lực lượng lưu vong trở về như Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh...

    Lực lượng CAND được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm FULRO và đưa họ trở về với cộng đồng. Do nhận thức được bản chất ********* của FULRO nên nhiều người lãnh đạo lực lượng này đã trở về và được chính quyền tạo điều kiện cho họ xây dựng lại cuộc sống. Họ cũng góp phần đắc lực vào việc vận động, lôi kéo những người lầm đường khác quay về với chính quyền mới. Cho đến nay, nhiều người vẫn còn nhớ đến ông Ya Duck, nguyên là đại tá, Đệ nhất Phó Thủ tướng FULRO, sau là Phó Chủ tịch MTTQ tỉnh Lâm Đồng, hay ông Nay Guh, nguyên chuẩn tướng Tổng Tham mưu trưởng FULRO vẫn đang ở Đăk Lăk và được mọi người kính trọng... Bên cạnh đó việc xây dựng cuộc sống mới ở Tây Nguyên cũng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

    Chuyên án F384 (từ tháng 3-1984 đến tháng 7-1985) của Công an tỉnh Đăk Lăk, đấu tranh lôi kéo số Fulro ly khai người M’nông ở địa bàn Đăk Mil, Đăk Nông - Đăk Lăk. Kết quả gọi hàng 47 người, tiêu diệt hai đối tượng, bóc gỡ một khung chính quyền ngầm cấp xã, ta đã giải quyết cơ bản bộ phận Fulro người M’Nông.

    Chuyên án T107 đấu tranh với số cầm đầu quân khu 1 Fulro; T108 đấu tranh với số chỉ huy quân khu 2, Y384 đấu tranh với toán đặc biệt của Bộ Quốc phòng Fulro; F485 đấu tranh với số chỉ huy quân khu 4 và một bộ phận của Bộ Tổng Tham mưu do tên Đại tá Ênuôl M’Bột cầm đầu của Công an hai tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Đăk Nông - Đăk Lăk, giải quyết dứt điểm vấn đề Fulro Chăm (1984); diệt, bắt, gọi hàng hơn 500 Fulro ở rừng và bóc gỡ gần 2.000 cơ sở của Fulro trong buôn, ấp.

    Ngày 28-7-1989, chúng tập kích vào một số gia đình xã An Phú, Pleiku bắn chết 5 người dân vô tội. Ngày 25-5-1980, khi có 4 thiếu niên người Kinh ở xã H’Neng, huyện Mang Yang vào rừng hái xoài đã bị Fulro giết hại dã man. Sau đó, có 10 người thân của các em đi tìm đã gặp toán Fulro trên, 6 người chạy thoát, còn 4 người đã bị chúng giết hại...

    Ở Tây Nguyên, cuối thập niên 80, không còn mấy ai nhắc đến Fulro nữa. Cho đến năm 1992, vấn đề Fulro lại xuất hiện ở khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia. Theo phóng viên người Mỹ Nate Tahyer trên tờ New Straits Times: “Lực lượng mang tên là Fulro-Dega là một tổ chức vũ trang đặt dưới quyền lãnh đạo của đại tá Y Peng Ayun, vẫn tiếp tục liên hiệp với Khmer Đỏ để chống lại Hà Nội.

    Sau 17 năm chống cộng, lực lượng của đại tá Y Peng Ayun chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Từ biên giới Thái -Miên, đại tá Y Peng Ayun tuyên bố rằng, lực lượng Fulro-Dega sẽ tiếp tục đấu tranh cho tới khi nào Cộng sản trao trả lại tự do cho dân tộc Tây Nguyên.”

    Năm 1983, “Đệ nhất Phó thủ tưởng” Nahria Ya Duck quyết định trở về với nhân dân, với chính quyền cách mạng sau chuyên án “Cao nguyên F101”. Ông Ya Duck nói: “Cái mà tôi đeo đuổi và hành động suốt bao nhiêu năm là đem lại ấm no và sự bình đẳng cho các dân tộc Tây Nguyên nhưng lại chọn cách làm cực kỳ sai lầm. Thực ra đó là điều mà Đảng, Nhà nước ta đang làm nhưng theo một cách khác và cách đó mới mang lại kết quả tốt đẹp. Gía mà tôi và nhiều người khác nhận ra được chân lý sớm hơn thì tránh được sự đổ máu vô ích khi nhân dân ta đã đổ quá nhiều máu trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc!”…

    Từ hội nghị chuyên đề giải quyết Fulro tại Nha Trang do đồng chí Phạm Hùng - Ủy viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chủ trì trở về, đồng chí Đỗ Quang Thắng - Bí thư Tỉnh ủy và Phó Ty Công an tỉnh Lâm Đồng Vũ Linh lập tức triển khai công tác. Đồng chí Đỗ Quang Thắng nói: “Bộ Chỉ huy Trung ương Fulro đang nằm ngay trong lãnh địa của chúng ta. Chỉ thị của đồng chí Phạm Hùng là Lâm Đồng phải tính toán như thế nào để triệt phá cái “Trung ương” ấy của chúng...” Vũ Linh đã hạ quyết tâm đánh án thành công trước người lãnh đạo cấp ủy trực tiếp của mình.

    Ngay trong đêm hôm ấy, Đại úy Nguyễn Văn Độ - Phó Phòng Bảo vệ chính trị (sau này là Đại tá, Giám đốc Công an Lâm Đồng) báo cáo cho đồng chí Vũ Linh một thông tin đặc biệt: “F1 (mật danh trinh sát nằm vùng của ta) đưa tin khẩn, Nahria Ya Duck vừa liên lạc với một đường dây để xuất ngoại, thông qua mục sư Tri Lâm ở TP. HCM. Cụ thể đường dây này như thế nào, tôi đã bố trí trinh sát tiếp tục theo dõi.”

    Với sự nhạy cảm và kinh nghiệm của một cán bộ tình báo lâu năm (Vũ Linh nguyên là Đại đội trưởng điệp báo A2, được đích thân Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn cử vào Nam hoạt động trong kháng chiến chống Mỹ), Vũ Linh hình thành ngay ý tưởng: “Tốt lắm! Thời cơ đã đến. Sáng mai, tôi sẽ trao đổi tin này với đồng chí Trưởng ty và các anh KĐ4 (Bộ Nội vụ) để bàn phương án. Không ngờ, đúng lúc này ta lại có đường để “dụ hùm ra khỏi hang”…

    Chuyên án F101 đã được triển khai ngay sau đó, Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Quang Thắng làm Trưởng ban. Thượng tá Vũ Linh trực tiếp chiến đấu, là Phó Ban Thường trực. Các đồng chí Lương Quyền - Cục trưởng KĐ4 (Bộ Nội Vụ) cùng 3 đồng chí cấp phó: Đức Minh, Văn Bá Đạt, Nguyễn Phước Tân và Đại tá Trần Đức Hoài - Trưởng Ty Công an Lâm Đồng thời kỳ đó làm Phó Ban.

    Thành viên Ban chuyên án là Đại úy Nguyễn Văn Độ, Thượng úy Phan Văn Thái (Phó Phòng Bảo vệ chính trị, sau này là Đại tá - Trưởng Công an huyện Đức Trọng) cùng Thiếu tá Trịnh Lương Hy - Trưởng Công an huyện Đơn Dương (sau là Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an).

    Mục tiêu của Ban chuyên án là đánh tan quân khu 4 - quân khu mạnh nhất của Fulro mà con át chủ bài là Nahria Ya Đuk, ngăn chặn việc chúng tiến hành lập Fulro vùng 5, góp phần giải quyết cơ bản tổ chức ********* này…

    Nguồn tin của F1cho biết: qua một cô gái người Kinh tên là Thu Phương, làm y tá tại xã N’Thol Hạ (Đức Trọng), nhóm Ya Đuk đang tìm đường để ra nước ngoài trong một “chương trình” mang tên “Xuduvicaon” (xuất dương vì cao nguyên).

    Phương tìm được một mục sư tên là Tri Lâm, đại diện một tổ chức từ thiện quốc tế (thực ra là một kẻ mạo danh, ông mục sư này đã xuất ngoại trước đó), sẵn sàng tài trợ mọi chi phí để đưa nhóm Fulro ra nước ngoài huấn luyện, đào tạo, trang bị để sau này trở về “giải phóng Tây Nguyên”. Phương sốt sắng, hứa hẹn với thầy trò Ya Đuk qua tên “Trung tá” To Na - liên lạc đặc biệt của Ya Đuk.

    Dù rất khát khao xuất dương, nhưng còn nhiều nghi vấn, Ya Duck đã cử hai sĩ quan cận vệ của mình là “Đại úy” Ha Póh và “Thiếu tá” Ya Theng tìm mọi cách bám theo Phương để liên lạc trực tiếp với mục sư Lâm nhằm bảo đảm một đường dây xuất ngoại chắc chắn và tránh bị Phương lừa gạt. Chỉ đạo này của Ya Đuk đã được Ban chuyên án nắm hết.

    Ban chuyên án đã đón lõng và bắt giữ Thu Phương, Ha Póh và Ya Theng, cũng như làm rõ nhân thân của “mục sư Tri Lâm”. Bị bắt, nhận thấy việc làm của mình là sai trái, Phương ân hận và mong muốn được lấy công chuộc tội. Sau đó, cô đã hợp tác với công an một cách nhiệt tình trong vai một “con thoi” liên lạc giả tạo giữa Ya Duck và Tri Lâm.

    Từ những thông tin mà bọn Ha Póh, Ya Theng và Phương khai báo, cùng với những nguồn tin khác, Ban chỉ đạo chuyên án quyết định đặt cho “Tổ chức từ thiện quốc tế” mà mục sư Tri Lâm (giả) nằm trong đường dây đang hấp dẫn Ya Đuk và đồng bọn một cái tên khá Tây: “Tổ chức từ thiện Caritas”. Một số cán bộ công an được lựa chọn, huấn luyện để tham gia chuyên án.

    Cho đến một ngày, Ya Đuk nhận được tin: Tổng Thư ký của Tổ chức từ thiện Caritas đã đến Việt Nam và nôn nóng “đón” ngài “Đệ nhất Phó thủ tướng” cùng các “chiến binh Fulro” qua Hoa Kỳ. Sau nhiều cuộc thương thảo mà Thu Phương là liên lạc, Thiếu úy Lâm Văn Thạnh nhập vai Nguyễn Văn Bình (Ba Bình), đại diện của “Tổ chức từ thiện Caritas”, Thiếu úy Nguyễn Duy Hưng là người lái xe chở Ba Bình đến điểm hẹn để đón “chuyến hàng” đầu tiên, “chuyến hàng” mang tính quyết định.

    Toàn Ban chuyên án, lãnh đạo Bộ Nội vụ, lãnh đạo Cụm An ninh Tây Nguyên và Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng hồi hộp đến khó tả khi cầm bản danh sách 10 người theo Fulro sẽ “trở về” trong “chuyến hàng” đầu tiên này có “Đệ nhất Phó Thủ tướng” Nahria Ya Đuk, “Trung tá” Lơ Mu Yem - “Tổng trưởng Ngoại giao”, cùng hai “Trung tá”, hai “Thiếu tá” và bốn cấp “úy”.

    Đúng 4 giờ 30 ngày 13-8-1980, bên kia sông Tùng Nghĩa (Đức Trọng), một đoàn người gồm 60 Fulro đang hộ tống Ya Đuk cùng 9 người khác lội qua sông, giữ đúng giao ước với Ba Bình (Lâm Văn Thạnh) và lên chiếc Microbuýt Desoto biển số 52... bên hông treo dòng chữ “Đoàn khách Campuchia tham quan” thẳng tiến về hướng TP. HCM.

    8 giờ sáng 13-8-1980, chiếc xe chở Ya Đuk và đồng bọn đến vị trí Ban chuyên án chờ. Một chiếc ôtô khác “hộ tống” phía sau, bất ngờ vượt lên, chia lực lượng ra hai xe và thay biển số xe rồi đưa “khách” về thẳng một biệt thự trên đường Trần Bình Trọng - Đà Lạt.

    Nahria Ya Duck không ngờ, “Tổ chức từ thiện Caritas” mà ông ta và cả bộ máy “Trung ương Fulro” gửi gắm kỳ vọng cho những chuyến “xuất dương vì cao nguyên” lại chính là những cán bộ chiến sỹ an ninh cộng sản trong một chuyên án bí mật, mà mục tiêu đầu tiên “dụ hùm xám rời hang” đã thành công.

    Sau một quá trình đấu tranh, sự “cải tà quy chính” và hợp tác của Nahria Ya Duck và những người khác trong bộ máy “Trung ương Fulro” đã giúp Ban chuyên án thực hiện thành công chuyên án F101, đập tan đầu não, dẫn đến rã ngũ và xóa sổ tổ chức Fulro trên địa bàn Lâm Đồng và cả Tây Nguyên trong những năm sau đó…

    Chuyên án này có tám chuyến đi đón các “vị lãnh đạo cao cấp” của Fulro tại các địa điểm khác nhau. Đại tá Vũ Linh kể, phía sau mỗi chuyến xe chở “hàng”, bao giờ cũng có một chiếc ôtô khác do anh Phi chở ông chạy sau đề phòng bất trắc nhằm xử lý kịp thời tình huống xấu xảy ra. Phía sau nữa, lại có một chiếc ôtô lớn ngụy trang như xe chở khách, luôn giữ khoảng cách nhất định với hai xe phía trước để làm nhiệm vụ hỗ trợ khi cần thiết.

    Với chuyên án mang mật danh Cao nguyên F101 Công an Lâm Đồng đã “câu nhử” bắt giữ đại bộ phận bọn cầm đầu Fulro, làm cho nội bộ của chúng tan rã, tạo điều kiện cho ta phát động quần chúng, tấn công chính trị, gọi về hàng hơn 2000 tên. Kết quả đó đã tác động đến toàn vùng Tây Nguyên.

    Sau khi trở về, Ya Duck đã thực sự vượt qua được những mặc cảm, những cái hố ngăn cách để xác lập lại chỗ đứng đích thực của mình trong lòng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Ông trở thành tuyên truyền viên tích cực kêu gọi những tàn quân Fulro đang lẩn trồn, đói khát và bệnh tật trong những cánh rừng sâu trở về với nhân dân, với chính quyền cách mạng.

    Và sau đó, với sự tín nhiệm của Đảng và nhân dân, Ya Duck đã trở thành một cán bộ mặt trận tích cực. Vị trí công tác của ông hôm nay được xây dựng bởi một quá trình chuyển biến lâu dài của
    nhận thức cá nhân, sự độ lượng khoan dung của chế độ và lòng tin yêu của nhân dân các dân tộc anh em.

    Là Phó Chủ tịch UBMTTQ tỉnh Lâm Đồng, ông cựu đệ nhất Phó Thủ tướng “Fulro Nahria Ya Duck trẻ hơn nhiều so với cái tuổi 71 (Ya Duck sinh năm 1940). Khuôn mặt ông mang những nét hào hoa của người trí thức dân tộc thiểu số và những biểu cảm chứa đầy hạnh phúc trên cương vị công tác hiện thời của mình.

    Tuy nhiên, trong đôi mắt hay cười của Ya Duck vẫn còn đó những day dứt và một nỗi buồn khó tả khi ông phải nói về những điều đáng tiếc từng xảy ra từ những năm đất nước mới giải phóng và cả những vụ gây bạo loạn của bọn ********* do Ksor Kớk cầm đầu trong những năm 2001, 2004 trên địa bàn Tây Nguyên.

    Nahria là một dòng họ lớn, dòng họ có công trong việc khai phá, tìm ra đất mới lập cư, lập nghiệp cho cộng đồng buôn làng ở vùng Ka Đô, huyện Đơn Dương, Lâm Đồng. Sinh ra trong gia đình có thế lực, Ya Duck là một trong số ít thanh niên dân tộc thiểu số được học hành đến nơi đến chốn. Nahria Ya Duck tốt nghiệp Đại học Quốc gia Tài chính tại Sài Gòn.

    Với kết quả học tập xuất sắc, ông được chính quyền Sài Gòn điều về giữ chức Trưởng ty Tài chính kinh tế Vũng Tàu, rồi tham gia phiên dịch trong các cuộc thương thuyết do ông Y Bhăm Ênuôl (1923 - 1975, dân tộc Ê Đê, sinh trưởng tại Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk, một trong những người lập ra tổ chức Fulro), với đại diện chính phủ Sài Gòn. Năm 1965, Hội nghị các nước Đông Dương diễn ra tại Phnôm Pênh, Ya Đuk được mời dự. Khi đó ông 25 tuổi.

    Ông nhớ lại: “Fulro ra đời với tên gọi “Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức”. Nghe hấp dẫn quá, khiến tôi nghĩ đó là lý tưởng và hăm hở bước theo. Đâu ngờ đó là sự lừa mị bịp bợm của các thế lực *********. Tôi đã không nhận ra thực dân, đế quốc muốn dùng Fulro làm công cụ thực hiện mưu đồ xấu ở Tây Nguyên, Việt Nam...”

    Sự thúc dục của “lý tưởng Tây Nguyên tự trị” thời đó đã kéo Ya Duck vào rừng và trở thành một sỹ quan thân cận của thủ lĩnh Fulro Y Bham Ênuôl. Ya Duck tham gia Fulro giai đoạn đầu từ năm 1964 đến năm 1969. Khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống ngụy, để thoả hiệp, y đã cho thành lập Bộ Sắc tộc với mục đích lấy người Tây Nguyên cai trị người Tây Nguyên. Ya Duck được thủ lĩnh Fulro phái về tham gia bộ máy của chính quyền Sài Gòn và ông trở thành Trưởng ty Sắc tộc tỉnh Tuyên Đức (một phần Lâm Đồng ngày nay)…

    Miền Nam giải phóng. Đó cũng là lúc mà những người từng tham gia chế độ cũ như Nahria Ya Duck cảm thấy hoang mang. Ông tâm sự rằng, lúc đó không hiểu chút gì về chính sách khoan hồng và những ưu việt, nhân đạo của Đảng và chế độ mới.

    Ông kể lại: “Tôi thường xuyên bị khủng hoảng tinh thần. Ở đâu người ta cũng nói tới một cuộc trả thù đẫm máu của cộng sản. Đảng giải phóng miền Nam nhưng có giải phóng cho tất cả đồng bào Tây Nguyên hay không? Trong khi đó thì những kẻ xấu thường xuyên xúi giục, lôi kéo. Tôi đã tiếp tục vào rừng tham gia Fulro trong một tâm trạng như thế…”

    Năm 1975, Ya Duck lội rừng từ Đơn Dương lên Lạc Dương để nhận chức “Đại tá, Tư lệnh” sư đoàn Bidoup của lực lượng Fulro, rồi sau đó được “thăng chức Tư lệnh vùng 4). Năm 1978, sau một cuộc tham gia “đảo chính trong nội bộ Fulro”, ông trở thành một trong những người đứng đầu lực lượng này khi được phong “Đệ nhất Phó Thủ tướng” phụ trách chính trị, ngoại giao.

    Ở Tây Nguyên, các tỉnh đã cơ bản phá rã hệ thống tổ chức ở rừng của Fulro. Cho đến tháng 12-1992, số tàn quân Fulro còn lại do “Đại tá” Y Pênh A Yun cầm đầu đã ra hàng UNTAC tại Campuchia, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí. Với sự chấp thuận của Mỹ, toàn bộ số FULRO trên gồm 407 tên cả phụ nữ và trẻ em được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado. cũng trong năn này, Ksor Kơk, người được Mỹ đưa đi học tham mưu từ đầu năm 1974 sau đó ở lại đây, lập ra tổ chức “Hội những người miền núi” (MFI) và là Chủ tịch hội.

    Năm 1994, khi LHQ đưa lực lượng quốc tế UNTAC vào thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, FULRO hầu như không còn chỗ dựa. Ngày 4-7-1994, có một gia đình Fulro vừa trở về sau gần hai mươi năm lạc lối giữa rừng sâu… đó là gia đình cựu "tỉnh trưởng" Tounéth Den.

    Sinh năm 1936, Tounéth Den là con trai của một gia đình khá giả thuộc dòng họ Tounéh người Churu ở buôn Klăngbong, thuộc xã Tà Năng (Đức Trọng, Lâm Đồng). Là một trong số ít thanh niên Churu hồi đó được đi học và biết chút ít chữ nghĩa, 29 tuổi Den sung vào cảnh sát ngụy và hoạt động ở quận Đơn Dương. Tháng 4-1975, đất nước thống nhất, trong khi cả dân tộc đang hân hoan chào đón hòa bình lập lại trên quê hương sau gần 30 năm đau thương, tang tóc thì Den và nhiều người khác đã nghe theo lời kẻ xấu xúi giục để rồi chui lủi vào rừng sâu đến hai mươi năm mới có được một ngày trở về.

    Bằng một giọng trầm buồn, Touneh Den kể lại : “Lúc đó tôi hoang mang lắm! Người ta rỉ vào tai tôi rằng, ai tham gia trong chế độ cũ sẽ bị trả thù tàn khốc, một cuộc tắm máu rùng rợn sắp sửa xảy ra. Rằng, người Mỹ sẽ giúp chúng ta lấy lại chính quyền sau 6 tháng. Phải vào rừng tập hợp lực lượng để chống lại cộng sản, theo Fulro để thành lập nước Đề Ga tự trị của người Tây Nguyên. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy vô cùng ngu ngốc, không hiểu vì sao ngày đó mình lại nhẹ dạ như thế!…”

    Từ một tên lính cảnh sát nguỵ, Touneh Den lại tiếp tục lầm đường và trở thành một tên Fulro. Ba năm sau khi vào rừng , Den được “phong” hàm “đại uý” và chức “tỉnh phó” rồi sau đó là “tỉnh trưởng Phan Rang”. “Ngài tỉnh trưởng” với vài tên lính và mấy khẩu súng cũ sót từ thời chiến tranh lại chui lủi suốt các dãy núi, những cánh rừng già từ Lâm Đồng đến Sông Bé rồi Đồng Nai, Bình Thuận. Những cuộc cướp phá dân lành vô tội. Những lần tập kích chống phá cách mạng. Những cuộc trốn chạy sự truy quét của chính quyền cách mạng, đói mờ con mắt và những vết thương trên cơ thể và trong tâm hồn của những kẻ u mê, những người con bị ruồng bỏ của buôn làng Tây Nguyên.

    Năm 1982 giữa rừng sâu Kây Kmao trên vùng đất Bình Thuận, Tounéh Den lấy vợ, hay nói đúng hơn là cướp một người con gái hiếm hoi trong lực lượng Fulro làm vợ, đó là Kiều Thị Hương - người Chăm quê ở Phan Rang, vốn là công nhân ngành chè Lâm Đồng cũng nghe lời xúi giục của kẻ xấu bỏ trốn vào rừng.

    Giữa rừng sâu đói khát và bệnh tật ấy, sáu đứa trẻ đã chào đời trong tiếng khóc lạc loài: Tounéh Hoa, Tounéh Hoan, Tounéh Manai Hằng, Tounéh Đoan cùng hai cháu là Tounéh Hăngxala và Tounéh Tí Hon mới sinh ra mà đã phải lìa đời vì bệnh tật và đói khát. Cuộc sống của cái gia đình lạc lối giữa rừng sâu ấy là cuộc sống của loài thú hoang hoàn toàn cách biệt và xa lạ với loài người. Họ mất liên lạc hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Họ cũng hoàn toàn không biết rằng từ lâu lực lượng Fulro đã bị thanh toán. Giữa rừng sâu, còn lại gia đình Tounéh Den và tên lính cuối cùng Mang Sanh. Đói rét, bệnh tật, thú dữ và vô vàn những nguy cơ đe doạ họ trong suốt những tháng ngày sống trong hang đá và lang thang kiếm ăn suốt các dốc núi, triền rừng…

    Qua nguồn tin của nhân dân, Công an Lâm Đồng đã phát hiện ra họ. Tháng 4-1993, huyện Đức Trọng phát đi một lá thư kêu gọi gia đình Tounéh Den trở về với buôn làng. Nhận được thư kêu gọi, Tounéh Den và cả gia đình đã thao thức suốt ba ngày đêm suy nghĩ, và cuối cùng họ đã quyết định trở về. Sau nhiều tháng ngày luồn rừng, vượt suối, tháng 7-1994, họ đã về đến buôn Klăngbong. Trên đường đi, thêm một lần chị Kiều Thị Hương trở dạ sinh con và cũng trên cuộc hành trình trở về gian nan ấy người lính Mang Sanh đã chết vì sét đánh.

    Ngày 25-3-1996, Công an huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) phát bản thông báo nhanh: “Vào lúc 11 giờ ngày 24-3-1996, Công an huyện cùng với đồng bào dân tộc xã Đạ Ploa, đã phát hiện bao vây và nổ súng bắt sống toàn bộ nhóm Fulro cuối cùng trên địa bàn huyện.” Hóa ra không phải “Tỉnh trưởng Phan Rang” Touneh Den và gia đình là nhóm Fulro trở về cuối cùng!

    Trước đó, cơ quan anh ninh đã được quần chúng cung cấp nhiều thông tin về nhóm tàn quân này. Được sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng, Công an Đạ Huoai đã liên tục tổ chức trinh sát, dò tìm và tiếp cận đối tượng. Mất cả hàng năm trời mới lần ra tung tích của chúng nhưng công việc truy bắt không dễ dàng.

    Ngày 29-2-1996, Công an huyện đã hình thành một phương án tác chiến. Sau đó, tổ công tác do trinh sát Lương Văn Hợi làm tổ trưởng đã lặn lội vào rừng sâu. Họ hóa trang thành những người dân Cơ Ho đi bẫy thú, bí mật vũ trang 1 khẩu súng AK và 2 khẩu súng ngắn. Sau 6 ngày của chuyến đi này, tổ công tác trở về chưa có kết quả.

    Họ lên đường lần thứ hai. Sáng 24-3-1996, khoảng 11 giờ trưa họ phát hiện tiếng động và sự di chuyển của nhóm Fulro tại khu vực tọa độ 56-04. Trinh sát Lương Văn Hợi hô to và đồng thời nổ súng. Cả toán bỏ chạy mỗi tên một hướng. Bốn đồng chí đã tiến hành truy kích và bắt sống toàn bộ nhóm tàn quân ở thượng nguồn suối Đạ Quang, gần núi S’Lung, vùng núi đá hiểm trở có độ cao 1.500m thuộc vùng đất của huyện Tánh Linh (Bình Thuận).

    Nhóm Fulro bị bắt gồm 5 tên (thực ra không hẳn vậy, vì trong nhóm có 2 đứa trẻ): K’Long Nhão, sinh năm 1937, quê ở buôn Mê Buk Long Tụ, trốn vào rừng từ tháng 4-1975, từng được phong là “thiếu tá, tỉnh trưởng” Run Ka (tức Long Khánh, Đồng Nai); K’KRẽo, sinh năm 1954 ở buôn Đạ Prang, trốn vào rừng năm 1978 là “thiếu úy, trưởng toán”; nữ Fulro Ka Ọp, sinh 1954 tại buôn Xuân Sơre, trốn vào rừng năm 1977; và hai đứa trẻ là: K’Sứ, sinh ở trong rừng năm 1990, là con của K’KRẽo và Ka HBếch (đã chết vì té cây) và K’Môm, cũng sinh trong rừng năm 1989, là con của Ka Ọp và bố là K’Mách (đã chết vì sốt rét ác tính)…

    21 năm sau ngày đất nước thống nhất và mười mấy năm sau khi tổ chức Fulro bị tiêu diệt, đây là cuộc truy bắt muộn mằn và những tiếng súng khuấy động không gian yên tĩnh giữa rừng sâu là những tiếng nổ bất đắc dĩ giữa thời hòa bình. Nếu không có cuộc vây bắt thành công, suýt nữa họ đã trở thành “người rừng”. Không phải là “suýt nữa” mà là sự thật. Chúng tôi đã chứng kiến 5 con người ngơ ngơ ngác ngác, kể cả viên “thiếu tá, tỉnh trưởng” K’Long Nhão.

    Người già nhất trong nhóm đã có 21 năm lạc lối giữa rừng sâu và cậu bé K’Sứ sinh năm 1990 giữa rừng chưa hề có một khái niệm nhỏ về cuộc sống cộng đồng. Họ không có hoặc mất hết mọi nguồn thông tin về đồng loại. Họ nơm nớp lo sợ bị trả thù, không tồn tại bất kỳ một ý nghĩa nào về lòng tốt của con người.

    Họ thụ động, chạy trốn, lén lút, tồn tại như những con thú hoang lạc bầy. Sau khi vây bắt, trên hiện trường mà nhóm Fulro cư trú sót lại một khẩu súng Cacbin hết đạn, 2 cây nỏ và một bó mũi tên tẩm độc, một số xoong nồi và quần áo rách tả tơi, một “hộp quẹt” lấy lửa từ những hòn đá cuội. Hiện trường đó đã đủ để hình dung về cuộc sống của họ.

    Năm con người ấy chui rúc trong các hang đá vùng núi S’Lung như người tiền sử. Họ làm tên nỏ thuốc độc để chống chọi với thú dữ. Để tồn tại, họ đã ăn bất cứ thứ gì có thể ăn được trong rừng từ củ mài, củ chụp đến lá bép, đọt mây. Còn mặc là những tấm áo quần rách tả tơi được lấy trộm từ những hình nôm đuổi chim trên nương rẫy của đồng bào.

    Trong khi bạn bè đồng lứa bình yên cắp sách tới trường thì K’Sứ, K’Môm gần như quên hết tiếng người, leo cây hái quả, moi đất lấy củ và cùng đồng hành với ba người lớn trong những cuộc chạy trốn. Sau khi được dẫn về cơ quan Công an, lần đầu tiên nhìn thấy cơm, thằng K’Môm hỏi mẹ: “Đây là cái gì? Có ăn được không?” Còn K’Sứ thì ngồi ngắm đôi dép nhựa trắng mới như một vật lạ từ hành tinh khác!...

    Trong bản “trích ngang” hồ sơ mà Công an tỉnh Lâm Đồng cung cấp có ghi: K’Long Nhão nguyên là thư ký hội đồng xã Lộc Thọ (Đạ Huoai) và K’KRẽo nguyên là lính ngụy cải tạo ở trại Đại Bình. Còn Ka Ọp chỉ là một phụ nữ theo chồng.

    Sau mười bảy năm (1975-1992) kiên trì chiến đấu, vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, ta đã đấu tranh làm tan rã hoàn toàn tổ chức, lực lượng Fulro, loại khỏi vòng chiến đấu 15.000 lượt Fulro ở ngoài rừng; bóc gỡ hàng trăm khung chính quyền ngầm cùng 62.500 cơ sở của Fulro trong buôn ấp; thu 2.712 vũ khí các loại. Lần đầu tiên, vấn đề Fulro được giải quyết triệt để. Fulro không còn tồn tại với tư cách là một tổ chức, lực lượng chính trị *********, đe dọa trực tiếp tới an ninh quốc gia ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm… Đến đây chấm dứt hoàn toàn tổ chức Fulro.

    Tưởng chừng ảo vọng tự trị mang tên Fulro đã được giải quyết triệt để từ lâu, nhưng hoá ra bóng ma của nó vẫn chưa thôi ám ảnh vùng đất tây Nguyên. Sang thế kỷ XXI, bộ xương khô lại cựa mình đòi sống dậy dưới cái tên “Nhà nước Đề Ga” hay “Cộng hòa Đề Ga”.

    Ngày 22/9/2000, trong một biệt thự nhỏ ở Po Box 17064 thành phố Spartanburg bang Colorado (Mỹ) đã diễn ra cuộc họp “quan trọng” của đám tàn quân FULRO. Ngôi nhà này là của Ksor Kơk, cuộc họp diễn ra trong căn phòng nhỏ, có trưng cờ của FULRO - lá cờ ba màu đen, vàng, trắng, ở giữa có hình con voi. Mở đầu cuộc họp, các thành viên đã “chào cờ” FULRO và hát “FULRO ca” với lời lẽ rên rỉ, bi ai... Ksor Kơk tuyên bố lý do và hùng hồn nói, từ nay hắn là tổng thống nước "cộng hòa Đêga”. Gã chỉ trên bản đồ vạch ra một lãnh thổ kéo dài từ Quảng Trị xuống hết Bình Thuận. Kơk nói rằng, “nhà nước” này đã được LHQ công nhận và có 195 quốc gia trên thế giới đặt quan hệ ngoại giao(?). Kơk cũng giới thiệu hai trợ thủ của mình là Y Buen Buôn Dăp và Y Mut Mlô rồi cao giọng nói về sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ Bill Clinton đối với “nhà nước Đêga”. Hắn phát cho mỗi người trong cuộc họp một “chương trình hành động” đồng thời phân công người về Việt Nam để phát triển lực lượng. Dĩ nhiên, có một việc quan trọng hơn cả là mọi người dự hội nghị phải đóng tiền cho cái gọi là “vì tổ quốc, vì dân tộc”.

    Với nhiều người đã từng tham gia lãnh đạo, chỉ huy FULRO qua nhiều thời kỳ thì Kơk không có chỗ trong trí nhớ họ. Họ chỉ biết rằng, vào cuối năm 1974, Y Bhăm là “đại tướng” chủ tịch FULRO có gửi thư giới thiệu Kơk, đeo hàm “thiếu tướng” với chức danh là “phụ tá” và là đại diện của Y Bhăm tại Mỹ... Đến năm 1975, quân Khơme Đỏ kéo vào Phnom Penh, hành quyết “ngài” đại tướng FULRO cùng 5 viên thủ lĩnh thân tín khác trong sân tòa đại sứ Pháp. Kể từ đó không ai biết cái tên Ksok Kơk.

    Sau buổi lễ thành lập “nhà nước Đêga” mà thực chất là kế hoạch vô vọng phục hồi lại FULRO cũ, từ Mỹ, Ksor Kơk đã chỉ đạo tay chân chuyển tài liệu về nước, tuyên truyền, mở rộng mạng lưới và gây dựng tổ chức.

    Theo một số tài liệu và lời kể của một số nhân chứng, Ksor Kơk sinh năm 1943 tại làng Bon Broai, xã Yatul, huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai. Năm 1958, y gia nhập phong trào BaJaRaKa. Năm 1964, Kơk đi Campuchia để tham gia tổ chức Fulro, lúc đó vừa mới thành hình. Y’Bham Ênuôl, thủ lĩnh Fulro, đã bổ nhiệm y làm đại diện tộc Jarai của khu vực Pleiku và Cheo Reo.

    Trong bảy năm tiếp sau đó, Ksor Kơk đầu quân cho quân đội Mỹ và phục vụ tại sư đoàn 4 bộ binh đóng ở Pleiku, nhưng y vẫn là người của Fulro. Khi Hoàng thân Norodom Sihanouk bị lật đổ năm 1970, tất cả quân số Fulro ở Campuchia đều bị sung vào các lực lượng của quân đội Cộng hòa Khmer do tướng Lon Nol chỉ huy. Bởi biến cố chính trị này của Campuchia mà Fulro đã nằm im trong giai đoạn 1970 - 1973.

    Giữa những năm 1971 - 1974, chính tướng Lon Nol đã gửi Ksor Kơk đi học tại trường sĩ quan tình báo Mỹ ở Okinawa và trường đào tạo sĩ quan phiên dịch tại Mỹ. Lợi dụng tình thế “nhất cử lưỡng tiện” này, Y Bham Ênuôl đã cử Ksor Kơk làm đại diện của ông ta đối với Chính phủ Mỹ và Liên Hợp Quốc. Khi Fulro hồi phục, năm 1974, Ênuôl bổ nhiệm Ksor Kơk làm tổng tham mưu trưởng Fulro…

    Để tiếp tục thực hiện ảo vọng đen tối của một kẻ mà suốt cuộc đời làm tay sai ngoại bang, từ giữa năm 1998 đến nay, Ksor Kơk chỉ đạo cho một số cá nhân là người dân tộc thiểu số từ nước ngoài về móc nối với các phần tử *********, quá khích tại vùng Tây Nguyên, phát tán tài liệu có nội dung kích động, chia rẽ đoàn kết dân tộc.

    Tháng 2-2001, một bộ phận đồng bào dân tộc tại các địa phương vùng Tây Nguyên đã bị y và tay chân lôi kéo, xúi giục, dọa dẫm bắt tập trung đến trụ sở chính quyền tỉnh Gia Lai đưa ra những kiến nghị vô lý.

    Tại một số địa phương ở Đắc Lắc và các tỉnh khác tại Tây Nguyên cũng xảy ra các vụ gây rối tương tự. Rồi tiếp đó là sự kiện gây rối năm 2004 tại các tỉnh Tây Nguyên. Ai cũng biết, “tổng thống” Ksor Kơk là người đứng phía sau tất cả những vụ gây bất ổn đó. Và sau lưng Kơk là ai thì thiết nghĩ không cần phải nói thêm…

    Ksor Kơk đã tham gia Đảng cấp tiến xuyên quốc gia (TRP) năm 2001. Tháng 8/2001, sau khi tổ chức những cuộc biểu tình, bạo loạn tại Tây Nguyên, Kơk đã mượn diễn đàn phát biểu ý kiến đại diện cho TRP tại tiểu ban LHQ về nhân quyền. Tháng 4-2002, Ksor Kơk cũng lại phát biểu trước Ủy ban LHQ về nhân quyền tại Geneva rồi sau đó là tại hai cuộc điều trần về tự do tôn giáo tại Thượng viện và Hạ viện Ý tháng 10-2002.

    Năm 2003, y lại phát biểu tại Thượng viện Mỹ về vấn đề nhân quyền. Nội dung các cuộc điều trần này là xuyên tạc về tình hình cuộc sống của người dân tộc thiểu số Việt Nam và bóp méo các thông tin về các vùng dân tộc để chứng minh điều mà tên ********* lưu vong này gọi là “sự đàn áp của Chính phủ Việt Nam đối với người dân tộc”.

    Trong sự kiện ngày 10-4-2004, Ksor Kơk cũng tranh thủ sự chú ý của công luận để xuất hiện nhằm đánh bóng tên tuổi của mình. Y liên tục xuất hiện trên các diễn đàn quốc tế, trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, ra tuyên bố trên các Website có tư tưởng thù địch với Việt Nam…

    Thời thuộc Pháp, người Tây Nguyên tăm tối giữa rừng sâu. Cũng như các dân tộc anh em, họ chỉ là những con ong cái kiến, quanh năm suốt tháng làm xâu, làm mướn. Một nhà viết sử nước ngoài đã viết: “Nếu không có người Thượng thì ai khiêng Tây đi, ai ghánh đá lát đường”.

    Thời Mỹ - ngụy, các dân tộc Tây Nguyên bị đối xử bất bình đẳng, các phong tục, tập quán bị kỳ thị, bản sắc văn hóa bị xóa nhòa. Những chính sách về dân tộc của chúng là ngu dân với ý đồ gây mâu thuẫn, nghi kỵ, chém giết giữa các dân tộc.

    Từ tổ chức BaJaRaKa đến tổ chức Fulro - các thế lực ********* quốc tế đã biến Tây Nguyên thành nơi đổ máu và nước mắt trong cảnh nồi da xáo thịt. Nhưng cuối cùng âm mưu ấy đã bị đập tan. Bao nhiêu năm qua, hàng nghìn người lầm đường lạc lối đã trở về bình yên với buôn làng. Những tên nhiều nợ máu bị nhân dân hỏi tội. Tounéh Den - “tỉnh trưởng” Fulro (nay đã mất) khi trở về đã nói: “Phải dập tắt những chuyện đó! Chính tôi 20 năm đi “xây dựng nước Đề Ga” mà thực tế đó chỉ là một ảo tưởng sai lầm và ngu ngốc, là một sự bịp bợm của bọn ********* mê hoặc những khối óc u mê, mù quáng. Dù muộn màng nhưng tôi đã nhận ra mình lạc lối và trở về trong sự khoan hồng của chế độ và lòng nhân hậu của buôn làng. Bằng sức lực và khối óc, tôi đã tạo lập một cuộc sống hạnh phúc ngay trên chính quê hương, trên mảnh đất mà trong những ngày đen tối nhất của cuộc đời tôi đã nghe lời kẻ xấu từ bỏ ra đi…
  4. emselaminh12

    emselaminh12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2011
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    117
  5. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    [YOUTUBE]bfRLeH14zKc[/YOUTUBE]Đây là phim diễn lại cảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức theo kiểu biến một vụ tự thiêu thành một vụ giết người, một cuộc đấu tranh bất bạo động biến thành vụ ẩu đả thô bạo giang hồ như thể, không gì khác hơn là nhằm bôi nhọ hình ảnh thiêng liêng của Phật giáo Việt Nam trước khán giả truyền hình mạng toàn thế giới, hạ thấp giá trị tinh thần của Phật giáo Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và cung cấp tư liệu cho những kẻ có ý đồ xuyên tạc lịch sử Phật giáo Việt Nam khai thác.
    Đóng diễn lại phim tư liệu Bồ tát Quảng Đức tự thiêu?
    01/11/2011 20:13 Minh Thạnh

    [​IMG]
    Bài viết này chỉ nhằm mục tiêu chỉ ra một số khác biệt trên hình ảnh (tĩnh/video) ghi lại khoảnh khắc Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu, để hướng đến vấn đề, rằng sự khác biệt đó cho thấy một số tư liệu hình ảnh (tĩnh/video) có thể là đã được dựng đóng lại về sau, không phải là hình ảnh thực ghi tại hiện trường.
    Chúng tôi kính lời cảm ơn một bạn đọc đã gởi cho chúng tôi những hình ảnh với những so sánh khác biệt ban đầu. Từ đó, chúng tôi tiếp tục so sánh và phát hiện thêm một số những khác biệt nữa.
    Chúng tôi chỉ xin dừng lại ở kết luận là có thể đã có việc đóng diễn lại hình ảnh/video, còn:
    - Ai làm việc đó?
    - Tại sao họ làm?
    - Để làm gì?
    - Những tư liệu dàn dựng lại đã được dùng như thế nào?
    - Hậu quả ra sao?
    thì xin để bạn đọc chúng ta cùng tìm hiểu, sưu tầm những tư liệu, thông tin bổ sung.
    Chúng tôi tạm thời chia những hình ảnh dưới đây làm 3 loại:
    - Loại đánh số thường là những hình ảnh, hoặc ảnh chụp, hoặc ảnh trích từ phim đã được nhiều người biết đến từ sau khi xảy ra sự việc Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu.
    - Loại đánh số La Mã chỉ có 1 bức, là ảnh chụp tư liệu di vật chiếc xe chở Hòa thượng Quảng Đức đến và đậu ở nơi tự thiêu được bảo tồn như một cổ vật lịch sử, chụp về sau.
    - Loại đánh số theo chữ cái La Tinh in hoa là những hình ảnh trích từ video clip mới xuất hiện và được biết đến thời gian gần đây trên mạng, nhất là ở trang You Tube.
    Xin bạn đọc xem kỹ những bức ảnh dưới đây, tập trung chú ý vào các mũi tên để so sánh những điểm khác biệt giữa các ảnh 1, 2, 3, 4, 5, I với các chi tiết trong ảnh A, B, C, D, Đ.
    [​IMG]
    Ảnh 1
    [​IMG]
    Ảnh 2
    [​IMG]
    Ảnh 3
    [​IMG]
    Ảnh 4​
    [​IMG]
    Ảnh 5
    [​IMG]
    Ảnh I
    [​IMG]
    Ảnh A
    [​IMG]
    Ảnh B
    [​IMG]
    Ảnh C
    [​IMG]
    Ảnh D
    [​IMG]
    Ảnh Đ
    Chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt
    - Nhóm các ảnh A, B, C, D, Đ có hậu cảnh (bối cảnh) khác biệt rõ ràng với nhóm ảnh 1, 2, 3, 4. Xin chú ý các chi tiết cột đèn có bảng tên đường, tấm biểu ngữ, trụ đèn xanh đèn đỏ, hình dáng tòa nhà. Đặc biệt là việc có xuất hiện một tấm biểu ngữ, dường như không phải tiếng Việt vì ở dòng chữ lớn nhất không có khoảng trắng nào ở giữa.
    - Cũng cùng trong sự so sánh, chú ý sự khác biệt vị trí ngồi của Hòa thượng Quảng Đức, hướng nhìn của ngài so với chiếc xe. Đặc biệt so sánh sự khác biệt vị trí của thùng xăng so với bánh trước chiếc xe hơi. Chú ý, một bên, thùng xăng bị biến dạng vì nóng khi Hòa thượng Quảng Đức vẫn còn ngồi yên trong lửa đỏ, và một bên thùng xăng còn nguyên và ở vị trí hoàn toàn khác khi nhục thân Hòa thượng đã ngã ra đất.
    - Trong nhóm ảnh 1, 2, 3, 4, 5, đặc biệt ảnh 5, cho thấy không có sự hiện diện của cảnh sát. Trong khi, ở nhóm ảnh A, B, C, D, Đ sự hiện diện của cảnh sát là rõ ràng.
    - Có thể so sánh màu sơn chiếc xe là di vật lịch sử (ảnh I) với màu sơn chiếc xe trong video clip liên hệ.
    Một loạt các chi tiết khác biệt cho phép chúng ta đặt vấn đề, có thể video clip tư liệu được công bố gần đây là chỉ là phim đóng lại, không phải là phim quay tại hiện trường nơi xảy ra sự việc.
    Như đã trình bày ở trên, bài viết này sẽ chỉ là phần mở đầu của một câu chuyện dài, mà bạn đọc sẽ giữ vai trò là những tác giả tiếp theo, bằng những lời bình luận, thông tin, tư liệu bổ sung.
    Chúng tôi, trong dự tính, cũng có thể có những bài viết tiếp theo về vấn đề này.
    Trong quá trình hoàn thiện bài viết này, chúng tôi có được một số nhà báo đề nghị không nêu danh tính đóng góp ý kiến bổ sung. Chúng tôi xin phép được đưa nguyên văn vào dưới đây:
    Vài chi tiết rõ nhất - không thể chối cãi - cho thấy cảnh video đã được dàn dựng lại:
    A. Tỷ lệ (proportion) chiều cao của căn nhà sau lưng hiện trường so với chiều cao chung của đám đông : Trong những ảnh thật (Ảnh A1 chẳng hạn), căn nhà nầy chỉ cao khoảng 5/3 (1,7 lần) chiều cao của các vị sư dù đứng gần hay xa căn nhà. Trong khi đó, trong Video, ngoài kiến trúc và ngoại cảnh của căn nhà đã khác rồi, chiều cao của căn building lại cao khoảng 7/3 (2.3 lần) chiều cao của các vị sư.
    [​IMG]
    Ảnh A1: Chiều cao của vách tường trước căn nhà chỉ cao khoảng 1,7 lần chiều cao các vị sư​
    [​IMG]
    Ảnh Video: Chiều cao của vách tường trước building l ạ iỉ cao khoảng 2,3 lần chiều cao các vị sư
    B. Từ ngoài nhìn vào, phía tay phải của căn nhà lợp mái tôn đỏ là những căn nhà khác xây nối theo như trong hình thật. Ngược lại, trong Video, những căn nhà khác nay đã biến mất, thay vào đó là những lùm cây to của một công viên.
    [​IMG]
    Ảnh 4: Nhà xây nối tiếp nhau.
    [​IMG]
    Video (Ảnh A): Nhà đứng một mình, nối với một lùm cây.
    C- Trong hình thật (Ảnh 3), từ trái sang phải có 3 cột thẳng đứng nằm trước ngôi nhà: Một trụ xây kiểu échafaudage, một trụ ximăng hình ống, và một trụ đèn xanh/đỏ kiểm soát giao thông. Nhưng trong Video, trước căn nhà nầy không có cột đèn nào cả.
    [​IMG]

    Ảnh 3: Có 3 cột xây trước ngôi nhà.
    [​IMG]
    Trong Video: Ảnh A, trước building không có trụ nào cả.
    D. Enjoliveur bánh trước của xe trong hình thật (Ảnh 3 và Ảnh 4) có vòng trung tâm rất đậm, rõ nét lồi ra. Còn trong Video thì chỉ là một enjoliveur phẳng (flat/plat)​
    [​IMG]
    Ảnh 3 và Ảnh 4, trung tâm bánh xe có 2 vòng đồng tâm (concentric) rõ nét.
    [​IMG]
    Còn bánh xe trong Video thì phẳng lỳ, hoặc chỉ phồng ra mà không có vòng đồng tâm.
    E. Ngọn lửa trước khi HT TQĐ sắp ngã xuống: Video từ 2.47 đến Video 3.07.
    Trong video, dù đã cháy được 41 giây (từ 2.06 bắt đầu đến 2.47) mà lửa vẫn bùng cháy dữ dội vì quá nhiều xăng. Còn trong hình thật (Ảnh 2), ngay từ lúc ngài TQĐ chưa ngã, ngọn lửa đã thưa và loảng lắm rồi vì ít xăng hơn.
    [​IMG]
    Video 2.47: Lưng vẫn thẳng
    [​IMG]
    Video 2.49: Lưng ngã xiên 45 độ
    [​IMG]
    Video 3.07: Lưng ngã xuống đất
    [​IMG]
    Ảnh 2: Ngay khi chưa ngã, lửa đã thưa và loãng lắm rồi
    F. Người đổ xăng trong Video tiếp tục đổ xăng lên mặt đường hướng về phía đầu chiếc xe Austin (nghĩa là thẳng góc 90 độ với trục xe). Nhưng trong hình thật (Ảnh 1), toàn bộ vùng lửa (trên mặt đường) lại song song với trục xe.​
    [​IMG]
    Trước khi đốt (Video 1.14)
    [​IMG]
    Sau khi đốt (Video 3.45)
    [​IMG]

    Ảnh 1
    Video (1.14): Trước khi đốt, một nhà sư đổ xăng xuống mặt đường, từ lưng của Bồ Tát hướng về bánh xe Austin,cho nên sau khi đốt (Video 3.45) dòng lửa tạo thành một trục thẳng góc với chiếc xe. Trong khi đó, trên Hình thật (Ảnh 1), vũng lửa trên mặt đường lại cháy song song với trục xe Austin.
    Video nầy đương nhiên là GIẢ (Video đen trắng, được thêm màu vào, giống những carte postale Phap thời 1960, thời này chỉ có super 8 -andy warhol- nên màu thêm vào sau này, khi transferred qua Video).
    Vị trí, tư thế ngồi của vị Bồ Tát, cách bố trí của chiếc xe, và chính chiếc xe trong Video đều được dàn dựng. Cách quét ông kính camera ẫn sau lưng các vị sư hoặc các viên cảnh sát đều để tìm cách che dấu / giảm thiểu những sơ hở có thể bị phát hiện.
    Video nầy có lẽ làm với 2 mục đích:
    (i) như một film tài liệu tái dựng lại (reinact) sự cố để ai dùng vào mục đích gì thì dùng vô tội vạ; và
    (ii) mà đây mới là mục đích chính : một cách vô thức, implant (cài đặt) vào memory mọi người ấn tượng rằng vị Đại Bồ Tát Thích Quảng Đức đã bị tưới xăng lên người chứ không tự tưới xăng lấy.
    Mỹ là vua xử dụng phương pháp nầy để đầu độc cả thế giới. Phương pháp nầy có tên gọi ai cũng biết mà chẳng ai ngờ: Hollywood!


    Xem đoạn phim tài liệu có thuyết minh bằng tiếng Anh: [YOUTUBE]_hwhEdst6RE[/YOUTUBE]
  6. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Clip HT Quảng Đức tự thiêu diễn lại: từ điểm nhìn chuyên môn
    04/11/2011 09:30 Minh Thạnh

    [​IMG] Việc đóng diễn lại video clip Hòa thượng Thích Quảng Đức theo kiểu biến một vụ tự thiêu thành một vụ giết người, một cuộc đấu tranh bất bạo động biến thành vụ ẩu đả thô bạo giang hồ như thể, không gì khác hơn là nhằm bôi nhọ hình ảnh thiêng liêng của Phật giáo Việt Nam

    Trong bài trước, chúng ta đã có thể kết luận video clip Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu hiện đang phổ biến trên mạng internet là một sản phẩm được đóng diễn lại, không phải quay tại hiện trường.

    Trong bài này chúng ta sẽ cũng đi đến cùng một kết luận, nhưng không phải trong sự so sánh với những bức ảnh chụp tại hiện trường, mà từ những điều rút ra từ chính video clip trên.

    Chắc chắn là phần đông Phật tử chúng ta đều không phải là người dễ bị lừa gạt bởi những trò tiểu tâm như thế.

    Nhưng dù có một vài Phật tử ngộ nhận đi nữa, thì thiết tưởng chúng ta cũng vẫn nên tìm hiểu để lên tiếng làm cho sáng rõ, với tinh thần “Chân thật biết là chân thực, phi chân biết là phi chân” (Kinh Pháp cú).

    Tuy nhiên, điều đáng nói đây là video clip duy nhất về sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu được quảng bá trên mạng không được giới thiệu rõ ràng, nhưng được dịch ra nhiều thứ tiếng, thậm chí tiếng Nga, do đó số khán giả trên khắp thế giới lầm tưởng có thể là rất nhiều. Do đó, việc làm sáng rõ, thực hư, giả chân video clip này lại càng cần thiết hơn nữa.

    Những lời giới thiệu xuất xứ video clip trên trang Youtube, một trang mà hầu như ai cũng có thể post video lên, thường là không đáng tin. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin ghi nhận lại ở đây để bạn đọc tham khảo.

    Video clip Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (bắt đầu bằng hình ảnh chư tăng vây quanh Hòa thượng được trích từ một đoạn phim dài hơn, nói về mâu thuẫn giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm). Đoạn phim đó được giới thiệu như sau:

    “Một trích đoạn trong bộ phim tài liệu “MONDE CANE” của hai nhà làm phim Guatiero Jacopettit, Franco Prosperi (Italia) sản xuất năm 1963 về những vụ đàn áp biểu tình tại Sài Gòn và vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức tại ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng”.

    Trước hết, về mặt chuyên môn, ý kiến cho rằng vào năm 1963 chưa có phim màu để nói rằng video clip màu mà chúng ta đang tìm hiểu đây là giả mạo, thì không hẳn đúng. Phim màu được dùng để quay phim tài liệu từ Thế chiến thứ II. Chỉ có điều là nó không thông dụng vì đắt tiền, việc in tráng khó khăn. Trên kênh National Geographic vẫn thường xuyên chiếu những phim “World War II in color”. Mới đây, chúng ta cũng mới có được bản màu phim về Điện Biên Phủ do một đạo diễn Xô Viết nổi tiếng thực hiện (1954).

    Đoạn trích video clip có thuyết minh bằng tiếng Ý, vì vậy, không thể hiểu được lời thuyết minh.

    Nhưng trong cách dựng phim (suốt cả trích đoạn dài, gồm trường đoạn biểu tình trước đó) không hề có dấu hiệu nào từ tác giả cho biết đây là phim đóng lại để thể hiện sự minh bạch đối với khán giả.

    Phim tài liệu đóng lại vẫn là một loại hình phổ biến. Thường có hai dạng đóng lại:

    1. Dùng chính khung cảnh đã xảy ra sự kiện và những người đã tham gia sự kiện để đóng lại những giờ phút lịch sử mà việc ghi hình thực tế tại lúc diễn ra sự kiện đã không thực hiện được. Việc tái tạo là đúng như thật, như đã diễn ra, với chính những người có mặt khi sự kiện diễn ra. Để phục vụ cho một số mục tiêu như cổ động, tuyên truyền chẳng hạn, việc đóng lại không được thông báo cho khán giả.

    2. Phim đóng lại theo lời kể của một nhân vật có mặt tại hiện trường. Trong trường hợp này, thông báo phim tư liệu đóng lại được thể hiện bằng nhiều cách: lời kể của nhân vật đã trực tiếp chứng kiến, các thông tin bằng chữ...

    Nếu không có những yếu tố như trên, phim tài liệu (không có cốt truyện, nhân vật) về một sự kiện nhưng lại là phim đóng diễn lại, không phải thu hình vào thời điểm sự kiện diễn ra thật sự, tạo cách hiểu lập lờ nơi tác giả, thì đó là một dạng phim tài liệu ngụy tạo.

    Để phim giả đóng dựng lại trông có vẻ giống như phim thực, những đạo diễn không đứng đắn thường sử dụng thủ thuật trộn lẫn những đoạn phim quay ngay tại hiện trường (phim tài liệu thực) với những đoạn phim đóng diễn lại (phim tài liệu giả). Trích đoạn “Monde Cane”, trong đó có trường đoạn Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu thuộc loại xen lẫn thật giả này (1).

    Riêng trường đoạn Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu lại là trường đoạn hoàn toàn giả.

    Như đã nói, việc so sánh video clip với ảnh chụp tư liệu để chứng minh video clip Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu là phim đóng diễn lại coi như đã xong, đã đi đến kết luận rõ ràng.

    Ở đây, chỉ căn cứ vào nội dung video và có thể với những so sánh khác. Dưới đây là một số điểm phân tích:

    - Trợ lý đạo diễn đã sơ suất rất nặng nề khi chọn địa điểm quay. Hẳn là theo tài liệu, họ đã tìm một địa điểm có trạm xăng để thu hình. Nhưng họ không biết gì về trạm xăng góc Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám (Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt vào năm 1963) vẫn còn tồn tại cho đến khi tháo dỡ để xây tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức. Nhưng nhìn từ góc đặt máy quay thì trạm xăng không phải là bối cảnh. Đàng này, vì không có thực tế, nên đạo diễn (đúng hơn là trợ lý đạo diễn phụ trách chọn cảnh quay) đã thể hiện bối cảnh là một trạm xăng, với dòng chữ Esso. Trạm xăng này, đã ở sai vị trí, lại rất khác với trạm xăng thực tế. Sơ suất này của trợ lý đạo diễn đã khiến người xem ở TPHCM dễ dàng nhận ra đây là phim dựng lại.

    - Sai sót thứ hai là sai sót của giám đốc thiết kế mỹ thuật (art director) hoặc có thể là họa sĩ phục trang (costume designer). Toàn bộ các nhà sư trong đoạn phim đều mặc pháp phục theo kiểu Nam tông, chỉ một màu vàng sẫm. Điều này trái với thực tế là trong các cuộc biểu tình chống Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo do Ủy Ban Liên phái Phật giáo tổ chức, y phục của các vị sư có sự khác biệt (do nhiều tông phái khác nhau).

    Chung quanh Hòa thượng Thích Quảng Đức, một vị giáo phẩm Bắc Tông, nhưng toàn là tăng chúng Nam tông là điều vô lý. Giám đốc nghệ thuật không hiểu gì về Phật giáo Việt Nam, nói chi là có thể biết được chính xác y phục của tu sĩ Phật giáo có mặt lúc đó. Họ chỉ cho “diễn viên quần chúng” mặc một kiểu y phục như chư tăng Campuchia, Thái Lan...

    - Một sơ suất nữa của Giám đốc nghệ thuật hay nhân viên phục trang là ở trang phục của cảnh sát. Cảnh sát chế độ Sài Gòn không mặc như thế (dây đeo quân trang màu trắng), mà họ dùng dây đeo quân trang màu sẫm (nâu).

    - Sơ suất của đạo diễn, có thể kể trước tiên là vị trí đặt camera. Quay theo kiểu trong video clip là kiểu quay lén như bằng điện thoại di động hiện nay, kiểu quay nghiệp dư.

    Còn phóng viên vào năm 1963 có máy quay phim, lại là phim màu, phải là loại phóng viên chuyên nghiệp hàng đầu. Họ không bao giờ chấp nhận góc quay như thế. Mà ít ra, họ phải thu hình ở vị trí như phóng viên ảnh với bức ảnh đã chụp, tức ở vị trí hàng đầu, không sau ai cả.

    - Một sơ suất nữa của đạo diễn là hoạt động của toán cảnh sát. Đạo diễn không hiểu gì về nghiệp vụ cảnh sát có tính chất toàn cầu. Khi thấy có một biến cố nào sắp xảy ra, mà chết người là điều nghiêm trọng, thì công việc của cảnh sát là phá vỡ ngay biến cố đó, cụ thể là ngăn chận ngay việc người khác đổ xăng lên nhục thân Hòa thượng, thu giữ bình xăng, giữ người tưới xăng (tức kẻ đang chuẩn bị một vụ giết người).

    Còn khi ngọn lửa bùng lên rồi, nếu có cảnh sát, thì việc của cảnh sát là dập lửa, cứu nạn nhân, không cho xảy ra việc chết người.

    Nếu tình huống diễn biến có thể đã đến mức chết người, thì cảnh sát phải cứu người, đưa đi bệnh viện (có thể là giữ ngay tử thi, phòng ngừa hệ quả sau đó).

    Đàng này, trong video clip cảnh sát đã hành động như những người bảo vệ việc tư thiêu, mà video clip diễn tả như một vụ giết người, không cho người chung quanh cản trở việc tưới xăng.

    Những diễn viên “cảnh sát Sài Gòn” đã được chỉ đạo diễn xuất kỳ quặc đến mức không chút nào là cảnh sát, khiến cho khán giả đã thấy là giả, nhưng dàn dựng quá ấu trĩ.

    Nếu xem trường đoạn trong đoạn trích trước cảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, thì chúng ta cũng có thể thấy nhiều sai sót vụng về của đạo diễn. Đoạn phim thuyết minh bằng tiếng Ý nên tôi không hiểu gì. Nhưng khi đạo diễn thể hiện một tượng Phật với động tác zoom máy nhanh, góc quay hấc, tạo nên người đọc cảm tưởng về sự trả thù của Đức Phật sau những vụ đánh đập nhà sư và đàn áp biểu tình trước đó. Nhưng tượng Phật là tượng Phật đứng khá lớn kiểu... Nam tông, dựng nơi công cộng. Còn nhà sư bị binh lính đánh đập đổ máu cũng mặc y Nam Tông!

    Cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn sau việc nhà sư bị đánh đập được thể hiện là một cuộc biểu tình bạo động, lật xe, thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, hết sức xa lạ với tinh thần bất bạo động của Phật giáo Việt Nam. Cuộc xô xát hỗn loạn giống như những cảnh xung đột ở Palestin, lại lấy bối cảnh là nơi dáng dấp thôn quê, càng trái ngược với những cuộc biểu tình của Phật giáo Việt Nam năm 1963 tập trung ở trung tâm Sài Gòn.

    Sai trong thể hiện diễn xuất là của đạo diễn. Còn sai trong chọn địa điểm, thì theo giáo khoa điện ảnh, là do trợ lý đạo diễn.

    Vì vậy, đoạn phim tài liệu dựng lại là một đoạn phim hết sức vụng về, cẩu thả.

    Dường như chỉ có vài mươi giây ghi hình Bà Ngô Đình Nhu đi vài bước tươi cười trước cửa một dinh thự là phim tài liệu thật. Điều này làm cho khán giả tưởng lầm tất cả đều thật.

    Cái cách làm phim tài liệu giả này không lạ gì với điện ảnh phương Tây, nói chi là Holywood. Khi học ở trường sân khấu điện ảnh, tôi đã được thầy cho xem một số ảnh từ những phim tài liệu được đóng diễn lại sự kiện Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, một sự kiện mà khán giả truyền hình rất quan tâm lúc đó.

    Thật không thể nhịn cười khi thấy những cô gái Huế chèo đò trên sông “Hương” mặc áo sườn xám kiểu Trung Quốc, còn việc tấn công vào Huế thì được đóng diễn theo kiểu công thành thời Trung cổ, những người lính dùng một cây to để húc vào cửa thành...

    Việc đóng diễn lại video clip Hòa thượng Thích Quảng Đức theo kiểu biến một vụ tự thiêu thành một vụ giết người, một cuộc đấu tranh bất bạo động biến thành vụ ẩu đả thô bạo giang hồ như thể, không gì khác hơn là nhằm bôi nhọ hình ảnh thiêng liêng của Phật giáo Việt Nam trước khán giả truyền hình mạng toàn thế giới, hạ thấp giá trị tinh thần của Phật giáo Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và cung cấp tư liệu cho những kẻ có ý đồ xuyên tạc lịch sử Phật giáo Việt Nam khai thác.
    MT


    (1) Không nên lầm với loại phim bán tài liệu (semidocumentary) hay còn gọi là docudrama, hay docudrame, là phim tài liệu đóng diễn lại các sự kiện lịch sử, tập trung mô tả sự kiện ở mức chân thực tối đa, sử dụng thi pháp điện ảnh mang tính văn học, có thể có hư cấu để làm dịu đi tính chất tư liệu vốn khô khan khó tiếp thu, cũng như thể hiện cảm xúc, suy nghĩ chủ quan của đạo diễn. Ngoài ra còn có loại phim tài liệu dàn dựng (docufiction) hoặc phim truyện lịch sử (historical fiction), khác rất xa với đoạn phim tào liệu mà chúng ta đang bàn luận ở đây.
  7. kuhoang0512

    kuhoang0512 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/10/2010
    Bài viết:
    759
    Đã được thích:
    681
    Em không nghĩ từ VietCong lại tạo ra nhiều ý kiến như vậy! Em lấy một số bức hình trong TTVNOL để post vào page của em...chỉ có cái tít em lấy tên VietCong nhưng bị một số người chém! Các bác giúp em hiểu về từ VietCong này với ạ!
    Theo em hiểu là từ VietCong chỉ những người c.ộng s.ản Việt Nam...mà từ này được người Mĩ gọi một cách miệt thị! Sau này thì củng khá nhiều người phe ta sử dụng từ VietCong...các bác giúp em với ạ...
    Có gì các bác giúp cho một số người trong này biết thêm với ạ! Hình như em và họ hơi bị non! Em không biết phải trả lời họ thế nào
    http://www.facebook.com/media/set/?set=a.384952444900627.93951.321833247879214&type=1
  8. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Về nguyên tắc, các bác ấy quan tâm la hét về việc CSGT VN dùng dùi cui gỗ gõ vào tay chân nhân dân hơn nhiều so với vấn đề CSGT Mỹ rút súng bắn thủng sọ ai đó, kể cả là gốc gác như các bác ấy, nên không nên lạ.

    Về việc GPMB ở quanh thế giới thì nhiều vụ khủng hơn Văn Giang nhiều lần, nhất là Hàn - Nhật - Trung. Nhưng không phải vì thế mà bảo Văn giang là nhỏ được. vụ Văn Giang báo động về sức chịu đựng của dân đã tới giới hạn rồi, nếu vượt quá, CP sẽ được dân ưu ái đánh giá giống như lũ thực dân phong kiến mà ngày xưa dân đã theo ***** đánh đuổi.
  9. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Dưới đây là một số phản hồi về các bài viết của Minh Thạnh

    Xem trích đoạn trong Bộ phim tài liệu "MONDO CANE" của 2 nhà làm phim Gualtiero Jacopetti, Franco Prosperi (Italia), sản xuất năm 1963 về những vụ đàn áp biểu tình tại Saigon và vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức tại ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng. [YOUTUBE]YYi70RLmp3U[/YOUTUBE] Qua quan sát cảnh vật, sắc phục lính, cảnh sát, dân chúng cho thấy cảnh dựng có lẽ là ở Thailand.
    Thông về film này các bạn xem ở IMDb, (No. 0058365)
    Sau đây là trích toàn văn lời tâm nguyện của Hòa thượng Thích Quảng Đức trước lúc tự thiêu:
  10. duyvu1920

    duyvu1920 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/02/2012
    Bài viết:
    6.469
    Đã được thích:
    2.971
    Tớ chỉ muốn chứng minh là ở Nước ngoài cũng có cưỡng chế,biểu tình,bạo động chứ không riêng gì VN hay các nước CS,vẫn biết quyền lợi của người dân là trên hết nhưng thật tình đôi khi họ yêu cầu quá đáng không thể chấp nhận được,tớ ví dụ 2 vụ ở đa nẵng là vụ cồn dầu và công trình xây cầu nguyễn tri phương nhé
    -vụ cồn dầu thì chắc nhiều người biết,gia đình tớ cũng có quen với vài chú bên cồn dầu lí do gây ra vụ bạo động đó họ nói với gia đình tớ rất hài "đây là đất của chúa không ai được đụng đến,ai đụng đến chặt chết luôn"[r23)][r23)][r23)],cuối cùng đợt vừa rồi gặp lại thằng em nó than anh nó trốn qua thái lan khổ quá,giờ muốn về VN mà sợ ở tù [:D][:D][:D][:D]
    -Vụ xây dựng cầu thì không ai biết:P:P,do gần nhà tớ và tớ cũng là nạn nhân nên tớ biết,cây cầu NTP đó xây thẳng từ đường NHT qua bên hòa xuân bề ngang của đường là 36m,dân khu tớ thường đi đường đó với lí do rộng,đi sướng,khi rào đường làm công trình họ không chịu,trong khi đó khu xòm tớ có 3 đường nối ra đường nhựa,lí do họ không chịu là "để đường rộng dân đi cho sướng,thằng nào rào tao chém",theo cậu thì trong hai vụ đó nên xử lí ra sao,vụ cồn dầu thì tớ không nói nhưng vụ cầu chẳng lẽ không xây cầu để đường dân đi :-O:-O:-O

Chia sẻ trang này